Phạm Hầu - "Vẫy ngoài vô tận"
Trên văn đàn, có nhà thơ viết trước sau chỉ khoảng 20
bài thơ, thế nhưng nhắc đến ông là người ta nhớ đến hai câu bất hủ Đưa tay
ta vẫy ngoài vô tận/ Chẳng biết xa lòng có những ai?. Thế mới biết, đi vào
trái tim nhân thế đâu cứ phải thiên kinh vạn quyển...
Chân dung nhà thơ Phạm Hầu.
Ảnh tư liệu
Đó là nhà thơ đất Điện Bàn - Phạm Hầu, người được Hoài Thanh
- Hoài Chân phác họa chân dung trong cuốn “Thi nhân Việt Nam” (NXB Văn học,
2000, tr 226, 227) bằng vài nét cảm nhận về thơ rằng: “Ở giữa đời, Phạm Hầu là
một cái bóng, chân đi không để dấu trên đường đi”; “Hồn thơ là một cái gì đó rất
mong manh”...
Họa sĩ làm... thơ
Phạm Hầu (1920 - 1944), tên trong gia phả là Phạm Hữu Hầu,
sinh ở Gò Nổi, làng Trừng Giang nay thôn Hòa Giang, xã Điện Trung, thị xã Điện
Bàn, tỉnh Quảng Nam.
Cha ông là Tiến sĩ Phạm Liệu, người đứng đầu nhóm “Ngũ phụng
Tề phi” xứ Quảng, từng làm quan đến chức Tổng đốc Nghệ An rồi Thượng thư Bộ
Binh dưới 4 triều vua Thành Thái, Duy Tân, Khải Định và Bảo Đại.
Lúc nhỏ, ông học Trường Quốc học Huế, sau ra Hà Nội học tại
Trường Mỹ thuật Đông Dương (nay là Đại học Mỹ thuật Việt Nam).
Do mắc chứng bệnh động kinh, ông nằm điều trị tại nhà thương
Vôi ở Bắc Giang một thời gian rồi được chuyển về quê nhà, nhưng khi tàu hỏa đến
đoạn Đồng Hới (Quảng Bình) - Huế, thì ông mất.
Về sự ra đi đột ngột của nhà thơ, trong cuốn “Việt Nam thi
nhân tiền chiến - Quyển 2” (NXB Sống Mới, Sài Gòn, 1968, tr. 91-95) viết như
sau:
“(Phát giác ông mất), người soát vé bắt buộc người thân đi
theo phải đem xác ông xuống ga Truồi (Huế). Từ nơi đó, người nhà thuê thuyền đưa
ông về Huế rồi an táng trên một đồi nhỏ, sau một ngôi chùa cổ ở vùng Nam Giao.
Và để tiễn biệt một linh hồn cô đơn đi vào nơi yên nghỉ cuối
cùng, người ta chỉ nghe đôi câu kinh, vài tiếng thút thít trong một chiều mưa
gió thê lương...”.
Ông vẫy ngoài vô tận ngày 3 tháng 1 năm 1944, hưởng
dương 24 tuổi, để lại cho đời khoảng 20 bài thơ, nhưng đó là những viên ngọc
quý trong kho tàng thi ca Việt Nam, trong đó nổi tiếng nhất là Vọng hải
đài.
Bức ảnh chân dung ông Trần Văn Anh
Học Trường Mỹ thuật Đông Dương khóa 13, Phạm Hầu là họa sĩ,
nhưng rất tiếc không rõ ông có bao nhiêu họa phẩm. Vào tháng 5-2017, nhà văn
Hòa Văn (quê làng Đông Bàn, xã Điện Trung) công bố trên blog của mình
(hoavanruotra.blogspot.com) bài viết “Tìm thấy một họa phẩm của họa sĩ Phạm Hầu”.
Đó là bức chân dung ông thợ mộc Trần Văn Anh cùng làng Trừng Giang với họa sĩ,
vẽ bằng bút chì đường nét còn tốt.
Tác giả dẫn lời ông Trần Cao Hoang (tên thường gọi Trần Văn
Quận, cháu nội ông Trần Văn Anh hiện ở làng Trừng Giang) cho biết, ông Anh làm
thợ mộc, thường hay đóng cho nhà ông Phạm Liệu các đồ gia dụng bằng gỗ.
Hôm ấy họa sĩ - thi sĩ Phạm Hầu vừa về nhà gặp ông đang lắp
ráp đồ mộc. Thi sĩ - họa sĩ ngỏ ý: “Trưa ông về lấy khăn đóng áo dài trở lại
nhà đây tôi xin vẽ chân dung của ông”. Thế là bức chân dung được vẽ xong. Nay
tuy không còn như ban đầu do giấy không tốt nhưng nét vẽ đúng thần thái của ông
Trần Văn Anh, được người cháu nội lưu giữ làm di ảnh thờ.
Sinh phận mong manh, người thơ phong vận
Viết về nhà thơ Phạm Hầu, chạnh nhớ đến nhà văn Hoàng Minh
Nhân, người đã cặm cụi sưu tầm tư liệu để cho ra đời cuốn “Vẫy ngoài vô tận”
(NXB Thanh Niên, 2001).
Người viết từng cộng tác với nhà văn Hoàng Minh Nhân khi ông
nhận lời Ban Biên tập Tạp chí Văn Hiến tổ chức bài vở cho khu vực miền Trung -
Tây Nguyên. Có lần cùng ông lên viếng Ngũ Hành Sơn, dừng chân trước Vọng hải
đài và mường tượng đâu đó có bóng dáng nhà thơ - chàng trai trẻ của gần 70 năm
trước đang trầm ngâm ngắm non xanh biển thẳm, rồi bất chợt rùng mình giữa chốn
linh thiêng mà rứt lòng ra những câu thơ diễm tuyệt: “Đưa tay ta vẫy ngoài
vô tận/ Chẳng biết xa lòng có những ai?”.
Vọng hải đài trên ngọn Thủy Sơn
ở danh thắng Ngũ Hành Sơn
Cái cảm giác chông chênh, nhẹ hẫng khi đứng trên đài trông ra
biển ấy đã nâng nhà thơ người Điện Bàn lên với gió với mây, chạm đến khoảnh khắc
hiện tồn mà bất giác neo một câu hỏi nửa thực nửa hư vào bao la vô tận.
Ngày trước, hai câu thơ bất hủ đó đã lọt vào mắt xanh của
Hoài Thanh - Hoài Chân và hai nhà phê bình văn học này đã “tạc” chân dung
"vẫy ngoài vô tận" của Phạm Hầu vào cuốn Thi nhân Việt Nam 1932-1941
từ năm 1942 với bản in lần đầu do Nguyễn Đức Phiên xuất bản.
Ở nơi cao xanh nào đó, Phạm thi sĩ hẳn đã tỏ lòng cảm ơn Ngũ
Hành Sơn nói chung, Vọng Hải đài nói riêng, với cảnh sắc trời mây non nước, đã
khiến mình “phải lòng” mà cảm tác nên những câu thơ được người đời nhắc hoài đến…
vô tận!
Thi sĩ Bùi Giáng trong tạp văn Phạm Hầu đăng trong cuốn Thi
ca Tư tưởng xuất bản năm 1969 tại Sài Gòn, đã nhận xét về ông: “Phạm Hầu
viết những lời như thế thuở ông hai mươi mấy tuổi đầu. Hai mươi mấy
tuổi mà dường như đã có đủ trong hồn một trăm năm đạo hạnh.
Ông đi vào thi ca, nghệ thuật, với tâm hồn con người
thanh tu đạt đạo. Người thanh niên ấy đã biết khước từ hết mọi thứ
“dưỡng chất trần gian” và âm thầm gửi cho trần gian một chút tặng vật
nho nhỏ.
Ngờ đâu tặng vật nho nhỏ kia lại khổng lồ như một Kim
Tự Tháp nằm giữa sa mạc mênh mông để ghi lại ngấn tích một nền văn
minh huyền ảo nhất thế gian”.
Hai mươi mấy tuổi đầu quả là “mong manh sinh phận”, một sự
mong manh khiến tác giả Nguyễn Thanh Tâm bật lên câu hỏi đầy cảm thán trong bài
“Phạm Hầu - Gieo lệ vàng trên ngấn nắng…” đăng trên Chuyên trang Văn học Quê
nhà - Báo điện tử Tổ Quốc (vanhocquenha.vn) của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch:
“Tôi cứ băn khoăn tự hỏi: Nếu Phạm Hầu không “ngã hồn” ở tuổi
24 trên chuyến tàu muộn về xứ Huế ấy, hành trình thi nghiệp của ông sẽ đi về
đâu và có một dạng thái như thế nào? Với chút mong manh của sinh phận, những điều
đã biết về Phạm Hầu, về thơ ông, dù ít ỏi, nhưng cứ làm người ta thấy tiêng tiếc”.
Định mệnh đã tước đi ở con người tài hoa ấy cái tuổi thanh
xuân tươi đẹp nhưng đã bù lại một chất thơ là lạ làm cho thơ ông mãi ở lại
trong lòng người yêu thơ cho dù ông đã thênh thang làm một cuộc dạo chơi
"vẫy ngoài vô tận":
“Thơ Phạm Hầu có chất, biểu hiện bằng một thi điệu riêng khá
quyến rũ. Cái quyến rũ của chất thơ là lạ, rung cảm và mong manh. Đặc biệt, thơ
Phạm Hầu toát ra một thứ khí vị tiêu trầm, yểu vong, ám ảnh vào lòng người đọc.
Như Hàn Mặc Tử đã có lần thốt lên: Người thơ phong vận như
thơ ấy, thơ Phạm Hầu là con người, là tinh túy của cõi trần ghé tạm vài mươi
năm tuổi trẻ”. (Nguyễn Thanh Tâm, bài đã dẫn).
Cuộc rong chơi ghé tạm cõi trần của nhà thơ đã dừng lại khi
ông chỉ mới tròn tuổi 24. Thế mà ngày ông chào đời tính đến nay đã gần một thế
kỷ (ông sinh ngày 1 tháng 3 năm 1920). Người đã ra đi về cõi vô tận nhưng thơ
thì vẫn chẳng thể xa lòng đối với tín đồ của một giáo phái có tên là Thi ca.
Cho dù con người ấy chỉ ghé tạm cõi trần với một sinh phận mong manh...
Một số bài thơ tiêu biểu của Phạm Hầu
Y Lan
Xuân về ca xúy ở dương gian
Âm điệu trong màu nắng mới sang
Trăm ngón hoa buông hình yểu điệu
Nhịp nhàng hương tỏa, dịu dàng lan...
Âm điệu reo vui với nắng đào
Sắc màu tươi đẹp chốn hoa lâu
Tuy nhiên trong cảnh sang xuân đó
Một cội cây xuân dáng điệu sầu
Lá thắm, từng dây, lá rủ hàng
Buồn là bản chất của Y Lan
Cái cây thi sĩ vô tình đã
Biên những dòng "thơ lá" bẽ bàng
Trời là trang giấy rộng như mơ
Ghi chép hồn cây, phải một tờ...
Khốn nỗi bao người lơ đãng quá
Vô tình không hiểu đó là thơ
Tôi đi làm bạn với cây kia
Hồn để song song chẳng gọi về
Cây mạnh, tôi xuân, buồn vẫn đắm
Mạnh, buồn ai bảo phải phân chia.
Lý tưởng
Sầu hương hoa gạo đỏ bên chân,
Xa nắng chiều hoe nhạt mấy phần.
Một cột đèn cao mơ góa bụa,
Đường dài toan nối hận gian truân.
Tôi theo tư tưởng vô cùng tận,
Chỉ gặp vô cùng nỗi quạnh hiu.
Sáng sớm: rạng đông, chiều: chạng vạng,
Những giờ mới lạ có bao nhiêu?
Thuở nhỏ đêm mơ nằm thấy bướm.
Giờ không mơ bướm lại mơ thơ.
Đời tôi nếu rụng bao nhiêu sắc,
Cũng bởi vì tôi quá mộng hờ.
- Ao ước ngày mai sắc nắng thơm
Chiều mai thôi ráng nhuộm cô đơn.
Chiều qua gió thổi lời tôi nguyện,
Quên thổi giùm tôi hận chập chờn.
Tôi đợi người đây, Tuyệt Đích ơi!
Dẫu xa, xa cách mấy phương trời.
Biết rằng vô ích sao tôi vẫn
Phung phí đời tôi mấy độ tươi.
Vọng Hải đài
Chẳng biết trong lòng ghi những ai?
Thềm son từng bước gót vân hài.
Hỡi ôi! Người chỉ là du khách
Giây phút dừng chân Vọng Hải đài.
Cơn gió nào lên có một chiều
Ai ngờ thổi tạt mối tình kiêu
Tháng ngày đi rước tương lại
Làm rã chân thành sắp sửa xiêu.
Trống trải trên đài du khách qua
Mây ngày vơ vẩn, gió đêm tà,
Muôn đời e hãy còn vương vấn
Một sắc không bờ trên biển xa.
Lòng xiêu xiêu, hồn nức hương mai,
Rạng đông về thức giấc hoa nhài.
Đưa tay ta vẫy ngoài vô tận
Chẳng biết xa lòng có những ai?
Chiều buồn
Tôi đã dám cầu xin hai giọt lệ
Trên mi nàng huyền bí vẻ say mê
Cho điệu buồn man mác tự đâu về
Đưa ngọn cỏ theo chiều mây lặng lẽ
Cho tôi được nghiêng kề nàng thỏ thẻ
Vì lời yêu rên siết ẩn trong tôi
Chỉ khi buồn may mới thoáng qua thôi
Mà hương lệ đó là trang sổ quý
Buồn len lỏi trên đầu cây, thi vị
Gieo lệ vàng trên ngấn nắng chiều trôi
Tôi kề nàng môi chạy kiếm làn môi
Lời tôi lặn trên môi nàng rung động
Yêu đương đến tất cả chiều mơ mộng
Buồn nhẹ nhàng trong làn khói thu không
Buồn mơn man trên đầu tóc rối bòng
Và vơ vẩn bên đôi người vô tội
Nàng và tôi, nhánh sầu chung rễ cội
Kề vai nhau khi lệ với chiều, rơi
Khi giọt sương âu yếm nhỏ lên người
Nàng và tôi là hai dòng lệ nối.
Trích từ các nguồn: Hoàng Minh Nhân, Vẫy ngoài vô tận, NXB Thanh niên, 6-2001; báo Bạn Đường số 24, ngày 4 tháng 4 năm 1942; Tao đàn tạp chí, NXB Tân Dân, Hà Nội, 1939; Hoài Thanh, Hoài Chân, Thi nhân Việt Nam, NXB Văn học, 2007.
28/2/2018
Văn Thành Lê
Theo https://baodanang.vn/
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét