Trong số những truyện cổ tích Việt Nam hiếm có câu chuyện
nào từng trải qua một đời sống lịch sử phong phú như Tấm Cám. Từ khi ra đời
cho đến nay, tác phẩm đã “hóa thân” trên nhiều loại hình nghệ thuật khác
nhau. Cả chèo, cải lương, nhạc kịch cho đến thơ ca, hội hoạ, âm nhạc, truyện
ngắn hiện đại cũng đã hơn một lần chuyển thể thiên truyện cổ tích đặc sắc
này. Là một trong những truyện cổ tích thần kì tiêu biểu, dĩ nhiên, Tấm Cám
lôi cuốn bạn đọc xưa nay, nhất là các độc giả trẻ tuổi, qua những chi tiết biến
hóa thần kỳ. Những chi tiết biến hoá thần kỳ của câu chuyện thường xoay
quanh/gắn liền với nhân vật trung tâm của tác phẩm: cô Tấm. Trong số những
hình ảnh biến hóa kỳ ảo ấy, có thể nói những biến hóa siêu tự nhiên của chính
nhân vật Tấm là hấp dẫn và giàu ý nghĩa hơn cả. Câu chuyện Tấm Cám từ lâu đã
được đưa vào nhà trường, được kể ở tiểu học và hiện nay, đang là văn bản học
chính của chương trình Ngữ văn lớp 10 - cả chương trình cơ bản và chương trình
nâng cao. Hai chương trình này đều chú trọng đến việc khảo sát những biến hóa thần kỳ của Tấm thông qua những đề mục của bài học (chương trình cơ bản: Kết
quả cần đạt -Hướng dẫn học bài -Ghi nhớ; chương trình nâng cao: Kết quả cần đạt -
Hướng dẫn học bàiv - Bài tập nâng cao) . Nhằm đưa ra một cái nhìn đa dạng về tính chất dị bản của
văn học dân gian nói chung, truyện cổ dân gian nói riêng, người biên soạn mỗi
chương trình đã chọn một bản kể khác nhau về Tấm Cám. Nếu chương trình cơ bản
chọn bản kể Nguyễn Đổng Chi, Kho tàng truyện cổ tích Việt Nam, tập 4, NXB
Khoa học xã hội, Hà Nội, 1975 thì chương trình nâng cao lại cung cấp bản kể của
Chu Xuân Diên - Lê Chí Quế, Tuyển tập truyện cổ tích Việt Nam, NXB Đại học quốc
gia Hà Nội, 1996. Hai bản kể này, nhìn chung, thống nhất về cốt truyện chỉ
khác biệt về một số tiểu tiết ngôn ngữ. Riêng tình tiết sự biến hoá siêu tự
nhiên của Tấm vẫn được giữ nguyên về số lượng, trình tự. Có thể tóm tắt như
sau: Tấm trèo hái cau giỗ bố; cau bị đốn, Tấm ngã chết hóa thành vàng anh.
Vàng anh bị bắt làm thịt, lông chim hóa ra xoan đào. Xoan đào bị chặt đóng
thành khung cửi. Khung cửi bị đốt, tro hoá cây thị một quả. Từ quả thị, Tấm
trở lại làm người… Một điều chúng ta dễ nhận ra là những hình ảnh biến hoá kì ảo
của Tấm phần lớn là những hình ảnh thuộc về tự nhiên( vàng anh, xoan đào, cây
thị, quả thị). Ngay hình ảnh khung cửi vốn là hình ảnh nhân tạo cũng có nguồn
gốc tự nhiên bởi mang chất liệu tự nhiên (xoan đào). Điều này bắt nguồn từ cảm
thức thế giới của con người dân gian và trung đại nói chung, con người Việt
Nam thời cổ nói riêng. Trong thời trung đại, nông nghiệp là lĩnh vực sản xuất
chủ yếu, do vậy, con người trung đại dựa vào tự nhiên, khai thác tự nhiên mà
sống. Con người bấy giờ chưa nhìn tự nhiên như một khách thể mà thường có
khuynh hướng đồng nhất giữa mình và tự nhiên, thấy mình trong tự nhiên, bắt đầu
từ thân thể. Con người trung đại tin tưởng ở sự thống nhất của thế giới, nếu
thế giới là đại vũ trụ thì con người sẽ là tiểu vũ trụ. Triết học cổ đại
phương Đông đưa ra quan niệm “thiên địa vạn vật nhất thể” còn nhà nghiên cứu
Liên Xô (cũ), M.M. Bakhtin thì lại tóm tắt bằng luận điểm “thân thể vũ trụ” từ
việc phân tích hệ thống hình tượng kỳ quái (grotesques) trong nghệ thuật cổ đại
và trung đại. Quan hệ giữa con người và tự nhiên trong Tấm Cám còn được thể
hiện qua hai kiểu quan hệ cơ bản: quan hệ gắn bó, thân thiết (vàng anh-nhà
vua, xoan đào-nhà vua, quả thị-bà lão) và quan hệ đối lập gay gắt (vàng anh-mẹ
con Cám, khung cửi-mẹ con Cám). Phải chăng đây cũng chính là dấu vết của quan
hệ “thiên nhân tương cảm”? Quá trình biến hóa của Tấm xưa nay vẫn được nhìn nhận ở ý
nghĩa chung nhất: “Thể hiện sức sống, sức trỗi dậy mãnh liệt của con người
trước sự vùi dập của kẻ ác. Đây là sức mạnh của thiện thắng ác.” như sách giáo
khoa Ngữ văn lớp 10 hiện nay nhận định. Các tác giả biên soạn sách giáo khoa
và sách giáo viên còn lưu ý chúng ta về tính tích cực, chủ động của Tấm trong
việc đấu tranh giành lại sự sống và hạnh phúc cho mình. Những nhận định và
lưu ý trên là hết sức chính xác. Tuy nhiên, khảo sát những biến hóa kỳ ảo của
Tấm, chúng ta có thể nhận ra người xưa quả thật đã dự cảm sâu sắc về những thủ
đoạn bất nhân ngày càng mạnh mẽ, nghiệt ngã của cái ác, đồng thời, như muốn
khuyến cáo mỗi người chúng ta trước tiên hãy biết phát huy tận độ sức mạnh
tinh thần của chính bản thân trong việc đấu tranh giành lấy sự sống và hạnh
phúc. Có thể xem đây chính là nét chung của những câu chuyện cổ tích tiêu biểu
trong kho tàng truyện cổ tích Việt Nam như Tấm Cám, Thạch Sanh, Sọ Dừa, Lấy vợ
cóc… Vậy thì đâu là nét riêng đặc sắc của truyện Tấm Cám nhìn từ
góc độ những sự biến hoá siêu tự nhiên này? Chúng tôi cho rằng có thể vận dụng
cái nhìn hệ thống mang tính quan niệm của thi pháp văn học dân gian nói
chung, thi pháp truyện cổ tích thần kì nói riêng để tìm hiểu kỹ hơn về những
hình ảnh biến hóa như vàng anh, xoan đào, khung cửi, quả thị. Hệ thống hình ảnh
này nên đặt trong hai quan hệ. Một là, quan hệ giữa chúng và nhân vật trung
tâm (Tấm). Hai là quan hệ giữa chúng với quan niệm của dân gian và trung đại
về người phụ nữ. Tấm thuộc kiểu nhân vật phổ biến của truyện cổ tích thần kỳ - nhân vật mồ côi - như các nhân vật Thạch Sanh, Sọ Dừa ở những truyện cổ
tích cùng tên, có điều ngay từ nhỏ Tấm không có cơ hội trở thành kiểu nhân vật
dũng sĩ như Thạch Sanh hoặc kiểu người đội lốt vật như Sọ Dừa. Tấm chỉ là một
cô gái thôn quê lam lũ, vì vậy, cô chỉ có một con đường duy nhất để khẳng định
vị trí, giá trị của mình: trở thành một người phụ nữ mang những vẻ đẹp phù hợp
với cái nhìn dân gian và trung đại. Ẩn chứa bên trong hệ thống hình ảnh những
biến hóa siêu tự nhiên của Tấm, theo chúng tôi, lấp lánh những mong ước, khát
vọng của con người dân gian và trung đại Việt Nam về một hình mẫu phụ nữ đẹp
đẽ, lý tưởng. Vẻ đẹp truyền thống của một người phụ nữ theo quan niệm dân
gian và trung đại phải là sự kết tinh hài hòa, nhuần nhuyễn từ vẻ đẹp của lời
ăn tiếng nói (vàng anh - Oriolidae, họ chim có kích thước trung bình, màu sắc
sặc sỡ, sống trên cây; có giọng hót hay - theo Bách khoa toàn thư Việt Nam - gợi
liên tưởng đến giọng nói trong trẻo, thanh tao của người phụ nữ); vẻ đẹp của
ngoại hình - trong Tấm Cám là vẻ đẹp của khuôn mặt (xoan đào - khuôn mặt trái
xoan thường được xem là khuôn mặt đẹp theo cái nhìn dân gian và trung đại) và
vẻ đẹp thân thể (quả thị - hương thơm tạo nên vẻ đẹp kín đáo, hấp dẫn của người
con gái xưa nay. Xưa, người ta dùng hương hoa, chẳng hạn như ngọc lan, và túi
thơm để tạo hương. Nay, phổ biến là những loại nước hoa đa dạng) cho đến vẻ
đẹp của tâm hồn, đức hạnh. Hình ảnh khung cửi một thời gắn liền với người phụ
nữ truyền thống hay lảm hay làm, chịu thương chịu khó quay tơ dệt vải nuôi chồng
nuôi con: - Sáng trăng trải chiếu hai hàng, Bên anh đọc sách bên nàng quay tơ… Vẻ đẹp ấy dường như cũng khá thống nhất với vẻ đẹp của người
phụ nữ theo quan niệm Nho gia. Những nhà Nho bấy giờ cho rằng một người phụ nữ
thực sự phải trọn vẹn tam tòng, tứ đức. Ngày nay, tam tòng dường như chẳng
còn phù hợp song tứ đức (công, dung, ngôn, hạnh) vẫn đang là một trong những
tiêu chí quan trọng về vẻ đẹp của người phụ nữ hiện đại. Vốn là một sáng tạo
của quần chúng dân gian nhưng lại qua tay sưu tầm, biên soạn, nhuận sắc của
những nhà Nho trung đại, vì vậy, trong các tình tiết, chi tiết của những tác
phẩm văn học dân gian vẫn thường dung hòa cả hai cái nhìn dân gian và trung đại.
Cái nhìn của dân gian và trung đại về vẻ đẹp của Tấm hiện nay vẫn còn sức sống
trong xã hội hiện đại của chúng ta. Điều này lý giải vì sao cô Tấm ngày xưa
còn đang tiếp tục hóa thân thành những cô Tấm ngày nay…
|
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét