Thuở giao thời bên sông Hương
CHƯƠNG 4
1975-1978
Thân tặng: Các bạn thuộc lớp ngữ văn (1974-1978), Đại học Sư
phạm Huế.
1. Trở về Huế và Quảng Trị, trong tháng 5-1975
Để câu chuyện về chính mình được tự nhiên, tôi lại tiếp tục tự
hoá thân vào hình tượng nhân vật mang họ tên là bút hiệu ít dùng của tôi: Trần
Nguyễn Phan. Vâng, chuyện của Phan còn tiếp diễn thế này...
Khi xe bắt đầu lăn bánh, gió luồn vào, thổi bạt đi không khí ở
tầng sàn dưới và tầng gỗ lướt ván phía trên, Phan mới cảm thấy nhẹ bớt mùi vịt.
Cũng như mắt của sáu, bảy chục hành khách, trước đây mấy phút, cứ mải hướng ra
ngoài xe, nơi có những người thân, bạn bè còn ở lại, bịn rịn chia tay, bây giờ
Phan mới nhìn lại những người đồng hành và chiếc xe mình đang đi.
Đây là chiếc xe tải chuyên dùng để chở gia súc, gia cầm và có
lẽ những chuyến cuối là chở vịt, nên mùi vịt còn nặng đến thế. Các cấp thuộc Uỷ
ban Quân quản cách mạng đã kêu gọi những ai có phương tiện chuyên chở đường xa
phải góp phần vào việc đưa hàng trăm ngàn dân di tản trở về quê, và xe tải này
là một trong những chiếc xe thuộc diện ấy. Hành khách là khoảng mươi gia đình
di tản đã mua được vé để hồi cư, từ Sài Gòn ra đến Đà Nẵng. Trong đó, có lẽ gia
đình Phan là ít người nhất, chỉ còn có ba, mẹ, đứa cháu nuôi và Phan. Số gia
đình còn lại, có không ít trẻ con và người già. Tầng trên cũng như tầng dưới, tất
cả đều ngồi bệt trên sàn. Tầng trên cũng nhếch nhác, tiều tuỵ. Tầng dưới cũng
xơ rơ, xác rác. Phan mỉm cười, khi nghĩ, di tản vào bằng xà lan chuyên dùng để
chở nước mắm, hồi cư ra lại bằng xe tải còn nặng mùi vịt!
Dọc đường quốc lộ Một, thỉnh thoảng lại thấy những đoàn xe bộ
đội từ Trường Sơn chạy xuống hay từ Miền Bắc chạy vào. Phần lớn các đoàn xe này
đều chạy ngay giữa tim đường, chiếc này nối theo chiếc kia, cứ như thể những
toa tàu lửa trên hai đường sắt song song, nhưng với cự li giãn cách hơn, khoảng
chừng dăm mét, và may là với tốc độ vừa phải. Phan nghe ông tài xế phía trước
buồng lái càu nhàu, than phiền, thậm chí có khi cáu gắt: “Mấy cha nội bộ đội
này không biết lái xe!”. Một hành khách nói: “Mấy ổng chạy trên rừng quen rồi,
không biết tránh đường cho xe ngược chiều”. Nhưng cũng có người phỏng đoán, chắc
các anh tài xế bộ đội chạy kiểu đó để tránh mìn, hoặc chạy theo tiêu chuẩn ưu
tiên vốn dành cho xe quân sự.
Trên suốt hành trình dài từ Sài Gòn ra đến Đà Nẵng, đã có nhiều
trạm gác, do dân quân du kích mang băng đỏ, khoác súng AK đảm trách. Không thấy
gặp khó khăn gì, mỗi khi qua các trạm gác như thế. Càng đi ra, càng thấy nhiều
cổng khải hoàn, hai bên ảnh Bác Hồ là cờ Mặt trận Giải phóng và cả cờ đỏ sao
vàng bay phấp phới. Điều đó chứng tỏ những tỉnh gần Đà Nẵng hơn, được giải
phóng sớm hơn, nên càng đủ thì giờ để ổn định, trang hoàng như thế.
Xe chạy suốt ngày đêm, chỉ dừng lại cho hành khách ăn uống,
đi vệ sinh. Chừng hai hôm, xe cũng đến Đà Nẵng an toàn.
Ba, mẹ, đứa cháu nuôi và Phan đều về căn phòng vợ chồng chị
Linh thuê để ở tạm. Mẹ vui mừng khôn xiết, cứ ngồi nựng đứa cháu ngoại mới dăm
tháng tuổi, quên tất cả mọi mệt mỏi, bàng hoàng. Sau đó, về một căn nhà của ông
anh thứ đang xây cất dở dang. Tại nơi ấy, dì ba cùng hai đứa em di tản theo cầu
không vận vào Nha Trang cũng đã hồi cư từ tháng trước.
Phan đạp xe đi quanh thành phố Đà Nẵng, xem thế nào, với hi vọng
gặp người bạn cùng trường nào đó để hỏi thăm và để mua vé xe cho ba, mẹ, đứa
cháu nuôi cùng Phan ra lại Huế. Hoá ra, những người bạn học cùng trường vốn là
dân Đà Nẵng, đã ra lại Huế để tiếp tục học rồi.
Thế là hôm sau, Phan có mặt ở Huế. Sau khi đưa ba, mẹ và đứa
cháu nuôi tiếp tục lên xe ra Quảng Trị, Phan chạy đến trường ngay. Phan tin chắc
ở Diên Sanh, mẹ sẽ còn được sự giúp đỡ của xóm giềng, của bà con từ làng ngoại
vào. Tuy tin chắc như vậy, nhưng hình dung nhà cửa ngoài kia không biết đổ nát
thế nào, nên đến trường, ghi danh tiếp tục học lại xong, Phan cũng tức khắc nhảy
xe ra Diên Sanh để giúp mẹ.
Nhà cửa tại Diên Sanh không bị sập đổ, nhưng mái nhà phía sau
không còn tấm tôn nào. Phần nhà trước cũng trống toang hoác, chỉ còn trang thờ
với bức sáo tre. Chẳng qua, cũng đã mấy tháng rồi, nhà vắng chủ. Những ai di tản
gần đều hồi cư sớm, và nhiều người nghĩ rằng mẹ Phan cũng như không ít nhà
khác, đã đi luôn theo những tàu thuyền di tản ra hải ngoại (trong tình huống dù
muốn hay không muốn cũng phải đi, không thể riêng người nào, gia đình nào nhảy
xuống biển bơi vào!). Vì thế, tôn nhà sau bị dỡ ít nhiều. Trong đó, có một phần
do các cậu của Phan, vốn sơ tán ra phía Bắc, nay trở vào, cũng đoán thế, nên tiếp
tục dỡ số tôn còn lại, và cũng chỉ chừa tôn ở nhà trước, ý chừng để xem ra sao,
biết đâu mẹ sẽ trở về. Vả lại, nhà trước còn có trang thờ, không ai nỡ (và hẳn
cũng chẳng ai dám) để lư nhang, bài vị tổ tiên, ông bà cùng tấm tranh Phật
Thích Ca giữa mưa nắng. Số tôn ấy, các cậu tháo dỡ, cũng là một cách giữ cho mẹ,
chứ chẳng lẽ bới cơm vào đây giữ nhà! Lúc này, nghe tin mẹ đã về thật rồi, các
cậu tức tốc chở vào, dựng lợp lại nhà cho mẹ. Thật là vui mừng quá đỗi. Các cậu,
các dì đã xa làng ngoại, xa mẹ từ năm 1972 đến nay!
Thế là lần thứ ba, trên nền đất nhà cũ, mẹ phải làm lại nhà.
Dẫu sao, tan hoang, tạm bợ thế nào cũng còn có chỗ ở. Và Phan cũng chuẩn bị vào
lại Huế, tiếp tục đến trường. Có lẽ những đổ nát do chiến tranh, trận này nối
tiếp trận kia, quá dồn dập, đồng thời trải qua cũng nhiều lần tản cư, hồi cư,
nên người dân Quảng Trị thấy cũng thường, cảm xúc về khổ đau chừng như đã sắt lại.
Không buồn. Không vui. Chấp nhận. Chịu đựng. Lần này, còn có thêm niềm hi vọng
hoà bình. Ba mẹ Phan và cả Phan cũng thế.
Phan lại lên xe Quảng Trị - Huế.
Đi dọc đường vào lại nhà trong Thành Nội, Phan chợt nhìn thấy
có nhiều hố và hào vừa để trú ẩn, vừa để chiến đấu, mới được đào. Chắc đó là những
chuẩn bị trước khi Sài Gòn được giải phóng, phòng khi có sự phản
công nào đó từ phía quân đội Sài Gòn.
Nhà của Phan ở Huế trống trơn, vắng hoe, không một người. Gia
đình ông thầy thuốc bắc người Quảng Trị, trước đây vào Huế thuê nhà ở để tránh
chiến sự, nay biết đã hoà bình thật rồi (chiến tranh có còn tiếp diễn thì cũng
tận Căm-pu-chia xa xôi), nên cũng đã trở về quê quán, với tất thảy đồ đạc, giường
chiếu vốn có.
Đến trường, gặp lại bạn bè lớp cũ, Phan mới biết vẫn còn một
số bạn chưa kịp hồi cư, đi học lại. Các giảng viên cũng thế. Thật ra, trường
cũng chưa kịp tổ chức lại để dạy và học. Thế là Phan phải sống những ngày trống,
nhưng không thể rỗng, mà trĩu những suy tư, chất chứa bao cảm nhận mới, lại âu
lo về những bữa ăn, giữa thành phố Huế vẫn còn nhớn nhác, chưa thật ổn định,
cho dù Huế đã được giải phóng từ 26-3, cách bấy giờ đã hai tháng.
2. Làm thơ trong thuở giao thời và thống nhất, 1975-1978
Trong những giờ khắc thả bước lang thang, loanh quanh vô định
cùng bạn bè, trong những giấc ngủ về khuya trên căn gác nhà cũ, Phan nghe tự
lòng mình: Hoà bình! Hoà bình! Và âm vang tiếng súng từ mặt trận mới! Cách mạng
buộc phải nổ súng, trước sự đánh phá của Khmer Đỏ, tại các đảo Phú Quốc, Thổ
Chu và dọc biên giới Tây Nam. Ở mặt trận ấy, sự lộ mặt của Trung Quốc, nước xâm
lược quần đảo Hoàng Sa, đã quá rõ! Phan có cảm giác, như từ đầu tháng Năm vừa rồi,
tại Sài Gòn: Trên lồng ngực, tảng đá nô lệ đã được trút bỏ. Lòng bỗng nhẹ tênh.
Những mất mát, xiêu lạc tứ tán bởi chiến tranh lắm súng đạn vô tình, đối với
gia đình mình, thật ra cũng như hàng vạn, hàng triệu gia đình Việt Nam khác,
còn có nghĩa gì đâu, khi tất cả mọi người hầu như đã thoát được sự siết cứng của
hai gọng kìm lịch sử, khi cả Miền Nam lẫn Miền Bắc chỉ còn thực sự một kẻ
thù là Bắc Kinh (Khmer Đỏ chỉ là tay sai không đáng kể!). Lòng bỗng nhẹ
tênh, và có cả vui mừng, khi biết rõ điều đó, nhất là khi biết chắc khía cạnh
nội chiến, người Việt bắn giết người Việt, không còn nữa! Và lạ thay, những
câu thơ nẩy bật trong tâm hồn Phan, như một khởi đầu mới.
Không chỉ khung cảnh Huế Phan nhìn thấy hằng ngày, mà cả ấn
tượng hồi cư từ lần ra Diên Sanh mới đây, gồm cả ấn tượng rõ nét nhất, đó là cảnh
hồi cư sau ba năm sơ tán ra phía Bắc, tại làng ngoại Thượng Xá, khiến Phan vô
cùng xúc động... Bài thơ “Ruộng đất yêu dấu” khởi đầu từ đó, nhưng chỉ
mới là những hình ảnh, ý tưởng sơ khai.
Thế rồi, chỉ mươi hôm sau, kể từ ngày Phan về lại với Huế,
các hình thức sinh hoạt tập thể được Ban Điều hành triển khai để bước đầu ổn định
trường lớp, có cả việc phát động sáng tác và ấn hành một tuyển tập thơ văn ca
ngợi lao động. Tiếp đến, một đợt học tập chính trị khá dài. Kế đó nữa, xen kẽ với
những tuần học chuyên môn do những giảng viên, trí thức tại chỗ ít nhiều có
tham gia cách mạng giảng dạy, là những đợt lao động công ích: làm vệ sinh ở những
khu dân cư như tại cống Thanh Long, trồng cây trên các ngọn đồi như Thiên Thai,
và có cả những đợt lao động phục vụ nông nghiệp: đào vét kênh mương như trước
trường Bình Linh, ven sông Lợi Nông, trên cánh đồng được gọi là Đồng Đưng...
Cũng không thể không kính nhớ đến bà mợ già của Ngô Vưu. Bà
là cả một kho ca dao tục ngữ và đồng thời là “ngân hàng trợ giúp của những hàn
sĩ”, như Phan và bạn bè sinh viên trọ học. Bà chính là hình ảnh làng quê ngay
giữa thành phố Huế.
Bài thơ “Ruộng đất yêu dấu” cùng một loạt bài thơ
khác, rồi liên khúc “Cánh tay học trò vươn tới”, Phan viết trong niềm cảm
xúc hoà trộn mà trầm lắng, hay sôi nổi mà cũng nhiều suy tưởng đó. “Ruộng
đất yêu dấu” đã đăng ngay vào tháng sinh nhật Phan, tháng 11 (1975), và
sau đó, được tặng thưởng “Một trong mười bài thơ hay nhất trong năm”, nhân dịp
kỉ niệm 15 năm ấn hành tuần báo Văn nghệ Giải phóng.
Từ giữa niên khoá 1975 - 1976, sau Tết Nguyên đán, giữa năm
thứ hai đại học của Phan, trường lớp ổn định hẳn để thật sự đi sâu vào chuyên
môn của từng khoa. Đó là lúc Phan viết “Bài thơ tháng giêng”, về hình ảnh
mẹ mình chan hoà trong nhiều hình ảnh các bà mẹ Việt Nam khác, tình cờ lại trùng
vào dịp chào mừng Hiệp thương Thống nhất... Năm ấy, trường cũng có tổ chức ấn
hành “Tuyển thơ Đại học Sư phạm Huế 1976”. Trong đó, Phan có góp mặt bằng
bài “Tháng chín mưa thơm mùa rét cũ”, ghi nhận tâm trạng của những người
bà con, quen biết từ Miền Bắc về lại quê hương Miền Nam.
Cũng trong thời gian này, Phan cảm thấy không thể sống lẻ loi
trong ngôi nhà vắng, nên đã qua tận Cầu Kho Rèn ở chung với Nguyễn Chiến, bạn
cùng lớp bấy giờ, rồi qua Bến Ngự trọ học với Nguyễn Văn Bá, bạn từ thời tiểu học.
Rồi lại kéo Nguyễn Chiến về ở chung tại nhà cũ, ăn cơm tháng ở hai nhà bên cạnh,
từ nhà o Thạnh cho đến nhà ông Nước. Rồi về sau nữa, Phan cùng với Thái Quang Hồng,
đèo nhau đi, đèo nhau về. Mặc dù ăn cơm tập thể, khi mọi sinh viên đều có tiêu
chuẩn trợ cấp hằng tháng, nhưng cả hai về nhà Phan để học và ngủ, vì ở nhà vẫn
yên tĩnh hơn kí túc xá. Ở đâu, trong Phan cũng mải xao động, trăn trở bởi những
tứ thơ, thôi thúc được thể hiện ra trên giấy.
Tuy đã chuyển hẳn sang khuynh hướng sáng tác mới, nhưng Phan
vẫn không thể không nhớ đến tập thơ đầu tay của mình, hầu hết được viết từ hồi
1973, cuối năm lớp mười một và một ít bài trong đầu năm lớp mười hai: “Những
niềm thơ mùa thu”, những tình cảm thơ ca và thơ dại trong mùa thu bao giờ cũng
đượm buồn. “Tiếng chuông xưa” và “Tóc bay sương trắng” là
hai bài thơ Phan thấy đẹp và xúc động nhất. Phần lớn trong tập thơ đó cũng là
những bài Phan đã tự chọn lọc. Phan đã chép tay lại thành bốn bản, giấy được gấp
theo cách xếp các tay sách của một ấn phẩm, tuy còn chép dở dang! Và tiếc nhất
là cả bốn bản ấy Phan đều để lại tại tủ sách của mình ở Tam Kỳ, sợ mang theo ra
Đà Nẵng, nơi ăn chốn ở chưa ổn định, không khéo lại bị thất lạc, nhưng sau cuộc
di tản 1975, thì đã thất lạc cả rồi! Tiếc như tiếc một kỉ niệm của tâm hồn mình
đồng thời là kỉ niệm văn chương. Thật ra, với trí nhớ thuở ấy, Phan cũng có thể
phục hồi lại nguyên vẹn cả mấy chục bài thơ, nhưng Phan cảm thấy trong niềm luyến
tiếc còn có gì đó như là ngần ngại. Phan không muốn xem lại những gì hầu hết là
niềm bâng khuâng, thương mến, u hoài cùng những nỗi đau và bao nỗi niềm khác
thuộc về lĩnh vực cá nhân trong tâm tư mình. Phan không muốn bị những tháng
ngày cũ, tuy thơ mộng nhưng cũng buồn bã, xót xa, mục rã níu kéo. Đúng ra, tất
thảy đều là những niềm thơ ca cao quý, tốt đẹp nhưng được viết dưới ánh sáng ảm
đạm của nỗi buồn.
Phan muốn bước tới phía tương lai, hơn là ngoảnh lại quá khứ.
Mãi đến mùa hè năm 1977, người bạn láng giềng ở Tam Kỳ, Lê
Văn Thanh (thường gọi là Chanh), ra Huế thi vào đại học, ghé nhà Phan ở lại,
cho biết là Chanh còn giữ được cả bốn bản chép tay tập thơ “Những niềm thơ
mùa thu” ấy, sau khi ngôi nhà của ba dì Phan bị chính quyền hay ông cán bộ
nào đó đến dọn dẹp để quản lí, ném tập thơ ra bên lề đường. Phan rất mừng và cảm
động. Nhiều lần, Phan khẽ dặn lui dặn tới rằng Chanh cố gắng giữ, để có dịp
Thái Quang Hồng vào thăm nhà, Phan sẽ nhờ Hồng mang ra. Cuối mùa hè ấy, hình
như trong dịp nghỉ phép hè, Hồng đến nhà Chanh, và mang tập thơ ấy ra cho Phan.
Lại một lần nữa, Phan cảm động đến muốn khóc, nhưng cố nín câm, im lặng. Thậm
chí, Phan giấu tập thơ dưới chồng sách báo, như muốn quên đi.
Tuy thế, sau Đổi mới (1986), trong các tập thơ đã
xuất bản của Trần Xuân An (tức là nhân vật Trần Nguyễn Phan trong hồi kí - tự
truyện này), từ 1991 đến gần đây, số thơ từ bản thảo chép tay đó đã được rải
rác in lại, đặc biệt là in hẳn một phần riêng gồm mười mấy bài vào cuối tập “Thơ
những mùa hương” (Nxb. Thanh Niên, 2011). Nhưng đó là chuyện về sau,
sau Đổi mới, chứ không phải là thuở đó!
Chuyện thuở đó, Phan vẫn còn nhớ, trong một lần viết trả lời
vào phiếu điều tra văn học do thầy Phan Trọng Luận phát ra cho sinh viên trong
lớp, Phan đã liệt kê những tác giả Phan đã đọc, nghiền ngẫm: Jean Paul Sartre,
Albert Camus, Nikos Kasanzakis, Nietzsche, Kalil Gibran, Dostoievsky, Hermann
Hesse, William Faulkner... Phan đã bày tỏ đôi nét cảm nhận của mình về tác phẩm
của họ. Phan cũng nhận định chính bài thơ “Tiếng chuông xưa” của
Phan. Nhưng không chỉ riêng Phan, mà cả vài bạn trong lớp, như Nguyễn Nhu chẳng
hạn, cũng muốn rũ bỏ những khía cạnh bi luỵ, không còn nghị lực sống, trong văn
chương. Điều đó đúng, nhưng vẫn có điểm hơi quá “tả”. Những dòng chữ sinh
viên giữa thời hơi quá “tả” ấy, không ngờ thầy Phan Trọng Luận lại
đưa vào cuốn sách của thầy: “Con đường nâng cao hiệu quả dạy văn” (Nxb.
Giáo Dục, 1978), như các cứ liệu thực tế. Dẫu sao, đó cũng là một kỉ niệm,
trên quan điểm chung của một thời, đã được lưu giữ ở một cuốn sách lưu hành khá
rộng trong giới giáo viên ngữ văn, lại khá nhiều lần tái bản!
Trong buổi hừng đông kéo dài vài ba năm của giai đoạn lịch sử
lớn thuở ấy, nơi mỗi người như Phan hình như đều tồn tại hai loại tình cảm, tuy
thống nhất với nhau về quan điểm nhưng hướng đến hai loại đối tượng vốn trái
ngược nhau. Nếu ở “Ruộng đất yêu dấu”, Phan viết thay cho những người thân
bên ngoại, ít nhiều có tham gia cách mạng, trong lúc hồi cư năm 1975 và đồng thời
cho bao người khác cùng hoàn cảnh, tâm tư như thế trên khắp cả đất nước, kể cả ở
Nam bộ, thì có bài Phan cũng viết thay, thể hiện sự thông cảm sâu xa với những
ai đã lỡ lầm về chính trị đến nỗi phải chịu học tập cải tạo, thậm chí muốn sống
hết cả quãng đời dài còn lại trên rừng sâu, chẳng hạn như “Khúc hát tìm rừng” (tặng
Lê Phước Dạ Đăng, tức Lê Phước Sinh, bạn học cùng lớp). Bài “Về thăm, mai
mốt mình lên...” cũng là viết cho một người lính nguỵ thương mến đã đi
khai hoang, lập nghiệp ở vùng kinh tế mới... Ngoài những bài thơ mà hình tượng
cái tôi trữ tình và chính Phan là một, Phan cũng có một ít bài thơ Phan viết
thay cho bao người khác như thế. 10-03 HB12 (2012)
Thơ Phan đăng trên báo chí, và Phan được những văn nghệ sĩ,
nhà báo ở Huế biết đến. Từ quen biết, dần dà đã trở nên thân tình với một số
anh chị, qua những cuộc gặp mặt, phổ biến thông tin, trao đổi biên tập hay gửi
bài, nhận nhuận bút, tại 26 Lê Lợi, Huế. Có một chuyến đi thực tế rất có ý
nghĩa, đó là lần Ban Vận động thành lập Hội Liên hiệp Văn học - Nghệ thuật Bình
Trị Thiên tổ chức trong dịp thông đường sắt Bắc - Nam, mà cầu Tiên An trên sông
Bến Hải là điểm nối cuối cùng, có ý nghĩa biểu tượng: điểm nối thể hiện sự thống
nhất Đất nước.
Tất nhiên việc làm thơ và học tập cùng song hành trên một trục
thời gian. Nhưng càng đi sâu vào việc học, thời khoá biểu trong các năm tháng
cuối học trình đại học càng kín mít, thậm chí có nhiều học phần phải học cả ba
buổi, sáng - chiều - tối. Khối lượng tiết học nặng trĩu như thế cộng với thời
gian đọc sách tham khảo ở thư viện, khiến Phan chỉ còn có thể tranh thủ, dành dụm
thời gian để làm thơ, và làm thơ vào những tuần lễ nghỉ phép hè. Đó là chưa kể
có đợt nghỉ phép hè, cũng như hồi 1975, phải về tham gia lao động thuỷ lợi ở địa
phương... Tuy thế, Phan vẫn hình thành được một tập thơ khá dày dặn.
Khởi đầu con đường mới về thơ ca và suốt cả ba niên khoá rưỡi
ở đại học sau Ngày Thống nhất là thế. Rồi cũng như thế suốt mấy năm Phan đi dạy
học ở Lâm Đồng. Dĩ nhiên khi đi dạy học, có nhiều thời gian rảnh rỗi hơn để
trút hết tâm sức cho việc làm thơ.
3. Sách và học tập
Trong ba năm tuy dài nhưng cũng rất ngắn ngủi, sau Ngày Thống
nhất, mỗi đầu sách đều có số lượng bản in rất lớn, có thể gấp ba mươi lần hoặc
hơn thế nữa, so với mỗi đầu sách hiện nay (trong khi dân số đã tăng gấp đôi!).
Và giá sách cũng khá rẻ, so với các vật giá khác. Sách từ Hà Nội, chở vào. Sách
Miền Bắc in lại từ các nhà in trong Sài Gòn, chở ra. Mỗi đợt có sách mới, các
hiệu sách đầy đặc người mua. Đây là một hiện tượng khá đặc biệt, nguyên nhân
trước hết là dân Huế vốn ham mê đọc sách, và nguyên nhân khác nữa là trong thời
đoạn này, họ muốn đọc xem thử sách Miền Bắc như thế nào, còn sự nhận định, hay,
dở, sâu, nông, họ giấu kín như bản tính Huế vốn kín đáo.
Phan thường ghé vào các hiệu sách để chọn mua, nhằm xây dựng
lại tủ sách của chính mình. Không kể thời ở phố huyện Diên Sanh với các loại
sách khá tạp nham, hay dở lẫn lộn, từ năm học lớp tám ở Huế và đặc biệt là từ lớp
chín ở Tam Kỳ, Phan có ý thức xây dựng cho mình một tủ sách báo thật bõ công đọc,
không những thơ, truyện có giá trị mà cả sách phê bình, biên khảo của những tác
giả uy tín, những tạp chí sáng giá. Năm lớp mười hai, tủ sách của Phan nửa ở
Tam Kỳ, nửa ở Đà Nẵng, thường được bổ sung thêm. Nhưng tất cả đều đã mất, không
còn cuốn nào! Vì thế, Phan thèm khát sách hơn bao giờ hết, một phần cũng với
các nguyên nhân như dân Huế lúc này, một phần là do Phan không chỉ học để đi dạy,
mà còn ôm mộng lớn về văn chương, học thuật, gồm cả lĩnh vực sử học. Có nhiều lần
Phan phải đi bộ khá xa hoặc đi xe đạp đến nhà các o dì bạn hàng của mẹ, những
người thường buôn hàng sỉ từ Huế ra Diên Sanh, để mượn tiền mua sách.
Việc học của Phan cũng bị chi phối bởi chí nguyện của Phan.
Trong khi các bạn khác chỉ chuyên chú vào giáo trình, sách tham khảo cần thiết,
thì Phan để tâm hồn và trí óc mình mở rộng ra sách báo văn chương học thuật hiện
thời. Không những các hiệu sách, mà cả các sạp báo, cũng là nơi Phan thường lui
tới, đặc biệt là ki-ốt báo chí bên hông Đài Phát thanh Huế. Sự thể đó có lẽ
cũng như những ai cùng chí nguyện với Phan.
Nếu học “gạo”, Phan hẳn không thua bạn nào, kể cả những bạn
gái chăm chỉ nhất. Nhưng nếu vừa học một cách rất chuyên cần ở lớp, ở giảng đường,
vừa thường xuyên đọc để “làm văn nghệ” như Phan, có lẽ hầu như không bạn nào cần
mẫn, chí thú đến mức đam mê như thế cả, cho dù sau này Võ Nguyên cũng là nhà
văn, chuyên viết truyện ngắn, Phạm Bá Thịnh là nghệ sĩ nhiếp ảnh được phong đẳng
cấp quốc tế, Nguyễn Chiến cũng mới xuất bản chung với bốn tác giả khác ở Quảng
Nam một tập thơ. Chắc hẳn ba bạn này muốn dành trọn vẹn tâm sức cho việc học tập
trước đã.
Khóa của Phan cũng có cái may mắn là được học với những cán bộ
giảng dạy đại học ưu tú nhất của Miền Bắc, chủ yếu là từ Hà Nội và Vinh (bấy giờ
ở nước ta chưa có quy chế phong học hàm giáo sư, phó giáo sư). Đã mời giảng
viên thỉnh giảng, dĩ nhiên Đại học Sư phạm Huế phải mời những vị mà Ban Giám hiệu
quý trọng nhất, là một lẽ. Lẽ khác, các trường ở Hà Nội và Vinh cũng cử vào các
vị dày công phu nghiên cứu, giảng dạy nhất để thể hiện lòng ưu ái đối với sinh
viên vùng mới giải phóng.
Đối với Phan và bạn bè trong lớp, kiến thức cũ một phần phải
xếp vào một nơi nào đó trong óc, một phần lại được soi sáng bởi ánh sáng mới.
Đó cũng là điều may mắn đối với người thật sự coi trọng chiều sâu của việc học.
Phan và bạn bè, mặc nhiên cũng có, có ý thức cũng có, đều tự phản biện, đối chiếu,
lật qua lật lại vấn đề, trong óc và cả trong tâm hồn, cho dù trong các lần làm
bài tập nhỏ tại lớp, bài tập lớn tại nhà hay các buổi thảo luận tại trường,
không có những đề bài đòi hỏi thật rạch ròi - sinh viên phải hiểu thật đúng tác
phẩm như tác phẩm vốn thế, phải dám phản biện, bác bỏ nếu cái nhìn của tác giả
sai lệch, phải tự chú trọng đến quan điểm riêng của mỗi sinh viên –, đại để như
đề bài mà Phan đã gặp trong kì thi học sinh xuất sắc về môn triết tại Đà Nẵng: “Anh
(chị) hãy chọn một tác phẩm mang đậm chất bi kịch trong văn học cổ điển nước
ta, để phân tích quan điểm của tác giả về tính bi kịch ấy, trước khi anh (chị)
dùng quan điểm riêng của chính anh (chị) để đánh đổ quan điểm của tác giả”.
Phải chăng, sau Ngày Thống nhất, khuynh hướng chung là kéo
tác giả cùng tác phẩm cổ điển gần với mình hơn, trên cơ sở nội dung hiện thực
được phản ánh, ghi nhận, và lướt qua, không đi sâu vào nhãn quan siêu hình, duy
tâm của họ, có lẽ để tránh sự sa lầy vô lối và vô ích, lại không tế nhị?
Tuy nhiên, nói chung là bài giảng văn học, ngôn ngữ học, Hán
ngữ của các thầy giáo, cô giáo đại học, thuở đó, phần lớn (không phải tất cả) vẫn
có sức thuyết phục đối với lớp ngữ văn của Phan và bạn bè.
Vì phải truyền đạt và tiếp thu một khối lượng kiến thức
chuyên sâu khá lớn, nên cả thầy và trò đều phải đến lớp, lên giảng đường thường
xuyên. Do đó, cũng không có thì giờ để kiến tập sư phạm trong suốt ba năm học
sau Ngày Thống nhất. Vả lại, Khoa Sư phạm thuộc Viện Đại học Huế nay đã thành
Trường Đại học Sư phạm Huế với số lượng sinh viên tuyển vào gấp bội, nên Trường
Trung học Kiểu Mẫu, vốn là một bộ phận trực thuộc Khoa Sư phạm cũ, là nơi thực
hành sư phạm (như Bệnh viện trung ương Huế đối với Đại học Y khoa Huế), phải giải
thể, phân tán học sinh về các trường trung học khác, để dành phòng học, giảng
đường cho sinh viên học tập. Do đó, chỉ duy trì thực tập sư phạm vào năm cuối, ở
các trường trong và ngoài thành phố Huế.
Đợt thực tập sư phạm ở Trường Cấp 3 Đông Hà, Quảng Trị cũng
là kỉ niệm rất đáng nhớ của Phan. Phan là giáo sinh nhưng cũng là tác giả thơ.
Phan vừa soạn giáo án, lên lớp giảng văn, nhưng cũng vừa mê mải làm thơ. Nếu
bài thơ Phan giảng là “Nhàn”, thể hiện thái độ lánh đục về trong, của Nguyễn
Bỉnh Khiêm, thì sáng tác của Phan vào dịp ấy là “Bài thơ Đông Hà”, bày tỏ
niềm say mê dấn thân vào công cuộc xây dựng đất nước, quê hương. Từ dịp này,
Phan được thầy Nguyễn Tiến Hùng, giảng viên lí luận dạy văn, quý mến.
Trước khi đi thực tập ở Đông Hà, từ đầu năm học thứ tư, một số
sinh viên trong lớp, trong đó có Phan, đã được chọn để làm khoá luận tốt nghiệp.
Đề tài Phan chọn là “Shakespeare và những bi kịch tiêu biểu của ông”, mặc
dù Phan chuyên tâm về thơ. Phan chọn Shakespeare, có lẽ do ông vừa là tác kịch
gia vừa là thi sĩ với những bài son-nê (sonet) rất tuyệt vời. Vả lại, kịch của
Shakespeare cũng xen lẫn những câu đối thoại là thơ, chứ không đơn thuần kịch
nói (cho nên khi dịch ra thành văn xuôi tiếng Việt, vẫn còn mang đậm chất thơ).
Cũng có lẽ vì Phan vốn được phân công làm phó lớp phụ trách văn thể mĩ, kiêm
phó ban kịch nói của lớp. Nhưng lí do chính là vì tính mâu thuẫn, xung đột ở thể
kịch rất cao, có thể phản ánh được hiện thực thời Phan sống, nên ngoài thơ,
Phan lưu tâm đến kịch. Một lẽ khác nữa, Phan còn ôm mộng lớn là sẽ viết tiểu
thuyết, mà tiểu thuyết lại gần với kịch hơn là với thơ.
Chung quy, Phan có chút cơ duyên với kịch bản văn học. Những
vở kịch, tập và diễn với Ngô Vưu và Trương Đặng Nguyệt Thanh (“Chứng chỉ sức
khoẻ” của Nguyễn Vũ, “Hãy đặt tên con là ...” của một tác giả
Liên-xô), đã dẫn Phan đến với đề tài bài tập lớn (bài nghiên cứu), với sự cộng
tác của Thái Quang Hồng trong công đoạn tìm tư liệu, về kịch của Kor-nây-truc
[A. E. Kornejchuk, 1905 - 1972] (trong đó có nhân vật bị phê phán là một uỷ
viên trung ương!), rồi cuối cùng là dẫn đến đề tài khoá luận tốt nghiệp: “Shakespeare
và những bi kịch tiêu biểu của ông”, gồm ba vở Hamlet, Othello và Macbeth.
Đi học sư phạm, cái chính vẫn là việc học tập để giảng dạy.
Nhưng với Phan bao giờ cũng vì mục đích văn chương học thuật, đồng thời vẫn tự
nhủ, sẽ làm trọn chức năng của một nhà giáo, mặc dù biết rằng môi trường giáo dục
với những quy phạm của nó sẽ hạn chế, bào mòn thiên hướng sáng tạo vượt lên quy
phạm để làm nên cái mới trong sáng tác, nghiên cứu... Những sáng tạo của văn
nghệ sĩ ẩn chứa sự mới mẻ có giá trị nhưng cũng có thể sai lầm, mà ngành giáo dục
bậc trung học phổ thông không thể là nơi chấp nhận những sáng tạo chưa được thời
gian kiểm nghiệm, đãi lọc. Biết thế, nhưng Phan chỉ có thể chọn lựa trong điều
kiện của mình. Và Phan tin rằng, trong hạn chế do nghề nghiệp, ý thức sáng tạo
mạnh mẽ sẽ làm nên bản lĩnh, để không bị hạn chế ấy bào mòn.
Phan cũng nghĩ, sự tiếp nhận có phê phán, có chọn lọc từ sách
báo, từ học tập ở nhà trường (tiểu học cho đến đại học) và từ ảnh hưởng tương
tác trong các mối quan hệ gia đình, xã hội, kể cả tôn giáo, tín ngưỡng, hầu như
tất thảy mọi người, không một ai không trải qua (dù ít dù nhiều, có mặt này,
không mặt kia), nhưng vấn đề là phải vận dụng tốt, đặc biệt là phải sáng tạo mới.
Trọng lượng, tầm mức sáng tạo mới thể hiện trên bàn cân, thước đo giá trị. Và
tiêu chí chính là chân, thiện, mĩ. Chân, thiện, mĩ bao gồm độc lập, tự do...
4. Tình yêu đương
Phan cũng có một mối tình yêu đương thời sinh viên. Nhưng đó
vừa không phải là tình đầu, vừa chính là mối tình đầu tiên nồng cháy môi hôn.
Thực ra, thời trung học Phan đã hiểu thế nào là tâm trạng của
một học sinh áo trắng quần xanh biết yêu bạn gái thướt tha tà áo trắng. Nhưng với
một nàng thơ, chỉ là hương sen tinh khiết mùa hạ và đầu thu, để rồi bảng lảng
suốt năm, thậm chí mãi đến nhiều năm sau, mặc dù mỗi một mình biết lấy tình yêu
đó. Và một nàng thơ khác, thì chưa từng một lần cầm tay. Với một nàng thơ khác
nữa, cũng chỉ duy nhất một lần cầm tay, đúng hơn tay mình áp vào tay nàng thơ
mình yêu say đắm.
Chắc chắn một điều là trong tuổi trung học, tuổi đại học,
Phan đã trải nghiệm rất nhiều ngày tháng yêu đương từ một phía – yêu đơn
phương. Yêu thầm. Có cả yêu thất tình, trong sự khước từ của cô gái mình ngỏ lời.
Mãi đến về sau này, Phan vẫn nghĩ rằng, chính như thế mới là tình yêu đương da
diết, khổ đau, thấm thía nhất. Và trong lĩnh vực tình yêu đương, Phan hiểu mình
chỉ có thể yêu người mà mình thật lòng yêu, chứ Phan không thể gắng gượng yêu
người chỉ nặng lòng yêu mình, nhưng mình không thể yêu lại. Đó là một trong những
nguyên nhân gây ra bi kịch cho trái tim con người.
Thuở đó, Phan cũng có nhiều suy nghĩ về sự hài hoà giữa tình
yêu đôi lứa với khát vọng trùng tu, xây dựng quê hương, đất nước, trong điều kiện,
ngành nghề cụ thể của mỗi người, nhưng để rồi chỉ tạo nên được hình tượng thơ
ca mà thôi. Đi vào thực tế, Phan nhận thấy, mái nhà hạnh phúc của con người, về
mặt ý nghĩa, không cao hơn tổ chim mấy tí. Thiếu thực tế, phải chăng cũng là
nguyên nhân gây nên bi kịch cho trái tim con người?
Phan cũng không hiểu nổi tình yêu đương thời sinh viên của
mình: Không biết hương sen này có phải đã thay thế cho hương sen kia, hương sen
kia phải chăng đã bị nhạt phai theo năm tháng nên hiện hữu hương sen này? Thế rồi,
cũng không biết Phan tự rời bỏ hay hương sen tự rời bỏ tình yêu đương ấy, để
cho hương sen được tinh khiết, mãi mãi là hương sen, và cũng để cho Phan cảm thấy
mình không ân hận vì mình đã không làm hương sen bị vấy bẩn.
5. Rời xa Huế, tháng 8-1978
Tháng Năm 1975, Phan từ Sài Gòn hồi cư về Huế. Khoảng trong
tháng Tám ba năm sau, 1978, Phan lại cùng một nhóm bạn phần lớn là khác khoa
nhưng cùng Trường Đại học Sư phạm Huế, có chung địa chỉ nhiệm sở, lên xe vào
Lâm Đồng.
Khoảng hơn một tháng trước đó, khi được thông báo từ trưởng lớp
là mỗi sinh viên đều có thể chọn ba nhiệm sở, Phan cứ thỉnh thoảng lại nhìn bản
đồ Đất nước treo trên vách phòng nhà mình, chú mục vào những tỉnh phía Nam, vì
giới hạn được chọn là các tỉnh ấy, những tỉnh còn thiếu giáo viên ngữ văn Việt.
Phan chọn Tiền Giang, Hậu Giang và Lâm Đồng. Cuối cùng, Phan quyết chọn Lâm Đồng,
theo tinh thần xung phong lên miền núi. Hơn nữa, tuy đó là tỉnh miền núi, nhưng
lại có tỉnh lị là Đà Lạt, nơi Phan và nhiều người làm thơ thường mơ mộng. Phan
cũng đã gửi thư, nhờ o Vinh, bạn hàng của mẹ, mang ra, thưa với mẹ Phan đã chọn
xong nhiệm sở.
Nhận được quyết định bổ nhiệm, Phan liền ra phố huyện Diên Sanh
và làng ngoại Thượng Xá để từ giã mẹ và các cậu dì. Phan rất cảm động khi thấy
mẹ đã sắm áo ấm và chăn mùng cho Phan, cùng với một chiếc xe đạp, một cái đồng
hồ đeo tay.
Nhà của mẹ vẫn vậy, một mái tôn từ trước nối dài ra sau. Mái
tôn nhà bếp gần đụng đầu, nóng hừng hực dưới ánh nắng hè dữ dội. Nền nhà chủ yếu
vẫn là nền đất, có khoảnh còn một lớp xi măng nền cũ, sót lại sau những lần bị
bom đạn cày xới. Phan cảm thấy hơi cay cay vì nước mắt.
Vào lại Huế, Phan với nhóm bạn cùng nhiệm sở Lâm Đồng chuẩn bị
lên đường. Trong sương sớm ở bến xe An Cựu, Phan tình cờ gặp lại thầy Hà Thúc
Hoan, thầy giáo môn lí thuyết và kĩ thuật làm văn, vốn là giảng viên tại Huế,
nhưng hiện nay đã vào TP.HCM. để học chính trị, triết học Mác – Lê-nin. Có lẽ
thầy đang trong những ngày nghỉ, về phép thăm nhà. Khi xe chuyển bánh, thầy nói
theo cho cả nhóm sinh viên: “Nhớ sống và giảng dạy thế nào để khi về có
chuyện mà kể nghe!”, thay lời chúc cố gắng sống tốt, dạy tốt.
Lần đi nhận nhiệm sở ấy cuối cùng đã đưa Phan về một ngôi trường,
không phải là trung học phổ thông (cấp 3) theo hệ đào tạo, mà lại là phổ thông
cơ sở (cấp 2)! Ngôi trường ở vùng kinh tế mới Lộc Ngãi ấy, Phan gọi là “Ngôi
trường tháng giêng”, nhan đề một bài thơ Phan viết, khi tất cả đài báo đều vang
lên Lời kêu gọi kháng chiến, chống Trung Quốc xâm lược ở các tỉnh
biên giới phía Bắc. Lời kêu gọi đó là bài Hịch mới, nối tiếp và cùng
âm hưởng với những thiên cổ hùng văn trong lịch sử bốn ngàn năm của dân tộc.
Ngày Thống nhất Đất nước, 30-4-1975, mọi người đã thấy lộ mặt
tập đoàn bành trướng, bá quyền Bắc Kinh ở phía sau Khmer Đỏ. Đó là thời điểm
Phan cảm thấy như trút được tảng đá nô lệ khỏi lồng ngực, lòng nhẹ tênh. Ý
nghĩa sự thống nhất đầu tiên và căn bản nhất trong thời điểm ấy là cả hai miền
Nam – Bắc chỉ còn một kẻ thù chung: Bắc Kinh. Lúc này, ba năm sau, nhất là
đến tháng 12-1978 và đầu năm 1979, Trung Quốc càng ngang nhiên lộ mặt là kẻ
thù, từ biên giới phía Bắc. Và quần đảo Hoàng Sa, đau đớn thay, vẫn còn đó những
vết thương xâm lược, đồng thời là chùm bóng đèn sáng soi sự thật lịch sử.
Viết sau khi dạy học được vài tháng, bài “Ngôi trường
tháng giêng” là cả một quyết tâm của Phan.
Hai mươi năm sau, đến năm 1998, Phan (Trần Xuân An) lại viết
tiểu thuyết cũng có tên là “Ngôi trường tháng giêng”. Trong đó, Phan đã tự
phân thân thành Nam, Khoai, Lộc Biếc và Huyện (Huyện, giáo viên hóa học, nhân vật
hoàn toàn hư cấu, như một “phản đề”). Quanh và trong bốn hình tượng hư cấu ấy,
chính là bối cảnh, tâm trạng Phan, lúc vào Ty Giáo dục Lâm Đồng, nhận giấy giới
thiệu về Bảo Lộc, cuối cùng vào đến vùng khai hoang lập ấp Lộc Ngãi. Trọn năm học
1978 - 1979 đã được gói gọn trong tiểu thuyết “Ngôi trường tháng
giêng” (Nxb. Thanh Niên, 2003).
Như thế, Trần Nguyễn Phan – như đã thưa ngỏ, chính là tôi (Trần
Xuân An) – còn biết viết thêm gì nữa, về kỉ niệm những ngày sắp cầm phấn bảng
làm thầy giáo? Là tác giả, xin trân trọng mời người đọc đi vào tiểu thuyết “Ngôi
trường tháng giêng” ấy. Hồi ký - tự truyện “Tuổi học trò của tôi” xin
chấm dứt ở dòng chữ này, với lời mời đọc chân thành.
DANH MỤC TÁC PHẨM
CỦA TRẦN XUÂN AN
I. Thơ
1. Nắng và mưa, tập thơ, Hội VHNT. Quảng Trị xuất bản,
1991.
2. Hát chiêu hồn mình, tập thơ, Nxb. Đồng Nai, 1992.
3. Tôi vẫn ở trên đường, tập thơ, Nxb. Văn Nghệ TP.
HCM., 1993.
4. Lặng lẽ ở phố, tập thơ, Nxb. Trẻ, 1995.
5. Kẻ bị ném vào bão, tập thơ, Nxb. Trẻ, 1995.
6. Hát với đời ơi thương mến, tập thơ, Nxb. Trẻ, 1996.
7. Quê nhà yêu dấu, trường ca thơ, Nxb. Văn Nghệ TP.
HCM., 1998.
8. Giọt mực, cánh đồng và vở kịch điên, tập thơ, Tạp chí
điện tử Giao Điểm, 2005.
9. Thơ những mùa hương, tập thơ, Nxb. Thanh Niên,
2011.
10. Tưởng niệm Mẹ, tập thơ tự tuyển, Nxb. Thanh Niên, 2010.
11. Thơ sử và những bài thơ khác, tập thơ, Nxb. Thanh
Niên, 2011.
12. Hát mộc với biển đảo & những bài thơ khác, tập
thơ, Nxb. Thanh Niên, 2012.
II. Tiểu thuyết, truyện ký:
13. Mùa hè bên sông (Nỗi đau hậu chiến), tiểu thuyết,
1997; hai bản đã sửa chữa và bổ sung, 2001 (lần hai) và 2003 (lần ba), Tạp chí
điện tử Giao Điểm tháng 6-2005.
14. Có một nơi lá mãi xanh, tiểu thuyết, Nxb. Hội Nhà
văn, 1999.
15. Ngôi trường tháng giêng, tiểu thuyết, 1998, Nxb.
Thanh Niên, 2003.
16. Sen đỏ, bài thơ hoà bình, tiểu thuyết, 1999, Nxb.
Thanh Niên, 2003.
17. Nước mắt có vị ngọt, tập truyện ngắn liên hoàn,
1999, Tạp chí điện tử Giao Điểm, 2005.
18. Tuổi học trò của tôi, hồi kí - tự truyện, Nxb. Hội
Nhà văn, 2012.
III. Nghiên cứu, khảo luận:
19. Thơ Nguyễn Văn Tường (1824 – 1886) – Vài nét về con
người, tâm hồn và tư tưởng (biên soạn – nghiên cứu, phản bác, và tập hợp một
số bản dịch, bài khảo luận văn học và sử học về NVT.), 2000 & 2003, Nxb.
Thanh Niên, 2008.
20. Tiểu sử biên niên phụ chính đại thần Nguyễn Văn Tường
– kẻ thù không đội trời chung của chủ nghĩa thực dân Pháp (từ Đại
Nam thực lục, rút gọn), dạng niên biểu, sách dẫn chi tiết, phần I, 2001, Nxb.
Thanh Niên, 9-2006.
21. Những trang “Đại Nam thực lục” về phụ
chính đại thần Nguyễn Văn Tường (1824 – 1886) và các sự kiện thời kì đầu chống
thực dân Pháp…(Quốc sử quán triều Nguyễn, Tổ Phiên dịch Viện Sử học VN.), chọn
lọc, phần II, 2001.
22. Nguyễn Văn Tường (1824 – 1886), một người trung
nghĩa, khảo luận và phê bình sử học, 2002 & 2003, Nxb. Thanh Niên, 9-2006.
23. Phụ chính đại thần Nguyễn Văn Tường (1824 – 1886),
truyện – sử ký – khảo cứu tư liệu lịch sử, trọn bộ 4 tập, 2002 – 2003; Nxb. Văn
Nghệ TP. HCM., 2004.
24. Suy nghĩ về một số vấn đề trong lịch sử cổ đại nước
ta, khảo luận, 7.2004, đăng trên mạng vi tính toàn cầu, 2005.
25. Bàn thêm về mấy vấn nạn sử học, luận, đăng trên
mạng vi tính toàn cầu, 2007.
IV. Phê bình và bình luận:
26. Ngẫu hứng đọc thơ, phê bình thơ, 2003; Nxb. Văn Nghệ
TP. HCM., 2005.
27. Luận về thời chúng ta, một số vấn đề trong chiến
tranh và hậu chiến, luận, đăng trên mạng vi tính toàn cầu, 2005.
28. Thời sự văn hóa và suy nghĩ, luận, đăng trên mạng
vi tính toàn cầu, 2008.
29. Đọc văn chương và cảm nghĩ, phê bình, viết ngắn
và điểm sách, Nxb. Thanh Niên, 2009.
30. Vì văn chương, bình – khảo và phiếm luận, luận, đăng
trên mạng vi tính toàn cầu, 2010.
31. Ngẫm nghĩ khi đọc văn chương, phê bình, đăng
trên các trang thông tin điện tử và điểm mạng toàn cầu, 2011.
Trần Xuân An
Theo http://www.tranxuanan-writer.net/
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét