Nước dợn sông Đà con cá nhảy
Mây trùm non Tản cánh diều bay
Tản Đà
Văn chương thời nôm na
Thú chơi có sơn hà
Tản viên ở trước mặt
Đà giang bên cạnh nhà
Tản Đà!
Bài thơ Tự thuật này lý giải vì sao Tản Đà trở
thành Tản Đà. Phép đặt tên hiệu, hoặc bút danh, lấy từ tên địa phương mình sinh
ra đã trở thành một cổ lệ, không chỉ ở các thi nhân Đông Á. Nhưng với Tản Đà
thì có khác. Tên ông, Tản Đà, theo truyền thống tư duy lưỡng phân lưỡng hợp Việt
Nam, là sự ghép đôi một ngọn núi và một dòng sông. Như Hà Nội là núi Nùng sông
Nhị, Hà Nam - núi Đọi sông Châu, xứ Nghệ - sông Lam núi Hồng, Huế - sông Hương
núi Ngự, Quảng Ngãi - núi Ấn sông Trà… Cái cặp đôi phồn sinh âm dương, đực cái
này tạo nên khí thiêng của một vùng đất, sản sinh ra những anh hùng, thi nhân.
Huống hồ Tản Viên lại là ngọn chủ sơn của vùng đồng bằng Bắc bộ, cây vũ trụ
trong tâm thức Việt - Mường, những cội nguồn đất và người của Việt Nam. Còn Đà
giang lại là một dòng sông độc đạo, Chúng thủy giai đông tẩu/ Đà giang độc
bắc lưu, hay như Tản Đà đứng trên Tản Viên sơn nhìn xuống: Sông Đà ai vặn
một dòng quanh. Không có ai vặn cả. Dòng sông tự vặn mình để ôm quanh núi, lưu
giữ một mối tình: Năm năm báo oán đời đời đánh ghen. Lấy núi ấy sông ấy
làm bút danh, thi nhân chẳng những thụ bẩm được tâm hồn của sông núi, mà còn muốn
trải ra những núi sông của tâm hồn mình.
Tản Đà, cái tên ấy gắn chặt vào cuộc đời thi nhân như một định
mệnh, như một ma thuật ngôn từ. Một núi một sông là bản chất lưỡng nguyên của
nhà thơ. Ông là con người của hai thế kỷ, hai thời đại. Nguyễn Khắc Hiếu là cái
tên được cài đặt để đi thi, để tập ấm (ấm Hiếu) thuộc về thời đại trước, còn Tản
Đà, bút danh của người nghệ sĩ, chủ yếu thuộc về thời đại sau. Nói chủ yếu,
bởi ngay ở cái tên Tản Đà cũng còn chứa đựng sự lưỡng nguyên. Núi, nhân giả
ngạo sơn, tượng trưng cho sự kiên định của hoài bão luân lý nhà nho (như học
thuyết thiên lương chẳng hạn), biểu tượng của thời trung đại. Sông, trí giả
ngạo thủy, tượng trưng cho sự uyển chuyển của người thị dân mới, biểu tượng của
người nghệ sĩ đô thị trong buổi đầu của Thời Hiện Đại.
Trước đây, vào cái thời còn chưa xa vắng lắm, chịu ảnh hưởng
của lối tư duy nghị nguyên biện biệt, theo nguyên lý loại trừ, người ta cho rằng,
tư tưởng của Tản Đà, hoặc của ai bấy giờ cũng vậy, chỉ thuộc về một phạm
trù, hoặc là ý thức hệ phong kiến, hoặc là ý thức hệ tư sản.
Từ đấy mới xảy ra cuộc tranh luận, mà về mặt chính trị, thì nảy lửa, nhưng về mặt
học thuật thì lại như bão táp trong chén trà. Đầu tiên, vào năm 1959, những nhà
chính trị cấp tiến như Minh Tranh và Nguyễn Kiến Giang xếp Tản Đà vào giai cấp
tư sản[1]. Sau đó, năm 1965, Tầm Dương, một nhà nghiên cứu văn học cũng cấp tiến,
coi tư tưởng Tản Đà chủ yếu là tư tưởng tư sản, tuy ông có dè dặt hơn khi cho rằng
ở nhà thơ còn có một bộ phận khá lớn nằm trong tư tưởng phong kiến [2]. Nhưng số
đông các nhà nghiên cứu văn học khác lại không nghĩ như vậy. Họ coi Tản Đà thuộc
tầng lớp nho sĩ, nên đương nhiên phải mang ý thức hệ phong kiến. Nguyễn Khắc
Xương, con trai lớn của nhà thơ, viết bài “Tản Đà ngọn lửa cuối cùng của ý thức
hệ phong kiến Việt Nam” [3] nhằm tranh luận với Tầm Dương. Nếu Tầm Dương lập
luận rằng giai cấp phong kiến Việt Nam trên đường thoái hóa thì hẳn không thể sản
sinh được những giá trị tinh thần tích cực như ở Tản Đà, mà chỉ có thể nhờ ở ý
thức tư sản dân tộc ở thời kỳ đương còn ít nhiều tiến thủ, thì Nguyễn Khắc
Xương phê phán lập trường tư sản dân tộc (hẳn vì nó đối lập trực diện với lập
trường vô sản) để khẳng định Tản Đà là nhà nho phong kiến cuối mùa đã ngả sang
lập trường dân tộc. Sở dĩ có cuộc truy tìm thành phần giai cấp của Tản Đà rốt
ráo như vậy, vì lẽ ý thức hệ không chỉ đơn giản là cái khung để xác nhận tư tưởng
một nhà thơ, mà còn là tiêu chí quan trọng để định giá thơ văn của ông ta.
Cuộc tranh luận tiếp theo, như là hệ quả tất yếu của cuộc đầu,
được đặt ra không gì trắng trợn hơn: Tản Đà có yêu nước hay không? Đây cũng là
một tiêu chí quan trọng để xếp loại nhà thơ. Nếu yêu nước, Tản Đà sẽ được hoặc
cùng chiếu với những Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh hay Nguyễn Đình Chiểu, hoặc
ít nhất cũng vào cùng một khu vực, gọi chung là “văn học yêu nước” với Yên Đổ,
Tú Xương, Huyện Nẻ. Bàn cãi bắt đầu xảy ra từ cách đọc bài thơ Thề non nước của
Tản Đà. Nguyễn Đình Chú [4] nói bài thơ này có biểu hiện của lòng yêu nước,
còn Nguyễn Công Hoan [5] thì nói không. Thế là để chứng minh cho điều này
hoặc điều kia, người ta một lần nữa, lại đào bới lý lịch Tản Đà, như Trần
Nghĩa [6] chẳng hạn. Thực ra, khi Tản Đà đặt tên cho tác phẩm đầu tay viết
về đời sống tình cảm cá nhân mình là Khối tình con, thì ông đã có ngụ
ý về một khối tình lớn là tình yêu quê hương đất nước. Còn lòng yêu nước ở lời Thề
non nước này thì chỉ những ai không biết “đọc giữa dòng” mới hoài nghi.
Hơn nữa, Tản Đà còn có nhiều hiển ngôn, như “Nghĩ thân thế mềm gan lắm lúc/
Nhìn non sông tóc bạc như chơi”… Nhưng điều đáng nói là, lúc bấy giờ, do bị sức
ép của quan điểm chính thống cho rằng tác phẩm văn học chỉ có một nghĩa, mà
là nghĩa chủ ý của tác giả, tức không được có “tính biểu tượng hai mặt”,
nên cuộc tranh luận “dài hơi”, từ 1971 đến 1977, trên Tạp chí Văn học, về
bài thơ này cũng chỉ dẫn đến kết luận: 1) Đa số các nhà nghiên cứu coi Thề
non nước chỉ là câu chuyện tình yêu trai gái; 2) Số ít hơn cho Thề
non nước là lời thề của lòng yêu nước; 3) Số ít hơn nữa, đâu chỉ có một
vài người, coi Thề non nước vừa là tình yêu trai gái, vừa là lòng yêu
nước.
Như vậy, thiểu số ấy, tức nhóm ý kiến thứ ba, cũng đã nhận
ra, dù một cách muộn màng, Thề non nước, rộng ra là toàn bộ con người và
thơ văn Tản Đà, là một hiện tượng phức tạp, vừa có cái này lại vừa có cái
kia, vừa là cái này lại vừa là cái kia. Thực ra, người đầu
tiên trình bày Tản Đà theo tinh thần này là Tầm Dương/ Văn Tâm với công
trình Tản Đà khối mâu thuẫn lớn đã nhắc ở trên. Ông chứng minh thi
nhân vừa là nhà nho với những yếu tố phong kiến vừa là con người thị dân với những
yếu tố tư sản, nhưng các yếu tố thị dân tư sản chiếm ưu thế, nổi trội. Tầm
Dương gọi đây là mâu thuẫn, thậm chí mâu thuẫn lớn. Trong thời buổi
ưa thích sự nhất phiến, thuần nhất, sợ sự phức tạp, mâu thuẫn, người ta luôn có
xu hướng đơn giản hóa, trong suốt hóa, nhất thể hóa mọi sự phức tạp, mâu thuẫn.
Cái nhìn đặc sắc này của Tầm Dương, vì vậy, không được ủng hộ. Đó là chưa kể
nhân thân của tác giả quan điểm này vẫn còn đang bị đặt dấu hỏi sau Nhân văn
Giai phẩm. Bởi thế, để hợp thức hóa được hiện tượng phức tạp Tản Đà,
các nhà nghiên cứu phải đi tìm một lý do khác để biện chính cho ông, nhằm đưa
được thi nhân vào chương trình nghị sự.
Năm 1988, Trần Đình Hượu [7] đưa ra khái niệm giai
đoạn văn học giao thời, giao thời Đông Tây, để đặt hiện tượng Tản Đà vào đó, dù
rằng chữ giao thời đã xuất hiện từ 1939, năm Tản Đà chết, ở Xuân Diệu,
nhưng còn chưa được khái niệm hóa. Sự phức tạp, mâu thuẫn của Tản Đà, vì thế,
không phải là một trường hợp cá biệt, lệ ngoại, mà là một hiện tượng phổ biến,
có tính quy luật lúc bấy giờ. Tính chất giao thời những năm từ 1900 đến 1930 đã
cấp cho Tản Đà, và những người như Tản Đà, cái đặc tính hỗn tạp như vậy: vừa thế
kỷ XIX vừa thế kỷ XX, vừa trung đại vừa hiện đại, vừa Đông vừa Tây, vừa khu vực
vừa thế giới, tuy nét đậm nhạt, nhịp mạnh yếu của mỗi yếu tố, ở mỗi người có
khác nhau. Như vậy, khái niệm văn học giao thời Đông Tây là một phạm trù - chìa
khóa giúp Trần Đình Hượu giải quyết lại một số vấn đề đã được đặt ra
trước đó như giai cấp, lòng yêu nước của Tản Đà, đồng thời giải quyết mới những
vấn đề khác của bản thân văn học như tác giả, thể loại.
Có thể nói, đây là một bước chuyển trong nghiên cứu Tản Đà
nói riêng và văn học nói chung: từ lối tiếp cận chính trị, tư tưởng sang lối tiếp
cận văn học, văn hóa. Tuy nhiên, ở cả Tầm Dương lẫn Trần Đình Hượu, người ta vẫn
thấy tồn tại các khái niệm giai cấp, phong kiến, tư sản thuộc bộ công cụ tiếp cận
chính trị. Hơn nữa, đáng nói hơn, ở cả hai ông đều có một cái nhìn tĩnh.
Các yếu tố khác biệt nhau, mâu thuẫn nhau ở cả con người lẫn thơ văn Tản Đà đều nằm
cạnh nhau như những thực thể độc lập, tự trị, dù rằng trong thực tế, với một
cái nhìn động, chúng đang nằm trong một trạng thái chuyển hóa, hoặc
chính chúng là sự trung chuyển, hoặc, nói một cách hình ảnh thì, các yếu tố
trung đại được miêu tả thành một dãy như bờ này ở một dòng sông, còn các yếu tố
hiện đại thành một dãy ở bờ kia, nhưng còn thiếu những cây cầu nối giữa hai bờ,
đặc biệt vắng người không sợ gió to sóng cả đưa con thuyền nan qua sông. Và,
quan trọng hơn, tại sao giữa bao nhiêu con người giao thời buổi ấy mà chỉ có một
mình Tản Đà đáo bỉ ngạn, dù rằng ông chưa đi được xa bờ để tiến vào vùng Đất
mới? Chính ở chỗ này cần đến một lý thuyết khác để cắt nghĩa, lý giải. Tản Đà,
rộng ra cả văn học giai đoạn này, hẳn sẽ trình hiện với một tầm vóc khác khi được
nhìn từ lý thuyết hệ hình với sự chuyển đổi từ hệ hình văn
học trung đại sang hệ hình văn học hiện đại.
Lý thuyết hệ hình [8] là lý thuyết về sự phát triển. Nó
quan niệm rằng mọi sự phát triển đều là một liên tục qua những đứt đoạn. Và,
chính ở những chỗ đứt đoạn này bộc lộ sự chuyển đổi từ thời đại/ thời kỳ/ giai
đoạn văn hóa/ văn học này sang thời đại/ thời kỳ/ giai đoạn văn hóa/ văn học
khác. Đó là sự chuyển đổi hệ hình. Tức một hệ ý niệm cơ bản mang tính chuẩn
định như quan niệm về tác giả, tác phẩm, thuộc tính văn chương, thể
loại, thể tài. Đầu tiên là sự xuất hiện những yếu tố “bất thường”, phi lý trong
hệ hình hiện hành. Chúng bị coi là ngoại lệ, bị đặt ra ngoài vòng pháp luật.
Nhưng sau đó những lệch chuẩn này sinh ra ngày càng nhiều buộc người ta phải xử
lý, tìm cho chúng một hệ hình mới mà trong đó chúng trở nên thuận lý. Thế là
chuyển đổi hệ hình xảy ra. Chuyển đổi hệ hình là một bước phát triển nhảy vọt cần
một sự hội tụ đầy đủ các yếu tố khách quan và chủ quan. Trong khi những yếu tố
khách quan tích tụ dần dần, thì xuất hiện những người nào đó nhận thức đước vấn
đề, dấn thân vào hành động, thúc đẩy sự ra đời của hệ hình mới. Họ là những nhân
vật hệ hình. Trong số những người đi lệch hệ hình cũ, người chuyển
đổi hệ hình, người xây dựng hệ hình mới, thì người chuyển đổi hệ hình
là quan trọng nhất nhưng lại dễ bị khuất lấp nhất, bởi không phải bao giờ cũng
gặp được mắt xanh.
Văn hóa/ văn học Việt Nam trước Tản Đà thuộc về (đại) hệ hình
trung đại. Nhưng thời Lý Trần thuộc về (trung) hệ hình văn hóa/ văn học Phật
giáo, còn thời Lê Nguyễn thuộc về hệ hình văn hóa/ văn học Nho giáo. Thời đại
Nho giáo, đến lượt nó lại chia thành hai (tiểu) hệ hình là thời Nho giáo chính
thống và thời Nho giáo phi chính thống với đường phân thủy là thời Lê mạt. Như
vậy, trước Lê mạt, văn hóa/ văn học Việt Nam là của các nhà nho quân tử, tức
nho chính thống. Nhưng từ Lê mạt, dưới ảnh hưởng của Phật giáo, tư tưởng Lão
Trang, văn hóa dân gian (lễ hội), đặc biệt là tư tưởng thị dân, bắt đầu hình
thành kiểu nhà nho mới, phi chính thống, nhà nho tài tử, như Nguyễn Du,
Nguyễn Công Trứ, Cao Bá Quát… Chính các nhà nho tài tử đã tạo ra một thời đại
văn học mới đậm nhạt tính đô thị, dù là đô thị trung đại, phương Đông. Là những
người thị tài và đa tình, trong văn chương họ đề cao tài và tình,
chú trọng đến đặc trưng nghệ thuật, sáng tạo ra các thể loại mới trước đó
chưa từng có là ngâm khúc, truyện nôm và hát nói nhằm
đáp ứng nhu cầu của thị dân.
Từ nửa sau thế kỷ XIX, dưới ảnh hưởng của thực dân Pháp, các
đô thị chuyển động dần theo hướng đô thị hiện đại, phương Tây. Các sinh hoạt đô
thị cũng dần trở nên phong phú và đa dạng hơn. Điều này tác động mạnh đến các
nhà nho tài tử, tạo ra sự phân hóa ở họ. Cùng chịu ảnh hưởng của sinh hoạt đô
thị và tư tưởng thị dân, nhưng các nhà nho quan lại như Chu Mạnh Trinh, Dương
Khuê thì đi vào xu hướng lãng mạn, thoát ly vào tình yêu, hoặc ăn chơi hưởng lạc.
Còn các nhà nho bình dân sống ở những thành phố bị đô thị hóa nhanh chóng thì bắt
đầu quan tâm đến thực tại đời sống, cái đời thường. Họ làm thơ trào phúng đã lấy
tiếng cười mà khóc cho những đổi thay xã hội, sự suy đồi đạo đức, lối sống, mà
sâu xa đằng sau nó, dù họ chưa hoặc ít nhiều đã dự cảm được,
là sự thay đổi hệ hình văn hóa. Trong đó, Tú Xương là một nhân vật tiêu biểu. Cả
hai loại hình nhà nho quan lại đô thị và nhà nho bình dân đô thị đều
không có sáng tạo thể loại, mà chỉ có sáng tạo tư tưởng nghệ thuật. Họ vẫn dùng
các thể thơ hát nói, Đường luật, nhưng tư tưởng và, dó đó, nghệ thuật thì đã
khác. Tuy nhiên, so với nhà nho quan lại Dương Khuê, thì Tú Xương, nhà nho bình
dân, đi trước một bước về phía hiện đại.
Chữ nghĩa Tây, Tàu chót dở dang
Nôm na phá nghiệp kiếm ăn xoàng.
Nửa ngòi bút ngỗng ba sinh lụy
Một mối tơ tằm mấy đoạn vương.
Có kẹo, có câu là sách vở
Chẳng lề, chẳng lối, cũng văn chương.
Còn non, còn nước, còn trăng gió,
Còn có thơ ca bán phố phường
(Đề Khối tình con I)
Là người chuyển đổi hệ hình, Tản Đà à priori đã
có trong mình cả hai hình mẫu Dương Khuê và Tú Xương. Thân sinh của nhà thơ là
cử nhân Nguyễn Danh Kế làm quan đến tri phủ, án sát, nhưng lại thường xuyên ra
vào chốn ca lâu kỹ viện “nay Hàng Thao, mai Phố Giấy”, như Tú Xương ở Nam Định.
Bởi thế, ông đã gặp bà Nhữ Thị Nghiêm, một ả đào tài sắc vẹn toàn, không chỉ giỏi
ca hát mà còn biết làm thơ. Sau khi trở thành bà Phủ Ba, mẹ Tản Đà thường xuyên
xướng họa với Nhàn Khanh nữ sĩ, mẹ nhà báo Trịnh Đình Rư. Cả tuổi vị thành
niên, Tản Đà sống với anh cùng cha khác mẹ, Nguyễn Tái Tích, một vị học quan và
ông anh rể Nễ Xuyên Nguyễn Thiện Kế (huyện Nẻ), một nhà thơ trào phúng thuộc
dòng Tú Xương. Tuy nhiên, những điều kiện tiên thiên trên chỉ là các
yếu tố tĩnh, các điều kiện hậu thiên mới là yếu tố động. Và
cái làm cho tĩnh trở thành động chính là thời đại. Một thời đại đang vận động
từ văn hóa nông thôn sang văn hóa đô thị, từ Nho học sang Tây học, từ khu vực
sang thế giới, từ thời trung đại sang Thời Đại Mới. Điều này không chỉ diễn ra
ngoài xã hội, mà, quan trọng hơn, đang diễn ra trong chính con người Tản Đà.
Năm 1891, mới 3 tuổi, Tản Đà mồ côi cha, năm sau, 4 tuổi, mẹ
Tản Đà, do bất hòa với những bà vợ cả, vợ hai, đã bỏ lại 4 đứa con cho gia đình
chồng nuôi, trở lại xóm Bình Khang (9 năm sau, chị Trang của Tản Đà, 15 tuổi,
cũng theo mẹ đi làm ả đào nốt). Đây là một đòn nặng đánh vào nề nếp gia phong.
Từ đó Tản Đà theo Nguyễn Tái Tích lang thang qua những nơi ông trị nhậm để học
chữ Hán, đi thi, nối nghiệp gia đình. Nhưng, mặc dù học rất giỏi, nổi tiếng thần
đồng, Tản Đà cứ trượt hoài. Đầu tiên là trượt thi Hương ở Nam Định (1909), sau
đó lại trượt đầu vào trường Hậu bổ (1912), rồi thi Hương lần hai cũng trượt nốt.
Khi từ Nam về đến Hà, ông chứng kiến cảnh ý trung nhân của mình, “người đẹp
hàng Bồ”, lên xe hoa. Điên loạn do thất tình, Tản Đà về Hương Sơn, lên chùa
Tiên, làm văn tế Chiêu Quân. Sau đó, ông theo Nguyễn Thiện Kế về Nam Định, ở
nhà Bạch Thái Bưởi, chủ Công ty Vận tải Thủy nổi tiếng, đọc tân thư, làm quen với
Khang, Lương, tìm hiểu về Cách mạng Tân Hợi.
Năm 1915, Tản Đà có bài in trên Đông Dương tạp chí của
Nguyễn Văn Vĩnh, một bài văn xuôi nghệ thuật dưới dạng tùy bút. Sự mới mẻ và
triển vọng của nó khiến ông chủ nhiệm nhiệt liệt ủng hộ và mở hẳn mục “Một lối
văn Nôm” dành cho Tản Đà. Bởi thế, chỉ sau một năm, ông đã có tập Giấc mộng
con I. Ngoài ra, thi nhân còn soạn các vở tuồng Người cá, Tây Thi, Dương
Quý Phi, Lưu Nguyễn nhập Thiên Thai, đồng thời xuất bản tập thơ Khối
tình con. Sự thành công đặc biệt này của ông đã khiến cho E. Vayrac, Giám đốc
trường Hậu bổ, nơi trước đây mấy lần ông thi trượt, ngỏ ý mời Tản Đà vào học
không phải thi, nhưng nhà thơ đã từ chối. Sự kiện này chứng tỏ Tản Đà đã dứt
khoát từ bỏ con đường nhà nho quan lại, quyết tâm làm một nhà nho bình dân đô
thị, kiếm sống bằng nghề làm báo, viết văn, để, cuối cùng, trở thành một
nghệ sĩ mở đầu cho văn chương của Thời Hiện Đại.
Thời Tản Đà, do sự phát triển gối tiếp chứ không phải nối
tiếp của lịch sử, nên cùng lúc tồn tại nhiều loại hình nhân vật thuộc về
những “thời đại” khác nhau. Trước hết là các nhà nho cũ, những nhà nho
chính thống cuối mùa. Sau khi phong trào Cần vương thất bại, họ rút lui về thôn
quê, nơi góc nhà xó vườn, khư khư giữ lấy mớ giáo điều hương hỏa như một thứ
“hư tưởng sinh tồn”. Hai là các nhà nho mới, tức các nhà nho đã đọc tân
thư, có tư tưởng duy tân, hoặc là theo Phan Bội Châu “Đông du” sang Nhật tìm đường
cứu nước, kể cả con đường đấu tranh vũ trang, hoặc là theo Phan Chu Trinh chủ
trương cứu nước bằng con đường văn hóa khai dân trí, chấn dân khí, hậu
dân sinh. Ba là các nhà nho Tây học, những người vốn đã từng học chữ Hán,
đỗ hoặc chưa đỗ, vì thời thế thay đổi nên theo Tây học để ra làm quan hoặc làm
văn hóa. Đa số học ở trường Quy Thức/ Hậu bổ, số ít học ở Trường Thuộc địa bên
Pháp (như Trần Trọng Kim, Trần Văn Giáp…). Với họ, kiến thức Tây học dù có cao
đến đâu thì ứng xử, suy nghĩ của họ vẫn là của nhà nho. Bốn là các trí thức
Tây học Nho giáo, những người hoàn toàn được đào tạo ở “Trường Tây”, như Trường
Thông ngôn chẳng hạn, nhưng khi ra hoạt động văn hóa, thấy công trình xây dựng
nền quốc học nhất thiết phải có sự kết hợp Đông Tây, Pháp Nam, nên đã quay lại
học Nho giáo. Tiêu biểu là “Tràng An tử hổ” Quỳnh (Phạm), Vĩnh (Nguyễn Văn), Tốn
(Phạm Duy), Tố (Nguyễn Văn). Cuối cùng là trí thức Tây học thuần túy. Họ là
một thế hệ trí thức mới, chủ trương xây dựng văn hóa Việt Nam theo phương Tây,
“đoạn tuyệt” hẳn với Nho giáo, tiêu biểu là Nhất Linh và Tự lực Văn đoàn. Sự ra
đời của tầng lớp trí thức Tây học này chấm dứt giai đoạn giao thời.
Nhìn vào bức tranh loại hình nhân vật trên, trừ hai loại đầu,
cuối: nhà nho cũ và trí thức Tây học ra, ba loại hình giữa nhà nho mới (duy
tân), nhà nho Tây học và trí thức Tây học Nho giáo không có ai làm nổi sự chuyển
đổi hệ hình văn học từ trung đại sang hiện đại, mà vai trò đó Tản Đà lại làm được?
Có lẽ, cũng như Tú Xương, Tản Đà là nhà nho bình dân đô thị và, do đó, cũng như
ở Tú Xương, thơ văn và con người của Tản Đà bị quy định bởi đô thị. Nhưng Tản
Đà cũng khác hẳn Tú Xương. Nhà thơ non Côi sông Vị tuy sống trong lòng một đô
thị đang hiện đại hóa, ít nhiều bị lối sống của nó tác động, nhưng vẫn giữ một
khoảng cách với nó, ít nhất là khoảng cách văn hóa. Thi nhân tự nguyện đóng vai
trò người quan sát thụ động cái cảnh “Ai khéo xoay ra phố cả làng”, cảnh “sông
lấp”, cảnh “vứt bút lông đi dắt bút chì”, như là một thay đổi văn hóa. Còn nhà
thơ núi Tản sông Đà thì gắn với đô thị, là một với đô thị, đúng hơn
là một với quá trình đô thị hóa. Bởi vậy, có một vận động đô thị hóa ở bên
trong con người ông. Không chỉ đứng trông cái đời thường, một phạm trù của
đô thị hiện đại, như Tú Xương, Tản Đà còn tạo ra cái đời thường, thậm chí chính
ông là hiện thân của cái đời thường. Và một trong những cái đời thường đó
là báo chí.
Báo chí là một sản phẩm phương Tây, con đẻ của văn hóa đô thị
hiện đại. Riêng ở Việt Nam, báo chí là chị em song sinh với đô thị, cùng lớn
lên với đô thị. Báo chí, do đó, tạo ra những con người với tư cách là chủ/
khách thể của văn hóa đô thị, con người cá nhân cá thể. Từ lý do trên,
ngay khi báo chí ra đời, những người tâm huyết với việc canh tân đất nước đều
tham gia làm báo. Tản Đà, như trên đã nói, khởi nghiệp đời và nghiệp văn của
mình bằng việc viết cho Đông Dương tạp chí của Nguyễn Văn Vĩnh, một tạp
chí và một ông chủ bút nhiệt thành cố xúy cho chữ quốc ngữ, cho cải cách xã hội
theo hướng Âu hóa. Rồi Tản Đà trở thành một nhà báo chuyên nghiệp, dù đôi
khi cũng bị mất nghiệp, cho đến cuối đời. Ông đã từng làm bỉnh bút cho Đông
Dương tạp chí của Nguyễn Văn Vĩnh, trợ bút cho Văn học tạp chí của
Dương Tự Quán, Tiểu thuyết thứ bảy của Vũ Đình Long, phụ trách trang
văn học của Đông Pháp thời báo của Diệp Văn Kỳ, chủ bút báo Hữu
Thanh, cơ quan của Trung Bắc kỳ công nông thương tương tế, của nhóm Nguyễn Huy
Hợi…
Tuy vậy, Tản Đà chỉ trở thành một nhà báo thực sự, với tất cả
vinh và nhục của nó, khi ông chủ trương An Nam tạp chí do mình vừa
làm chủ báo vừa làm chủ bút, với tham vọng “bồi lại bức dư đồ rách”. An
Nam tạp chí ra đời năm 1927 nhưng chỉ được 10 số thì phải đình bản. Năm
1930, An Nam tạp chí lại tái xuất giang hồ, nhưng lần này cũng chỉ được
3 số. Sau đó lần lượt tái bản rồi lại đình bản cả thảy 4 lần vào các năm 1931,
1932 và đến 1933 thì chết hẳn. Khác với nhiều người làm báo khác cùng thời, hoặc
họ được chính quyền chống lưng, hoặc bản thân họ vẫn đang là quan chức nhà nước,
nên họ có “đường lui”, còn Tản Đà thì đứng ngoài mọi thứ “biên chế”, ông hoàn
toàn độc lập, sống chết và sống và chết với nghề báo. Số phận của An
Nam tạp chí và của Tản Đà hẳn giống như bức tranh người quảy hai bó sách
trên trang bìa do họa sĩ Nam Sơn vẽ với câu ghi chú “Đường xa, gánh nặng, trời
chiều”. Có lẽ, Tản Đà là người ký giả đầu tiên sống bằng tiền nhuận bút, mở đầu
một tầng lớp trí thức độc lập, “Bán văn buôn chữ kiếm tiền tiêu” của báo giới
và văn giới Việt Nam.
Cùng với nghề báo, Tản Đà còn làm nghề xuất bản. Năm 1922,
ông thành lập Tản Đà thư điếm và in Khối tình con II (tái bản), Tản
Đà tùng văn trong đó có truyện (và bài thơ) Thề non nước, Đại học (dịch).
Năm sau, ông đổi thành Tản Đà thư cục và cho in Truyện thế gian I và II,
trong đó có giai thoại rau sắng chùa Hương, rồi sau đó là Quốc sử huấn
mông (giáo khoa lịch sử), Trần ai tri kỷ (truyện), Kinh thi (dịch).
Ngoài việc in sách của mình, Tản Đà thư cục còn xuất bản nhiều sách của các tác
giả khác, ví như Cẩm hương đình do Ngô Tất Tố dịch, Tản Đà sửa, Truyện
Tỳ bà (kịch), Đoàn Tư Thuật dịch, Tản Đà san nhuận và giới thiệu. Ngoài hoạt
động xuất bản, Tản Đà còn hoạt động sân khấu, một hình thức sinh hoạt văn nghệ
đô thị rất sôi nổi những thập niên đầu thế kỷ XX. Đó là phong trào cải cách ca
kịch ở Bắc Kỳ. Ông chủ rạp tuồng Quảng Lạc ở Hải Phòng mời Tản Đà về soạn các
câu hát bộ cho diễn viên. Rồi rạp Thắng Ý ở Hà Nội, rồi đoàn chèo Sán Nhiên Đài
ở ngõ Sầm Công. Nhân dịp này, ông viết các vở ca kịch lấy từ các tích xưa, chủ
yếu là chuyện giai nhân tài tử, khai thác chất lãng mạn, như các vở Tây Thi, Dương
Quý Phi, Lưu Nguyễn nhập Thiên Thai. Ông trực tiếp làm đạo diễn, lựa chọn
diễn viên. Tản Đà còn viết cả kịch hát (một thể hỗn hợp), như Thần
tiền (in 1921), hoặc dịch Tỳ Bà Truyện (in 1922). Dịch thuật bấy
giờ cũng trở thành một phong trào sôi nổi. Những người Tây học như Nguyễn Văn
Vĩnh, Phạm Quỳnh thì dịch văn chương Pháp, cả cổ điển lẫn hiện đại. Còn những
người Nho học như Nguyễn Đỗ Mục, Nguyễn Hữu Tiến thì dịch Trung Hoa, cũng cả cổ
điển lẫn hiện đại. Mục đích là để xây dựng một nền quốc ngữ, quốc văn, quốc học.
Nằm trong trào lưu chung ấy (và cũng để kiếm ăn), Tản Đà cũng dịch Đại học (cùng
với Đặng Đức Tô và Nghiêm Thượng Văn), Kinh thi, Đường thi và Liêu
trai chí dị. Nhưng, có lẽ, đóng góp lớn nhất của Tản Đà là dịch Đường Thi.
Với các bản dịch Hoàng Hạc lâu của Thôi Hiệu, Trường hận ca của
Bạch Cư Dị, Tản Đà được coi là một dịch giả thiên tài sau Đoàn Thị Điểm và Phan
Huy Vịnh. Tuy vậy, cái làm cho Tản Đà trở thành Tản Đà, trở thành người chuyển
đổi hệ hình văn học, thành một nhà thơ lớn của dân tộc, là sáng tác văn
chương.
Tản Đà chủ yếu là một nhà thơ, nhưng ông cũng sáng tác rất
nhiều thể loại khác. Dường như người khai phá nào cũng phải quảng canh, bởi mảnh
đất nào cũng là đất hoang hóa. Nhát cuốc đầu tiên bổ xuống ở nơi này sẽ kéo
theo nhát thứ hai ở nơi khác. Một dắt dây có tính hệ thống ở người canh tân. Về
thơ, Tản Đà có Khối tình con I và II (1917), Lên sáu, Lên
tám (1921), Tản Đà vận văn (4 tập, 1932). Về văn xuôi, ông có:
tiểu thuyết: Giấc mộng con I (1917), Thề non nước (1920);
truyện ngắn: Trần ai tri kỷ (1932), Kiếp phong trần (?); du
ký: Giấc mộng con II (1932); nhật ký: Giấc mộng lớn (1932); sân
khấu: Tây thi (1920), Thần tiền (1919); nghị luận: Tản
Đà tùng văn (1920), Tản Đà văn tập (1932), Tản Đà xuân sắc (1934);
luận thuyết: Khối tình bản chính và bản phụ (1918), Còn chơi (1922), Nhân
hứng (1924); giáo khoa: Quốc sử huấn mông (1924). Cái thống nhất
của những sáng tạo đa dạng của Tản Đà đó là tính trung chuyển. Thoát khỏi
quan niệm văn học công cụ của nhà thơ trung đại, nhưng Tản Đà vẫn chia văn
chương ra thành văn có ích và văn chơi. Văn có ích thực chất vẫn
là văn chương công cụ, mà nghệ thuật chỉ là một chức năng. Còn văn chơi, ở
Tản Đà là thơ, nghệ thuật mới là một thuộc tính, có ích một cách tự nhiêm
không cố ý. Tính trung chuyển còn thể hiện ở chỗ nhòe thể loại. Có điều đấy
không phải là cái nhòe khi các thể loại (tiểu thuyết, truyện ngắn…) đã đạt đến,
vượt qua sự phân biệt rành rót, mà sự nhòe do chưa đạt đến sự rành rọt ấy. Điều
này có thể thấy rõ ở cả văn lẫn thơ của Tản Đà.
Văn xuôi Tản Đà, kể cả văn xuôi nghệ thuật như truyện ngắn, tiểu
thuyết, vừa có tính thơ vừa mang tính triết luận. Ông có thể “lý sự” về bất cứ
chuyện gì trong xã hội hoặc ở người đời, từ luận về tính “tự ái”, “tự trọng”,
“tự tôn” đến bàn tới sự “ăn ngon”, chữ “tài”, sự “giàu”, sự “ghen”… Nhưng, có lẽ,
tâm huyết mà ông muốn truyền bá cho quốc dân đồng bào là học thuyết “thiên
lương”. Theo Tản Đà, thiên lương có ba chất: 1 - Lương tri là cái tri
giác của trời cho để cảm biết sự vật; 2 - Lương tâm là cái bụng dạ của
trời cho để tiếp nhận các sự vật; 3 - Lương năng là cái tài giỏi của trời
cho để làm theo sự vật. Ba chất này không tồn tại riêng rẽ nhau, mà luôn luôn
nương tựa vào nhau, điều hòa với nhau, không thể thiếu một cái nào cả. Như vậy,
thiên lương là cái phần tinh anh mà con người thụ bẩm được của trời đất. Thiên
lương thịnh thì con người phát triển, làm nên sự nghiệp, trở thành anh hùng hoặc
thánh nhân. Thiên lương suy thì con người thiếu tư cách, hành vi bỉ ổi, hèn hạ.
Bởi vậy, cần phải làm cho mọi người thức nhận được tầm quan trọng của thiên
lương để mà tài bồi nó. Học thuyết thiên lương của Tản Đà tuy cốt lõi vẫn từ chữ tâm của
Nho giáo, nhưng đã có màu sắc hiện đại. Sự cấu tạo ba thành phần của nó làm người
ta liên tưởng tới tâm lý học phương Tây phân chia đời sống bên trong của con
người thành: trí tuệ, tình cảm và hoạt động. Thuyết thiên lương của Tản Đà ngày
nay có thể là cũ kỹ, nhưng điều đáng nói là thi nhân đã dám đứng ra lập
thuyết, điều mà bấy giờ trong đám quần hùng mấy ai dám làm và có khả năng làm.
Nếu văn Tản Đà là hướng ngoại, thì thơ ông, ngược lại, hướng
nội. Văn cho ta hình ảnh một nhà nho đứng trước buổi giao thời giữa hai nền văn
hóa Đông Tây, không còn đủ ngông, đủ dũng như Cao Bá Quát và Nguyễn Công Trứ,
mà đầy những băn khoăn, thắc mắc, vừa muốn làm một cái gì đấy cho thời cuộc, lại
vừa như để mặc cho thời cuộc cuốn đi. Thơ lại cho ta hình ảnh một nghệ sĩ thị
tài và đa tình, hay sầu muộn, hay mơ mộng, ngông nghênh và tôn thờ khoái lạc. Tản
Đà đóng góp cho thơ Việt Nam ở hai phương diện, sự hình thành một chủ thể trữ
tình mới và những cách tân thể loại.
Nhà thơ núi Tản sông Đà không phải là người sáng tạo ra thể
thơ/ thể loại thơ mới nào. Ông chỉ là người cải biến những thể thơ đã được sử dụng
trước đó. Với những thể thơ cổ điển bác học như Đường luật, từ khúc, văn tế,
hát nói, thì Tản Đà tìm mọi cách để dân gian hóa, phổ cập hóa chúng bằng
ngôn ngữ tự nhiên, giản dị, thường ngày, bằng đề tài thông tục, bỡn cợt. Ngoài
ra, thi nhân còn thường xuyên sử dụng các thể loại dân gian như ca dao, hát lý,
hát dặm đò, đặc biệt là hát xẩm. Bằng tài năng lớn của mình, Tản Đà đã nâng các
thể tiền/ cận thơ này trở thành thơ đích thực. Trở về với dân gian, trong
văn học Việt Nam, dường như đã trở thành quy luật, mỗi khi thơ đứng trước một bế
tắc hoặc một ngã ba đường. Giữa thế kỷ XVIII, thơ Việt Nam trở nên cằn cỗi bởi
các điển tích và ngôn ngữ răn dạy đạo đức. Trước tình thế đó, Nguyễn Gia Thiều,
Nguyễn Du đã đi tìm thuốc chữa ở văn chương đô thị Trung Hoa, còn Hồ Xuân Hương
thì một thuyền một mái trở về với lễ hội dân gian, văn hóa phồn thực để tìm sức
sống mới cho thơ. Hơn một thế kỷ sau, trước ngã ba văn hóa Đông Tây, Tú Xương
làm mới các thể thơ cổ điển bằng tinh thần và chất liệu của dân gian đô thị. Tản
Đà, một mặt tiếp nối con đường của Tú Xương, mặt khác trực tiếp sử dụng, nâng
cao các thể thơ dân gian, trong đó có xẩm, một thể loại của những người
hát rong đô thị. Thực ra, cũng có thể nói, Tản Đà chính là người hát rong
đô thị. Người hát xẩm ngồi hát ở các bến xe, bến tàu, thậm chí trên các toa tàu
điện chạy leng keng khắp phố phường Hà Nội. Anh ta hát lấy tiền, cũng như Tản
Đà kiếm sống bằng viết văn “bán phố phường”. Anh ta hát cho đám đông vô danh
nghe, cũng như Tản Đà viết cho một công chúng nghe/ đọc lần đầu tiên cũng vô
danh của người đô thị. Đây chính là lý do xuất hiện “người tình nhân không quen
biết” của Tản Đà, người để cho thi nhân “gửi” những tâm sự, tâm tình. Người tri
âm/ tình nhân này không quen biết vì đó là người đàn bà sống trong thế giới lý
tưởng, người đàn bà lý tưởng. Tiền nhân của những chị Trúc của Nguyễn Bính, chị
Hoài của Nguyễn Tuân, Gái cổ sơ, gái muôn đời của
Đinh Hùng sau này.
Trời đất sinh ta rượu với thơ
Không thơ không rượu sống như thừa.
Công danh hai chữ mùi men nhạt
Sự nghiệp trăm năm nét mực mờ.
Mạch nước sông Đà tim róc rách
Ngàn mây non Tản mắt lơ mơ.
Còn thơ còn rượu còn xuân mãi
Còn mãi xuân còn rượu với thơ.
(Ngày xuân thơ rượu)
Trên kia đã giới thiệu hai yếu
tố làm cho Tản Đà thực hiện được bước chuyển hệ hình của văn học, văn hóa Việt
Nam mà nhiều người khác không làm được là con người nhà nho bình dân
đô thị và nhà báo ở trong ông. Còn yếu tố thứ ba nữa là con người nhà
thơ, nghệ sĩ. Con người nghệ sĩ này rất quan trọng, bởi thứ trí tuệ của trí tuệ
ở nhà nho, nhà báo đôi khi còn làm cho Tản Đà nhiều lướng vướng, thì trí tuệ của
trái tim ở người nghệ sĩ sẽ cuốn phăng mọi rào cản. Bởi thế, nghệ sĩ ở Tản Đà
là con người chủ đạo: nghệ sĩ ở thơ đã đành, còn nghệ sĩ trong cả văn xuôi nghệ
thuật, trong triết luận và, đặc biệt, trong đời sống. Và, có lẽ, vì thế ở nhà
thơ núi Tản sông Đà này, thơ với đời là một, càng thơ bao nhiêu thì càng đời bấy
nhiêu, và, ngược lại, càng đời bao nhiêu thì càng thơ bấy nhiêu.
Ba tuổi cha chết, bốn tuổi mẹ
bỏ nhà trở lại xóm Bình Khang. Với những người lớn thì đấy là một nỗi điếm nhục
gia đình khó lòng tha thứ, nhưng với chú nhóc Cứu (tên cúng cơm của Tản Đà) thì
đấy chỉ là nỗi đau mất mẹ, cũng khó lòng tha thứ, ngay cả khi Tản Đà đã
trưởng thành, mà vì thế mà người đời đã trách ông cố chấp. Thực ra, chấn
thương ấu thời này làm cho Tản Đà ghét mẹ, căm thù mẹ, nhưng càng ghét bao
nhiêu thì lại càng yêu bấy nhiêu, vì trong vô thức luôn tồn tại cùng lúc những
xung năng đối lập, hơn nữa, bà, xét cho cùng, cũng là một tài nữ bạc phận, như
Vân Anh, như Chiêu Quân, như Dương Quý Phi. Tản Đà kiên quyết không tha thứ cho
mẹ, không bởi thứ nho phong mà ông vốn không hề coi trọng kia, mà bởi ông không
muốn mất đi cái niềm thơ ấu của mình, rộng ra tuổi thơ của mình, nay đã trở
thành một thú đau thương. Nhưng điều đáng nói hơn là mặc cảm mất mẹ,
cái chấn thương ấu thời ấy, đã làm dừng lại sự phát triển tâm lý của Tản Đà. Từ
đây mãi mãi trong ông còn đó một đứa trẻ. Mà đứa trẻ, trước hết, là một
sinh thể tự nó, bản năng, hồn nhiên và tự kỷ trung tâm. Nó chưa biết đến
xung quanh như một thứ nó phải chiều, mà chỉ biết đến xung quanh như một thứ phải
chiều nó. Bởi vậy, đứa trẻ thích làm gì thì nó làm ấy, làm bằng được một cách
say mê. Đứa trẻ, vì vậy, là một nhà thơ và chính đứa trẻ ấy làm cho Tản Đà
thành một nhà thơ. Như Albert Thibaudet nói “Tuổi thơ ngây là một thiên tài thi
sĩ, mà thiên tài thi sĩ là sự kéo dài của tuổi thơ ngây”. Phần đông bỏ thơ giữ ngây để
trở thành người lớn, còn Tản Đà thì bỏ ngây giữ thơ để trở
thành thi nhân.
Một lần ở Sài Gòn, Ngô Tất Tố kể, trong nhà Diệp Văn Kỳ, sau
bữa rượu, Tản Đà chơi trò đuổi bắt nhau trong một gian phòng chật chứa nhiều gốm
sứ cổ. Ai ngăn cũng không được. Một người tức giận nói: “Làm cái gì thế? Người
ta coi như cinéma kia kìa”. Tản Đà vừa chạy vừa trả lời: “Ông phải biết cái thằng
trong cinéma nó không biết người ngoài là ai”. Rồi, tác giả Tắt đèn kết
luận: “Nhất sinh tư tưởng của ông Tản Đà có thể thu vào câu nói đó. Chính ông
đã tự coi ông là một người bóng trong phim cinéma, quốc dân, xã hội, mà đến cả
thế giới nữa, đều là những người ngoài. Như thế, đối với ông, sự yêu ghét chê
khen chỉ là sự thừa” (Tao đàn, số 1-7-1939). Tản Đà, quả thực, là một thứ người
bóng theo cả nghĩa hẹp lẫn nghĩa rộng. Nghĩa hẹp là người tài tử của nghệ thuật
chớp bóng/ điện ảnh/ cinéma. Nghĩa rộng là con người của thế giới tưởng tượng,
thế giới không có hình mà chỉ có bóng. Mà, xét cho cùng, ở Tản Đà, mọi thứ
nghĩa đều là nghĩa bóng cả. Bởi, Tản Đà thường trực sống trong thế giới của tưởng
tượng. Ông thường xuyên giao tiếp với các giai nhân trong sử sách như Chiêu
Quân, Tây Thi, Dương Quý Phi, với các triết nhân Đông Tây kim cổ như Khổng Tử,
Lão Tử, Vương Dương Minh, Lư Thoa (Rousseau), Mạnh Đức Tư Cưu (Montesquieu),
Kha Luân Bố (Cristophe Colomb). Tản Đà còn sống cả với những nhân vật văn học
do chính ông tạo ra như Chu Kiều Oanh, Vân Anh, cô hàng cau, đặc biệt là người
tình nhân không quen biết. Và, cuối cùng là ảnh, bóng, một sự phân thân của
chính Tản Đà. Trong những giờ phút cô đơn cùng cực, thi nhân thường giở ảnh
mình ra để nói chuyện (Nói chuyện với ảnh), hoặc ngồi với một ngọn đèn để tâm sự
với cái bóng của chính mình (Bóng ơi mời bóng vào nhà/ Ngọn đèn khêu tỏ cho ta
tâm tình).
Không chỉ người tài tử điện ảnh mới là một thứ người bóng, mà
mọi nghệ sĩ thực thụ đều là người bóng, nhất là với đứa trẻ người thơ Tản Đà.
Quả thực, Tản Đà làm thơ như một đứa trẻ chơi đùa. Cũng cùng một niềm say mê
như thế, cũng cùng một trí tưởng tượng mãnh liệt đến mức tin tưởng là thực. Tản
Đà chơi. Và, chơi với một sự nghiêm túc chưa từng có. Trước hết ông chơi với
non sông đất nước: “Văn chương thời nôm na/ Thú chơi có sơn hà”, hoặc “Túi thơ
đeo khắp ba kỳ/ Lạ chi rừng biển, thiếu gì gió trăng”. Sau đó là chơi với các
thú ăn chơi: “Thú ăn chơi cũng gọi rằng/ Mà xem chửa dễ ai bằng thế gian”,
như rượu: “Trăm năm thơ túi rượu vò/ Nghìn năm thi sĩ tửu đồ là ai?”
(Nguyên văn: thi sĩ, tửu đồ, ĐLT đổi); như ẩm thực: “Nay về Bất Bạt quê nhà/
Sông to, cá lớn lại là thứ ngon…”. Không chỉ biết ăn ngon, Tản Đà còn đưa ăn uống
lên thành một nghệ thuật, thậm chí một triết lý, Tản Đà ẩm thực, điều hiếm
có trong một xã hội khan hiếm thực phẩm như ở Việt Nam… Cuối cùng là chơi với đời.
Tản Đà với cuộc đời/ người đời/ thế gian vừa như một người bạn vừa như một đối
thủ, nhưng lại không thể không có nhau: “Vắng tớ bấy lâu đời nhớ tớ”, “Buồn cả
cho đời vắng bạn chơi”, “Lộng hoàn này điệu từ đâu trước?/ Họa được hay không,
tớ đố đời”. Có lẽ, đây là một cuộc chơi bất tận không biết chán, vì thế người
chơi Tản Đà mới có tuyên ngôn chơi: “Tớ muốn chơi cho thật mãn đời,/ Đời
chưa thật mãn, tớ chưa thôi./ Chẳng hay đời tớ lâu hay chóng?/ Dù chóng hay
lâu, tớ cũng chơi…”. Như vậy, Tản Đà sẽ chơi cho đến chết và, liệu thi nhân có
biết chăng, ông sẽ còn chơi cả sau chết.
Cuộc chơi với đời của Tản Đà, thực chất, chỉ là cuộc chơi với
chính mình. Và cách chơi của Tản Đà đó là làm thơ, làm văn chương nghệ thuật. Tản
Đà, ngay từ khi cầm bút, đã văn bản hóa đời mình. Rồi sau đó, trong một Ngày
xuân nhớ xuân, ông lại kể lại toàn bộ diễn trình học thi/ thi học của mình:
“… Cuối năm lên sáu ta về Khê,/ Đà Giang, Tản Lĩnh, nước non quê/ Sách nho học
truyện, lại học sử/ Quốc ngữ cũng mới làu a, b”, “Quảng Oai vừa trải bốn xuân
dư/ Xuân mỗi ngày cao, học cũng như/ Cuối xuân mười chín ra Hà Nội/ Học trường
Quy Thức, đường Gia Ngư”. Có thể nói, toàn bộ thơ Tản Đà đều xuất phát từ Tản
Đà rồi lại quay về với Tản Đà. Nhưng điều đáng nói hơn cả với người chơi Tản Đà
là cả Tản Đà sống lẫn Tản Đà - thơ đều không có một luật chơi cố định, cứng
nhắc, mang tính khế ước, giao kèo, mà chỉ là thỏa thuận trường hợp.
Trò chơi đến, luật chơi hình thành, trò chơi kết, luật chơi không còn tồn tại.
Nhưng lúc đang chơi, tức trò còn đang tiếp diễn, Tản Đà hơn ai hết là người biết
tuân thủ nghiêm ngặt luật chơi. Hẳn vì không hiểu điều này, mà vụ “cho mượn An
nam tạp chí” giữa Tản Đà và Nguyễn Thái Học đổ vỡ: người nghệ sĩ thì cho rằng
chỉ cần một lời là xong, còn nhà trí thức Tây học thì cứ nhất quyết phải làm hợp
đồng! Tất cả với Tản Đà đều là một lời nói, một diễn ngôn, có lúc thì nặng như
núi Thái Sơn, có lúc thì nhẹ tựa lông hồng. Cuộc đời và thơ Tản Đà, bởi thế, là
một trò chơi, trò chơi ngôn ngữ.
Nhờ cá tính nghệ sĩ này, Tản Đà đã có những đột phá mạnh mẽ
trong văn chương. Thi nhân không chỉ đổi mới văn chương Việt mà, với tư cách người
chuyển đổi hệ hình, còn tạo ra nhiều cái đầu tiên, đặc biệt là sự đời thường
hóa đề tài và lấn biên thể loại, hoặc cải hóa thể loại. Tản Đà là một trong những
cây bút quốc ngữ đầu tiên trong văn xuôi nghệ thuật. Ông mở đầu nghiệp viết của
mình bằng những bài bút ký, tùy bút… tạo ra Một lối văn xuôi (Spécimen
de prose) cho văn chương Việt. Với một ngôn ngữ trùng điệp, điêu luyện, một cái
nhìn độc đáo, tinh tế, ký Tản Đà đã là tiền thân của ký/ tùy bút Nguyễn Tuân
sau này. Tản Đà cũng là người đầu tiên viết truyện dài: Giấc mộng con I (1917), Thần
tiền (1919), Giấc mộng con II (truyện khoa học viễn tưởng), Giấc
mộng lớn(1929, tự truyện). Nhiều truyện của Tản Đà, như Thần tiền, Khối
tình, Giấc mộng có nhiều yếu tố hiện thực, báo hiệu sự chuyển biến quan niệm
về cái đẹp từ cái thần sang cái thực. Trên An Nam tạp chí của
mình, Tản Đà mở hẳn hai mục: “Việt Nam nhị thập thế kỷ - Xã hội thiển đàm” và
“Việt Nam nhị thập thế kỷ - Xã hội ba đào ký” với chủ trương phản ánh hiện thực
thời đại. Với việc đăng truyện ngắn Hai thằng khốn nạn (An Nam tạp
chí, số 12/7/1930), có thể nói “Xã hội ba đào ký” đã góp phần không hề nhỏ cho
việc ra đời cây bút hiện thực Nguyễn Công Hoan. Tản Đà còn có nhiều cái đầu
tiên khác rất đáng kể ra, như biên soạn sớm nhất sách giáo khoa: Lên sáu (1919), Lên
tám (1920), Tam tự kinh An Nam (1928) thuộc loại “Luân lý giáo
khoa thư”, Quốc sử huấn mông(1924) thuộc loại giáo khoa lịch sử. Ông cũng
là triết gia đầu tiên truyền bá triết học bằng quốc ngữ.
Tuy nhiên, đột phá lớn nhất của Tản Đà vẫn là thơ. Bởi, ông
thực chất là một nhà thơ. Với bản chất hồn nhiên, phóng khoáng của mình, Tản Đà
từ lâu đã cảm thấy bức bối trong cái không gian chật hẹp của thơ luật. Nhiều lần
ông đã hô hào “phá cách vứt luật”:
Đờn là đờn,
Thơ là thơ,
Thơ thời có chữ
Đờn thời có tơ
Nếu không phá cách vứt điệu luật
Khó cho thiên hạ đến bao giờ!
Và, trên thực tế sáng tạo, Tản
Đà cũng đã có nhiều bài thơ phá thể khá gần với Thơ Mới, như Hoa rụng, Còn
chơi, Non xanh xanh, Tống biệt, hoặc như bài Cảm thu tiễn thu:
Từ vào thu tới nay,
Gió thu hiu hắt,
Sương thu lạnh,
Trăng thu bạch,
Khói thu xây thành,
Lá thu rơi rụng đầu ghềnh,
Sóng thu đưa lá bao ngành biệt ly.
Nhưng, điều đáng nói hơn cả ở Tản Đà là, ở ông, không chỉ có
hình thức thơ phá thể, điều mà cả Phan Khôi trong Tình già lẫn Nguyễn
Văn Vĩnh trong bản dịch nguyên thể bài thơ Con ve và con kiến của La
Fontaine cũng đã làm được, mà qua ông, thơ Việt Nam bấy giờ đã trình hiện một cái
tôi mới.
Cái tôi của nhà nho là cá nhân tập đoàn. Nó vẫn là kẻ đại
diện cho tầng lớp nhà nho, bất kể quan lại hay bình dân, nông thôn hay đô thị,
quân tử hay tài tử, vốn đã có một hệ thống quan niệm vững chắc về vũ trụ, nhân
sinh, về đạo lý, về phép ứng xử… Bởi vậy, một nhà nho cụ thể nào đó, dù có sa
vào cảnh nghèo túng, cô đơn, anh ta vẫn còn có một nhân cách làm chỗ
tựa. Anh ta lập tức trở nên kiên định, thậm chí kiên định một cách gàn dở. Còn
cái tôi của người trí thức Tây học là (dù không phải ai cũng đạt tới) cá
nhân cá thể. Không còn điểm tựa tập đoàn nữa, cái tôi cá nhân cá thể này chỉ
còn biết tựa vào chính nó. Quan niệm cá nhân như một giá trị, giá trị tự
thân, vừa là yếu điểm lại vừa là điểm yếu của con người cá nhân, nhất là trong
giai đoạn trứng nước của buổi giao thời, mà Tản Đà là đại diện. Nó nhỏ nhoi, yếu
ớt, dễ thay đổi, nhiều cảm xúc.
Bước vào Thời Hiện Đại, nhà nho Tây học với tính duy lý của
nó thường nghiêng về chủ nghĩa duy lý với tinh thần khoa học thực chứng. Họ chủ
yếu trở thành các nhà khảo cứu. Còn trí thức Tây học, nhất là với những người
trẻ tuổi mà trái tim đầy máu nóng, thì nghiêng về chủ nghĩa lãng mạn. Họ chủ yếu
trở thành người sáng tác, nhà thơ, nhà văn. Là nhà nho Tây học, Tản Đà lại đi về
phía chủ nghĩa lãng mạn. Ông trở thành một nhà thơ. Nhưng nhà nho đã giữ chân
thi nhân. Ông dừng lại ở tiền lãng mạn chủ nghĩa, hoặc ở chủ nghĩa tình cảm.
Cái tôi của Tản Đà, như Xuân Diệu nói, ở vùng mù sương của tình cảm. Thơ Tản Đà
không còn ở thể khí, một sự “bốc hơi” tình cảm của thơ trung đại nữa,
nhưng cũng chưa phải ở thể lỏng, những cơn mưa tình cảm của Thơ Mới. Cái tôi Tản
Đà đã lưu giữ thơ ông lại ở trường thẩm mỹ nghe/ ngâm, dù ông viết thơ ra để
in/ đọc. Như vậy, thi nhân không tiến theo chiều thời gian tuyến tính của định
lượng, mà theo chiều không gian lên cao của định chất. Ông “khéo dùng lời nói
thường với những khúc điệu vẫn quen của người trước mà ca hát những cái tình cảm
riêng của mình, khiến cho ai ai cũng hiểu hết, cũng rung động được tơ
lòng…” [9]. Nhờ thế, từ một thi sĩ của buổi giao thời, của người chuyển đổi hệ
hình văn học, Tản Đà bước một bước vào ngôi đền nằm ngoài thời gian của những
thi nhân cổ điển.
Văn chương thời nôm na
Thú chơi có sơn hà
Tản Đà là người chơi với núi sông: “Chơi cho rõ mặt sơn hà/
Cho sơn hà rõ ai là mặt chơi”. Ông đã đi khắp đất nước, “Túi thơ đeo khắp ba kỳ”,
nhưng sông núi quê hương vẫn là nơi ông luôn luôn trở về: “Bốn phương bay
bổng cánh hồng,/ Đường mây bãi tuyết chán lòng tha hương./ Tản viên bóng gác tà
dương,/ Gió thu giục khách lên đường về quê”. Thậm chí, có thể nói, núi Tản
sông Đà thường trực ở trong ông, là tâm hồn và cơ thể ông “Mạch nước sông Đà
tim róc rách/ Ngàn mây non Tản mắt lơ mơ”. Nhưng núi Tản sông Đà mang ý nghĩa
tượng trưng hơn cả khi thi nhân trên con đường dài hun hút, một mình đứng trước
núi, như chờ đợi ai, hay chờ đợi chính mình:
Con đường vô ngạn khách đông tây,
Ta nhớ ai mà đứng mãi đây.
Nước dợn sông Đà con cá nhảy,
Mây trùm non Tản cái diều bay.
Con cá, phần âm, phần căn để, phần nhà nho trong Tản
Đà, dù có nhảy đến đâu thì cuối cùng vẫn rơi xuống nước. Còn đám mây, phần dương,
phần nghệ sĩ trong ông, thì như cánh diều, tự do bay. Nhưng cánh diều còn bị
ràng buộc bởi sợi dây, còn đám mây hình cánh diều, đám mây - Tản Đà, đám
mây trắng xứ Đoài ấy, thì “ngàn năm mấy trắng bây giờ vẫn bay”.
Chú thích:
[1] Minh Tranh, Nguyễn Kiến Giang, Về giai cấp tư sản Việt
Nam, Nxb Sự thật, H., 1959, tr.66.
[2] Tầm Dương, Tản Đà khối mâu thuẫn lớn, Nxb Khoa học Xã
hội, H., 1965.
[3] Nguyễn Khắc Xương, “Tản Đà ngọn lửa cuối cùng của ý thức hệ
phong kiến Việt Nam”, Tạp chí Văn học, số 3/1965.
[4] Nguyễn Đình Chú, “Tản Đà có yêu nước không?”, Tạp chí
Văn học, số 8/1965.
[5] Nguyễn Công Hoan, “Nhân việc trao đổi ý kiến về Tản
Đà”, Tạp chí Văn học, số 2/1966.
[6] Trần Nghĩa, “Thái độ Tản Đà đối với thực dân Pháp”, Tạp
chí Văn học, số 3/1966.
[7] Trần Đình Hượu, Văn học Việt Nam giai đoạn giao thời
1990-1930, Nxb Giáo dục, H., 1988.
[8] Về lý thuyết hệ hình và các hệ hình trong văn học, văn hóa
Việt Nam xin xem: 1) Thomas Kuhn, Cấu trúc của các cuộc cách mạng khoa học,
Nxb Tri thức, H., 2008 và 2) Đỗ Lai Thúy, Thơ như là mỹ học của cái khác,
Nxb Hội Nhà văn, H., 2012.
[9] Nguyễn Mạnh Bổng, “Thân thế và sự nghiệp văn chương của
thi sĩ” trong sách Tản Đà, tác gia tác phẩm, Nxb Giáo dục, H., 2000.
29/4/2015Đỗ Lai ThúyNguồn: http://www.vanhoanghean.com.vn/
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét