Tuệ Sỹ - Khởi đầu của cuộc lữ: Lúc ấy là
cuối hè 1976, tôi đưa anh Tuệ Sỹ đi Vạn Giã để anh khởi sự một cuộc đời mới;
Anh đi tìm rừng để làm rẫy. Dù từ Nha Trang đi Vạn Giã đường quốc lộ rất bằng
phẳng, lại chỉ khoảng chừng 60 cây số, nhưng tôi có linh cảm rõ rệt rằng đây sẽ
là chuyến đi gian nan và nguy hiểm nhất của đời anh.
Khi ngồi trên chiếc xe đò cũ kỹ chậm
chạp, tôi cứ nhớ đến bốn câu thơ của Tô Đông Pha, một thi hào đời Tống bên
Trung Quốc, mà Tuệ Sỹ đã trích dịch và bình giải trong tác phẩm "Tô Đông
Pha những phương trời viễn mộng" của anh:
Hai thứ tóc, người đi ngoài bảy ngàn
dặm,
Một thân côi, thác đổ xuống 18 ghềnh
Nhớ núi Hỹ Hoan đọa đày viễn mộng
Đất tên Hoàng Khủng lệ khấp cô thần
(Thất thiên lý ngoại nhị mao nhân
Thập bát than đầu nhất diệp thân
Sơn ức Hỹ Hoan lao viễn mộng
Địa danh Hoàng Khủng lệ khấp cô thần).
Theo Tuệ Sỹ, Tô Đông Pha làm bài thơ
trên năm ông 59 tuổi, trong lúc đang giữ chức Đoan Minh điện kiêm thị độc học
sĩ, ngoại nhiệm ở Định Châu thì bị giáng chức, và đày đi đến tận đảo Hải Nam.
Muốn đến Hải Nam thì phải đi qua đất Cống Châu, sông Cống chảy qua 18 ghềnh
thát đổ. Khi bắt đầu vào Cống Châu thì có một cái thác nước, được gọi là thác
Hoàng Khủng. Tuệ Sỹ giải thích cái thác có tên kỳ lạ ấy: "cái tên đó cũng
đủ thấy cái thế tuôn trào xuống của nó. Trong cái kinh hoàng nơi khách địa đó,
thơ ông vọng về cố quận khơi vơi." (1)
Trong cách giải thích đó của Tuệ Sỹ thì
ta có thể thấy được rằng, sự hiểm nguy và gian khổ đã bắt đầu quyến rũ anh mất
rồi. Nhưng đâu phải chỉ có riêng Tuệ Sỹ. Mà dường như hầu hết những con người
nghệ sỹ tài hoa cũng đều bị quyến rũ như vậy. Tôi nhớ có một nhà văn Tây phương
đã nói một câu bất hủ rằng: "Chỉ khi nào đời sống của chúng ta bắt đầu lâm
nguy, thì lúc đó chúng ta mới thực sự biết sống." Đúng vậy, vì phố Hĩ Hoan
vẫn có từ bao đời rồi, vậy mà tại sao phải đợi đến lúc đối mặt với thác Hoàng
Khủng, có nghĩa là đối mặt với giây phút hiểm nguy nhất thì phố Hĩ Hoan bỗng
trở thành nỗi nhớ da diết trong lòng thi nhân? Vì sao? Tuệ Sỹ giải thích:
"Hỹ Hoan và Hoàng Khủng tình trong một mà cảnh tượng đôi bờ. Bên này là
những nét kiêu hùng man dại của đất khách. Bên kia là tình nồng đượm của quê
hương. Chỗ đó, ông gọi là "Lao viễn mộng." (2)
Tất nhiên hai trường hợp hoàn toàn khác
nhau. Vì con đường từ Nha Trang đi Vạn Giã không hề có sông Cống chảy qua 18
ghềnh thác đổ, và vì vậy nên cũng chẳng có thác Hoàng Khủng. Thế nhưng tôi nghĩ
rằng, nếu có thì chỉ có cái thác Hoàng Khủng đang tuôn chảy bên trong của mỗi
con người chúng ta mà thôi. Và xét cho cùng thì, cái thác đang tuôn chảy ào ạt
bên trong mới đáng sợ hơn là cái thác Hoàng Khủng bên ngoài mà Tô Đông Pha đã
từng đối diện.
Và những năm tháng như dài đằng đẳng ấy,
tôi nghĩ rằng, bất cứ người Việt Nam nào, ít nhiều thì đã từng nghe cái thác ấy
tuôn chảy trong chính mình.
Tuệ Sỹ cũng vậy, nhưng có thể cái thác
của anh chảy khốc liệt hơn nhiều, và tôi đã biết chắc rằng, anh đã chuẩn bị
tinh thần để đối diện với nó từ rất lâu rồi, dù anh biết là phải trải qua nhiều
đọa đày: "Đọa đày viễn mộng, bốn chữ ấy vừa kiêu sa vừa cô quạnh, mùa thu
và tóc trắng hiện ra những nét vừa khốc liệt vừa man mác." (3)
Có lẽ, cũng vì bốn chữ "đọa đày
viễn mộng" ấy, mà Tuệ Sỹ đã từ bỏ chức giáo sư cũng như Tổng thư ký tạp
chí Tư Tưởng, cơ quan luận thuyết của viện Đại học Vạn Hạnh mà ra đi. Tuệ Sỹ ra
đi trong lúc đang được sinh viên Vạn Hạnh cùng báo chí đều coi Tuệ Sỹ và Phạm
Công Thiện là hai cây bút trẻ lỗi lạc nhất (lúc đó cả hai đều dưới 30) của văn
học Phật giáo Việt Nam thời bấy giờ. Tuệ Sỹ được xem là quảng bác về Phật học
và tư tưởng Đông Phương, còn Phạm Công Thiện thì lỗi lạc về triết lý Tây phương.
Chính những bài viết của Phạm Công Thiện và Tuệ Sỹ (cả Ngô Trọng Anh nữa) trên
tạp chí "Tư Tưởng" mới đủ sức thuyết phục một số nhà trí thức trẻ
tuổi trở về Phật giáo qua Viện đại học Vạn Hạnh. Trong số đó, đáng kể nhất là
trường hợp cố giáo sư linh mục Lê Tôn Nghiêm. Lê Tôn Nghiêm là giáo sư triết
Tây của các đại học Việt Nam như: Văn Khoa Sài Gòn, Huế và Đà Lạt, và được xem
như là người giỏi triết Tây nhất trong các nhà khoa bảng Thiên Chúa giáo của
Việt Nam. Cứ xem những bài viết trên tạp chí Tư Tưởng của Lê Tôn Nghiêm, ai
cũng có thể đoán ngay được rằng, thế nào thì ông cũng sẽ từ bỏ Thiên Chúa giáo
trong một ngày không xa. Và lời tiên đoán ấy rất đúng, vào những ngày cuối đời,
sống tại Sài Gòn, Lê Tôn Nghiêm đã thờ Phật, ngồi Thiền và ăn chay như một phật
tử thuần thành.
Cuối năm, 1970, Phạm Công Thiện rời Việt
Nam đi Pháp và không trở về nữa. Tuệ Sỹ thay Phạm Công Thiện coi sóc tạp chí Tư
Tưởng, nhưng đến năm 1973 thì Tuệ Sỹ cũng ra đi. Từ đó, tờ Tư Tưởng không còn
là tờ Tư Tưởng như lúc khởi đầu nữa, mà chỉ toàn là những bài viết có tính cách
giáo khoa, mất hết không khí sáng tạo, giống hệt như các tập Cours dành cho
sinh viên học thuộc lòng để cuối năm thi tốt nghiệp vậy.
Tuệ Sỹ viết "Tô Đông Pha, những
phương trời viễn mộng" vào năm 1970. nếu nhìn theo cách nhìn của đa số
người đời, thì có thể nói đó là những năm anh đã có địa vị tri thức lớn trong
xã hội, nhưng anh vẫn không hề thõa mãn với vị trí mà mình có được. Tuệ Sỹ vẫn
ray rứt, vẫn đau khổ, vẫn đặt thân phận của mình trong nỗi đau khổ của quê hương
đất nước. Trong lời tựa có đoạn Tuệ Sỹ viết: Những thảm họa lịch sử, và những
thảm họa cuồng dại si ngốc của con người, càng lúc càng đổ dồn lên cuộc lữ. Thi
đã đổi cách điệu, trở thành âm vang thống thiết của ly tao kinh, cuộc lữ đã trở
thành cuộc đày ải." (4)
Và đúng như Tuệ Sỹ đã viết, thì anh đã
bỏ hẳn Vạn Hạnh, rời Sài Gòn, về nằm hiu hắt trên đồi cao lộng gió của chùa Hải
Đức ở Nha Trang, nhưng chưa đầy hai năm thì xảy ra biến cố lịch sử 1975. Sau đó
bao nhiêu người trí thức đều lần lượt ra đi, vì họ quá thất vọng, thất vọng vì
chẳng còn bất cứ một cơ hội nào để họ có thể phục vụ cho đồng bào và tổ quốc
của họ.
Tuệ Sỹ cũng vậy, nghĩa là cũng ra đi,
nhưng anh có cách đi riêng của anh, không phải đi đến chân trời góc bể xa xôi
nào, mà chính là tại nơi đây, nơi mảnh đất đang quằn quại trong đau khổ này,
anh đã lên đường tìm kiếm chân trời viễn mộng:
Ngọn gió đưa anh đi mười năm phiêu lãng
Nhìn quê hương qua chứng tích điêu tàn.
Triều Đông Hải vẫn thì thầm cùng cát
trắng
Chuyện tình người và nhịp thở của Trường
Sơn.
Tất nhiên có nhiều cách để mỗi người
chúng ta bày tỏ và chia xẻ nỗi đau khổ của quê hương. Nhưng dù sao thì cách lựa
chọn của Tuệ Sỹ vẫn là cách lựa chọn đầy can đảm.
Chiều hôm ấy, chuyến xe đò mệt nhọc đưa
anh và tôi đến Vạn Giã. Nắng chiều ở những thị trấn nhỏ xa xôi vốn đã buồn và
hiu hắt, nhưng buổi chiều hôm ấy tôi thấy nó lê thê và hiu hắt hơn. Cái nắng
chết người cũng nhiều lần đốt cháy tâm hồn Tuệ Sỹ: "trên bước đường ngược
gió của lữ khách đó, nắng hiu hắt trỗi màu trầm tư tịch mặc giữa những tàn lụi,
hoang phế và băng hoại; là sự chung cục của tất cả trong sự hủy diệt nồng
nàn." (5)
Đêm ấy, hai anh em nghỉ lại tại chùa
Linh Sơn, một ngôi chùa xưa tịch mịch nằm sát thị trấn Vạn Giã. Nửa đêm nghe
chuyến tàu lửa chạy băng qua sau chùa, lòng tôi vốn đã hoang mang lại càng
hoang mang hơn khi nghĩ đến con đường dài mà ngày mai tôi và anh phải lê bước;
đen tối và ảm đạm làm sao! Nhưng tôi vẫn phải luôn luôn tự tìm lý lẽ để trấn an
lòng mình ngay rằng, gian nan và hiểm trở luôn luôn là điểm hẹn tuyệt vời của
những kẻ tài hoa, vì nếu không có gian nan và hiểm trở thì tinh hoa của họ làm
sao phát tiết được? Chẳng phải Tuệ Sỹ đã từng viết về một người tài hoa nhưng
phải gánh chịu nhiều bất công, oan nghiệt như thế này hay sao?
"Đó là đoạn đường gian nan hiểm
trở. Trên đoạn đường đó, thơ ông vang lên những tiếng dội lạ lùng, khi đau cùng
cực, trộn lẫn với hào khí ngất trời nhưng lại đượm những chân tình hoài vọng
quê hương." (6)
Và phải chăng cái hào khí ngất trời đó
lại được tiếp nối tại Việt Nam bởi một con người cũng nhiều đau khổ, nhiều bất
hạnh như Tô Đông Pha chăng?
2. Rừng khuya bên bếp lạnh:
Năm 1969 nhà xuất bản Ca Dao của Hoài
Khanh in cuốn "Đi vào cõi thơ" của Bùi Giáng. Ngoài những nhà thơ lớn
như Huy Cận, Xuân Diệu, Hàn Mặc Tử, Quang Dũng, v.v. Bùi Giáng đã bất ngờ dành
những trang đầu sách để viết về một bài thơ của Tuệ Sỹ. Dù bài viết chưa đầy 6
trang, nhưng ảnh hưởng rất lớn. Tất nhiên một phần cũng nhờ vào tài bình thơ
của Bùi Giáng, nên mới có ảnh hưởng lớn như vậy. Vào đề Bùi Giáng viết:"
Tuệ Sỹ là một vị sư. Ông viết văn nghiêm túc, những sở tri của ông về Phật học
quả thực quảng bác vô cùng, thấy ông vẻ người khắc khổ, không ai ngờ rằng linh
hồn kia còn ẩn một nguồn thơ thâm viễn u u." (7)
Đúng như Bùi Giáng đã viết: "Không
ai ngờ rằng" vì trước đó chỉ biết Tuệ Sỹ là một cây bút lý luận về Phật
học, đọc rất khó hiểu, có thể nói là rất khô khan nữa. Nếu ai đã từng đọc bài:
"Luận lý học trên chiều tuyệt đối" Tuệ Sỹ viết về Long Thọ và lập
trường Tánh Không Luận đăng trên tạp chí Tư Tưởng, mà sau đó nhà xuất bản An
Tiêm in thành sách vào năm 1970 đổi lại đề là "Triết học Tánh Không"
thì sẽ thấy nhận định của Bùi Giáng là hoàn toàn chính xác. Có một lần tôi than
với Tuệ Sỹ là: "Đọc triết học Tánh Không chẳng hiểu gì cả" thì anh
cười và nói đùa lại với tôi rằng: "tôi là tác giả của nó mà đọc lại còn
chưa hiểu huống gì là ông."
Xin được nhắc lại một chút kỷ niệm riêng
tư như vậy, để thấy rằng con người mà bên ngoài có vẻ như "khắc khổ"
và "khô khan" ấy, thì có ai ngờ rằng "linh hồn kia còn ẩn một
nguồn thơ thâm viễn u u."
Nguồn thơ của Tuệ Sỹ "thâm viễn u
u" chỗ nào?
Từ núi lạnh đến biển im muôn thuở Đỉnh
đá này và hạt muối đó chưa tan. Bùi Giáng chỉ cho ta thấy chỗ ấy: "tưởng
chừng nghe ra "cao cách điệu" bi hùng của một Liệp Hộ, một Nerval,
một chỗ trầm thống nhất trong cung bậc Nietzsche." (8) (Đi Vào Cõi Thơ)
Nhưng với tôi, hai câu ở cuối bài mới thực sự gây nhiều xúc động về con người
và tâm hồn u uẩn của Tuệ Sỹ:
Giờ ngó lại bốn vách tường ủ rũ
Suối nguồn xa ngược nước xuôi ngàn.
Đọc hai câu hai ấy, rồi nghĩ đến con
người đầy khí phách của anh, tôi thấy mình như có thêm sức mạnh tinh thần để
vươn lên khỏi những lô nhô lố nhố của cuộc sống đời thường. Thì ra, những thứ lợi
danh bọt bèo mà con người đang tranh giành nơi những thành phố chật chội và bụi
bặm kia, cũng chỉ quyến rũ được một số người thôi. Nhưng loại người này là ai?
Và họ làm gì? Tôi cứ nghĩ đến con ve và con chim cưu trong Nam Hoa Kinh của
Trang Tử. Khi hai con vật nhỏ bé này thấy con chim bằng cất cánh bay đến chín
muôn dặm cao, cỡi lên cả lớp gió ở dưới nó. Chừng ấy, lưng chịu trời xanh, rộng
đường xoay trở, nó bay thẳng qua Nam.
Một con ve nhỏ và một con chim cưu thấy
vậy, cười và nói với nhau: "Ta, thì quyết bay vụt lên cây du, cây phượng.
Nếu như bay không tới mà lỡ có té xuống đất thì cũng không hề gì! Bay cao chín
muôn dặm, sang Nam mà làm chi! Ta thích đến mấy cánh đồng gần gũi đây, ăn ba
miếng no bụng rồi về. Nếu ta đến chỗ xa hơn trăm dặm thì ta có lương thực ba
tháng.
Và rồi Trang Tử kết luận: "Hai con
vật đó mà biết gì? Kẻ tiểu trí làm sao theo kịp người đại trí?"
Ta có thể khẳng định được rằng, câu nói
như đinh đóng cột ấy của Trang Tử đã nuôi dưỡng sức mạnh vĩ đại cho biết bao
nhiêu thế hệ kẻ sĩ của Đông phương từ hơn hai ngàn năm nay.
Nhưng ta cũng phải thừa nhận một sự thật
phũ phàng rằng, loại ve và chim cưu này thì thời nào cũng sanh sản quá nhiều,
nên cuộc đời vẫn cứ bị vẩn đục, và kẻ trí lúc nào cũng chịu nhiều gian truân.
Nhưng đã là kẻ trí đúng nghĩa thì bao giờ cũng lấy niềm vui của thiên hạ làm
niềm vui của chính mình; khi con người vẫn còn đau khổ thì làm sao kẻ trí lại
có thể an nhiên ngồi hưởng hạnh phúc cho riêng mình được. Nhưng sự đau khổ cũng
là một nhu cầu cần thiết cho kẻ trí, vì chính sự đau khổ mới tôi luyện cho tâm
hồn họ trở thành cao rộng ra. Có lẽ cũng chính vì vậy mà ta vẫn thường thấy là
kẻ trí xưa nay vẫn say mê sông dài biển rộng, nhất là núi non hiểm trở, bởi vì
tất cả những thứ ấy đều là biểu tượng cho cái gì cao thượng mà tâm hồn họ luôn
luôn mơ ước vươn tới.
Bởi vậy, mặc dù chỉ mới biết núi Lô Sơn
qua thơ văn, sách vở, nhưng Tuệ Sỹ đã dành một chương để viết về ngọn núi hùng
vĩ này với tất cả sự đam mê: "Lô Sơn hùng vĩ, phiêu bồng, nhưng u uẩn.
Lòng núi dấu kín những tâm sự ngàn năm không nói; lòng núi ủ kín những cuộc đời
trầm mặc, những thân thể gầy khô như hạc như trúc, những tâm hồn nguội lạnh như
tro tàn mùa đông. Núi âm thầm, cho gió ngàn gào thét, cho mây trời vần vũ, và
những dòng thác từ trên tuyệt đỉnh cao mù đổ ào xuống" (9). Mặc dù núi này
chỉ là một khối đất đá vô tri vô giác, nhưng trong cách nhìn của những nghệ sĩ
tài hoa thì núi non dường như mang cả cái hồn thênh thang của vũ trụ, núi âm
thầm đứng đó như để làm chứng nhân cho những tang thương và dâu bể của cuộc
đời: "Từ thế kỷ này đến thế kỷ khác, trên dòng lịch sử trường mộng của
nhân sinh đổ ầm xuống; có những cuộc thi gan tuế nguyệt diễn ra trong lạnh
lùng, cô tịch. Ngày và đêm, đày đọa hình hài và tâm não, đứng trơ vơ, kinh đảm
hãi hùng, trên chiếc cầu độc mộc bắc ngang qua ghềnh sanh tử." (10)
Vì quá say mê núi non rừng thẳm như vậy,
nên khi vừa đặt chân đến núi rừng Vạn Giã, khi đứng nhìn những đám mây trắng
bay là đà trên các tảng đá, trên đỉnh núi cao, Tuệ Sỹ như muốn trút hết tâm sự
của chính mình cho núi rừng nghe:
Núi rừng những giấc mộng đen
Tóc em xỏa thanh xuân còn bé bỏng
Trên đỉnh đá mây trời tơ lụa mỏng
Ta làm thân nô lệ nhọc nhằn.
(Núi rừng Vạn Giã)
Thỉnh thoảng một hoặc hai tuần tôi lại
từ Nha Trang ra Vạn Giã để thăm anh. Con đường đi đến nơi anh làm rẫy quanh co
khúc khuỷu nên rất khó đi, mùa mưa lại càng khó đi hơn nữa vì đường bị trơn
trượt. Đôi khi tôi ở lại đêm với anh trong túp lều tranh do tự tay anh cất lấy.
Những lúc ở lại đêm như vậy, tôi lại càng cảm phục sức chịu đựng của anh. đêm
nơi đó chẳng có gì cả, ngoài ngọn đèn dầu leo lét trong túp lều tranh và bóng
tối mịt mù giữa núi rừng mênh mông.
Tô Đông Pha khi bị đày ở Hoàng Châu cũng
phải đi làm ruộng để kiếm sống qua ngày. Nhưng hoàn cảnh Tô Đông Pha có khá hơn
chút đỉnh, vì đọc 8 bài thơ ông tả cảnh làm ruộng của nông dân ta còn thấy ít
ra Tô Đông Pha còn có các bạn nông dân thân thiết để tâm sự hàng ngày như
"bác Phan, bác Quách, bác Cổ." Nên Tô Đông Pha mới bảo rằng: Thú đồng
quê dù cực nhọc mà tựa như nhàn." Nhưng về tâm sự thì chắc là rất giống
nhau, vì cả hai ta đều nghe ra trong thơ họ tiếng thở dài ngậm ngùi cho giấc
mộng còn dang dở. Vị nhân thích lỗi thán
Ngã lẫm hà thời cao!
mà Tuệ Sỹ đã dịch và diễn lại theo ý
mình là: "Buông cày đứng than thở, đứng bùi ngùi thở dài.thở dài cho kho
lúa đầy cao, và cũng thở dài cho trời xa và cõi mộng xa." (11)
Cách dịch và diễn ý lại như vậy chắc
chắn là để gửi gắm tâm sự của người dịch. Tâm sự đó càng rõ hơn nữa khi Tuệ Sỹ
cũng giống như Tô Đông Pha ở Hoàng Châu, nghĩa là phải đi làm rẫy, làm ruộng vì
không có con đường nào khác.
Ta muốn đi làm thuê
đời không thuê sức yếu.
Ta mộng phương trời xa
trời buồn mây nặng trĩu.
Bởi vậy, nếu không đi làm rẫy thì cũng
chẳng biết đi về đâu ? Vì mọi con đường đã bị rào kín hết rồi?
Bước đường vẫn tủi nhục
Biết mình đi về đâu?
Đọc bài "Rừng khuya bên bếp
lạnh" của Tuệ Sỹ, tôi có cảm giác như nỗi sầu của anh còn mênh mông hơn cả
những đêm dài ngất lạnh mù khơi của núi rừng Vạn Giã:
Ai biết mình tóc trắng
Vì yêu ngọn nến tàn.
Rừng khuya bên bếp lạnh
Ngồi đợi gió sang canh.
Ngồi đợi gió sang canh? Hay là ngồi nhìn
sững vào bóng đêm mịt mù để cố quên đi nỗi đau mà dân tộc đang gánh chịu:
Tôi vẫn đợi suốt đời quên sóng vỗ
Quên những người xuôi ngược Thái Bình
Dương.
Vào những lúc đất nước loạn ly, nhân dân
lầm than đau khổ, thì những người con yêu quý nhất của dân tộc vẫn thường hay
ôn lại những chặng đường vinh nhục của lịch sử dân tộc mình. Để từ đó, họ có
thể rút ra được một bài học lịch sử cho ngày mai, một ngày mai mà họ tin chắc
rằng, dân tộc họ phải sáng lạn hơn hôm nay.
Năm 1974, tôi đưa anh Lê Mạnh Thát (một
trong những nhà sử học lỗi lạc và có nhiều khám phá mới mẽ nhất của Phật giáo
Việt Nam hiện nay) về Bình Định và Phú Yên, để anh tìm tư liệu nhằm hoàn thành
bộ sử vĩ đại cho Phật giáo Việt Nam, mà những người đã đi trước anh như Trần
Văn Giáp, Mật Thể và gần đây nhất là Giáo Sư Nguyễn Lang vẫn chưa có đủ điều
kiện để làm được.
Trong chuyến đi ấy, tôi được anh kể cho
tôi nghe lý do vì sao đã khiến anh đam mê lịch sử Việt Nam và nhất là lịch sử
Phật giáo Việt Nam. Lê Mạnh Thát kể rằng, khi đang theo học tiến sĩ triết lý
tại đại học Wisconsin ở Hoa Kỳ vào những năm 1966 đến 1972, tức là những năm mà
Mỹ đã ném bom dữ dội nhất xuống miền Bắc và các chiến khu ở miền Nam Việt Nam,
thì cứ đêm đến là các sinh viên thuộc các nước Đông Dương lại tụ tập trước
truyền hình nhìn sững vào những cảnh tượng khủng khiếp đang diễn ra với hai tay
chắp trước ngực và nước mắt chảy ràn rụa.
Từ đó, Lê Mạnh Thát cứ băn khoăn tại sao
dân tộc mình lại cứ đau khổ triền miên như vậy ? Và sức mạnh nào đã khiến cho
dân tộc Việt Nam đủ sức đứng vững trước những tàn phá khủng khiếp như vậy?
Chính những băn khoăn thắc mắc ấy đã khiến anh đam mê bộ môn lịch sử và Lê Mạnh
Thát tin chắc rằng, sức mạnh kỳ lạ ấy của dân tộc có thể tìm lại được nơi các
ngôi chùa xưa nằm rải rác ở các miệt miền quê nghèo khổ ở quê nhà. Thế là khi
từ Mỹ trở về Việt Nam vào cuối năm 1973, anh đã lao ngay vào công việc với tất
cả hăng say, chỉ trong khoảng có 10 năm thôi, mặc dù hoàn cảnh đất nước còn quá
nhiều khó khăn, vậy mà những khám phá mới mẻ của anh đã làm các nhà sử học Việt
Nam phải kính nể.
Và tôi cũng nghĩ rằng, chính vì quá đam
mê lịch sử Việt Nam, và Phật giáo Việt Nam mà Lê Mạnh Thát đã phải cam chịu số
phận với vận nước nổi trôi từ hơn hai thập niên qua.
Vào những đêm khuya khoắt nơi núi rừng
Vạn Giã cheo leo, Tuệ Sỹ cũng từng ngồi nhớ lại cuộc hành trình dựng nước đầy
gian lao khổ nhọc của tiền nhân bằng những câu thơ heo hút:
Tôi vẫn đợi những đêm đen lặng gió
màu đen huyền ánh mắt tự ngàn xưa.
Nhìn hun hút cho dài thêm lịch sử
dài con sông máu lệ quê cha.
Chính sự gian khổ của tiền nhân sẽ hun
đúc ý chí cho những thế hệ đi sau. Họ tin tưởng một cách mãnh liệt vào sức mạnh
truyền thống đã có tự bao đời của dân tộc. Chính từ sức mạnh quá khứ đó, họ có
quyền mơ ước về một ngày mai tươi sáng cho dân tộc:
Mười năm sau anh băng rừng vượt suối
trên vai gầy từ thuở dựng quê hương.
Anh cúi xuống nghe núi rừng hợp tấu
bản tình ca vô tận của Đông phương.
Nhưng không phải lúc nào tâm hồn của Tuệ
Sỹ cũng nặng trĩu ưu phiền, mà vẫn có những trường hợp ngoại lệ. Đó là vào một
buổi sáng đẹp trời khi thi nhân đứng nhìn những giọt nắng mai đọng lại trên
những bông cà màu tím. Cứ như lời trong bài thơ, thì ta có thể đoán được rằng
giây phút đó, thi nhân dường như tạm quên hết nỗi phiền muộn nhọc nhằn hằng
ngày, lòng bỗng rộn lên niềm yêu đời khi thi nhân biết rằng, nơi những chân
trời xa xôi kia, sự sống vẫn tiếp tục và nắng mai vẫn đẹp như tự bao giờ:
Lận đận năm chồng nữa
Sanh nhai ngọn gió nồm.
Hàng cà phơi nắng lụa
Ngần ngại tiếng tha phương
Mặc dù vậy, hai tiếng "ngần
ngại" vẫn gợi cho ta xót xa biết chừng nào!
Nhưng không hề gì, vì Tuệ Sỹ đã từng
viết như thế này: "Đất đó đọa đày thân xác mà không đọa đày viễn mộng; quê
hương ân tình thắm thiết kia mới thực là đọa đày viễn mộng." (11)
Câu trên Tuệ Sỹ đã viết cho Tô Đông Pha,
nhưng thực ra cũng là viết cho chính mình nữa.
3. Nhà Phật học của hai truyền thống:
Chúng ta phải học Phật như thế nào ? nghĩa là học cách nào để không bị nô lệ
vào chữ nghĩa mà vì vô tình hoặc cố ý phủ nhận cái thực tại sinh động mà tinh
thần Phật giáo Bắc Tông đã tác động một cách triệt để trên mọi lãnh vực tư
tưởng, thi ca, hội họa và đặc biệt là đời sống tâm linh của các nước thuộc khu vực
viễn Đông trong đó có cả truyền thống của Phật giáo Việt Nam chúng ta nữa?
Chẳng hạn, tại Việt Nam hiện nay có một
số người đọc được vài câu kinh pháp cú, vài quyển thuộc kinh tạng Pali bằng
tiếng Việt đã vội vã phủ nhận cái quá khứ của chính họ, họ cho rằng những kinh
như Di Đà, Lăng Nghiêm, Đại bi thập chú, Mông sơn thí thực không phải là
"nguyên thủy", không phải là "nguyên thủy" theo họ có nghĩa
là của ngoại đạo. Nhưng họ đã quên mất rằng, ngày xưa các bậc Tổ Sư của họ đâu
có viết kinh pháp cú treo trên vách tường nhiều như bây giờ, mà nếu có treo thì
cũng chỉ treo các bài kệ trong Kinh Hoa Nghiêm, Pháp Hoa, Kim Cang, Kệ của Lục
Tổ, Thần Tú, hoặc các thi kệ của Thiền Sư dặn dò đệ tử trước giờ thị tịch. Vậy
mà tổ tiên của ta vẫn dư sức mạnh để dựng nước và giữ nước, và chính cái tinh
thần của Bắc Tông ấy đã tạo ra được hai triều Lý Trần, hai triều đại được các
sử gia ở mọi phía đều phải công nhận là văn minh rực rỡ nhất trong lịch sử của
dân tộc ta, và cho đến ngày hôm nay vẫn còn hãnh diện, và vẫn xem đó là hành
trang tinh thần đưa dân tộc cùng với nhân loại tiến vào thế kỷ 21.
Việc Hà Nội đang ráo riết chuẩn bị chào
đón một ngàn năm Thăng Long (trong đó có công trình xây dựng tượng đài Lý Công
Uẩn, học trò của Thiền Sư Vạn Hạnh) chứng tỏ họ đã thức rất rõ tầm mức quan
trọng của Phật giáo Lý Trần trong việc xây dựng và phát triển đất nước trong
thế kỷ tới.
Đạo Phật có lẽ là Tôn giáo duy nhất chủ
trương tự do tư tưởng. Bởi vậy Phật giáo cũng triệt để tôn trọng tự do tư tưởng
của kẻ khác. Nhưng tự do ở đây có nghĩa là tự do lựa chọn bất cứ pháp môn nào,
lý tưởng nào mà mình ưa thích, chứ không phải tự do xúc phạm đến lý tưởng mà
người khác đang theo đuổi, nhất là lý tưởng đó đã tồn tại và nuôi dưỡng tâm
thức dân tộc Việt từ gần hai ngàn năm nay.
Nhưng tôi nhận thấy rằng, những nhà Phật
học nguyên thủy của Phật giáo Việt Nam hiện nay chỉ thích kinh tạng nguyên thủy
trên lý thuyết thôi chứ họ không thực hành những gì mà Đức Phật đã thuyết giảng
trong tạng nguyên thủy. Ví dụ đọc kinh Phạm võng trong trường Bộ Kinh, ta thấy
Đức Phật đã khuyên dạy các đệ tử của Ngài :không nên giao du và thân cận với
giới quyền thế, vậy mà hiện thời chẳng những họ giao du và thân cận không thôi,
mà còn chính thức đứng hẳn về một phía với giới quyền thế nữa. Thế nhưng mỗi
khi bị chất vấn thì họ lại tự bào chữa rằng, Đạo Phật "tùy duyên"
nhưng "bất biến".
Nhưng những thói hư tật xấu này dường
như thời nào cũng có, chứ không phải chỉ có thời nay. Tô Đông Pha cũng đã từng
lên tiếng chỉ trích phong trào học Thiền của Phật giáo Trung Quốc. Lời chỉ
trích ấy được khắc và in trong trong Kinh Lăng Già (như là lời bạt), được Tuệ
Sỹ dịch như sau: ".chỉ lấy theo chỗ giản tiện, được một câu kinh, một bài
kệ, tự cho là liễu chứng. Cho nên cả bọn đàn bà, con nít, dang tay cười giỡn,
đua nhau bàn bạc hương vị Thiền. Kẻ cao thì vì danh, kẻ thấp thì vì lợi. Cái dư
ba mạt lưu đó không đâu không chảy tới. Mà cái vi diệu của Phật pháp đã mất
rồi. Chẳng khác nào thầy Lang quê mùa. (may mà chữa lành bệnh nhẹ)" (12)
Là một nhà nghiên cứu Phật học nổi tiếng
là uyên bác và nghiêm túc, tất nhiên Tuệ Sỹ cũng đã từng băn khoăn về vấn đề
này, nghĩa là chúng ta phải học Phật như thế nào để đừng rơi vào hoặc là học để
khoe khoang kiến thức của mình, hoặc là học để kiếm danh kiếm lợi. Trong lời
giới thiệu cho bản dịch "Vô Môn quan", mặc dù bài viết chỉ giới hạn
trong việc học Thiền, nhưng qua bài viết ta vẫn thấy được nỗi băn khoăn ấy của
Tuệ Sỹ đối với việc học Thiền nói riêng và học Phật nói chung.
"Một thời xa xưa tại pháp đường của
các Thiền viện, người ta nghe sang sảng những tiếng cười và tiếng thét. Bao
nhiêu lời lẽ luận bàn khúc chiết được gởi trả về cho dải sa mạc trên miền Cao
Á, nơi đã từng ghi dấu cuộc hành trình khổ nhọc của những tâm hồn khát khao
tuyệt đối. Nơi đây sa mạc vẫn cứ thiên thu cô tịch trong cơn gió bức bách của
hư vô. Lẽ sông và lẽ chết vẫn mãi mãi bồng bềnh trên hư ảo. Tâm hồn miệt mài
nóng cháy, nhưng không cháy tan nổi những giấc mộng hãi hùng của hư vô và hủy
diệt. Rồi một mai kia, khi thời cơ đến, tiếng cười và thét trỗi lên làm đảo lộn
cả nếp sống bình sinh." (13)
Những con người của thời xưa ấy, dám vứt
bỏ tất cả để thực hiện cho kỳ được nỗi khát khao tuyệt đối cho đời mình. Nhưng
ngày nay, nền văn minh hiện đại đã cung cấp cho chúng ta nhiều thú vui thấp hèn
quá, nên dường như tâm hồn của chúng ta đã nguội lạnh, chẳng bao giờ, dù chỉ
trong một khoảnh khắc, ta có thể nghe lại được tiếng réo gọi tuyệt đối ấy từ
trong nội tâm sâu thẳm của mình:
"Cuộc sống bình thường của chúng ta
chẳng mấy khi nghe được những tiếng ấy trong cơn sửng sốt bàng hoàng; để cho
trong thiên tải nhất thì, một lần chết đi và một lần sống lại trước sự thực
ngàn đời, những khát khao nồng nhiệt cứ vĩnh viễn mỏi mòn, tâm trí càng lúc
càng bất động như sỏi đá. Biết bao thành kiến dần dần đọng lại thành lớp vỏ
cứng của bản ngã, không cách gì phá nổi." (14)
Và Tuệ Sỹ cho rằng những câu hỏi như thế
này chẳng có nghĩa gì trong việc học Thiền cũng như học Phật. Phải đến với
Thiền như thế nào? Chúng ta quen hỏi như vậy. Bởi vì đời sống đang chìm đắm
trong bùn lầy hôi thối của những cảm thức phù phiếm; chúng ta như những con
sâu, triền miên ngủ suốt một mùa đông băng giá. Ngôn ngữ Thiền, dù là sấm chớp
hãi hùng trong tai ta, chẳng qua chỉ là "ve sầu kêu ve ve suốt mùa hè nóng
bức." (15)
Vậy cho nên vấn đề không phải là cứ thắc
mắc phải đến với Thiền như thế nào hoặc phải học Thiền theo phương pháp nào mà
điều quan trọng là chúng ta có đến với Thiền, với giáo pháp của Đức Phật bằng
tất cả sự khát khao của một kẻ đang thèm khát tuyệt đối hay không ? Những lời
sau đây có thể được xem như là lời cầu mong của Tuệ Sỹ muốn gửi đến cho những
người học Thiền và học Phật hôm nay: "Làm sao chúng ta có thể góp tất cả
gió bốn phương trời mà dộng vào đôi cánh cửa của quan ải Thiền? Có lẽ, cũng nên
một lần, với đói khát với nóng lạnh, nghênh ngang bước vào giữa những tiếng
cười rổn rảng, băng qua biên giới không ngằn của sa mạc. Rồi sẽ thấy như người
xưa từng nói, Thiền là một quan ải hiểm nghèo, thách thức bước tiến của tâm
linh. Vậy đã nhất quyết bước tới, thì phải tìm cho đến tận nguồn của đời sống."
(16)
Và đây cũng là một đồng thanh tương ứng:
"Mình phải đọc tụng kinh phật với tất cả tinh thần khẩn trương của một kẻ
bị xử tử hình đang quỳ lạy trong xà lim tối đen, đang lắng nghe sự im lặng
trườn mình qua sự chết sắp đến.
Mình cũng có thể học Phật như người đã
bị tước đoạt mất hết tất cả trong đời sống, và bỗng nhiên bất thần lại được tìm
thấy một kho tàng trân bảo vô lượng trước mặt mình, niềm vui sướng vô tận, cơn
khoái lạc tràn trề ngập cả thể xác lẫn tinh thần mà trọn đời người chưa bao giờ
có được. Cảm thức phi thường như vậy." (17)
Nếu chúng ta không chịu học Phật trong
một tinh thần khẩn trương như vậy, mà cứ đem cái đầu óc nô lệ từ chương sách vở
ra để tự khẳng định một cách võ đoán rằng, kinh này mới là "nguyên
thủy" còn kinh kia là "không phải." thì không những ta đã đánh
mất tinh thần sáng tạo của Đạo Phật, mà còn vô tình trở thành "đàn bà ngồi
lê đôi mách" trong thế giới những người học Phật nữa.
Và phải chăng việc người Tây phương đang
hướng về những giáo lý của Đức Phật đã được bảo trì từ rất lâu trên những đỉnh
núi tuyết cô tịch của Tây Tạng, thì việc tranh luận về "nguyên thủy"
hay "không nguyên thủy" đã thực sự không còn cần thiết nữa? Và đã đến
lúc các nhà Phật học theo truyền thống nguyên thủy tại Việt Nam nên ý thức
rằng, hai truyền thống Bắc Tông và Nam Tông đều cần thiết và phải được bổ túc
lẫn nhau trong đời sống tu học của Phật tử Việt Nam vậy.
Nếu ai đã từng theo dõi tất cả những bài
viết của Tuệ Sỹ về Phật học từ gần ba thập niên qua, thì phải công nhận rằng
Tuệ Sỹ là một trong những nhà Phật Học đã thể hiện tinh thần ấy một cách nghiêm
túc nhất.
4. Thiền Sư và thi nhân hay là sự giằng
co giữa hai con đường:
Phạm Thiên Thư có lẽ là nhà thơ có nhiều
thơ nhất đề cập đến các Thiền Sư. Những câu thơ trong sáng và giản dị như những
câu ca dao mà ta vẫn thường ngâm nga trên những con đường quê từ thuở còn ấu
thơ. Những câu thơ đẹp lạ lùng như:
Mùa xuân mặc lá trên ngàn
Mùa thu mặc chú bướm vàng tương tư
Động Nam Hoa có Thiền Sư
Đổi kinh lấy rượu tâm hư uống tràn.
(Động Hoa Vàng)
Hay là:
Sư lên chót đỉnh rừng thiền
trong tim chợt thắp một rừng tà dương
(Động Hoa Vàng)
Sở dĩ được như vậy là vì Phạm Thiên Thư
đã từng một thời khoác áo Thiền gia. Nhưng chính nhờ mang trong mình hai dòng
máu cao quý này, nên Phạm Thiên Thư đã hiểu rất rõ sự mâu thuẫn hay nói đúng
hơn là sự giằng co trong nội tâm giữa con đường đi lên và đi xuống của Thiền Sư
và thi nhân. Hoặc là ở lại với cái đẹp phù du nơi cuộc đời hữu hạn hay là phải
vứt bỏ tất cả để lên đường tìm kiếm cái đẹp vô hạn kia. Nhưng dường như cái đẹp
nào cũng cần thiết cả, vì nếu chúng ta không thấy được cái đẹp trong cõi thế
hữu hạn này, thì sẽ chẳng bao giờ ta thấy được giá trị của cái đẹp thiên thu
vĩnh cửu cả.
Phạm Thiên Thư đã nói lên sự giằng co
này trong bốn câu thơ:
Xuống non nhớ suối hoa rừng
Vào non nhớ kẻ lưng chừng phố mây
Về thành nhớ cánh chim bay
Xa thành thương vóc em gầy rạc hoa
(Động Hoa Vàng)
Tuy vậy, tôi nghĩ rằng những câu thơ của
Phạm Thiên Thư cũng chỉ mới cho ta thấy vẻ đẹp của một Thiền Sư đang hồn nhiên
chơi đùa với đất trời mênh mông, chứ chưa dẫn ta vào được bên trong. Cái đẹp
bên trong đó chỉ có Tuệ Sỹ mới dẫn ta vào được bằng những trang văn súc tích.
Ví dụ đoạn sau đây anh viết về tình bạn thắm giữa Thiền Sư và thi hào Tô Đông
Pha:
"Bế môn tọa huyết nhất Thiền Sáp
đầu thương tuế nguyệt không tranh
vanh"
(Khép cửa hang sâu một giường Thiền
trên đầu năm tháng trôi chênh vênh)
"Năm tháng là tuổi già, là mùa thu
và tóc trắng, là những hoài vọng xa xôi của nhà thơ. Hoài vọng đó là hình ảnh
hiu hắt khép kín cửa trong hang sâu giữa núi rừng xa vắng, và thầm lặng trôi
qua trên đầu nhà thơ cô quạnh. Cho nên, tấm lòng của sư như mặt nước trong
ngần, bao nhiêu chìm nổi thiên hình vạn trạng của cõi đời đều hiện rõ trong
đó." (18)
Tại sao trong truyền thống thi ca Viễn
Đông, Trung Quốc, Việt Nam, Nhật Bản, v.v... Thiền Sư và thi nhân đi đôi với
nhau như hình với bóng? Không thể biết được ta chỉ có thể cả hai đều như đứng
đó để trông ngóng một mùa thu cô tịch đang đến chậm ở cuối chân trời xa kia
chăng?
"Rồi khi Sư thả bộ rong chơi, màu
áo còn pha màu sương khói của núi rừng. Sư mang cái tình đạo đó kết duyên cái
tình thơ của khách thơ, như ngọn gió mùa thu thổi những phương trời viễn mộng
đến làng thơ, thì tình thơ bỗng ngọt ngào như cam quít đang mùa chín đỏ; một
thứ ngọt ngào trầm lặng:
Gió thu đưa mộng qua Hoài Thủy
Này cam nọ quít rũ sân buồn
(Thu phong xuy mộng quá Hoài Thủy Tưởng
kiến quật sữu Thùy không đình)"
Khách làng thơ lại muốn bỏ qua những
ngày bươn bả, để cùng Sư, trong những đêm dài xa xôi, đốt củi nấu trà, ngoài bóng
trăng nghiêng xuống đáy cốc. Tình thơ sống động, nhưng xa xôi và đơn bạc:
Tấm lòng nhà đạo như nước phẳng
Rọi bóng chìm nổi của cõi đời
Chùa xưa lẻ bóng trồng thu cúc
Bạn với làng thơ thưởng chút tài
Cõi nhân gian có chia đường Nam nẻo Bắc
Mà cánh hồng cánh nhạn vẫn đơn độc lẻ
loi.
(Đạo nhân hung tung thủy kính thanh
vạn tượng khởi diệt vô đào hình
độc y cổ tự chủng thu cúc
Yến bạn tao nhân xan lạc anh
Nhân gian đề xứ hữu Nam Bắc
Phân phân hồng nhạn hà tằng minh).
Đó là chỗ giống nhau. Còn khác nhau?
Chắc chắn phải có khác, nhưng chỗ khác nhau đó nó mỏng manh quá, mỏng manh hơn
cả tơ trời nữa, người ngoài hư chúng ta khó thấy được, chỉ có những người trong
cuộc may ra có thể chỉ cho ta thấy được chăng? Tuệ Sỹ cũng đã dựa vào một bài
thơ của Tô Đông Pha, bài thơ này ông làm đề tặng cho Thiền Sư Đạo Tiềm, một
người bạn chí thiết của ông, để giải thích chỗ giống và khác nhau giữa Thiền và
thi ca:
"Thượng nhân học về cái lẽ khổ
không; một trăm thứ niệm tưởng đã là tro lạnh hết. Cũng tợ thể vung lưỡi kiếm
một cái là y như gió thổi chẻ hạt thóc lép không còn chút bụi cám. Tại sao ngài
lại phải chọn theo bạn tôi, tranh đua vẻ đẹp rực rỡ của văn tự? Bài thơ bọn tôi
vừa làm, nó đẹp như tán vụn viên ngọc lánh lánh.
Tuy nhiên, suy nghĩ kỹ thì không phải thế,
cái ảo diệu không phải là cái ảo ảnh. Muốn cho lời thơ tuyệt diệu, thì phải là
đừng gò ép, vừa không vừa tĩnh. Tĩnh cho nên thâu tóm hết mọi vọng động, không
cho nên bao hàm vạn cảnh. Ngắm nhìn sự đời, bôn ba giữa đời, mà như thấy mình
nằm trên chóp đỉnh non cao. Đủ hết các thứ mặn nồng, chua chát; trong đó có cái
hương vị tuyệt vời.
Thơ và pháp (Đạo) không chống trái nhau,
không hại nhau. Cái đó nhờ Thượng nhân hạ quyết?
Nhờ hạ quyết? Không nhờ, cũng đã hạ
quyết. Người học thiền, học từ cái khổ đau, hư ảo, học cho thâm tâm thành ra
thứ tro tàn nguội lạnh. Học như thế là học để đọa đày. Đạt được sở học đó là
buông thả, hóa thành cái không và trở thành cái tĩnh. Buông thả thì không câu
chấp, không còn bị ràng buộc cũng tiêu dao như hồn thơ tiêu sái và lãng mạn.
Tâm tĩnh, thì trầm lặng như mặt nước không gợn sóng, phản chiếu trọn vẹn ngoại
cảnh. Tâm không, thì tâm rộng như mặt biển bao la, dung nạp hết tất cả ngân hà
tinh đẩu. Người học Thiền chịu đọa đày cho thân mình gầy, cho tâm mình nguội,
trong đó có cái diệu dụng phi thường của nó. Người làm thơ cuộc đời bị đày ải
truân chiên, trong đó cũng có cái ảo diệu của vị chua, vị mặn, suốt đời học
Thiền, suốt đời vẫn đày đọa thâm tâm; đày đọa trong cái không và cái tĩnh. Đày
đọa đó mà kỳ thực không là đày đọa. Cũng vậy, suốt đời làm thơ, thì suốt đời
khổ lụy lao đao. Chỗ ảo diệu đó, chưa đạt đến cõi thượng thừa của thi ca, làm
sao hiểu nổi?
Đạt tới cõi thượng thừa của thơ, như
người học Thiền chứng chỗ không tịch của Đạo; cái đó vừa khó vừa dễ. Học Thiền
ba mươi năm, ba mươi năm đày đọa thâm tâm, mà không thành. Phẫn chí, bỏ đi, bất
chợt thấy một cánh hoa rơi, cõi không tịch cũng hốt nhiên, đột ngột mở ra chỗ
ảo diệu đó, không giảng cho thông cho nên không thể nào lấy tay chỉ thẳng vào
cõi thơ, rồi bảo đấy là chân diện mục của nó.
Đại khái nơi cõi Thiền cũng có cái phân
biệt chân và ngụy. Cõi thơ há lại không? Nhưng chỉ thẳng vào đó, không thể
được. Nó không phải là chỗ dị đồng giữa con chó và con cọp, hay giữa cọp thực
và cọp giấy.
Quả nhiên, điều thấy rõ là ông (chỉ Tô
Đông Pha) đã giảng giải thế nào là thơ và thế nào là Thiền. Và cũng thấy rõ là
trong đó có chỗ giống và chỗ dị. Nhưng chỉ thẳng vào chỗ đó, thiên nan vạn
nan". (19)
Nếu chưa từng lăn lóc với cát bụi của
trần gian, chưa từng trải qua những giờ phút lê thê heo hút của chính mình,
chưa từng bị đày đọa bởi tình yêu con người, thì làm sao (tác giả bài thơ và
người bình thơ) có thể thốt ra những lời nóng bỏng như vậy?
5. Kẻ sĩ trong truyền thống Đông Phương:
Rồi trước mắt ngục tù thân bé bỏng
Ngón tay nào gõ nhịp xuống tường rêu
Tuệ Sỹ làm hai câu thơ trên khi đang làm
rẫy tại núi rừng Vạn Giã, nghĩa là vào khoảng cuối năm 1977, những năm tháng mà
cả đất nước đang chịu đựng nhiều đau khổ nhất. Là một người trí thức (tất nhiên
phải là trí thức có liêm sĩ) Tuệ Sỹ đã ý thức được rằng, mình không thể nào
đứng ngoài để nhìn sự đau khổ chung này được. Hai câu thơ trên chứng tỏ anh đã
đoán được những gì sẽ xảy ra cho bản thân mình, và điều tiên đoán đó đã đúng.
Có một số người (không nhiều lắm) cho
rằng, đáng lý ra Tuệ Sỹ nên để thời gian mà làm chuyện chuyên môn của anh, như
sáng tác văn học, thi ca hay dịch thuật thay vì bỏ phí hơn 20 năm để làm những
chuyện không có lợi gì cho bản thân. Tôi cho rằng, lập luận trên hoàn toàn
không đúng, mà thực ra những kẻ lập luận như vậy chỉ để bảo vệ cái hèn yếu của
chính họ mà thôi.
Ta nên xếp Tuệ Sỹ đứng ở nơi nào trong
những năm đất nước có nhiều biến động ở cuối thể kỷ 20 này?
Không hiểu sao, cứ mỗi lần đọc lời kết
luận sau đây của Nguyễn Hiến Lê cho tác phẩm "Sử Trung Quốc", tác
phẩm cuối cùng của ông, tôi lại thấy có hình bóng của Tuệ Sỹ trong đó.
"Đọc sử thời quân chủ của Trung
Hoa, tôi buồn cho dân tộc đó thông minh, giỏi tổ chức mà không diệt được cái
họa ngoại thích và hoạn quan gây biết bao thống khổ cho dân chúng đời này qua
đời khác. Nhưng tôi cũng trọng họ, mến họ vì triều đại nào cũng có hàng ngàn
hàng vạn người coi cái chết nhẹ như lông hồng, tuẫn tiết vì nước chứ không chịu
nhục, vì những triều đại "vô đạo" thì vô số kẻ sĩ coi công danh phú
quý như dép cỏ, kiếm nơi non xanh nước biếc dắt vợ con theo, cày lấy ruộng mà
ăn, đào lấy giếng mà uống, sống một đời thanh khiết, làm thơ, vẽ, hoặc trước
tác về triết, sử, tuồng, tiểu thuyết để lưu lại hậu thế. Đọc đời các vị đó tôi
luôn luôn thấy tâm hồn nhẹ nhàng. Chưa có bộ sử nào của Tây phương cho tôi được
cảm tưởng đó." (20)
Tuệ Sỹ chính là kẻ sĩ trong truyền thống
của Đông phương, hơn hai mươi năm qua, Tuệ Sỹ đã thể hiện tinh thần "uy vũ
bất năng khuất" của kẻ sĩ không phải bằng những tác phẩm qua văn tự, mà
anh đã viết tác phẩm đó bằng sự hy sinh quên mình, để chia xẻ sự đau khổ với
quê hương đất nước vậy.
8/1/2017
Phước An
Theo http://www.chuyencafebuoisang.com/
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét