Triết lý "Tài mệnh tương đố"
trong sáng tác của Nguyễn Du
MỞ ĐẦUNguyễn Du được các thế hệ sau nhắc đến
với những sáng tác bất hủ, ông sáng tác bằng cả chữ Hán và chữ Nôm. Với chữ Hán
chúng ta biết đến Thanh Hiên thi tập (khoảng 78 bài) Bắc hành tạp
lục, Nam trung tạp ngâm, với chữ Nôm là Truyện Kiều, Văn chiêu hồn…Người Trung Quốc vẫn nhắc nhỏm
nhau “Bất học thi vô dĩ ngôn” để gìn giữ vẻ đẹp vốn có của ngôn ngữ
dân tộc, còn với người Việt chúng ta thì không biết đến Kiều thì như chưa biết
đến tiếng Việt vậy. Nói như nhà thơ Chế Lan Viên:"Khi Nguyễn Trãi làm thơ và đánh
giặcNguyễn Du viết Kiều đất nước hóa thành
văn"Nguyễn Du đã từng trở trăn “bất tri
tam bách dư niên hậu, thiên hạ hà nhân khấp Tố Như” đã hơn hai thế kỷ trôi
qua, Truyện Kiều như một tháp ngà tồn tại trong lòng văn hóa dân tộc,
như một giọt lệ cho đời mà Tố Như để lại cho đời. Truyện Kiều chính
là minh chứng cho nét đẹp của dân tộc ta, thế nên “Truyện Kiều còn
thì tiếng Việt còn”.Đã bao giấy mực của các học giả đổ ra để
mong có thể khám phá được hết cái hay cái đẹp của tác phẩm này, nhưng quả như…
nói “càng đi sâu càng lạnh”, càng đi sâu mới càng thấy được vẻ đẹp ẩn tàng
trong mỗi hình ảnh, mỗi câu chữ của Nguyễn. Từ khía cạnh tư tưởng văn hóa,
thông qua việc khảo sát ngữ liệu từ tác phẩm chúng tôi muốn soi chiếu để khám
phá, giải thích được phần nào nét đẹp của hồn dân tộc trong tác phẩm trứ danh
này. Tài năng của Nguyễn Du chính là sự nhào nặn của thời đại, của tài năng
thiên bẩm.NỘI DUNG1. Cơ sở hình thành tư tưởng “Tài mệnh
tương đố”, “Hồng nhan bạc phận”1.1. Điều kiện lịch sử - xã hộiNguyễn Du sinh ra, sống và trưởng thành
khi giai cấp phong kiến đã bắt đầu bước dần đến con đường khủng hoảng và suy
tàn cực độ. Biểu hiện của sự suy tàn này không chỉ ở trên diện rộng với sự suy
yếu vai trò thống trị của giai cấp phong kiến. Bối cảnh xã hội với nhiều
biến động dữ dội rồi nhiều sự kiện lịch sử trọng đại, lớn lao trên chính là cơ
sở sâu xa làm xuất hiện những quan niệm mới về nhân sinh về xã hội và con người
trong đó có trào lưu nhân đạo chủ nghĩa với tưtưởng chống đối các thế lực
phong kiến chà đạp con người với sự đề cao con người, đề cao cuộc sống trần
tục và đòi giải phóng tình cảm con người.Đó là khoảng thời gian vừa đau thương,
nhưng cũng vừa quật khởi, vừa là bi kịch nhưng cũng vừa là bản anh hùng ca. Tuy
nhiên màu sắc chung cho cả giai đoạn này vẫn là một màu tối đen, xám xịt. Không
chỉ có hàng loạt các cuộc khởi nghĩa nông dân nổ ra trên khắp đất nước mà
còn biểu hiện ngay trong chính bản thân dòng họ Nguyễn - Tiên Điền. Từ ông tổ
đời thứ 7 dòng họ này, tuy vẫn có nhiều những bậc anh tài nổi tiếng nhưng gia
huynh và uy lực đã suy sút, khi Thượng thư Nguyễn Khản thất thế cũng là khi kết
thúc một thời kì thịnh vượng của dòng họ Nguyễn - Tiên Điền. Năm 1789, khi
Quang Trung tiến quân ra Bắc đánh tan 20 vạn quân Thanh, Lê Chiêu Thống cùng đám
quan lại tùy tùng bỏ nước chạy theo tàn quân của bọn xâm lược. Ba anh em cùng
mẹ với Nguyễn Du là Nguyễn Đề, Nguyễn Du, Nguyễn Ức chạy theo Lê
Chiêu Thống không kịp. Nguyễn Du từ giã Nguyễn Đề, Nguyễn Ức trở về quê vợ ở xã
Hải An, huyện Quỳnh Cối, tỉnh Thái Bình. Nguyễn Du đã thực sự bị đẩy ra cuộc
đời gió bão và phải đến 10 năm sau, ông mới thoát khỏi cuộc đời ấy. Trải qua10
năm gió bụi của cuộc đời, Nguyễn Du đã lưu lạc qua nhiều nơi: Thái Bình - quê
vợ, về Hà Tĩnh - quê cha, xuôi vào Gia Định theo Nguyễn Ánh nhưng chưa kịp ra
khỏi địa phận Nghệ An đã bị giam giữ.Điều này đã giúp Nguyễn Du có thêm vốn
sống và bổ sung vốn văn hóa, gia tăng tính hiện thực trong các sáng tác của
ông. Có thể thấy con người Nguyễn là một sự tích hợp hoàn hảo để tạo nên một
lối tư duy nghệ thuật sắc sảo và tinh tế. Không chỉ trong đề tài, tư tưởng sáng
tác, thi liệu sáng tác, mà ngay trong cách lựa chọn và sử dụng ngôn từ, lối tầm
chương trích cú cũng mang đậm dấu ấn Nguyễn Du. Nên trong thơ ông, ta không chỉ
thấy những giá trị về mặt ngữ nghĩa mà giá trị thẩm mỹ cũng nổi bật tạo ra chất
nhạc trong những bức họa ngôn từ của thi nhân, thế nên nếu nói thơ Nguyễn là sự
hài hòa của thi - nhạc - họa quả không ngoa chút nào.Thơ chữ Hán, Văn chiêu hồn, Truyện
Kiều là sự đúc kết tinh hoa văn hóa dân gian, và văn hóa bác học, là sự
hòa quyện giữ bác học và đời thường, giữa cái tinh tế và bình dân.1.2. Cuộc đời Nguyễn DuCuộc đời Nguyễn Du nổi bật hơn hết vẫn
là những trang buồn của một con người tài hoa lại có thừa bất hạnh.Ông đã hòa vào dòng người nghèo khổ,
đáng thương, chỉ vì thấp cổ bé họng mà phải gánh chịu biết bao nhiêu điều bất
công, ngang trái của cuộc đời.Ông thấu hiểu được nỗi niềm không biết
ngỏ cùng ai của người phụ nữ trong xã hội phong kiến, khi mà giá trị của họ chỉ
đáng giá như món đồ chơi trong tay người đàn ông. Chứng kiến nhiều hơn những
cảnh con người càng tài hoa, nhan sắc thì càng truân chuyên, bất hạnh.Nguyễn Du (1765-1820) tự là Tố Như, hiệu
là Thanh Hiên, biệt hiệu Hồng Sơn lạp hộ, thân sinh ông là Hoàng
giáp Nguyễn Nghiễm (1708-1775)tự Hy Di, tôn húy Thiều,
hiệu Nghi Hiên, biệt hiệu Hồng Ngư cư sĩ, làm quan Tham tụng
dưới triều vua Lê chúa Trịnh. Thân mẫu Nguyễn Du là bà Trần Thị Tần quê ở Kinh
Bắc. Con người Nguyễn Du tài hoa là thế, tinh tế là thế, chất tài hoa trong con
người Nguyễn vốn là sự hòa trộn của ba mạch nguồn tinh hoa: xứ Nghệ, Thăng
Long và Kinh Bắc.Không những thế Nguyễn Du còn được sinh
ra và lớn lên trong một dòng họ vốn có truyền thống về học thuật. Dòng
họ Nguyễn - Tiên Điền 阮 - 先田đến nay vẫn nổi danh với đôi câu ca lưu truyền:“Bao giờ Ngàn Hống hết câySông Rum hết nước, họ này hết quan”. Ông nội Nguyễn Du, cụ Nguyễn Quýnh
- một Nho chuyên nghiên cứu Kinh Dịch. Nguyễn Nghiễm - vừa là sử gia vừa
là nhà thơ. Nguyễn Khản - người anh cả của Nguyễn Du, là một người giỏi thơ
Nôm, thường làm thơ đối đáp với chúa Trịnh Sâm. Nguyễn Khản cũng chính là một
trong những người dịch Chinh phụ ngâm của Đặng Trần Côn ra tiếng
Việt… Dòng họ Nguyễn - Tiên Điền còn đóng vai trò trụ
cột trong những tác giả, tác phẩm tiêu biểu như: Nam Dương lập
yếu kinh nguyên của Nguyễn Nhiệm, Đại hiểu chân kinh, Từ Âu chân thuyền,
Dịch kinh huyết nghị của Nguyễn Quỳnh; Xuân trung liên vịnh,
Xuân đình tập vinh, Việt sử bị lãm, Lạng Sơn thành đô chí, Cổ lễ nhạc chương
thi văn tập, Khổng Tử mộng Chu Công của Nguyễn Nghiễm…Từ nhỏ ông đã được tiếp xúc với môi
trường văn chương cử tử của của Khổng sân đã tạo cho ông cá tính văn
chương riêng. Hơn thế nữa, việc tiếp cận với những thành tựu xuất sắc
của thời đại đã tạo điều kiện cho Nguyễn bộ lộ hết tài năng của mình. Ví như
“Hoa tiên truyện” của Nguyễn Huy Tự ảnh hưởng đến Truyện Kiều khá sâu
đậm. Nguyễn Du đã may mắn thừa hưởng từ người mẹ của mình nguồn ca dao dân ca,
chất trữ tình đằm thắm dịu dàng… Như vậy, ngoài việc tiếp xúc với văn học
bác học ngay từ sớm, tâm hồn Nguyễn Du đã được nuôi dưỡng trong mạch nguồn văn
hóa - văn học dân gian.Sự thống nhất của bản thể được tạo ra từ
những mâu thuẫn và trong huyết quản của con người Nguyễn hai nguồn suối
tâm hồn tưởng chừng đối lập nhau: văn chương bác học cao sang, cầu kỳ và văn
học bình dân gần gũi, giản dị. Chính điều này đã giúp Nguyễn Du chắt
lấy cái tinh hoa phong phú, giàu sức gợi của người bình dân cùng thâm
ý sâu sắc của “Ý tại ngôn ngoại", kết cấu vững chắc của tác phẩm
văn chương bác học để hình thành nên những tuyệt tác lưu danh
đời đời.1.3. Tư tưởng Nho, Phật, Lão - Trang1.3.1. Nho giáoĐạo Trung dung: là sự quân bình, cái gì
cũng không nên quá mức và cũng không nên quá bất cập, phải nằm ở giữa hai thái
cực đó, chỉ cần thiên lệch về bên nào thì nhất định ẩn chứa trong đó là điều
họa, là cái mầm không tốt vậy.Luật Âm dương dung hợp (bỉ sắc tư
phong), trong sự vận hành, sự kết hợp của âm và dương, nếu có cái này thì nhất
định sẽ mất cái khác. Có càng nhiều thì mất cũng càng nhiều.Nho giáo có đề thuyết thiên mệnh. Thiên
mệnh là mệnh trời. Con người hành động phải tuân theo mệnh trời. Thầy Mạnh Tử
dạy: “Vạn sự bất do nhân kế hiệu, nhất sinh đô thị mệnh an bài”, mọi chuyện
không do người toan tính đời người đều do số mệnh an bài. Thiên mệnh của Nho
gia là cái gì đó rất huyền bí, người quân tử phải biết “úy thiên mệnh”. Sợ mệnh
trời vì “Trời là lý nhưng cái lý linh diệu vô cùng, làm chúa tể của cả muôn vật
và ở chỗ nào cũng có. Cho nên, người ta phải kính Trời và sợ Trời”. Thuyết
Thiên mệnh, con người ta sống thì phải biết mệnh trời mà làm theo. Trong cực
khổ mà ta biết đó là mệnh trời khó tránh, vui vẻ chấp nhận thử thách thì ta
càng đỡ khổ, chứ nếu ta không tri mệnh, không bằng lòng chấp nhận thì
nỗi khổ càng vây lấy ta nhiều hơn.1.3.2. Phật giáoẢnh hưởng sâu sắc từ Phật giáo, Nguyễn
Du đã vận dụng vào luật nhân quả, mà hạt nhân của nó là thuyết về Nghiệp.Phật nói: con người ta gieo nhân nào thì
gặt quả đó, có thể thấy ngay cái quả do nhân mình gieo trong kiếp này, nhưng
cũng có khi là kiếp khác. Nghiệp là kết quả của hành động chúng ta lập đi lập
lại. Nếu hành động đúng, tốt thì nghiệp báo ta sẽ tốt còn nếu ta làm việc xấu,
mắc nợ cuộc đời thì nghiệp báo bắt ta phải trả.Khi vận dụng luật Nhân quả, vận dụng
Nghiệp vào để giải thích, ta sẽ hiểu rằng, con người nếu tiền kiếp đã gieo quả
xấu, làm việc ác thì kiếp này cũng phải trả nợ vậy.1.3.3. Lão - TrangSự tồn tại đồng thời của các cặp mâu
thuẫn, trái ngược nhau, nếu như đã có cái tốt đẹp thì nhất định sẽ có phần xấu,
ác.Quy luật phản phục: phúc là nơi nương
tựa của họ và ngược lạiLão tử, người khởi lập phái Đạo gia cũng
là người đầu tiên đưa ra cái luật bù trừ của tạo hóa:“Đạo trời phải chăng cũng như phép
giương cung ngắm bắn, nếu cao quá thì lại hạ thấp xuống, nếu thấp quá thì lại
nâng cao lên, nếu kéo dây cung căng quá thì giảm bớt đi, nếu kéo dây cung chưa
đủ thì tăng lên. Đạo trời rút bớt chỗ thừa để bù vào chỗ thiếu…”(Thiên chi đạo, kì do trương cung tư?
Cao giả ức chi, hạ giả cử chi, hữu dư giả tổn chi, bất túc giả bổ chi. Thiên
chi đạo, tổn hữu dư nhi bổ bất túc… - Đạo đức kinh, Chương 47).Mặt khác, phần nổi nhất trong tư tưởng
của Lão Tử là những nguyên tắc quan trọng của phép biện chứng mà ông đã cảm
nhận được một cách rõ ràng. Theo ông, mọi sự vật đều bao hàm hai mặt: chính
phản đối lập nhau, nương tựa nhau mà tồn tại, sự vật phát triển đến điểm đỉnh
thì chuyển sang mặt tương phản. Đó là điều mà ông nhấn mạnh “phản là động của
đạo”, phải biết lấy nhu thắng cương, lưỡi mềm nên lưỡi còn, răng cứng nên răng
mất. Do đó ông chủ trương con người sống theo lối “vô vi”, biết đủ, không tranh
giành. Có như vậy thì mới mong bảo toàn được sinh mạng, tránh được những điều
nguy hại. Vì thế đối với ông, con người không cần phải có tài. Con người có tài
sẽ sinh ra xảo trá, gian ngoa (Trí tuệ xuất hữu đai ngụy). Ông chủ trương không
tôn trọng người tài để dân không tranh giành (Bất thượng hiền sử dân bất
tranh).Như vậy theo Lão Tử, con người không cần
phải có tài. Tài nhiều chỉ để người ganh ghét. Tài nhiều chỉ để tạo hóa bù trừ
vào đó là cái mệnh bạc. Cho nên, ở góc độ nào đó có thể khẳng định thuyết tài
mệnh tương đố xuất phất từ định luật bù trừ của tạo hóa mà Lão giáo rất coi
trọng.Nguyễn Du đã cụ thể hóa cái thuyết bù
trừ của Lão Tử thành tài mệnh tương đố. Tuy nhiên với Lão giáo, tạo hóa bù trừ
chỉ là một triết lí rút ra từ sự suy nghiệm cuộc sống, từ sự thông đời hiểu thế
của một triết gia.2. Giới thuyết về tư tưởng “tài mệnh
tương đố”, “hồng nhan bạc phận”- Tài là tài năng, là những phẩm chất
hay năng lực của một người mới sinh ra đã có hay trau dồi mà có. Tài có
thể là tài hoa, tài tử cũng có thể là tài trí dũng, tài mưu lược. Cho nên, tài
gồm cả trí tuệ và kỹ năng.Mệnh có nguồn gốc Nho giáo. Nho
giáo cho rằng, mỗi người sinh ra đều có mạng số, cái phúc phần mà trời ban gọi
là thiên mệnh. Đó là ý trời, là sự công bằng một cách kỳ dị của Hóa Công, Hóa
Nhi, của “cỗ máy vũ trụ”, của “Hồng quân”, làm cho cuộc đời của một người trở
nên tốt, xấu, xa hoa hay nghèo khó… tất cả đều đã được định sẵn trong quỹ đạo
hoạt động của tự nhiên, không thể thay đổi... Như vậy, mệnh có thể là phần phúc
cũng có thể là bất hạnh. Tử Hạ nói: “Tử sinh hữu mệnh, phú quý tại thiên”, chết
sống do số mệnh, giàu sang do trời.Tài mệnh ghét nhau nghĩa là chúng không
tồn tại đồng thời trong mỗi con người, giữa tài và mệnh có sự chống đối nhau.
Tài đa thì mệnh bạc, tài càng nhiều thì cái phúc phần càng ít. Càng có tài bao
nhiêu thì số mạng càng ngang trái bấy nhiêu. Người càng có tài thì càng đau
khổ. Những người có tài mà nhiều người thấy được thì sẽ bị ganh ghét. Sắc và
tài là hai cái mà khi phát tiết ra ngoài nhiều quá thì sẽ làm cho người mang nó
đau khổ:Anh hoa phát tiết ra ngoài,Nghìn thu bạc mệnh một đời tài hoa.Tài mệnh tương đố là nỗi thống khổ không
nói nên lời của biết bao nhiêu bậc tài hoa, bao nhiều tài từ, nỗi thống khổ của
kẻ biết vì sao mình khổ mà không thể thay đổi được cuộc sống của chính mình,
mong muốn thay đổi nhưng không biết làm sao thay đổi, mong cầu được hạnh phúc
nhưng lại không thể hạnh phúc, chỉ còn biết uất hận, nghẹn ngào, phiêu dạt
trong kiếp sống đọa đày theo “ý trời”.- Hồng nhan là những người phụ nữ đẹp,
được trời ban cho sắc đẹp cực kì diễm lệ, một tâm hồn mẫn tiệp tài hoa thu hút
mọi người. Bạc mệnh là chết non, chết sớm, phận mỏng, lao đao nhiều trắc trở.Người xưa quan niệm vẻ đẹp của người phụ
nữ vượt quá vẻ đẹp của tự nhiên, tức là vượt qua định mức cao nhất là trời thì
vận mệnh long đong nhiều cay đắng, khổ sở. Hồng nhan họa thủy, hồng nhan với
nét đẹp khuynh nước khuynh thành, gây điên đảo các bậc anh hùng, vương tôn quý
tộc gây nước mất nhà tan, trở thành tội nhân của đất trời cũng không ít nhưng
cũng không thoát khỏi cái vòng luẩn quẩn, không thoát khỏi định mệnh đã an bài.3. Tư tưởng “tài mệnh tương đố”, “hồng
nhan bạc phận” thể hiện trong sáng tác của Nguyễn Du3.1. Thơ chữ Hán3.1.1. Hình ảnh người phụ nữ tài hoa bạc
mệnh.Họ dù là hạng người nào: một bà phi, một
cô hầu, một cô bé ngây thơ hay một người kỹ nữ… đều được Nguyễn Du hết sức trân
trọng. Nguyễn Du trân trọng từ những nét đơn sơ giản dị nhất, ông vẽ lại họ chỉ
bằng những nét chấm phá, chỉ cần điểm xuyết thì các cô gái trong tác phẩm của
ông đều trở nên đẹp và xinh tươi hơn bao giờ hết.Ví như nàng Tiểu Thanh (Độc thiểu thanh
ký), cô Cầm, người hầu cũ của em, cô gái ở đất La Thành (Điếu La Thành ca giã),
cô gái hái sen của miền tây (Mộng đắc thái liên III), người đẹp cách tường
cao (Ngẫu thư công quán bích I), các cô gái đẹp ở đất Thương Ngô, Quảng
Tế (Thương Ngô Trúc chi ca XIV, Quảng Tế ký thắng), cô gái cài hoa
vàng (Thương Ngô Trúc chi ca XI), người đàn bà giận chồng, người đàn bà
trong đá vọng phu, các bà phi của vua Thuấn (Thương Ngô tức sự, Thương Ngô
mộ vụ, Thương Ngô trúc chi ca III, VIII), chị em Tiểu Kiều, Đại Kiều thời Tam
Quốc, Dương Quý Phi (Dương Phi cố lý), Ngu Cơ (Sở Bá Vương mộ), Chiêu
Quân, ba người đàn bà ở miếu Tam Liệt (Tam Liệt miếu)… và đặc biệt là hình
ảnh người vợ hiền đầu ấp tay gối của nhà thơ (Ký mộng)… Tất cả họ đều mang
một nét chung rất đậm là họ rất đẹp, họ tài hoa và dĩ nhiên là bất hạnh.Cô Cầm một thời nổi danh là bậc nhất
chốn kinh thành thì bây giờ tàn tạ, gầy còm, ngồi nép bên góc chiếu, dáng tội
nghiệp. Trong “Ngô gia đệ cựu ca cơ”, tác giả cũng nhấn mạnh đến nỗi đau xót
của mình khi gặp lại hai người ca nữ xa xưa. Lúc ấy, Nguyễn Du như “con
hạc đen trở về kinh thành nào ai biết” (Huyến hạc quy lai kỷ cá
tri) và nàng ca cơ xưa xinh đẹp, giọng ca có một không hai, bây giờ đã lấy
chồng, có ba con mà đáng thương thay, nàng vẫn mặc chiếc áo cũ từ ngày ra đi.
Họ là những người quen biết cũ. Nguyễn Du thương tâm, đau lòng trước cái đẹp đã
không còn tồn tại. Cái nhìn của ông xuyên ngược thời gian để khóc cho chiếc áo
cũ, cho tiếng đàn xưa, chút chua xót, vương vấn, tiếc nuối:“Phúc bồn dĩ hỹ nan thu thủyĐoạn ngẫu thương tai vị tuyệt tỷ”(Chậu nước đổ, thế là thôi, khó lòng vét
lại đượcNgó sen đứt, thương thay, tơ vẫn còn
vương)Phân tích cụ thể để thấy được tư tưởng
tài mệnh tương đố, hồng nhan bạc phận qua một số bài thơ chữ Hán tiêu biểu:a. Độc Tiểu Thanh kýĐộc Tiểu Thanh ký là một trong
những bài thơ chữ Hán hay nhất của Nguyễn Du in trong Thanh Hiên thi tập.
Có thể Nguyễn Du sáng tác bài này trước hoặc sau khi được triều đình cử đi sứ
sang Trung Quốc.Thắng cảnh Tây Hồ gắn liền với giai
thoại về nàng Tiểu Thanh tài sắc vẹn toàn, sống vào đầu đời nhà Minh. Vì hoàn
cảnh éo le, nàng phải làm vợ lẽ một thương gia giàu có ở Hàng Châu, tỉnh Chiết
Giang. Vợ cả ghen, bắt nàng ở trong ngôi nhà xây biệt lập trên núi Cô Sơn. Nàng
có làm một tập thơ ghi lại tâm trạng đau khổ của mình. ít lâu sau, Tiểu Thanh
buồn mà chết, giữa lúc tuổi vừa mười tám. Nàng chết rồi, vợ cả vẫn ghen, đem
đốt tập thơ của nàng, may còn sót một số bài được người đời chép lại đặt tên là
Phần dư (đốt còn sót lại) và thuật luôn câu chuyện bạc phận của nàng.Nguyễn Du đọc những bài thơ ấy, lòng dạt
dào thương cảm cô gái tài hoa bạc mệnh, đồng thời ông cũng bày tỏ nỗi băn
khoăn, day dứt trước số phận bất hạnh của bao con người tài hoa khác trong xã
hội cũ, trong đó có cả bản thân ông.Phiên âm chữ Hán:Tây Hồ hoa uyển tẩn thành khưĐộc điếu song tiền nhất chỉ thư.Chi phấn hữu thần liên tử hậu,Văn chương vô mệnh lụy phần dư.Cổ kim hận sự thiên nan vấn;Phong vận kỳ oan ngã tự cư.Bất tri tam bách dư niên hậu,Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như?Dịch thơ Tiếng Việt:Tây Hồ cảnh đẹp hóa gò hoang,Thổn thức bên song mảnh giấy tàn.Son phấn có thần chôn vẫn hận,Văn chương không mệnh đốt còn vương.Nỗi hờn kim cổ trời khôn hỏi,Cái án phong lưu khách tự mangChẳng biết ba trăm năm lẻ nữa,Người đời ai khóc Tố Như chăng?Trái tim của nhà thơ thổn thức trước
những gì gợi lại một kiếp người bất hạnh:Độc điếu song tiền nhất chi thư.(Thổn thức bên song mảnh giấy tàn).Chắc chắn là nỗi buồn tủi cho thân phận,
nỗi xót xa cho duyên kiếp dở dang và thống thiết hơn cả là nỗi đau nhân tình
không người chia sẻ. Tiếng lòng Tiểu Thanh đồng điệu với tiếng lòng Nguyễn Du
nên mới gây được xúc động mãnh liệt đến thế. Nhà thơ khóc thương Tiểu Thanh tài
hoa bạc mệnh, đồng thời cũng là khóc thương chính mình - kẻ cùng hội cùng
thuyền trong giới phong vận.Nguyễn Du cỏ cảm giác là dường như linh
hồn Tiểu Thanh vẫn còn vương vấn đâu đây. Nàng chết lúc mới mười tám tuổi trong
cô đơn, héo hắt, đau khổ. Oan hồn của nàng làm sao tiêu tan được?Chi phấn hữu thần liên tử hậu,Văn chương vô mệnh lụy phần dư:(Son phấn có thần chôn vẫn hận,Văn chương không mệnh đốt còn vương).Ba trăm năm đã qua nhưng tất cả những gì
gắn bó với nàng vẫn như còn đó. Chi phấn (son phấn) nghĩa bóng chi phụ nữ; tức
Tiểu Thanh. Son phấn là vật để trang điểm, song nó cung tượng trưng cho sắc đẹp
phụ nữ. Mà sắc đẹp thì có thần (thần chữ Hán cũng có nghĩa như hồn) nó vẫn sống
mãi với thời gian như Tây Thi, Dương Quý Phi tên tuổi đời đời còn lưu lại. Nỗi
hận của son phấn Cũng là nỗi hận của Tiểu Thanh, của sắc đẹp, của cái Đẹp bị
hãm hại, dập vùi. Nó có thể bị đày đọa, bị chôn vùi, nhưng nó vẫn để thương để
tiếc cho muôn đời.Văn chương là cái tài của Tiểu Thanh nói
riêng và cũng là vẻ đẹp tinh thần của cuộc đời nói chung. Văn chương vô mệnh
bởi nó đâu có sống chết như người? Ấy vậy mà ở đây, nó như có linh hồn, cũng
biết giận, biết thương, biết cố gắng chống chọi lại bạo lực hủy diệt để tổn
tại, để nói với người đời sau những điều tâm huyết. Dụ nó có bị đốt, bị hủy,
nhưng những gì còn sót lại vẫn khiến người đời thương cảm, xót xa. Nhà thơ đã
thay đổi số phận cho son phấn, văn chương, để chúng được sóng và gắn bó với
Tiểu Thanh, thay nàng nói lên nỗi uất hận ngàn đời. Hai câu thơ đầy ý vị ngậm
ngùi, cay đắng, như một tiếng khóc thổn thức, nghẹn ngào. Đến hai câu luận:Cổ kim hận sự thiên nan vấn,Phong vận kỳ oan ngã tự cư.(Nỗi hờn kim cổ trời khôn hỏi,Cái án phong lưu khách tự mang).Nhà thơ tiếp tục bày tỏ niềm thương cảm
của lòng mình. Câu thơ: cổ kim hận sự thiên nan vấn chứa đựng sự tuyệt vọng. Từ
nỗi hận nhỏ là hận riêng cho số phận Tiểu Thanh, Nguyễn Du nâng cao, mở rộng
thành nỗi hận truyền kiếp từ xưa tới nay của giới giai nhân tài tử. Tài hoa bạc
mệnh, đó có phải là quy luật bất di bất dịch của Tạo hóa? Là định mệnh rõ ràng
khắt khe của số phận?. Nếu đúng như thế thì nguyên nhân là do đâu? Trải mấy
ngàn năm, điều đó đã tích tụ thành nỗi oán hờn to lớn mà không biết hỏi ai. Nỗi
oan lạ lùng của những kẻ tài sắc như Tiểu Thanh cũng là nỗi oan của những người
tài hoa bạc mệnh rõ ràng là vô lý, bất công, nhưng khó mà hỏi trời vì trời cũng
không sao giải thích được (thiên nan vấn). Do đó mà càng thêm hờn, thêm
hận. Phong vận ở câu thơ thứ sáu không có
nghĩa là sự phong lưu về vật chất mà là sự phong lưu về tinh thần, Nói cách
khác là chỉ cái tâm, cái tài của những kẻ tài hoa. Con người tài hoa là tinh
túy của trời đất, vậy mà sao số phận họ lại nhiều vất vả, truân chuyên đến vậy?
Nguyễn Du đã từng viết: Chữ tài liền với chữ tai một vần. Bởi thế nên phong lưu
đã thành cái án chung thân mà khách (kẻ tài hoa) phải mang nặng suốt đời. Oái
ăm thay, biết là vậy mà bao thế hệ văn nhân tài tử vẫn tự mang nó vào mình.
Nguyễn Du đã nhập thân vào Tiểu Thanh để nói lên những điều bao đời nay vẫn cứ
mãi băn khoăn, dằn vặt. Bài thơ cho thấy niềm thương cảm của
Nguyễn Du đối với con người mênh mông biết chừng nào! Nó không bị giới hạn bởi
thời gian và không gian. Nguyễn Du không chỉ thương người đang sống mà thương
cả người đã khuất mấy trăm năm. Thương người, thương mình, đó là biểu hiện cao
nhất của đạo làm người. Đời người hữu hạn mà nỗi đau con người thì vô hạn. Trái
tim đa cảm của nhà thơ rất nhạy bén trước nỗi đau to lớn ấy. Giống như truyện Kiều,
Độc Tiểu Thanh kí là đỉnh cao tư tưởng nhân văn của đại thi hào Nguyễn Du.b. Long Thành cầm giả caLong thành cầm giả ca là bài thơ mở
đầu phần Bắc hành tạp lục trong tập thơ chữ Hán của Nguyễn Du. Bài
thơ ghi lại mối cảm thương vô hạn của nhà thơ với cuộc đời "dâu bể"
của một ca nữ tài hoa đất Long thành mà ông được tận mắt chứng kiến.Đây là một bài thơ rất đáng quí. Đáng
quí không chỉ vì nó là một trong những bài thơ chữ Hán hay nhất của ông; nó
thấm đượm lòng yêu thương vô bờ và sự cảm thông vô hạn của nhà thơ tới những
người phụ nữ bị xã hội phong kiến hắt hủi vùi dập, mà quan trọng hơn là trong
bài thơ này Nguyễn Du còn phản ánh được nét đẹp tâm hồn của các tướng lĩnh Tây
Sơn, những nghĩa binh Tây Sơn, những người đã một thời bên kia chiến tuyến với
ông, điều các tác phẩm văn học đương thời ít đề cập, thể hiện được.Nguyễn Du đề cập đến họ như một yếu tố,
một mắt xích trong số phận nhân vật chính - người ca nữ tài hoa - mà ông yêu
mến. Vẻ đẹp của họ toát lên từ bài thơ chính là thông qua thái độ trân trọng
nâng niu người ca sĩ đất Long Thành vốn vẫn bị xã hội phong kiến hắt hủi, khinh
miệt. Nguyễn Du đã đặc tả ca nữ với ngón đàn tuyệt diệu trong một đêm tiệc lớn
của các tướng lĩnh Tây Sơn. "Xuân độ ấy đang hồi ba bảÁnh hồng trang lộng lẫy mặt hoaNão người vĩ rượu ngà ngàNăm cung dìu dặt nãy qua phím đànTiếng khoan thoảng thông ngàn gió thổTiếng trong như hạc gọi xa xămMạnh như Tiến Phúc sét gầmBuồn như tiếng Việt Trang nằm đau
rên"Tiếng đàn vô song đó đã thấm vào tâm hồn
từng người lính, từng tướng lĩnh Tây Sơn, khiến họ quên cả nỗi mệt nhọc sau
cuộc "Trường chinh vạn dặm": "Ai nấy nghe nhường quên mệt mỏiRõ tiếng đàn đại nội trung hòaTây Sơn quan khách la đàMảng vui quên cả tiếng gà tan canh"Trước tiếng đàn "quân thiên nhã
nhạc ai bì" ấy của người thiếu nữ Long Thành họ lắng nghe quên cả đêm
khuya thanh vắng, rồi tranh nhau bày tỏ mối thiện cảm với một thái độ phóng
khoáng, trân trọng: "Tả lại hữu tranh giành gieo thưởnTiền như bùn ước lượng qua quVương hầu thua vẻ hào hoNgũ lăng chàng trẻ ai mà kể chi"Thậm chí đến mức tôn thờ ca nữ như một
vật báu vô song: "Tưởng chừng như ba mươi sáu cung
xuân" chung đúc thành một vật báu vô giá của đất Trường An.Hai mươi năm sau, vào thời điểm Nguyễn
Du viết bài thơ này (1813) khi gặp lại người ca nữ xưa kia trong bữa tiệc bạn
bè đưa tiễn ông, vị chánh sứ của triều đình nhà Nguyễn, Nguyễn Du bàng hoàng
khi thấy con người tài hoa nhất thành, lộng lẫy khoe hương sắc trong bữa tiệc
của các quan Tây Sơn giờ đây tàn tạ thu mình ngồi cuối chiếu đàn bản đàn ngày
nào:"Mé cuối tiệc một người nhonTóc hoa râm mặt võ mình gầyBơ phờ chẳng sửa đôi màyTài hoa ai biết đất này không hai"Vẫn tiếng đàn xưa, tiếng đàn giúp Nguyễn
Du nhận ra người quen biết tài hoa thuở nọ. Nhưng thân phận ca nữ giờ đây khác
hẳn. Không một ai ngoài Nguyễn Du để ý đến nàng. Đâu phải chỉ vì giờ đây cô gái
trẻ trung, phong nhã ngày xưa đã trở thành "một chị gầy gò, vẻ tiều
tụy, sắc mặt đen sạm, xấu như quỉ, áo quần mặc toàn vải thô bạc thếch, vá nhiều
mảnh trắng" mà Nguyễn Du đau lòng. Ở đầu bài thơ, khi nhớ lại hình ảnh ca
nữ trong đêm tiệc của các tướng lĩnh Tây Sơn Nguyễn Du không đặc tả nhan sắc ca
nữ mà đặc tả ngón đàn của nàng. Trong lời tiểu dẫn bài thơ ông cũng ghi rõ rằng
nàng "không đẹp lắm". Nàng được những người Tây Sơn quý trọng, hâm mộ
chính là nhờ tài đàn những bản nhạc "hay nhất ở trên trời cũng như giữa
cõi người". Ngón đàn ấy không tàn phai theo năm tháng. Nó trường tồn.
Nhưng không phải lúc nào cũng có những khách tri âm hiểu và trân trọng. Nguyễn
Du đau lòng "bồi hồi không yên, ngẩng lên, cúi xuống, ngậm ngùi cho cảnh
xưa và nay" là vì vậy. Phải chăng trong sự xót xa cho số phận ca nữ,
cho "người ta trong cõi trăm năm, những sự vinh, nhục, buồn, vui thật
không lường trước" được đó có bao hàm cả sự xót xa cho chính bản thân
mình của nhà thơ? Phải chăng Nguyễn Du đau đớn vì nhận ra sự đối lập về bản
chất giữa hai triều đại mà ông chứng kiến? Một triều đại ông từng quay lưng,
lẩn tránh và có ý nghĩ chống đối thì giờ đây khi nó đã tiêu vong ông mới thấy
nó đã làm được nhiều điều tốt đẹp cho con người, luôn vì con người - điều ông
luôn mơ ước. Còn triều đại mà ông đi theo phục vụ lại chà đạp lên lý tưởng nhân
văn của ông. Dù có muộn sự thức tỉnh trên vẫn là điều hết sức đáng quí. Không
chối cãi được rằng trong cuộc đời Nguyễn Du có lúc có những hạn chế về nhận
thức chính trị. Nhưng là một nghệ sĩ chân chính nhà thơ biết trăn trở suy xét
để đi đến những nhận định khách quan. "Long Thành cầm giả
ca" chính là sự thể hiện sinh động điều đó. Nó vừa đánh dấu sự chuyển
biến trong nhận thức của nhà thơ, vừa chứng tỏ sự chiến thắng của chân lý hiện
thực trong thơ ông. Tuy muộn màng nhưng nó đã góp một phần không nhỏ trong
tiếng nói ca ngợi, phản ánh những nghĩa binh Tây Sơn, phong trào nông dân Tây
Sơn. Nó xứng đáng được xếp là một trong những bài thơ hay nhất, có giá trị tích
cực nhất trong tập thơ chữ Hán của ông.3.1.2. Hình ảnh những bậc hiền tàiHình ảnh những bậc hiền tài cũng là đối
tượng quan tâm của nhà thơ. Đọc hết sử sách, đi hết Trung Quốc nghe danh người
tài, Nguyễn Du rất ngưỡng mộ. Hàng loạt các bài thơ dành cho những Hoàng Sào,
Cù Các Bộ (Quế Lâm Cù Các bộ), Liễu Tông Nguyên (Vĩnh Châu Liễu Tử
Hậu cố trạch), Khuất Nguyên (có 6 tác phẩm), Đỗ Phủ (Lỗi Dương Đỗ Thiếu
Lăng mộ I, II), Lý Bạch, Hàn Tín (Độ Hoài hữu cảm Hoài âm hầu), Văn Thiên
Tường (Độ Hoài hữu cảm Văn thừa tướng), Âu Dương (Âu Dương văn Trung
Công mộ), Bùi Tấn Công (Bùi Tấn Công mộ), Tỷ Ca, Lạn Tương Như, Liêm Pha,
Dự Nhượng, Kinh Kha, Liễu Hạ Huệ, Chu Lang, Hai ông họ Sơ, Nhạc Phi (Yển
Thành Nhạc Vũ Mục ban sư xứ, Nhạc Vũ Mục mộ)… họ đều là những người tiếng tăm
lừng lẫy trong lịch sử Trung Quốc.Xưa nay người tài thường hiếm, lại hay
bị trời đất ghen ghét. Nguyễn Du mến họ vì họ là những người trung nghĩa, yêu
nước, thương nòi, trọng danh kính chúa, một đời vì nghĩa lớn quên mình, một
lòng tận trung báo nước. Ông ca ngợi Cù Thức Trĩ ở Quế Lâm tuẫn tiết giữ thành,
nghìn năm nằm dưới đất tóc ông vẫn dài, nhất định không chịu hàn phục nhà
Thanh.Ông cũng ca ngợi Âu Dương, người được
mệnh danh là Hàn Phi đời Tống. Âu Dương là người tài giỏi, tính cương trực
thẳng thắn, làm quan thanh liêm, không được lòng bọn quyền quý, nhiều lần bị
gián chức vẫn hết lòng can Vua. Đó là người có tài mà có đức nhưng lại thường
hay bị hãm hại.Về Giả Nghị, ông than thở “trời sinh
người tài mà không có chỗ dùng”, ghé mộ Đỗ Thiếu Lắng, nghĩ tới cuộc đời
nghèo khổ, bệnh tật, đến chết, gia đình không đủ tiền đưa thi hài bậc thi tiên
thi thánh về quê an tang. Nguyễn Du chạnh lòng rơi nước mắt:“Ở hai thời đại khác nhauThương nhau rơi nước mắtÔng cùng khổ như vậy há phải vì hay thơ”(Lỗi Dương Đỗ Thiếu Lăng mộ)Trong thời buổi đầy bất trắc mà ông
sống, con người càng có tài càng bị ghen ghét “Thượng uyển oanh kiều đa đố
sắc” là một thực tế tàn nhẫn. Người ghét đã đáng sợ. Không may thay, chừng
như, trời cũng ghét kẻ có tài nên Nguyễn Du hay than thở: “Phàm những
người sinh ra có khí phách khác thường thì trời đất vẫn hay ghen
ghét” (Điệu khuyến), “Người có tài thường bị văn chương ghen
ghét” (Ninh Minh Giang chu hành), “Làm sao trời đất lại ghen nhầm
người” (Tự thán 2)…Chí tình và sâu sắc hơn nữa là đối với
những người mắc một nỗi oan lạ lùng như Khuất Nguyên, Đỗ Phủ, Nhạc Phi. Nguyễn
Du đau đớn thay Khuất Nguyên, nuốt tủi thay Đỗ Phủ, ngậm hờn thay Nhạc Phi. Đó
là những người có tài, một sớm một chiều bị số phận vùi dập. Họ sống giữa đời
ôm tài nuốt tiếng, thân xác biến thành tro lạnh, tài hận mang theo.Có đến sáu bài thơ Nguyễn Du nói đến
Khuất Nguyên. Nguyễn Du coi Khuất Nguyên như một tượng trưng đau đớn về số phận
con người tài hoa mà bất hạnh. Con người “tỉnh một mình” kia luôn là nhân chứng
mạnh mẽ thuyết phục cho đế độ hà khắc, khắc nghiệt của bọn phong kiến đối với
người tài. Hoa lan, hoa chỉ là loại cỏ thơm tượng trưng cho tấm lòng cao khiết
mà Khuất Nguyên thường đeo bên mình được Nguyễn Du nhắc đi nhắc lại nhiều lần
biểu hiện cho sự tri âm tri kỷ, Tống Ngọc gọi hồn Khuất Nguyên về, còn Nguyễn
Du lại cho rằng khắp mặt đất này đâu đâu cũng là Mịch La, ai ai cũng là Thượng
quan thì làm gì có chỗ cho người có cái tâm trong suốt kia có chỗ nương tựa,
nên ông khuyên hồn nên sớm về cõi hư vô… Rồi cuối đời Khuất Nguyên cũng phải
gieo mình tự vẫn vì oan khuất, đến xương cốt cũng chẳng tìm thấy:“Hoài Vương quy táng Trương
Nghi tửSở quốc từ nhân kí bội lanThiên cổ chiêu hô chung bất phảnMãn giang tranh cạnh thái vô đoanYên ba diễu diễu không bi oánLa cổ niên niên tự tiếu hoanHồn nhược quy lai dã vô thácLong xà quỷ vực biến nhân gian”(Ngũ nguyệt quan canh độ)Dịch nghĩa:Hoài Vương chết, đưa hài cốt về mai
táng, Trương Nghi cũng chếtNhớ nhà thơ nước Sở đeo chùm hoa lanNgàn năm gọi hồn, hồn vẫn không vềThuyền đua đầy sông, nào có ý nghĩa gì
đâuNhìn khói sóng mịt mù mà đau thương oán
giậnHàng năm chiên trống vẫn cứ bày trò vui
như thế này đâyVả chăng hồn ông có về cũng không biết
nương tựa vào đâuKhắp nhân gian nơi nơi đầy rẫy rắn rồng,
quỷ quái.Với Nhạc Phi, đó cũng là một con người
văn võ toàn tài, tận trung báo quốc, một sớm một chiều bị hại chết bởi tên gian
thần Tần Cối. Qua Yển thành nơi Nhạc Phi đóng quân Nguyễn Du buồn rầu cho tình
đời, mười năm chiến đấu xả thân chỉ được cái việc bị giết chết một cách tàn
nhẫn nơi đình Phong ba để triều đình tạ tội với người Kim.“Đương thì tằng trú Nhạc gia quânThử địa kinh kim hữu chiến trầnĐại tướng không hoài bang quốc sỉQuân vương dĩ tuyệt phụ huynh thânKim bài thập nhị hữu di hậnThiết kỵ tam thiên không mộ vânHuyết chiến thập niên thành để sựPhong Ba đình hạ tạ Kim thân”(Yển Thành Nhạc Vũ Mục ban sư sứ)Dịch nghĩa:“Thời đó quân của Nhạc tướng quân từng
đóng ở đâyĐất này xưa nay đã trải qua cát bụi
chiến tranhĐại tướng luống chịu mang cái nhục nướcNhà vua đã dứt bỏ tình cha anhMười hai thẻ kim bài để lại mối hậnBa ngàn quân kỵ chỉ còn lại đám mây
chiềuMười năm huyết chiến để thành ra cái
việcBị giết ở đình Phong Ba để triều đình tạ
lỗi với người Kim”3.2. Văn chiêu hồn“Văn chiêu hồn” hay còn gọi là “Văn
tế thập loại chúng sinh” là một bài văn khấn tế, đề cập đến xã hội hồn ma
một cách thảm thương nhất. Bài tế viết về mười loại chúng sinh theo quan niệm
của nhà Phật. Nguyễn Du đã vẽ lại những hình ảnh đau thương của kiếp người với
bao nhiêu sự tranh chấp, bao nhiêu mưu toan lừa đảo, bao nhiêu sự sắp đặt danh
lợi, bao nhiêu nỗi nhọc nhằn gian lao… để rồi tất cả trả về cho cát bụi, đôi
tay buông xuôi, chỉ còn lại nấm cỏ khâu đầu sông bãi nọ. Tất cả đều vô thường,
tất cả đều là không.Đó là hình ảnh lộn trái của xã hội trần
thế, song khác biệt cơ bản ở chỗ không có đối lập giàu nghèo, sang hèn. Chúng
sinh ai cũng như ai cùng chịu cảnh đọa đày, oan khuất và cô đơn nên nhà thơ xót
thương tất cả. Đối với người tài, người hiền, ông vốn quan niệm rằng xưa nay
hiếm, lại hay bị trời đất ghen ghét. Ông mến họ vì họ là những người trung
nghĩa, yêu nước thương nòi, trọng dân kính chúa, một đời vì nghĩa lớn quên
mình, một lòng tận trung báo quốc. Ông hết lời tuyên dương họ và nêu bật được
những nét tích cực nhất của họ.Nguyễn Du cũng đưa ra nhiều chi tiết
trình bày cuộc đời của những kiếp người khác nhau. Trừ đoạn đầu (1-12) và đoạn
cuối (137-184), chúng ta có thể phân thành 14 tiểu đoạn phác họa về người đời
và đời người:1. Câu 22-32: Cũng có kẻ tính đường kiêu hãnh…Mà cô hồn biết bao giờ cho tan.2. Câu 33-44: Cũng có kẻ màn lan trướng huệ…Càng năm càng héo, một đêm một dài.3. Câu 45-56: Kìa những kẻ lâu đài phượng các…Nặng oan khôn lẽ tìm đường hóa sinh.4. Câu 57-68: Kìa những kẻ bài binh bố trận…Nào đâu điếu tế nào đâu chưng thường.5. Câu 69-80: Cũng có kẻ tính đường trí phú…Tuần hương giọt nước biết tìm vào đâu.6. Câu 81-92: Cũng có kẻ rắp cầu chữ quý…Gió trăng hiu hắt, lửa hương lạnh lùng.7. Câu 93-96: Cũng có kẻ ra vào sông bể…Đem thân chôn giấp vào lòng kình nghê8. Câu 97-100: Cũng có kẻ đi về buôn bán…Hồn đường phách xá lạc loài nơi nao.9. Câu 101-108: Cũng có kẻ mắc vào khóa lính…Tiếng oan văng vẳng tới trời càng thương10. Câu 109-116: Cũng có kẻ lỡ làng một kiếp…Kiếp sinh ra thế biết là tại đâu11. Câu 117-120: Cũng có kẻ nằm đầu gối đất…Sống nhờ hàng xứ, chết vùi đường quan.12. Câu 121-124: Cũng có kẻ mắc đoàn tù rạc…Kiếp nào cởi được oan tình ấy đi.13. Câu 125-128: Kìa những kẻ tiểu nhi tấm bé…U ơ tiếng khóc thiết tha nỗi lòng.14. Câu 129-136: Kìa những kẻ chìm sông lạc lối…Có người sa sẩy, có người khốn thương…Mỗi một tiểu đoạn trên biểu trưng cho
một thân phận con người, và cũng chính mỗi đoạn trên cho thấy trạng huống đau
thương của kiếp người, dù sang hèn, lầu cao cửa rộng hay đầu đường xó chợ, bãi
bể hay góc núi… rốt cùng “mỗi người một nghiệp khác nhau” (câu 139) nhưng đều
bị chi phối bởi sự tang thương, đổi thay, trắc trở để rồi nhận lấy cái chết
thảm thương, oan hồn không siêu thoát được. Tất cả những hình ảnh khổ đau đầy
rẫy cảnh bể nương dâu đó, Nguyễn Du đã thu tóm lại trong câu:“Kiếp phù sinh như hình như ảnh, (câu
169-170)Có chữ rằng “vạn cảnh giai không”.Nói khác đi, tất cả những hoàn cảnh ấy
đã trình bày những khía cạnh vô thường như quan niệm của nhà Phật nơi mỗi kiếp
người. Đời người như trong bài văn tế phác họa cũng chính là quan niệm của đạo
Phật: Sinh, Lão, Bệnh, Tử.“Văn Tế Thập Loại Chúng Sinh” hay “Văn
chiêu hồn” của Nguyễn Du hơn bất cứ tác phẩm nào khác của ông đã biểu lộ
rõ rệt tinh thần Từ Bi của nhà Phật. Tâm hồn cảm xúc chân thành của một nhà thơ
hòa với cảm quan đạo Phật đã Nguyễn Du có những lời lẽ thống thiết, thương xót
thân phận làm người. Và lồng trong những ngôn từ đó, tấm lòng từ bi của tiên
sinh được thể hiện và những lời lẽ, những hình ảnh đưa ra ngầm chứa sự khuyên
răn, muốn ra tay tế độ, thức tỉnh kẻ còn sống u mê bằng hình thức văn tế dành
cho kẻ chết vậy.Trước hết, chúng ta nhận thấy rằng trong
“Văn chiêu hồn”, Nguyễn Du đã nói đến nghiệp kiếp của những khách má hồng,
những người kỹ nữ sống cuộc đời “sống làm vợ khắp người ta” (109-166):“Cũng có kẻ lỡ làng một kiếpLiều tuổi xanh, buôn nguyệt bán hoaNgẩn ngơ khi trở về giàAi chồng con đó, biết là cậy aiSống đã chịu một đời phiền nãoThác lại nhờ hớp cháo lá đaĐau đớn thay phận đàn bàKiếp sinh ra thế biết là tại đâu”.Khi hạ bút viết “Đau đớn thay phận đàn
bà” trong Văn chiêu hồn và Đoạn Trường Tân Thanh, cũng như khi
phác họa cuộc đời của kẻ “làm vợ khắp người ta” nói một cách riêng, Nguyễn
Du đã ít nhiều đề cập đến điều mà đạo Phật gọi là Nghiệp hoặc Kiếp dành cho đàn
bà, nhất là những người phụ nữ ấy lại “nổi danh tài sắc một thì”. Đó cũng chính
là chủ đề mà Nguyễn Du viết về thuyết “tài mệnh tương đố”, “hồng nhan bạc mệnh”
được tác giả thể hiện rõ hơn trong Đoạn Trường Tân Thanh.Từ thế giới của những người đã khuất,
Nguyễn Du cất lên tiếng nói cảm thương, đau đớn, phẫn uất cho thân phận con
người trên suốt dòng thời gian kim cổ. Cái tôi trữ tình của Nguyễn Du luôn xuất
hiện với trái tim mang nhiều cung bậc của niềm thương cảm: liên, sầu, bi, cảm,
ai, thán, bồi hồi, thương tâm… Chìm đắm trong thế giới tâm linh, Nguyễn Du đau
nỗi đau của mình, của người, của đời, nỗi đau ấy nhân lên gấp bội khi nhà thơ nhìn
vào hiện thực, thấy những anh hùng tiết nghĩa, những tài tử văn nhân, rút cục
chỉ còn lại những nấm mồ hoang, mọc đầy cỏ dại:“Kìa những kẻ bài binh bố trậnĐem mình vào cướp ấn nguyên nhung.Gió mưa sấm sét đùng đùng,Dãi thây trăm họ nên công một người.Khi thất thế tên rơi đạn lạc,Bãi sa trường thịt nát máu rơi,Bơ vơ góc bể chân trời,Nắm xương vô chủ biết vùi nơi nao?”Tác giả nhận ra rằng nơi nơi đều là dòng
chảy Mịch La oan nghiệt.Bằng trái tim nồng hậu, chân thành,
Nguyễn Du đã thể hiện trong sáng tác của mình những quan niệm riêng về con
người, nhất là về nỗi đau thân phận con người trong những điều kiện xã hội có
áp bức bóc lột “Đau đớn thay phận đàn bà, Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung”
(Truyện Kiều) “Đau đớn thay phận đàn bà, Kiếp sinh ra thế biết là tại đâu” (Văn
chiêu hồn). Do đó, đọc Truyện Kiều và Văn chiêu hồn của Nguyễn Du, ta càng hiểu
rõ cội nguồn của chủ nghĩa nhân đạo được thể hiện trong tác phẩm và những ký
thác đời ông vào những hình tượng nhân vật tài hoa mà bạc mệnh. Những con người
mà ông tỏ thái độ bênh vực thông cảm sâu sắc, những gái lầu xanh, những kẻ hành
khất, những kẻ tù phạm, những kẻ chết non, chết oan v.v… Những con người mà ông
tỏ thái độ đả kích là những con người thuộc tầng lớp quý tộc, những quan cai
trị, những quan võ, những kẻ chí thú làm giàu v.v...Phàm những người sinh ra có khí phách
khác thường “Thì trời đất vẫn hay ghen ghét”. Thật ra cái thuyết “tài mệnh
tương đố” có cơ sở thực tế, cơ sở xã hội của nó, và nó có tính chất phổ biến,
nghĩa là nó nảy sinh bất cứ chế độ xã hội nào có đấu tranh giai cấp, có áp bức
bóc lột, khi người ta chưa nhận thức được đầy đủ vấn đề đấu tranh xã hội và
quan niệm những lực lượng xã hội như những thế lực siêu nhiên. Trong xã hội
phong kiến, tài được quan niệm một cách trừu tượng mà mệnh thì là một yếu tố
siêu nhiên, và vấn đề xung đột giữa tài và mệnh mang tính chất trừu tượng, siêu
hình. Đến xã hội tư bản, khi người ta đã ý thức được rõ hơn vai trò và quyền
lợi cá nhân cũng như vấn đề đấu tranh xã hội thì thuyết “tài mệnh tương đố”
chuyển hóa thành vấn đề cụ thể hơn, đó là vấn đề mâu thuẫn giữa cá nhân tài
năng và xã hội, đi đến chung hơn, nó được mở rộng thành vấn đề mâu thuẫn giữa
cá nhân và xã hội. Vấn đề này trở thành đề tài chung của rất nhiều tiểu thuyết
phương Tây thế kỷ XIX. Nhưng dù ở trình độ nhận thức nào đi nữa thì thực chất
xã hội của vấn đề vẫn là một, và khi hiểu được, như chúng ta ngày nay, tài năng
cá nhân là kết tinh trí tuệ và nghị lực của quần chúng nhân dân thì vấn đề càng
có ý nghĩa xã hội rộng lớn. Cuối cùng, về thực chất, đó chính là vấn đề quyền
sống của con người và vấn đề chế độ xã hội.3.3. Truyện KiềuTrong Truyện Kiều, Nguyễn Du hơn một lần
nói về bất hạnh của người “tài tình chi lắm cho trời đất ghen”“Rằng hồng nhan tự thuở xưa.Cái điều bạc mệnh có chừa ai đâu”.Rồi:“Phận sao bạc chẳng vừa thôiKhăng khăng buộc mãi lấy người hồng
nhan”.Xét về nguồn gốc của thuyết này, Đào Duy
Anh đã khẳng định: “Tư tưởng chủ yếu của Nguyễn Du trong sách này là tài mệnh
tương đố, tư tưởng ấy là nòng cốt tinh thần cho toàn truyện, mà mỗi một chương,
mỗi một chi tiết, mỗi một đoan là để chứng minh cho nó mà thôi. Tư tưởng ấy gốc
ở thuyết thiên mệnh của Nho giáo”.3.3.1. Cuộc đời “tài mệnh tương đố”,
“hồng nhan bạc mệnh” của Thúy Kiều- Tài năng và nhan sắc của Thúy Kiều“Mai cốt cách tuyết tinh thần”“Làn thu thủy nét xuân sơn,Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh”“Thông mình vốn sẵn tính trờiPha nghề thi họa, đủ mùi ca ngâmCung thương lầu bậc ngũ âmNghề riêng ăn đứt hồ cầm một trương”“Tay tiên gió táp mưa sa”Tài năng và nhan sắc của Thúy Kiều còn
được thể hiện qua ngôn ngữ của nàng. Nó như là một thông điệp làm tăng thêm sự
sắc sảo, thông minh của nàng trong lòng người khác: “Biết dường khinh
trọng, biết lời phải chăng”Đến tên cáo già Hồ Tôn Hiến mà còn bị chinh
phục:“Nghe càng đắm, ngắm càng say.Lạ cho mặt sắt cũng ngây vì tình”.Nàng Kiều với vẻ đẹp, tài năng dường như
ẩn chứa trong đó sự hờn ghen đố kỵ của con tạo. Và cũng vô tình trong lễ
thanh minh, đi tảo mộ, nàng bắt gặp nấm mộ xè xè bên đường của Đạm Tiên,
nghiệm đến thân mình mà than: “Đau đớn thay phận đàn bà/ Lời rằng bạc
mệnh cũng là lời chung”. Và cuộc đời 15 năm lưu lạc của Kiều cũng chính là
một câu trả lời cho sự tiên nghiệm đó. Kiều cũng chịu chung số phận với
những người đẹp trong lịch sử, họ trở thành nạn nhân của chế độ phong kiến
vô nhân đạo.- Số phận nghiệt ngãTrải qua bao sóng gió đoạn trường, một
nàng Kiều sắc nước hương trời đã chịu bao nghiệt ngã đổ lên tấm thân yếu mềm
của mình. Ngoài cảnh “Thanh y hai lượt, thanh lâu hai lần”, Kiều đã phải
trải qua hai lần đi trốn, bốn lần định tự tử, hai lần đi tu, sáu lần lấy chồng,
mấy lần bị đòn và hành hạ…Tuổi cập kê nén lòng vì chữ hiếu bán
mình chuộc cha, đâu hay rằng một bước lại sa vào vòng nhục nhã, muốn thoát cũng
không được.Tấm thân ngọc ngà trong mười lăm cái
xuân xanh của tuổi trẻ chỉ biết tới mùi của khổ đau: “Tiếc thay một đóa trà mi.
Con ong đã tỏ đường đi lối về”“Lời ngọt thì lọt đến xương”, quả đúng
vậy, biết Tú Bà và Mã Giám Sinh lừa mình, Kiều rút dao tự tử nhưng khi nghe lời
“khuyên giải” của Tú Bà, Kiều tiếp tục sống.Tưởng Sở Khanh là một chính nhân quân
tử, Kiều lóe lên một hi vọng giải thoát thân mình, không ngờ gã họ Sở lừa lọc
lại cùng phường với Tú Bà.Kiều hứng lấy một trận roi “nát thân bồ
liễu”, rồi chịu đày thân mình lại chốn lầu xanh, sống kiếp “làm vợ khắp người
ta”, để “khi tỉnh rượu, lúc tàn canh. Giật mình mình lại thương mình xót
xa”.Cứ ngỡ Thúc Sinh thực lòng mà chung
sống, nào ngờ thế gian độc địa, Thúc Ông lấy làm nhục mà cáo quan, Kiều lại
thêm một trận sống dở chết dở vì đòn roi quan phủ. Vượt qua thử thách với trí
thông minh và tấm lòng bao dung, nhẫn nhịn, Kiều được sống những ngày được làm
người.Thật thương thay người có lòng nhưng
trời vẫn không tha. Thúc Sinh lại là kẻ “nhất vợ nhì trời”, Kiều lại phải chịu
thêm đòn roi và bao tủi nhục.Cùng đường, đem thân gửi chốn thiền môn,
dè đâu chẳng được yên thân, đã trốn đi, vào chùa rồi lại còn sa vào tay Bạc Bà,
Bạc Hạnh.Tưởng rằng được gặp Từ Hải trả ân báo
oán thế nhưng lại rơi vào vòng luẩn quẩn không cùng. Ân oán vừa báo xong, người
chưa phút gặp song thân chẳng may lại gặp phải nạn mới, chỉ bởi nhẹ dạ. Một
bước thoát cảnh hồng trần, cũng một bước sa vòng nghiệt ngã, một bước Kiều trở
thành phu nhân nhưng một lời của Kiều lại làm cho Từ Hải phải chết đứng giữa
vòng vây kẻ thù.Điều gì đến ắt không thể tránh“Rằng: Hồng nhan tự nghìn xưaCái điều bạc mệnh có chừa ai đâu”- Nỗi đau đớn và nước mắt tuyệt vọng của
KiềuTài mệnh tương đối không chỉ là câu
chuyện bất hạnh của người có sắc đẹp mà còn là câu chuyện bất hạnh của
người sống bằng tình. Di chứng, nỗi ám ảnh… hằng sâu vào tâm hồn và thân thể
của họ.Cái còn lại sau những lằn roi mà số phận
nghiệt ngã quất xuống đời họ… là nước mắt… là tuổi hờn… là đau đớn“Lòng đâu sẵn mối thương tâmThoắt nghe Kiều đã đầm đầm châu sa”“Lại càng ủ dột nét hoaSầu tuôn đứt nối châu sa vắn dài”“Nỗi riêng lớp lớp sống dồiNghĩ đòi sơn lại sụt sùi đòi cơn”“Giọng Kiều rền rĩ trướng loan”“Màu hoa lê hãy dầm dề giọt sương”“Đau lòng kẻ ở người điLệ rơi thắm đá tơ chia rũ tằm”Kiều là cô gái yếu đuối như bao nữ nhi
khác. Khi phải hứng chịu bao đọa đày của đất trời, tình cảm của nàng cứ trào ra
lâm ly, thống thiết. Người đa tình mà thế gian lại quá vô tình. Người đa cảm mà
cuộc đời cứ hững hờ, vô cảm. Thúy Kiều cô độc, lặn ngụp trong nỗi đa sầu đa
mang ấy, đến nỗi:“Nỗi riêng riêng những bàng hoàngDầu trong trắng đĩa, lệ tràn thấm khăn”Hết lần này đến lần khác, khi gặp nạn,
con người tài sắc, tài hoa, tài tình này chỉ biết khóc.Tấm thân Kiều bị vùi dập, chà đạp, hành
hạ, lừa gạt, sỉ vả, đến ngao ngán, bi phẫn, uất nghẹn, ê chề. Ấy vậy mà gần
3000 câu thơ, vẫn còn sót lại một nụ cười duy nhất. Nụ cười ấy trở nên quá nhỏ
bé giữa biển nước mắt mênh mông.“Cùng nhau trông mặt cả cườiDan tay về chốn trướng mai tự tình”Nếu số mệnh đã cho Kiều một lần được
cười lớn thì cũng cho nàng, lần này phải khóc đến lã người, đau đớn như hồn lìa
khỏi xác:“Dòng thu như xối cơn sầuDứt lời nàng cũng gieo đầu một bênLạ thay oan khí tương triềnNàng vừa phục xuống Từ liền ngã ra”Đau khổ tột đỉnh là sự dằn vặt chính bản
thân mình. Tình huống trơ trêu khiến Kiều là kẻ gián tiếp giết Từ Hải, giết
người mình thương yêu, quý trọng, cũng là giết đi hạnh phúc, giết đi chính bản
thân mình. Kiều một đời đã sống vì tình và đến đây thì cũng “chết” vì tình, bởi
trái tim quá yếu mềm, dại dột.Khi bị rơi vào đêm trường đầy trái
ngang, oan nghiệt, người con gái mang đầy dự cảm về thân phận mong manh ấy chỉ
biết khóc. Nước mắt vô dụng, nó không thể kéo con người ta ra khỏi bùn nhơ,
khỏi vực sâu tăm tối. Vì thế nước mắt không chỉ tượng trưng cho nỗi đau mà còn
tượng trưng cho sự cúi đầu bất lực, mệt mỏi và cam chịu. Những người tài hoa,
tài sắc và tài tình đứng trước số trời, trước số mệnh chỉ có thể cúi đầu khuất
phục. Họ là những kẻ không sao tẩu thoát được khỏi cái án “tài mệnh tương đố”
cứ mãi treo lơ lửng trên đầu.“Đã mang lấy nghiệp phong trầnCũng đừng oán trách trời gần, trời xa”3.3.2. Cuộc đời “tài mệnh tương đố”,
“hồng nhan bạc mệnh” của các nhân vật khác trong “Truyện Kiều”Không chỉ riêng một mình Kiều có sắc, có
tài mà phải chịu muôn phần nghiệt ngã. Thuyết “tài mệnh tương đố”, “hồng nhan
bạc mệnh” còn vận vào nhiều người khác như Đạm Tiên, Từ Hải…- Đạm Tiên được coi là người tài sắc vẹn
toàn“Nổi danh tài sắc một thì,Xôn xao ngoài cửa hiếm gì yến anh”Thế nhưng duyên phận nàng lại quá hẩm
hiu:“Kiếp hồng nhan có mong manhNửa chừng xuân thoắt gãy cành thiên
hương”Trong dòng chuyển dịch, như một cỗ xe
sắp rã mục, xã hội phong kiến cố hơn mình để dìm kiếp người tài hoa vào
tuyệt lộ thâm u, rùng rợn:“Phũ phàng chi bấy góa côngNgày xanh mòn mỏi má hồng phôi phaSống làm vợ khắp người ta.Khéo thay thác xuống làm ma không chồng”Sống trong một xã hội mà luật thừa trừ
luôn bất di bất dịch. Tạo hóa đã ban tặng cho con người tài sắc nhưng lại không
dành tặng cho họ cuộc sống ấm êm, hạnh phúc. Có điều bất bình như vậy là bởi
đạo Trời vốn ghét cái trọn vẹn: “tạo vật đố toàn, tạo hóa kị doanh”, cho nên
Nguyễn Du mới nói:“Lạ gì bỉ sắc tư phongTrời xanh quen thói má hồng đánh ghen”- Từ Hải, một anh hùng “đội trời đạp
đất”“Rằng: là từ đấng anh hùngDọc ngang trời rộng vẫy vùng bể khơi”Cũng không thể tránh khỏi định mệnh,
“trí dũng có thừa” nhưng khi vướng vào thuyết “tài mệnh tương đố”. Sự “côn
quyền hơn sức lược thao gồm tài” đó thoắt cũng tiêu tan theo một cái chết thê
lương, dữ dội:“Khí thiêng khi đã về thần,Nhơn nhơn còn đứng hon chân giữa vòng.Trơ như đá, vững như đồngAi lay chẳng chuyển ai rung chẳng dời”Chế độ phong kiến rất sợ cái tài nhưng
nếu quan niệm tài là tài hoa, tài tình “nghìn thu bạc mệnh một đời tài hoa” thì
Kim Trọng, Thúy Vân hay Hồ Tôn Hiến cũng là những nhân vật có tài nhưng lại
không vị quy luật “tài mệnh tương đố” chi phối.Ngay từ đầu khi nói về Thúy Vân, Nguyễn
Du đã thông báo cho mọi người biết được một tương lai rạng sáng đang được mở
ra:“Vân xem trang trọng khác vờiKhuôn trăng đầy đặn nét ngài nở nangHoa cười ngọc thốt đoan trangMây thua nước tóc tuyết nhường màu da”Kim Trọng cũng được không kém phần ưu
ái:“Nền phú hậu bậc tài danhVăn chương nết đất thông minh tính trời”Đối với Hồ Tôn Hiến, đây lại là nhân vật
xuất hiện ít nhất trong truyện nhưng khi miêu tả thì chỉ bằng mấy câu thơ,
Nguyễn Du đã làm nổi bật lên cái tài kinh luân xuất chúng của hắn:“Có quan Tổng đốc trọng thầnLà Hồ Tôn Hiến kinh luân gồm tàiĐẩy xe vâng chỉ đặc saiTiện nghi bát tiễu việc ngoài đổng
nhung”Hồ Tôn Hiến giết được Từ Hải chỉ bằng sự
thông minh của mình mà không phải tốn một chút sức lực nào, sự chiến thắng một
cách triệt để đó khiến người ta vừa căm hờn vừa khâm phục.Có sự khác biệt về số phận giữa mọi
người là do cái nghiệp từ kiếp trước tạo nên. Bởi thế mà “cho thanh cao mới
được phần thanh cao”3.3.3. Vấn đề mở rộnga. Tư tưởng “tài mệnh tương đố”,
“hồng nhan bạc mệnh” đúng hay sai?Tư tưởng “tài mệnh tương đố” không đúng
cho tất cả trường hợpĐem ba nhân vật nữ tượng trưng cho sắc
tài là: Đạm Tiên, Thúy Kiều, Thúy Vân ra cùng đối chiếu+ Thúy Vân là có sắc đạp hài hòa, dung
hợp, nó không kiêu kỳ, không sắc sảo, không quá khác thường+ Cái đẹp của Đạm Tiên, Thúy Kiều là cái
đẹp sắc nước hương trời, nghiêng nước nghiêng thành dữ dội khiến tất cả
phải “xôn xao ngoài cửa hiếm gì yến anh”, đẹp đến “lạ cho mặt
sắt cũng ngây vì tình”Đạm Tiên và Thúy Kiều còn trội hơn Thúy
Vân bởi tài cầm kỳ thi họa, bởi tư chất thông minh, mẫn tuệ và sự tinh tường
nhạy cảm. Nhưng quan trọng nhất là cái tình ẩn chứa bên trong hai con người này
quá lớn.Trật tự phong kiến, nhất là trong thời
suy, là một thứ trật tự chà đạp lên con người, xem con người chỉ là một lợi
khí. Với thứ trật tự ấy, tiện nhất là được những người như Thúy Vân. Một người
con gái mới lớn, còn bàng quang trước tình cảm của người khác và cũng không yêu
ai.“Kiều là một người rất phiền phức cho
trật tự phong kiến” (Hoài Thanh).Nội tình của Kiều, sức sống của Kiều,
say mê của Kiều gây rắc rối, lộn xộn cho cái trật tự ấy biết bao nhiêu. Sức
sống Kiều khiến cho cái nền phong kiến bị chông chênh, rạn nứt.Lại đem ba nhân vật nam trong Truyện
Kiều ra so sánh: Từ Hải, Hồ Tôn Hiến, Kim Trọng. Đây là ba đấng nam tử đầy kỳ
tài.+ Hồ Tôn Hiến với tài kinh luân, có thể
gọi là kẻ “đại trí”.+ Từ Hải với tài võ nghệ, lược thao, tài
hoa, tài tử, có thể sánh với bậc đại dũng.+ Kim Trọng thì con nhà chức cao vọng
trọng, là bậc tài danh, tài tử, tài hoa, tài tình.Vậy cớ sao bốn chữ “tài mệnh tương đố”
chỉ đeo đẳng và ứng nghiệm với cuộc đời Từ Hải?Thứ nhất, có thể nói, đó là vì Từ Hải là
kẻ đứng đầu danh sách những người có hại cho xã hội phong kiến, là tên đầu sỏ
chĩa mũi tấn công vào các giai tầng cao cấp của thể chế này.Thứ hai, Từ Hải lại là kẻ quá đa tình.
Chàng chết vì bị tình yêu làm mờ mắt:“Khóc rằng trí dũng có thừaBởi nghe lời thiếp nên cơ hội này”Hồ Tôn Hiến, Kim Trọng tuy kẻ ác, người
thiện nhưng đều là hạng người an toàn cho xã hội phong kiến. Bản thân Hồ Tôn
Hiến là tay sai đắc lực cho chế độ này. Còn Kim Trọng là đứa con yêu của xã hội
phong kiến, được “nền phú hậu, bậc tài danh” làm bệ đỡ vững chắc, được cả
xã hội phong kiến giữ gìn, bao bọc.Mệnh trời là một lẽ, yếu tố quan trọng
còn là lòng người. Cái sắc, cái tài ấy có được xã hội ưng thuận thì mới “thanh
cao”, nếu đã làm mất lòng rồi thì lập tức sẽ bị triệt tiêu, vùi dập.Tài mệnh tương đố, hay chính lòng người
đố kỵ, nhân tình bạc bẽo. Kẻ muốn vươn lên ắt sẽ bị đạp xuống, kẻ muốn phá hủy
trật tự ắt sẽ bị trật tự ấy phá hủy. Trời không muốn và lòng người cũng không
dung thứ cho những tài, sắc, và tình phi thường. Bởi thế tài mệnh tương đố đúng
hay sai còn tùy thuộc vào từng người từng cảnh.b. Cách nhìn và thái độ của Nguyễn Du
đối với thuyết “tài mệnh tương đố”, “hồng nhan bạc phận”. Đời Kiều hay là đời
tác giả?Qua cuộc đời “Hết nạn nọ đến nạn kia.
Thanh lâu hai lượt thanh y hai lần; Khi Vô Tích khi Lâm Tri. Nơi thì lừa đảo
nơi thì xót thương; thoắt buôn về thoắt bán đi, mây trôi bèo nổi thiếu gì là
nơi” của Thúy Kiều, Nguyễn Du khái quát thành quy luật chung“Trăm năm trong cõi người taChữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau”Có ý kiến cho rằng Truyện Kiều chính là
một tác phẩm phỏng theo tâm sự có thật của chính tác giả: “Cụ với Kiều tuy
sinh không đồng thời, ở không đồng xứ, nhưng cũng là một thanh một khí…”Cụ là một người trung thần mà gặp buổi
Lê suy, cũng như Kiều là một người trinh nữ gặp cơn gia biến. Dù cụ có muốn
trung với Lê Hoàng, song nhà đổ, một cây chống sao cho nổi, khác gì Kiều, muốn
thủ nghĩa với Kim Trọng, song chuộc cha thế phải bán mình (Lê Văn Hòe)Nguyễn Bách Khoa, nói về truyện Kiều kia
một cách quyết đoán như chân lý bao giờ cũng nằm sẵn trong túi áo: “Truyện
Kiều kia, Nguyễn Du viết ra không phải chỉ để diễn tả tâm sự, cũng không phải
chỉ để tả thời đại ông. Nguyễn Du viết Truyện Kiều là để tự giải thoát bằng
cách tự thực hiện mình ở các vai trò, ở các sân khấu trên đó tấn trò đã diễn ra
đủ hồi, đủ lớp”.Nguyễn Du suy nghĩ về cuộc đời, cảm khái
về cuộc đời, về những điều trông thấy mà đau đớn lòng. Do gắn bó với con người,
với cuộc sống và do phải trải qua những năm gian truân, ông đặc biệt thương xót
người có tài có tình. Ấy là những nhà thơ nổi tiếng trác tuyệt mà cuộc đời trải
qua muôn vàn bất hạnh; là những bậc anh hùng hào kiệt mà thất thế; là những
người phụ nữ sắc đẹp khuynh thành mà phải chịu số phận buồn thảm.Trong tư tưởng ông, những lực lượng tàn
phá cái hay, cái đẹp ông khái quát thành số mệnh. Trong thế giới hình tượng
Truyện Kiều, lần lượt xuất hiện bọn quan lại, bọn lừa lọc, buôn người… những
thủ phạm trực tiếp gây ra số kiếp long đong lận đận của Kiều. Hiện thân của họ
là những đồi phong bại tục. Đây là thực tại của những thiết chế trong xã hội
phong kiến suy tàn. Nên mâu thuẫn giữa chế độ phong kiến và bản chất con người
là ý nghĩa đích thực, là bản chất của thế giới hiện thực được mô tả qua nội
dung truyện. Nhưng tác giả lại nhận thức với một ý nghĩa siêu hình: bản chất
của nó là mâu thuẫn giữa tài và mệnh. Tài mệnh tương đố là niềm tin sâu sắc của
tác giả.Chế độ phong kiến trên đà tan rã nên
không dung nổi tài hoa. Không gian lồng lộng mà tài hoa không có điểm tựa để
tồn tại nên Đỗ Thập Nương làm kỹ nữ, Thúy Kiều bán mình, Giả Bảo Ngọc phải uất
hận ra đi; những người ấy, tình của họ đầy đến mức đành phải “khối tình ôm
xuống tuyền đài chưa tan”Nói cho cùng, sự mâu thuẫn ở đây là sự
mâu thuẫn trong con người, trong tư tưởng của ông chứ không phải giữa Tài, mệnh.Giáo sư Trần Đình Hượu từng nhận xét:
“Các nhà nho cho sắc đẹp là một thứ của làm nước mất nhà tan, một điềm bất
tường. Gia đình xã hội đề cao người con gái nết na đoan trang chứ không đề
cao sắc đẹp. Cuộc đời lưu lạc của Thúy Kiều thể hiện những triết lý của
Nguyễn Du về thuyết “hồng nhan bạc phận” nhưng ta có thể nhận thấy sự đồng
cảm và bênh vực của thi nhân đối với những người phụ nữ nhan sắc.
Nguyễn Du viết về người phụ nữ tài sắc bằng con mắt thoát ly với định kiến
thong thường của xã hội phong kiến và mang tầm tư tưởng nhân đạo cao cả.
Viết về Kiều, dù cuộc đời lưu lạc của nàng đầy cay đắng nhưng ông không
gợi cho người đọc nàng là một kỹ nữ đáng khinh miệt mà Nguyễn Du luôn đứng
trên lập trường bảo vệ nhân phẩm và cảm thông tri âm với nàng.”Nguyễn Du đã thật tài tình khi ngấm ngầm
đẩy Kiều trở về với cuộc sống thanh sạch, đã khiến cho tâm hồn Kiều vẫn giữ
được những phẩm chất cao thượng cho đến phút hạ màn. Đó dường như cũng là ước
mơ, là khát vọng của ông về một lối thoát, một chân trời bình yên, tươi sáng
cho những người tài hoa bạc mệnh.KẾT LUẬNNhìn ở góc độ nào đó thuyết tài mệnh
tương đố, hồng nhan bạc phận mà Nguyễn Du nêu ra là xuất phát từ học thuyết của
tam giáo đồng nguyên nhưng Nguyễn Du đã cảm nhận và giải thích nó bằng quan
niệm rất riêng. Nguyễn Du không hề rơi vào duy tâm hay bi quan. Mặc dù trong
tác phẩm có nhiều câu phát biểu trực tiếp của tác giả còn gọi là lời trữ tình
ngoại đề mang tính siêu hình nhưng qua hệ thống hình tượng nhân vật ta thấy lời
phát biểu của tác giả với tư tưởng tác phẩm mâu thuẫn nhau. Cho nên có thể nói,
Nguyễn Du là một nhà tư tưởng không triệt để. Nguyễn Du đã từng bảo rằng “Tài
tình chi lắm cho trời đất ghen”. Cuối cùng Nguyễn Du lại than một câu:Có tài mà cậy chi tài,Chữ tài liền với
chữ tai một vần.Nhà thơ đã nhận ra cuộc đời là thế. Cuộc
đời là sự tranh quyền đoạt thế, lòng ích kỷ của con người làm cho họ sẵn sàng
hãm hại nhau, mà người có tài luôn là cái gai trong mắt của những kẻ tiểu nhân.
Một xã hội phản động luôn tìm cách loại trừ những bậc tài năng. Thế nên, chúng
tôi rất đồng tình với Đỗ Đức Dục: “Trong xã hội phong kiến, tài được quan niệm
một cách trừu tượng mà mệnh là một yếu tố siêu nhiên, và trong vấn đề xung đột
giữa tài và mệnh gắn liền với thuyết như Hồng nhan bạc mệnh, Bỉ sắc tư phong
mang tính chất trừu tượng và siêu hình, đó là mâu thuẫn giữa cá nhân tài năng
với xã hội, rồi đi đến chỗ chung hơn nó được mở rộng thành vấn đề mâu thuẫn
giữa cá nhân và xã hội… Cuối cùng, về thực chất đó là quyền sống của con người
và chế độ xã hội.Chủ đề “Tài mệnh ghét nhau” có ý nghĩa
khách quan, ý nghĩa xã hội rộng lớn vượt xa chủ đề đó, vượt xa tư tưởng chủ
quan của tác giả, nó đề cập đến vấn đề quyền sống của con người trong xã hội
phong kiến”Qua đó, ta cũng thấy rằng ở thế kỷ
XVIII, số phận, hạnh phúc của người phụ nữ được bênh vực công khai bằng lời lẽ
vừa bi ai, vừa quyết liệt. Có thể xem đây là mầm móng cho tinh thần hiện thực
phê phán sau này. Nhưng ở thời đại bấy giờ, Nguyễn Du chỉ dừng lại ở mức độ
đồng tình với những mảnh đời bất hạnh, thông cảm cho họ và phê phán xã hội chứ
chưa tìm ra giải pháp giải phóng họ. Nhìn thấy những bất công để rồi căm phẫn,
không giải quyết được bất công để rồi bất lực, bi quan, rồi lại rơi vào chủ
nghĩa định mệnh. Đó là trường hợp của Nguyễn Du. Tham khảo1.1.2 Định mệnh - hạn chế trong tư tưởng
Nho gia cũng là hạn chế trong tư tưởng Truyện Kiều:Nếu đi tìm tư tưởng định mệnh ở Nguyễn
Du thì không đâu bằng tìm ở Truyện Kiều. Như đã nói thuyết “tài mệnh tương đố”
không bao trùm hết số phận các nhân vật trong Truyện Kiều. Thế giới
của Truyện Kiều là thế giới của những con người có tài: tài hoa, tài
trí dũng, tài trí xảo. Nhưng không phải ai có tài cũng đều bất hạnh, như: Kim
Trọng, đại thần Hồ Tôn Hiến, Vương Quan, Thúy Vân đều là những kẻ có tài, người
có sắc nhưng số phận không nghiệt ngã đối với họ. Nguyễn Du đã lý giải điều này
dựa trên thuyết định mệnh của Nho gia. Đây cũng là một học thuyết bất công mà
con người tỏ ra bất lực:Bắt phong trần phải phong trầnCho thanh cao mới được phần thanh cao.Điều này có nghĩa là số phận con người
đã được giới tối cao định sẵn, “tử sinh hữu mệnh, phú quý tại thiên”, sống chết
có số, giàu sang do trời. Cho nên, “vạn sự bất do nhân kế hiệu, nhất sinh đô
thị mệnh an bài” [7;46], mọi việc chẳng do người toan tính bởi cả đời người đều
được số mệnh an bài.Theo GS. Lê Đình Kỵ: “Một mặt chủ nghĩa
định mệnh của Truyện Kiều bắt nguồn từ tư tưởng thiên mệnh của đạo Nho… Mặt
khác, chủ nghĩa định mệnh của Nguyễn Du cũng đồng thời bắt nguồn từ tư tưởng
luân hồi nhân quả của nhà Phật”. Còn bài viết của Tạ Ký trong Việt Nam thi
văn trích giảng thì cho rằng: “Chúng ta không nên lầm định mệnh với thiên
mệnh của Nho giáo. Trời theo quan niệm Nho giáo không phải là ông trời của Định
mệnh thuyết” [11;64].Nhưng việc xác định nguồn gốc của một
học thuyết tư tưởng có ý nghĩa gì chăng? Tại sao các nhà nghiên cứu thường hay
đi tìm nguồn gốc của chúng?Nếu như các triết gia đi từ những hiện
tượng riêng lẻ để đi đến khái quát chúng thành quy luật thì các nhà nghiên cứu
đi ngược lại. Nghĩa là, nhà nghiên cứu đi từ những thuộc tính, những biểu hiện
của hiện tượng rồi quy hiện tượng ấy vào quy luật chung, dựa vào quy luật chung
ấy mà tìm đến bản chất của hiện tượng và tiến hành lý giải chúng. Chẳng hạn, ta
cho câu tục ngữ “hễ gieo gió thì gặt bão” là học thuyết nhân quả của nhà Phật
thì ta có thể dựa vào thuyết ấy mà lý giải câu tục ngữ trên. Một ý thức hệ ra đời là xuất phát từ
cách phân tích, đánh giá của con người ở một thời đại nhất định, xuất phát từ
một thực tại xã hội nhất định. Nói rộng ra, một thượng tầng kiến trúc chỉ phù
hợp với một cơ sở hạ tầng nhất định. Đứng trên lập trường quan điểm khác nhau
sẽ có cách đánh giá khác nhau. Sở dĩ tư tưởng đạo đức Nho gia không vạch trần
được tội ác trong cuộc sống hiện thực của con người, không phân tích chúng một
cách sâu sắc bởi Nho giáo nhìn nhận cuộc sống bắt nguồn từ cái thiện, “nhân chi
sơ tính bổn thiện”. Mọi học thuyết của Nho giáo đều nhằm mục đích duy nhất là
hướng con người vào cái thiện. Còn Phật giáo nhìn cuộc sống con người ở chữ
“si” (ngu si, vô minh) và do vô minh mà con người cứ bị quay vòng trong chữ
khổ. Học thuyết nhà Phật ra đời cốt yếu nhằm giải trừ nỗi khổ cho con người.Bởi thế, nếu xác định thuyết định mệnh
vừa bắt nguồn từ tư tưởng thiên mệnh của Nho gia vừa bắt nguồn từ tư tưởng luân
hồi nghiệp báo của nhà Phật thì đó là một mâu thuẫn lớn. Theo Phật giáo, mệnh
do nghiệp mà ra, nghiệp tốt thì hưởng mệnh tốt, nghiệp xấu thì hưởng mệnh xấu.
Nghĩa là con người hoàn toàn có khả năng quyết định vận mệnh của mình, mình
muốn tương lai được tốt thì hiện tại phải làm việc tốt. Định mệnh không làm
người ta bi quan mà hướng con người làm việc tốt nhằm giải khổ cho con người.
Nho giáo thì ngược lại. Tư tưởng thiên mệnh dạy con người phải biết “úy thiên
mệnh”, sợ mệnh trời và phục tùng số mệnh. Bởi “Đấng hiền xưa nói rằng: Những
người biết mệnh thì thấy lợi lộc cũng chẳng động lòng tham, đến lúc phải chết
cũng chẳng oán, mệnh cho một ngày thì sống một ngày, mệnh cho một giờ thì sống
một giờ, dù nhanh hay chậm thì nẻo trước cũng bấy nhiêu đường mà thôi (nghĩa là
số mạng đã định trước thì dù lâu hay mau cũng sẽ đến nơi đó). Thời mà lại thì
dầu cao như gác Đằng Vương gió cũng sẽ đến, vận mà qua thì có vững như bia Tiến
Phúc sấm cũng đánh ngã”.(Tích hiền viết: tri mệnh chi nhân, kiến
lợi bất động, lâm tử bất oán, đắt nhất nhật quá nhất nhật, đắt nhất thời quá
nhất thời, khẩn hành , mạn hành, tiền trình chỉ hữu hứa đa lộ. Thì lai phong
tống Đằng Vương các, vận khứ lôi oanh Tiến Phúc bi). [7;49]Định mệnh của Nho giáo là qui luật định
sẵn, con người không có khả năng chống lại. Nho giáo bắt con người phục tùng
tuyệt đối số mệnh của mình. Người làm quan thì cứ lo an phận làm quan đừng mơ
mộng đổi đời làm vua vì anh ta đâu có số làm vua, còn người đã có số làm vua
thì dù có trốn tránh thế nào cũng sẽ làm vua. Thuyết định mệnh ấy nhằm mục đích
duy nhất là ổn định trật tự xã hội.Tóm lại, nếu định mệnh bắt nguồn từ tư
tưởng nghiệp báo luân hồi của nhà Phật thì ta có thể thay đổi, còn tư tưởng
định mệnh bắt nguồn từ tưởng thiên mệnh của Nho gia thì ta không thể thay đổi,
phải phục tùng. Vậy với Nguyễn Du, định mệnh có thể thay đổi được chăng?Như ta biết, ảnh hưởng tư tưởng định
mệnh trong Truyện Kiều còn rất mạnh. Tư tưởng đó được ông thầy tướng
số bày ra trước, Đạm Tiên tiếp tục củng cố và phát triển, cuối cùng người tổng
kết lại chính là sư vãi Giác Duyên. Có lẽ trong con người thi sĩ Nguyễn Du có
niềm tin nơi định mệnh ở một mức độ nào đó. Con người chúng ta, nhất là những
lần thất bại trong cuộc sống, chúng ta thường trở nên bi quan và đổ lỗi cho
định mệnh, cho số trời. Đó cũng là tâm lý chung nhằm giúp con người được chút
an ủi khi thất bại. Ở xã hội thời Nguyễn Du, những bất công, những đổi thay của
xã hội, của lịch sử cứ liên tục diễn ra mà con người không lý giải nổi, cho nên
Nguyễn Du tin vào định mệnh là lẽ đương nhiên. Đó không chỉ là đức tin của
Nguyễn Du mà còn là đức tin chung của thời đại, của Nho sĩ thời bấy giờ. Cũng
như Nguyễn Huệ đã dựa vào lực lượng nông dân để để làm nên sự nghiệp lẫy lừng,
nhưng khi lên ngôi thì Ngô Thì Nhậm lại viết: “… Nước Việt Nam ta từ Đinh,
Lê, Lý, Trần gây dựng ra nước cho đến nay, thánh minh dấy lên không phải vì một
họ, nhưng thịnh suy, dài ngắn vận mệnh do trời không phải do người tạo ra.” [
Dẫn theo 11;71]Có thể nói tư tưởng thiên mệnh một mặt
là sản phẩm của xã hội phong kiến, một mặt là công cụ để quan lại phong kiến
dùng để duy trì trật tự xã hội. Nhưng Truyện Kiều của Nguyễn Du không
nhằm mục đích tuyên truyền, mị dân giúp cho chế độ lúc bấy giờ mà nổi trội là ý
nghĩa phê phán và buộc tội xã hội. Tuy vậy, thuyết định mệnh cũng làm cho Truyện
Kiều rơi vào một vài hạn chế và cũng là mâu thuẫn lớn trong con người
Nguyễn Du. Một mặt, ông phê phán định mệnh, một mặt lại rất tin vào định mệnh.
Và dường như với quan niệm Nguyễn Du, phụ nữ là người chịu sự áp đặt khắt khe
nhất của định mệnh:Hồng quân với khách hồng quần,Đã xoay đến thế còn vần chưa tha.Hay:Đau đớn thay phận đàn bà,Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung.Từ Đạm Tiên đến Thúy Kiều và cả Thúy Vân
cũng chịu sự chi phối của định mệnh. Nhưng khác nhau là Đạm Tiên và Thúy Vân là
những người thuận theo mệnh mà sống, còn Thúy Kiều là người luôn chống lại định
mệnh.Đạm Tiên sau khi chịu số hồng nhan bạc
phận thì chịu yên theo kiếp “làm ma không chồng”, chịu yên theo bổn phận làm sứ
giả truyền lời phán quyết của Hội chủ hội đoạn trường đến Kiều. Nàng không một
chút than van, không một lời kể khổ. Có lẽ tuân theo mệnh trời, biết an phận
con người sẽ không khổ. Kết luận này được chứng minh bằng sự đối lập giữa cuộc
đời Thúy Kiều và Thúy Vân. Kiều và Vân cùng sinh trong gia đình gia giáo, cùng
là những kẻ tài hoa, sắc nước hương trời. Nhưng cuộc đời Vân không vướng lấy
cái khổ, bởi lẽ nàng là người nhất nhất tuân theo số mệnh. Vân vốn không yêu
Kim Trọng, nhưng khi Kiều trao duyên Vân vẫn nhận lời. Vân nhận lời với một
thái độ cam chịu, phó mặc hạnh phúc cho định mệnh. Vân thừa nhận mình nhận
duyên là bởi:Chuộc cha chị lỗi duyên này,Thôi đành duyên chị sau này thay em!Tiếng “thôi đành” mà Vân cất lên, ta
nghe như lời cam chịu đến nghẹn ngào. Bởi lẽ, điều mà Kiều trao là tình duyên -
một thứ mà xưa nay không ai lại trao gởi, chia sẻ - mà lại là một chút duyên
thừa. Nếu người trao duyên đã đau khổ đến ngất đi thì người chấp nhận mối duyên
thừa ấy trong lòng cũng chết lịm. Người trao duyên đau khổ đã đành, người “chấp
mối duyên thừa” cũng vô vàn khó xử. Nguyễn Du đã đặt Vân vào tình cảnh trái
ngang hơn ngàn ngang trái. Vì biết đâu Kim Trọng không yêu Vân, biết đâu
hạnh phúc cả đời Vân sẽ tan vỡ vì tình yêu Kiều luôn ám ảnh trong tâm trí
chàng Kim?Thế nhưng với Nguyễn Du, niềm lo lắng ấy
không tồn tại, tất cả đều được sự dàn xếp ổn thỏa của định mệnh. Ông cho rằng,
con người sẽ không buồn lo, đau khổ nếu họ biết tuân theo mệnh trời. Và như
thế, Vân trải qua cuộc sống gia đình êm ấm vì lúc nào Vân cũng giữ tròn bổn
phận. Mặc dù, Kim Trọng sống bên Vân nhưng tâm hồn lúc nào cũng nghĩ về Kiều
còn Vân không hề ghen tuông vì biết mình chỉ là kẻ thế thân. Định mệnh đã bắt
Vân phải chịu cuộc đời như vậy. Nếu Vân không có cái tư tưởng thuận mệnh thì có
lẽ Vân sẽ luôn dằn vặt, tâm hồn lúc nào cũng không yên vì tủi phận, vì ghen
tuông! Nhưng điều đó không xảy ra vì an phận đã làm Vân thanh thản với cuộc
sống. Vân chỉ biết cúi đầu nhất nhất tuân theo. Định mệnh bắt Vân “chấp mối
duyên thừa” thì Vân cứ nhận, định mệnh bắt Vân trả duyên thì Vân trả duyên. Vân
không một lời oán than, không một phút ngại ngần. Vân là mẫu người phụ nữ lý
tưởng nhất của thời đại phong kiến. Vân biết im lặng khi cần im lặng và biết
lên tiếng khi cần lên tiếng. Đó là lúc Vân nói lời trả duyên. Vân lên tiếng là
hợp lý nhất, vì:+ Kiều trao duyên cho Vân thì Vân là
người trả duyên mới đúng.+ Kim Trọng không thể là người đưa ra
yêu cầu kết duyên với chị của vợ mình.+ Gia đình cũng không thể đứng ra tác
hợp cho Kim Kiều vì như thế là bức ép Vân, Vân một lần nữa phải chịu thiệt.
Kiều sẽ không bao giờ chấp nhận điều đó.Cho nên, ta thấy hình như Nguyễn
Du đã trăn trở rất nhiều, cân nhắc rất nhiều khi để Vân trả duyên. Thực
chất trả duyên hay nhận duyên không không phải cái quyền Vân được tự do lựa
chọn, mà tất cả đều đã được sắp đặt sẵn của định mệnh. Điều này Kiều cũng đã
được Đạm Tiên mách cho biết khi nàng tự vẫn ở sông Tiền Đường. Đạm Tiên đã cho
Kiều biết:Còn nhiều hưởng thụ về sau,Duyên xưa đầy đặn phúc sau dồi dào.Như vậy là duyên tái hợp ấy là ở ý trời.
Vân cũng thừa nhận :Rằng: “Trong tác hợp cơ trờiHai bên gặp gỡ một lời kết giao…”Nghĩa là việc tác hợp lại là ở cơ trời,
Vân hay Kiều đều không phải là người quyết định. Vân thừa nhận rằng ngày
xưa chỉ vì:Gặp cơn bình địa ba đàoMới đem duyên chị buộc vào thay em.Nhưng mà:Bây giờ gương vỡ lại lành,Khuôn thiên lừa lọc đã đành có nơi.Cho nên, việc Kim Kiều hợp lại là một lẽ
tất nhiên. Điều này đã được trời định rồi. Trời “Bắt phong trần phải phong
trần, Cho thanh cao mới được phần thanh cao”. Cuộc sống chúng ta chịu rủi ro
hay nhận phần nhàn hạ, hạnh phúc đều được một lực lượng huyền bí quyết định
rồi. Con người nếu tuân theo, an phận theo thì không thấy gì là đau khổ; còn
nếu cố đấu tranh cũng chỉ chuốc lấy khổ đau vì không thể nào thoát khỏi số
mệnh. Con người có cố gắng vùng vẫy, mưu mô nhiều rốt cuộc cũng thấy mình bị
kẹp trong gọng kìm định mệnh. Thúy Kiều đã rơi vào trường hợp ấy. Lúc nhỏ Kiều
đã được ông thầy tướng số mách rằng:Anh hoa phát tiết ra ngoài,Nghìn thu bạc mệnh một đời tài hoa.Khi Kim Trọng nghe Kiều
giải bày niềm lo lắng thế, chàng trấn an rằng “Xưa nay nhân định thắng thiên
cũng nhiều”. Nhưng cuộc đời Kiều có “thắng thiên” được không? Mới êm ấm hạnh
phúc đó, mới thề nguyền chung thủy đó rồi gia biến, rồi Kiều trở thành người
vong phụ. Mời sống cuộc sống khuê các đó rồi phút chốc lại trở thành cô gái
phong trần. Và trong suốt 15 năm lưu lạc, Kiều không ngừng đấu tranh với số
mệnh nhưng không lần nào thắng. Lần đầu tiên, Kiều định chết vì biết “Phẩm tiên
rơi đến tay hèn”, nhưng sợ Mã Giám Sinh làm khó song thân nên cam chịu:Nỗi mình âu cũng giãn
dần,Kiếp chầy thôi cũng một
lần mà thôi.Rồi Kiều tự tử thật khi
biết mình rơi vào nhà chứa của mụ Tú Bà nhưng lại được cứu sống và được Đạm
Tiên mách bảo:Rỉ rằng: “Nhân quả dở
dang,Đã toan trốn nợ đoạn
trường được sao?Số còn nặng nghiệp má đào,Người dù muốn quyết, trời nào đã cho!Hãy xin hết kiếp liễu bồ,Sông Tiền Đường sẽ hẹn hò về sau…”Thế là con đường chống đối số mệnh bằng
cách huỷ thân không còn thực hiện được vì trời đã định Kiều phải sống, còn số
mệnh Kiều sẽ được giải quyết khi Kiều đến sông Tiền Đường. Cho nên, những lần
vấp ngã sau Kiều không còn nghĩ đến cái chết mà cố giữ cho mình cái tâm thanh
tĩnh. Ý thức về nhân phẩm thúc giục Kiều phải luôn chống đối với hoàn cảnh,
chống đối lại số mệnh. Và như đã nói, chống mệnh chỉ tự làm khổ mình. Nếu Kiều
cứ yên phận sống ở lầu Ngưng Bích, không có ý định trốn thoát thì đâu bị Sở
Khanh lừa và phải tiếp khách, để rồi phải sống những ngày tủi nhục:Khi sao phong gấm rủ là,Giờ sao tan tác như hoa giữa đàng.Mặt sao dày gió dạn sương,Thân sao bướm chán ong chường bấy thân.Cũng như không phải vì muốn yên phận với
cuộc sống làm lẽ để mong một chút hạnh phúc nhỏ nhoi, thì không tội gì Kiều
khuyên Thúc Sinh về gặp Hoạn Thư, để rồi phải rơi vào tình huống nghẹn ngào:Hai bên giáp mặt chiền chiền,Muốn nhìn mà chẳng dám nhìn, lạ thay!Cuộc đời lưu lạc của Kiều, những tình
huống thế này cứ lặp lại như một công thức. Kiều cố vượt qua đau khổ này thì cứ
mãi gặp đau khổ khác. Kiều muốn trốn khỏi sự ghen tuông của Hoạn Thư nên rời
khỏi Quan Âm các. Nhưng ra khỏi Quan Âm các lại rơi vào lầu xanh. Cảnh ghê rợn
ở lầu xanh luôn ám ảnh nàng. Nàng khiếp sợ nó đến mức chỉ cần có cơ hội thoát
khỏi là nàng không hề từ bỏ và nếu đã rời khỏi chốn đó thì nàng tìm mọi cách để
không phải quay vào. Cho nên, khi Hồ Tôn Hiến chiêu hàng, nàng đã nhận lời vì
nàng nghĩ làm mệnh phụ của triều đình thì không thể nào trở lại chốn ấy nữa,
Kiều nghĩ:Nghĩ mình mặt nước cánh bèo,Đã nhiều lưu lạc lại nhiều gian truân.Bằng nay chịu tiếng vương thần,Thênh thang đường cái thanh vân hẹp gì.Công, tư vẹn cả hai bề,Dần dà rồi sẽ liệu về cố hương.Cũng ngôi mệnh phụ đường đường,Nở nang mày mặt, rỡ ràng mẹ cha.Trên vì nước, dưới vì nhà,Một là đắc hiếu, hai là đắc trung.Chẳng hơn chiếc bách giữa dòng,E dè bão tố, hãi hùng phong ba.Giữa cái xã hội xô bồ, lòng người bạc
ác, Kiều thường hay nghi ngờ cho nên những kẻ gian ác thường hay thề thốt để
nàng tin. Nhưng dường như với Hồ Tô Hiến, Kiều có một sự tin tưởng nhất định vì
ít ra hắn cũng là đại diện của triều đình mà triều đình là đại diện của nhân
dân, là nơi “thiên tử” ngự. Lòng trung nghĩa của Kiều không cho phép nàng nghi
ngờ tên trọng thần này. Chính vì thế mà hắn có cơ hội thể hiện cái bỉ ổi của
mình: lợi dụng Kiều để lập công, dùng thủ đoạn xấu xa để đưa Kiều vào đường bất
nghĩa:Giết chồng mà lại lấy chồng,Mặt nào mà lại sống trong cõi đời?Đây không chỉ là nỗi nhục nhã, xấu xa mà
còn là một tội lỗi. Sự đau đớn này giúp Kiều nhận ra, càng chống đối lại số
mệnh thì càng chịu nhiều oan trái. Số mệnh đã chơi khâm nàng, nàng chỉ
biết chọn cái chết để giải thoát:Thôi thì một thác cho rồi,Tấm lòng bỏ mặc trên trời dưới sông!Lần này Kiều quyết định tự vẫn vì:Nhớ lời thần mộng rõ ràng,Này thôi hết kiếp đoạn tràng là đây!Đạm Tiên nàng hỡi có hay?Hẹn ta thì ở dưới này rước ta.Cuối cùng Kiều cũng tuân theo số mệnh.
Kiều chỉ chống lại những cái mệnh, những điều oan trái do con người gây ra,
nhưng cuối cùng phải phục tùng cái mệnh do trời sắp đặt. Mặc dù, chống đối của
Kiều không quyết liệt mà có phần nhượng bộ, nhưng nó có ý nghĩa rất lớn trong
tác phẩm. Nó khẳng định Kiều là người luôn có ý thức về nhân phẩm của mình,
luôn vươn lên trong cuộc sống để “gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn”. Điều này
đã làm nổi bật giá trị nhân đạo của tác phẩm.Nguyễn Du quá tin vào số mệnh. Suốt câu
chuyện nhiều lần Nguyễn Du cho nhân vật của mình tin vào số mệnh. Chẳng hạn,
khi Kiều mộng thấy Đạm Tiên đến báo nàng có tên trong sổ đoạn trường thì nàng
đã đau khổ:Cứ trong mộng triệu mà suy,Phận con thôi có ra gì mai sau!Hay là lúc nàng chia tay với Giác Duyên,
hai người đã trao đổi:Nàng rằng: “Thiên tải nhất thìCố nhân đã dễ mấy khi bàn hoàn.Rồi đây bèo hợp mây tan,Biết đâu hạc nội mây ngàn là đâu!”Sư rằng: “Cũng chẳng mấy lâu,Trong năm năm lại gặp nhau đó mà.Nhớ ngày hành cước phương xa,Gặp sư Tam Hợp, vốn là tiên tri.Báo cho hội ngộ chi kỳ,Năm nay là một, nữa thì năm năm.Mới hay tiền định chẳng lầm,Đã tin điều trước ắt nhằm việc sau.Còn nhiều ân ái với nhau,Cơ duyên nào đã hết đâu, vội gì?”Nàng rằng: “Tiền định tiên tri,Lời sư đã dạy ắt thì chẳng sai.Họa bao giờ có gặp người,Vì tôi cậy hỏi một lời chung thân”.Nhờ sự tin tưởng vào thiên cơ ấy mà Kiều
được cứu vớt khi nhảy sông Tiền Đường tự vẫn. Đó là do Tam Hợp báo cho Giác
Duyên:Giác Duyên dù nhớ nghĩa nhau,Tiền Đường thả một bè lau vớt người.Trước sau cho vẹn một lời,Duyên ta mà cũng phúc người chi không!Giác Duyên nghe nói mừng lòng,Lân la tìm thú bên sông Tiền Đường.Và trong truyện lại có rất nhiều nhân
vật thuộc loại hình nhân vật chức năng bói toán. Như ông thầy tướng số
chỉ xuất hiện để coi bói cho Kiều, ông thầy pháp chỉ xuất hiện để báo cho Thúc
sinh biết cái điều oan trái của Kiều, Đạm Tiên đến báo cho Kiều biết nàng đã có
tên trong sổ đoạn trường và cho nàng biết lúc nào thì chưa thể chết và lúc nào
thì chết được, còn sư Tam Hợp thì xuất hiện để báo cho Giác Duyên thời gian,
địa điểm để cứu Kiều. Cho nên, định mệnh không chỉ là hạn chế trong tư tưởng
nhà Nho hay hạn chế trong tư tưởng Nguyễn Du mà còn làm cho các nhân vật trong
truyện thiếu tính chân thật. Như Thúy Vân, nàng sống theo chương trình được cài
đặt ở “cơ trời”. Điều này làm cho Thúy Vân trở nên một cô gái không có đời sống
nội tâm và thiên truyện bị hạn chế ở mặt miêu tả tâm lý của một số nhân vật.
Như đã phân tích, có những chỗ đúng ra phải làm rõ nội tâm của Vân nhưng Nguyễn
Du không hề chạm tới.Định mệnh vừa là hạn chế trong tư tưởng
Nguyễn Du vừa là hạn chế của Truyện Kiều. Tuy vậy, nó lại không ảnh hưởng đến
giá trị chung của tác phẩm. Định mệnh được Nguyễn Du đưa ra nhằm nói lên sự bất
lực của con người cá nhân trong xã hội phong kiến, tố cáo sự tàn nhẫn của xã
hội đối với hạnh phúc của con người. Đó là giá trị hiện thực của tác phẩm.
Nhưng tư tưởng định mệnh lại làm cho tác phẩm chỉ dừng lại ở giá trị tố cáo
hiện thực, nêu lên mâu thuẫn xã hội mà không đi đến đấu tranh giải quyết mâu
thuẫn. Hạn chế của Nguyễn Du là khi ông cho rằng mọi sự khổ đau sẽ được giải
quyết bằng cách phấn đấu tu tâm chứ không bằng cuộc đấu tranh để thay đổi
thực tại. Cuộc nổi dậy của Từ Hải chỉ là sự đấu tranh tự phát, chỉ là nỗi bức
xúc của người không chịu nổi những bất bình trong xã hội, chỉ là muốn thể hiện
chí tung hoành của một người thích tự do. Cái chiến thắng của Từ Hải chỉ là để
giúp Kiều báo ân báo oán chứ chưa thật sự đem lại hạnh phúc cho nhân dân. Nói
đúng hơn, sự nổi dậy của Từ Hải chỉ vì lợi ích cá nhân mà thôi. Cho nên,
Từ Hải mới chấp nhận lời khuyên hàng của Hồ Tôn Hiến. Vì vậy, sự nổi dậy này chỉ
tát vào mặt chế độ phong kiến cho hả giận chứ không đe dọa sự tồn vong của chế
độ. Nghĩa là, Nguyễn Du đã trừng phạt bọn bất lương chứ không muốn thay đổi chế
độ. Đó là hạn chế trong tư tưởng thời đại Nguyễn Du.Xét thái độ của Nguyễn Du đối với tư
tưởng định mệnh thì lại thấy ông rất mâu thuẫn. Lúc thì ông cho rằng mọi việc
trời định sẵn, con người chỉ việc tuân theo, lúc thì lại bảo rằng con người
không hoàn toàn bất lực trước số mệnh vì “có trời mà cũng có ta”, trời quyết
định cuộc đời ta, nhưng ta cũng quyết định không ít đến số mệnh của mình. Dù số
trời bắt ta bạc mệnh nhưng ta cố hành thiện giúp đời trời sẽ mang lại phúc lành
đến cho ta. Như vậy, định mệnh mà Nguyễn Du nêu ra không phải là quy luật bất
biến như trong tư tưởng Nho gia mà nó đã chịu sự ảnh hưởng của thuyết nhân quả
nhà Phật.1.1.3 Luật nhân quả - triết lý về sự
công bằng của nhà Phật:Trong Truyện Kiều một triết lý
khá rõ rệt là nhân quả luân hồi. Tuy không phải Truyện Kiều được
Nguyễn Du viết nhằm rao giảng triết lí nhà Phật nhưng rõ ràng thuyết nhân quả
nghiệp báo chi phối rất nhiều đến thiên truyện.Nghiệp theo nhà Phật là hành động,
nghiệp là những việc làm trước kết thành cái quả sau, nghiệp tương đương với
chữ nhân trong nhân quả (nhân là căn nguyên, là nguồn gốc của sự vật hiện
tượng). Con người gây nghiệp ở quá khứ thì kết thành cái nghiệp ở hiện tại, cái
nghiệp gây ở hiện tại thì kết thành quả ở tương lai. Bất cứ hành động hay tác
động gì ở nội giới hay ngoại giới đều có hậu quả nhất định gọi là nghiệp.
Nghiệp có thiện nghiệp (kasala), có ác nghiệp (akusala). Thiện nghiệp tức
nghiệp tốt đưa đến quả báo tốt, ác nghiệp hay nghiệp xấu đưa đến quả báo xấu.
Đó là sự công bằng tuyệt đối của thuyết nhân quả.Theo Trần Trọng Kim, Truyện
Kiều của Nguyễn Du đã vân dụng cái thuyết này để giải thích toàn bộ cuộc
đời vui khổ của nàng Kiều. Đem cái thuyết này mà so với cuộc đời Kiều thì ta
thấy không chỗ nào là không phù hợp. NguyễnDu đã giải thích được tại sao Kiều lại
phải chịu cảnh hồng nhan bạc mệnh. Như đã nói, đó là do định mệnh. Nhưng định
mệnh chỉ nêu lên kết quả mà không giải thích được nguyên nhân của điều bạc mệnh
kia là do đâu. Nguyễn Du đã bổ khuyết vấn đề này bằng thuyết nhân quả nghiệp
báo của nhà Phật. Căn cứ vào đấy, ông giải thích nỗi khổ của Kiều là do chính
Kiều:Đã mang lấy nghiệp vào thân,Cũng đừng trách lẫn trời gần trời xa.Kiều đã có nghiệp sẵn trong mình, cho
nên tự lời nói đến tiếng đàn đánh ra đều có cái giọng đau đớn sầu khổ. Và điều
sầu khổ kia đã được Đạm Tiên mách trước:Vâng trình hội chủ xem tường,Mà xem trong sổ đoạn trường có tên.Âu đành quả kiếp nhân duyên,Cùng người một hội một thuyền đâu xa.Thế nên, kiếp sống của Kiều là để trả
cái nghiệp nàng gây lúc trước. Việctình duyên dang dở, cửa nhà tan nát,
phải bán mình làm lẽ… bao nhiêu cái cực nhục ấy chỉ xoáy sâu vào mục đích là
làm cho Kiều khổ để xứng với cái nghiệp đoạn trường mà nàng đã gây. Vì cái
nghiệp nó quấn chặt Kiều nên phải chịu muôn vàn cay đắng, như Kiều không làm lẽ
mà rơi vào nhà chứa, bị Sở Khanh lừa nên phải tiếp khách làng chơi, ngỡ được
hạnh phúc bên Thúc Sinh thì lại bị Hoạn Thư hành hạ, ngỡ được vinh quang cùng
Từ Hải thì lại mang tiếng giết chồng. Đúng là cái nghiệp đã làm cho Kiều gặp
“hết nạn nọ đến nạn kia”.Như vậy, với ý kiến của Trần Trọng Kim
thì Nguyễn Du đưa ra luật nhân quả chỉ nhằm giải thích nguyên nhân nỗi khổ của
Kiều. Nguyên nhân đó là do Kiều thuộc tính người đa sầu đa cảm, “Phong lưu rất
mực hồng quần” và:Lại mang lấy một chữ tình,Khư khư mình buộc lấy mình vào trong.Chỉ có nguyên nhân như thế
mà Kiều phải chịu bao nhiêu là đày đoạ, khổ đau. Điều này gợi cho người đọc, ai
ai cũng động lòng thương. “Thương cái số kiếp con người ta chìm nổi ở chỗ mờ
tối, vì mê muội mà gây cái ác nghiệp cho mình. Thương con người thông minh,
hiếu nghĩa mà cứ gặp nhiều gian truân” [4;554]. Đó là giá trị nhân đạo
mà Truyện Kiều đạt được khi vận dụng thuyết nhân quả vào việc thể
hiện tư tưởng của truyện.Cao Huy Đỉnh cho rằng triết lí đạo Phật
ở đây đã thể hiện thế giới quan tiêu cực thời bấy giờ. “Trong cái khối thế giới
quan tiêu cực hỗn hợp của Truyện Kiều, triết lý Phật chiếm một liều lượng lớn,
vì chất bi quan yếm thế của nó dễ diễn tả nhất những nỗi day dứt siêu hình
trong tâm trạng con người, nhất là người phụ nữ, nạn nhân cực khổ nhất thời
phong kiến, càng là nạn nhân cực khổ nhất thời đại Nguyễn Du” [4;554]. Vì vậy,
luật nhân quả nghiệp báo như bị Nguyễn Du lật ngược lại để nhằm khẳng định
“Nghiệp báo là cái khổ kiếp trước do nàng Kiều để lại hay là cái khổ do xã hội
tàn nhẫn, trong đó nàng đang sống, gây ra?” [4;557]. Đó là ý nghĩa hiện thực
khi thuyết nhân quả ứng chiếu vào Truyện Kiều.Ý nghĩa của nó không chỉ dừng lại ở đây.
Khi đem luật quả báo luân hồi vào Truyện Kiều, Nguyễn Du còn nhằm khẳng định sự
công bằng tuyệt đối của thuyết nhân quả, đồng thời nói lên ước mơ về xã hội
công bằng, công lý của con người thời bấy giờ.Nói đến công bằng, công lý, người ta
thường xếp vào “khuôn” lý tưởng hóa đời sống. Tuổi trẻ con người thường không
tin có sự công bằng tồn tại, càng không thể tin có luật quả báo luân hồi. Bởi
lẽ, họ thấy trong xã hội có biết bao tên gian ác vẫn tồn tại, có khi được sống
cảnh giàu sang, còn những người hiếu hạnh, tài năng như Kiều thì lại chịu khổ
đau. Bất công còn đầy rẫy trong xã hội thì làm gì có thuyết công bằng?Nhưng nếu một người đã từng “Trải qua
một cuộc bể dâu”, chứng kiến nhiều thay đổi của cuộc đời thì ắt hẳn sẽ tin
rằng “thiện hữu thiện báo, ác hữu ác báo, nhược hoàn bất báo, thì
thần vị đáo”, lành có lành báo, dữ có dữ báo, còn nếu chưa báo chỉ vì thời giờ
chưa đến. Nguyễn Du đã tin tưởng điều đó.Kiều là người “hiếu nghĩa đủ đường”
nhưng lại phải chịu đau khổ vì cái nghiệp của kiếp trước mà nàng gây ra. Kiều
đã ý thức được điều đó và quyết tâm trả cho xong cái nghiệp này. Vì Kiều nghe
Đạm Tiên nói:Rỉ rằng: “Nhân quả dở dang,Đã toan trốn nợ đoạn tràng được sao!Số còn nặng nghiệp má đào,NGƯỜI DÙ MUỐN
QUYẾT TRỜI NÀO ĐÃ CHO!…"Thế nên, Kiều biết mình không thể trốn
nợ đoạn tràng. Và Kiều cũng rất tin tưởng tất cả hành động của ta đều được giới
tối cao ghi nhận:Vả trong thần mộng mấy lời,Túc nhân âu cũng có trời ở trong.Vì thế mà:Kiếp này trả nợ chưa xong,Làm chi thêm một nợ chồng kiếp sau.Kiều biết rằng trốn tránh khổ đau chỉ
làm cho ta càng đau khổ. Cho nên, Kiều chấp nhận khổ đau và tìm phương giải khổ
bằng cách làm việc thiện, tu dưỡng tâm hồn, vì Kiều biết rằng:Đời người đến thế thì thôi!Trong cơ âm cực, dương hồi khôn hay.Mấy người hiếu nghĩa xưa nay,Trời làm chi đến lâu ngày càng thương!Cuối cùng, Kiều cũng hưởng cảnh đoàn
viên, vui vầy hạnh phúc. Điều này đã khẳng định thêm đức tin cho con người.
Trong truyện, Kiều là người hay tin nhất vào đấng tối cao. Kiều luôn luôn tin
rằng, thần linh sẽ luôn chứng giám và theo dõi mọi hành động của chúng ta để
sau này còn định bề thưởng phạt. Cho nên, Kiều không tin người khác nhưng lại
tin vào lời thề của họ, vì lời thề là lời cam kết của con người với Thần linh.
Ở Truyện Kiều, lời thề luôn có sự ứng báo. Sự công bằng trong Truyện
Kiều là một “thuyết tuyệt đối”. Những bọn lường gạt chúng không tin điều
đó, chúng xem nhẹ quỷ thần hơn tiền bạc. Cho nên, để lừa dối người khác, chúng
rất hay thề. Và lời thề của những kẻ gian trá thường giống nhau. Bọn chúng đều
lừa dối Kiều bằng lời thề:Mã Giám Sinh từng thề:Mai sau dầu có thế nào,Kìa gương nhật nguyệt, nọ dao quỷ thần!Còn Tú Bà cũng không khác:Mai sau ở chẳng như lời,Trên đầu có bóng mặt trời rạng soi!Đến Sở Khanh cam kết rất cương quyết:Dầu khi gió kép, mưa đơn,Có ta đây cũng chẳng cơn cớ gì!Bạc Hạnh cũng một phường như chúng:Bạc Sinh quỳ xuống vội vàng,Quá lời nguyện kết Thành hoàng, Thổ
công.Bọn chúng đúng là dối cả thần thánh,
chúng đem thần thánh ra thề một cách mạnh mẽ và quyết liệt đến một người “khôn
ngoan”, “sắc sảo” như kiều còn phải tin. Thề là mánh khóe của người gian manh,
buộc người khác thề là cái thế của người yếu ớt. Đạo Trời thì rất công bằng,
không thiên vị một ai, thề sao thì cứ ứng cho như vậy. “Bọn người bạc ác tinh
ma” ấy chỉ tồn tại nghiễm nhiên trong xã hội không bao lâu, thời gian mà họ làm
ác không bị trừng trị chỉ vì “thì thần vị đáo” mà thôi. Cuối cùng, chúng cũng
bị trừng phạt, sự trừng phạt đó chính là quả báo mà họ tự gây nên. Cho nên, ở
đoạn Kiều đền ân, báo oán, ta không hề thấy cái lòng oán hận nào của Kiều mà
chỉ thấy đó là luật công bằng của tạo hóa. Sự trừng phạt kia chỉ là do ở đạo
Trời:Đạo Trời báo phục chỉn ghê,Khéo thay một mẻ, tóm về đầy nơi!Đúng là “lưới trời lồng lộng tuy thưa mà
khó lọt”. Con người không thể dối trời hại nhân. Thế nên, trong Truyện
Kiều đoạn đền ân báo oán diễn ra là tất yếu.Cái hay của Nguyễn Du đồng thời là lòng
nhân đạo của ông thể hiện rõ nhất ở đoạn đền ân báo oán này. Nếu như Thanh Tâm
Tài Nhân miêu tả thật tỉ mỉ, thật chi tiết, thật rùng rợn cách trả thù của cô
Kiều ở Trung Quốc thì Nguyễn Du chỉ dùng một câu “Thề sau thì lại cứ sao gia
hình”. Điều này có nghĩa là trong phiên tòa xét xử, Nguyễn Du chỉ để Kiều đóng
vai trò của một sứ giả phán lời truyền của giới tối cao:Nàng rằng: “Lồng lộng trời cao!Hại nhân nhân hại sự nào tại ta.Nguyễn Du đã không để Kiều có cái tâm
oán hận. Cũng chính cái tâm hiền từ, lòng vị tha mà Kiều đã tha bổng Hoạn Thư -
kẻ đã hành hạ Kiều đớn đau cả tâm hồn và thể xác. Còn cô Kiều của Trung Quốc
không được cái lòng độ lượng ấy, lòng cô ta mang đầy oán hận, cô trừng trị kẻ
ác cho thỏa mãn sự căm thù, cô hành hạ Hoạn Thư, bức tử Hoạn bà. Điều này khẳng
định cô Kiều Trung Quốc cũng có cái lòng oán hận, nhỏ nhen, ích kỷ một cách tầm
thường như bao người tầm thường khác. Còn nàng Kiều của ta thật thánh thiện và
nhân từ! Với người thọ ơn, hết lòng báo đáp, với kẻ bạc ác từ tốn khoan dung.
Kiều là thế đấy! “Mụ già” - quản gia nhà họ Hoạn - đã giúp nàng khi nàng bị mẹ
con Hoạn Thư hành hạ. Mụ đã:Khi chén chè, khi thuốc thangĐem lời phương tiện, mở đường hiếu sinh.Còn sư trưởng Giác Duyên cho nàng trú ẩn
khi nàng đang “lạc lối”. Chỉ thế thôi mà nàng xem như ơn tái tạo, nghĩa nặng
bằng non không gì đền đáp. Nàng rằng:Nhớ khi lỡ bước xẩy vời,Non vàng chưa dễ đền bồi tấm thương.Nghìn vàng gọi chút lễ thường,Mà lòng Phiếu Mẫu, mấy vàng cho cân.Khi trả ân, Kiều hết lòng. Lúc báo oán
Kiều nhẹ tâm. Nếu như cô Kiều Trung Quốc đã ra uy bằng cách giết người thật dã
man để đến nỗi Hoạn bà phải chết ngay vì khiếp sợ, còn Hoạn Thư cũng bị đánh
một trận đến bán tử bán sinh thì nàng Kiều của ta rất độ nhân từ và hiểu lí lẽ.
Hoạn bà đã không hề xuất hiện trong buổi báo oán này vì tất cả chước mưu do
Hoạn Thư bày ra nên chỉ một mình Hoạn Thư phải chịu. Thế nhưng, khi Kiều nghe
Hoạn Thư trình bày:Rằng: “Tôi chút phận đàn bà,Ghen tuông, thì cũng người ta thường
tình!Nghĩ cho khi các viết kinh,Với khi khỏi cửa, dứt tình chẳng theo.Lòng riêng, riêng những kính yêu,Chồng chung chưa dễ ai chiều cho ai!”Lý lẽ Hoạn Thư đưa ra thật xác đáng. Lời
lẽ ấy đã đánh trúng lòng vị tha, lòng nhân ái của Thúy Kiều. Kiều rất cảm thông
với số phận của những người phụ nữ. Kiều thừa biết trong xã hội này hạnh phúc
của người phụ nữ luôn bị đe dọa nên Hoạn Thư cố công gìn giữ là lẽ đương nhiên.
Huống hồ, Hoạn Thư đã kể trúng một điều trọng yếu là khi Kiều trốn khỏi Quan Âm
các còn đem theo chuông vàng khánh bạc, vậy mà Hoạn Thư không truy bắt. Cái đức
phóng sinh của Hoạn Thư đã để lại cái nghiệp tốt cho nàng. Kiều cũng thấy được
cái thiện tâm của Hoạn Thư cho nên quyết định:Tha ra thì cũng may đời,Làm ra thì cũng ra người nhỏ nhen.Đã lòng tri quá thì nên,Truyền quân lệnh xuống, trướng thì tha
ngay.Như vậy, dù Hoạn Thư đã gây nhiều oan
trái tạo lắm cay nghiệt cho Kiều nhưng vì còn tích lại một ít công đức và có
“lòng tri quá” mà Hoạn Thư thoát nạn. Còn những bọn người bạc ác như Bạc Bà,
Bạc Hạnh, Khuyển, Ưng, Sở Khanh, Tú Bà, Mã Giám Sinh thì bị trừng trị bằng
chính tội ác của họ.Đây cũng là đoạn thể hiện rõ nhất ước mơ
về công bằng, công lý của Nguyễn Du khi cái xã hội rối ren như lúc này. Sự công
bằng công lý ấy giúp cho con người có nghị lực vượt qua đau khổ, nó khuyến
khích con người làm việc thiện với phương châm “ở hiền gặp lành”. Nó xoa dịu
lòng phẩn uất của con người khi chứng kiến những bất công của xã hội. Nó thúc
đẩy ý chí vươn lên của Kiều trong cuộc sống.Nếu đánh mất đoạn này thì cốt truyện vẫn
diễn ra logic, bình thường. Điều này đồng nghĩa với việc xác định đây chỉ là
tình tiết phụ. Nhưng không có tình tiết này, nghĩa là bọn người bạc ác không bị
trừng trị thì xã hội sẽ còn đầy rẫy những “phường buôn thịt”, những “tay buôn
người”. Vậy liệu Kiều có chắc sẽ an thân sau khi hưởng cảnh đoàn viên chăng?
Hay sau Kiều sẽ còn biết bao cô gái phải chịu cảnh như Kiều, như Đạm Tiên đã
từng chịu? Nếu thế, Truyện Kiều lại trở thành một tác phẩm hiện thực
phê phán và đoạn kết xảy ra là một điều hết sức miễn cưỡng.Vả lại, đây còn là một ước mơ về một xã
hội công bằng, công lý của Nguyễn Du. Ông mơ đến một xã hội tốt đẹp mà ở đó bọn
bất lương luôn bị trừng trị còn những người hiếu hạnh, nhân từ thì tất yếu là
hưởng được hạnh phúc. Đó là yếu tố lãng mạn của thiên truyện cũng là lòng nhân
đạo của Nguyễn Du thể hiện trong tác phẩm. Có lẽ, khi Nguyễn Du cho xuất hiện
đoạn báo oán thì ông còn một dụng ý đe dọa những kẻ bất lương. Cái lý lẽ của
luật nhân quả luân hồi thì ai cũng hiểu, nhưng có mấy ai tin nó? Ở đây, Nguyễn
Du đã để nó diễn ra như một quy luật tất yếu. Có nghĩa là, nó sẽ ứng báo với
tất cả bất cứ người nào, dù là trọng thần hay dân dã. Nó không chỉ ứng báo với
những bọn như Ưng, Khuyển, Sở Khanh,… mà còn có thể ứng báo với cả bọn người
như Hồ Tôn Hiến. Đó là điều mà Nguyễn Du không hề nói nhưng người đọc thì ai
cũng nhận ra. Tên này mang danh trọng thần nhưng lại dùng thủ đoạn bỉ ổi để lập
công. Hắn hứa hẹn với Kiều, rồi phản bội lời hứa để Từ Hải phải chết trong cái
uất ức. Rồi thì hắn cũng sẽ bị quả báo. Ta có thể nhận ra ý nghĩa đó là nhờ vào
tư tưởng bình đẳng của triết lý đạo Phật. Đó là một thành công của Nguyễn Du
khi vận dụng triết lý đạo Phật vào việc xây dựng hình tượng nhân vật.Từ cái thuyết nghiệp báo này, Nguyễn Du
khuyên con người nên phấn đấu làm việc thiện, hãy vững tin rằng “qua cơn bỉ cực
đến hồi thái lai”. Và để có được một sự bình yên tuyệt đối trong cuộc sống, con
người phải biết tu tâm. Theo Nguyễn Du, hành thiện chỉ đem đến cho con người sự
tốt lành trong cuộc sống, nhưng cái tâm ta không tịnh ta cũng sẽ mãi khổ đau.1.1.4 Tu tâm - Triết lý về con đường
giải thoát:Đang lúc xã hội rối ren, chiến tranh
phong kiến xảy ra liên miên, hạnh phúc của mỗi một cá nhân đều bị đe dọa, vậy
mà Nguyễn Du khuyên người ta cố gắng tu tâm, bỏ đi những điều ân oán, hận thù
quay về tu dưỡng tâm hồn. Tư tưởng này gần với lối sống vô vi, ẩn dật của triết
lí Lão - Trang. Ông cho rằng con người có thể tìm được hạnh phúc ngay ở cuộc
sống đời thường với điều kiện là chúng ta phải biết tu tâm. Triết lý sống này
gần với tư tưởng Nho, Phật hơn.Giữa cái xã hội thế này, con người dù
tài năng đến đâu cũng chỉ là “con cờ” của xã hội, người có tài sắc là món hàng
đắt giá của bọn bất lương. Cho nên, Nguyễn Du đã kết luận rằng:Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài.Đề cao chữ tâm giữa lúc thiết
chế xã hội đầy rẫy lầu xanh như một “thiên la địa võng” cứ chực chờ giăng bẫy
hạnh phúc của con người, có lẽ là hơi thần thánh hóa bản thân, hay là lý tưởng
hóa con người. Nhưng với vị thế của Nguyễn Du, ông có thể làm gì đây? Khuyên
người ta đứng lên lật đổ triều đại ư? Tư tưởng của một nhà Nho chính thống
không cho phép ông làm như vậy. Vả lại, ông đã sáng tác Truyện Kiều bằng tất cả
tình cảm yêu thương của ông đối với con người tài hoa bạc mệnh thì không lý nào
ông lại để nó bị liệt vào loại “yêu thư, yêu ngôn”. Ông cũng không muốn tác
phẩm của mình chỉ nhằm nói lên tâm sự của bản thân khi phải sống trong xã hội
bấy giờ, hay chỉ mang một giá trị giáo dục nào đó. Ông cũng không nghĩ nó
chỉ có giá trị giúp người đọc “Mua vui cũng được một vài trống canh”. Mà ông hy
vọng nó sẽ mang lại một giá trị nhân sinh. Đó là triết lý về con đường con
đường giải thoát - tu tâm.Chữ tâm là một khái niệm
chung, tâm có tâm ác, có tâm thiện. Chữ tâm mà Nguyễn Du muốn nói là thiện tâm,
cái tâm tốt đẹp. Người có tâm tính tốt đẹp luôn giành được sự yêu mến của mọi
người, do đó mà những người có tâm tốt đẹp luôn hưởng cuộc sống hạnh phúc. Nên
chữ tâm là phần cốt yếu của con người, còn tài chỉ là cái phụ. Nhưng làm
thế nào để có cái tâm tốt đẹp?Theo quan niệm phương Đông, để có tâm
tính như thế thì con người không ngừng tu sửa bản thân. Nho, Phật, Lão đã đề ra
những phương pháp tu tâm khác nhau, nhưng cả ba học thuyết đều có chung một ý
tưởng, đó là “diệt dục”, diệt trừ những ham muốn trong con người chúng ta.Theo Nho giáo, cái tâm ham muốn sẽ khiến
chúng ta làm điều xằng quấy. Càng tiết chế dục vọng, không cho nó khởi phát thì
cái tâm ta càng không bị dục vọng sai khiến, càng dễ giữ được cái tâm trong
sạch.Theo Lão giáo, dục vọng sẽ làm cho người
ta khởi tâm ham muốn, đã ham muốn thì con người sẽ bằng mọi cách để thỏa mãn
dục vọng. Như vậy, vì lợi ích riêng tư, họ có thể tranh giành nhau, hãm hại
nhau, làm khổ nhau.Còn Phật giáo thì cho rằng dục vọng làm
người ta si mê, cứ ngỡ lợi là thực lợi, cứ ngỡ danh là thực danh, không ý thức
được cuộc đời là cõi phù sinh, cố tranh giành, đắm chìm trong ảo vọng để cứ mãi
bị trói vào vòng khổ ải luân hồi.Có lẽ, Nguyễn Du tâm đắc với quan niệm
của nhà Phật. Ông cho rằng, Vân sở dĩ không đau khổ là do nàng sống theo
khuôn khổ, không dục vọng cá nhân; còn Kiều sở dĩ khổ đau là do Kiều có cái
lòng dục vọng mà thể hiện là Kiều có cái ý thức quá lớn về chữ “thân” và lại
vướng vào chữ “tình”.Tại sao ý thức về thân mà phải khổ?Theo Trần Đình Sử, thân là cái phần quý
giá nhất, có thân mới có con người, có phúc phận. Cuộc đời lưu lạc của Kiều là
chuỗi ngày đày đọa tấm thân. Ý thức về thân là ý thức về cái phần cá nhân riêng
tư nhất, thực tại nhất của con người. Theo nhà Phật thì “thân nghiệp” là nguyên
nhân gây nên cái khổ lớn nhất của con người (những nghiệp gây nên nỗi khổ con
người gồm: thân nghiệp, khẩu nghiệp, ý nghiệp). Con người càng ý thức về thân
thì càng đau khổ khi tấm thân bị đày đọa. “Truyện Kiều là một truyện thương
thân, xót than thấm thía nhất” [18;112]:- Đau lòng tử biệt sinh ly,Thân còn chẳng tiếc, tiếc gì đến duyên.- Trùng phùng dù họa có khiThân này thôi có còn gì mà mong!- Nàng rằng trời thẳm đất dàyThân này đã bỏ những ngày ra đi!- Rằng tôi bèo bọt chút thân- Thân lươn bao quản lắm đầu,Tấm lòng trinh bạch từ nay xin chừa!- Nghĩ thân mà lại ngậm ngùi cho thân.- Cửa người đày đọa chút thân- Chút thân quằn quại vũng lầy- Thân sao thân đến thế nàyCòn ngày nào cũng dư ngày ấy thôi.- Đã không biết sống là vui,Tấm thân nào biết thiệt thòi là thương!Theo tinh thần Phật giáo, con người mang
lấy thân tức là mang lấy thất tình (ai, lạc, hỷ, nộ, ái, ố, dục), nghĩa là
những hạt giống của si mê, giận hờn, ganh tỵ (tham, sân, si). Tất cả những điều
này làm cho ta “vô minh”. Phật dạy vô minh tức khổ.Cái khổ của Kiều được giải thích bằng
cái nhìn Phật học qua lời phát biểu của Tam Hợp Đạo Cô:Sư rằng: “Phúc họa đạo trời,Cỗi nguồn cũng ở lòng người mà ra”.Mọi tai nạn, mọi may mắn đều do trời
quyết định. Tuy nhiên, cỗi nguồn là do chính bản thân của mỗi con người. Nếu
chúng ta không có cái tâm tịnh bụi trần, lúc nào cũng chứa nhiều phiền não và u
mê, cũng bị thất tình chi phối thì tất yếu sẽ dẫn đến khổ đau. Kiều khổ do số
phận đã đành, hơn nữa:Lại mang lấy một chữ tình,Khư khư mình buộc lấy mình vào trong.Chữ “tình” đơn giản mà rắc rối. Ngỡ
chẳng có gì khi đã là con người thì lòng mang nhiều tình cảm cũng là lẽ
thường. Nếu chữ “dục” thuộc về con người bản năng thì chữ “tình” thể hiện con
người xã hội. Sư Tam Hợp đã từng buộc Kiều là do mắc phải chữ tình:Vậy nên những chốn thong dong,Ở không yên ổn ngồi không vững vàng.Ma đưa lối, quỷ dẫn đàng,Lại tìm những chốn đoạn tràng mà đi.Kiều đã tự mình làm khổ mình. Kiều đã
không giữ được cái tâm thiền định nên ngay cả những chốn thong dong đáng lý
được tự do hạnh phúc, được thoát khổ mà Kiều vẫn ngồi không yên, đứng không ổn.
Do cái tâm của Kiều không kiên định nên những con ma dục vọng cứ lôi kéo nàng
vào vòng khổ hạnh. Cho nên, Kiều phải chịu:Hết nạn nọ, đến nạn kia,Thanh lâu hai lượt, thanh y hai lần.Trong vòng giáo dựng gươm trầnKề răng hùm sói, gởi thân tôi đòi.Giữa dòng nước chảy sóng dồi,Trước hàm rồng cá, gieo mồi băng tinh.Oan kia theo mãi với tình,Một mình mình biết, một mình mình hay.Làm cho sống đọa thác đày,Đoạn trường cho hết kiếp này mới thôi.Những lời kết án này, quả là lời của một
đạo cô - người đã dứt bỏ được lòng phàm. Không một chút đồng cảm, đạo cô đã kết
luận rằng nàng sẽ khổ suốt đời. Cái án này không phải chỉ do định mệnh tuyên
đọc mà còn bởi Kiều chưa biết nắm lấy tâm mình để tìm nẻo thoát, cứ bị “những
sợi dây tình vướng víu kéo đi” (Xuân Diệu).Lý thuyết nhân quả trong Truyện Kiều có
nghiệp quá khứ, có duyên tiền định nhưng không phải cái nghiệp quá khứ và duyên
tiền định ấy chịu trách nhiệm hoàn toàn về 15 năm đau khổ của Kiều. Chính bản
thân Kiều cũng có trách nhiệm. Tài, sắc và tình của Kiều cứ mãi ràng buộc nàng,
làm cho nàng mãi mắc vào cái vòng luẩn quẩn của sự khổ đau mà không tìm ra nẻo
thoát. Điều đó được cực tả trong câu:Ma đưa lối, quỷ dẫn đường,Lại tìm những chỗ đoạn trường mà đi.Cố nhiên, khi bước vào chốn thanh lâu,
mình bị kéo theo, đau khổ cũng đành rồi. Nhưng khi được bước vào những hoàn
cảnh thanh thản như ở chùa mà Kiều vẫn không an lạc, không có khả năng an lạc.
Bởi vì Kiều vẫn khư khư giữ lấy tài, sắc, tình và không nắm được cái tâm tu học
để chuyển hóa, thoát khỏi vòng luân hồi. Nên 15 năm đau khổ kia do yếu tố khách
quan mà cũng do nguyên nhân chủ quan Kiều tạo ra.Kiều như một người giác ngộ sau bao
nhiêu năm tháng si mê, lầm lạc. Trước đây nàng cũng cho rằng nỗi khổ của mình
là do trời định, do cái luật thừa trừ của tạo hóa gây nên. Vì thế mà Kiều cố
chống đối lại. Nhưng thất bại và khổ đau khiến nàng bất lực trước số mệnh. Kiều
chỉ còn nhận mọi phần tội lỗi là do mình bằng lời lẽ thật xót xa:Phong trần kiếp đã chịu đày,Lầm than lại có thứ này bằng hai!Phận sao bạc chẳng vừa thôi,Khăng khăng buộc mãi lấy người hồng
nhan!Đã đành túc trái tiền oan,Cũng liều ngọc nát, hoa tàn mà chi!Lúc này thì Kiều chỉ biết nỗi khổ ấy là
do cái nghiệp quá khứ, do cái nợ kiếp trước của bản thân (trái tiền oan)
gây ra. Nhưng trải qua thời gian gần nửa đời người, trải qua nhiều
lần “oan khổ lưu ly”, trôi nổi, chia lìa, cuối cùng Kiều cũng nhận ra:Có trời mà cũng tại ta,Tu là cõi phúc, tình là dây oan.Quả thật nếu không có kinh nghiệm trực
tiếp từ những đau khổ kia thì Kiều khó mà nhận ra điều đó. Trước đây, tuổi trẻ
Kiều rất bướng bỉnh. Kiều thừa biết “bạc mệnh khúc” khi đàn lên thì “Cực lòng
mình cũng nao nao lòng người” nhưng nàng vẫn thích đàn. Khi Kim Trọng khuyên
nàng đừng nên đàn bản ấy thì Kiều lại biện hộ bằng những lời lẽ đầy cá tính:Rằng: “Quen mất nết đi rồi,Tẻ, vui âu cũng tính trời biết sao!Lời vàng vâng lĩnh ý cao,Họa dần dần bớt chút nào được chăng.”Nàng hứa thế chứ nàng vẫn giữ nó suốt 15
năm. Đến cuối cùng nàng bất lực mà thừa nhận “Ăn năn thì sự đã rồi”.Kiều biết mình “vô minh” nên khổ. Nhưng
theo đạo cô thì cái khổ ấy không phải không giải trừ được.Sư rằng: “Song chẳng hề chi,Nghiệp duyên cân lại nhắc đi còn nhiều.Xét trong tội nghiệp Thúy Kiều,Mắc điều tình ái, khỏi điều tà dâm.Đó là một điểm son của Kiều. Nàng vướng
vào điều tình ái là phạm giới nhưng “khỏi điều tà dâm” là tránh được nghiệp
chướng. Và cái nghiệp ấy so với công đức của nàng thì công đức ấy còn nhiều:Lấy tình thâm trả nghĩa thâm,Bán mình đã động hiếu tâm đến trời!Hại một người cứu muôn ngườiBiết đường khinh trọng, biết lời phải
chăng.Tất cả điều này đã giải trừ nghiệp
chướng của nàng. Nhờ tâm giữ giới, tâm hiếu nghĩa, tâm từ bi mà thiện nghiệp
được tạo ra, nhờ thế Kiều mới có cảnh đoàn viên, sum vầy với gia đình và Kim
Trọng.Trải qua 15 năm lưu lạc, chứng kiến với
bao sự đời, tiếp xúc với bao hạng người, Kiều cũng chỉ nhận ra một triết lý “ở
hiền gặp lành” hay “tích thiện phùng thiện, tích ác phùng ác”, gieo nhân gì thì
gặt quả ấy. Kiều mới giác ngộ được nỗi khổ là do ngoại giới gây nên chứ chưa
thật sự tin rằng một phần là do tâm của mỗi con người. Điều này thể hiện ở chi
tiết nàng tu vì tuyệt vọng với đời, nàng không tìm thấy hạnh phúc hay mục đích
sống nên mới “đem mình bỏ am mây”, chứ không phải vì nàng giác ngộ triết lý cao
thâm của Phật. Nàng tự nhận rằng:Đã đem mình bỏ am mây,Tuổi này gởi với cỏ cây cũng vừa.Mùi thiền đã bén muối dưa,Màu thiền ăn mặc đã ưa âu sồng.Sự đời đã tắt lửa lòng,Còn chen vào chốn bụi hồng làm chi!Dở dang nào có hay gì,Đã tu, tu trót qua thì thì thôi!Trùng sinh ân nặng biển trời,Lòng nào nỡ dứt nghĩa người ra đi?Nghĩa là nàng vì “lỡ tu, tu trót” chứ
trong lòng không hề muốn dứt bỏ đường trần, dứt tình riêng tư. Vì thế khi nghe
lời Vương ông khuyên giải:Ông rằng: “Bỉ thử nhất thì,Tu hành, thì cũng phải khi tòng quyền.Phải điều cầu Phật, cầu Tiên,Tình kia, hiếu nọ ai đền cho đây?Độ sinh nhờ đức cao dày,Lập am, rồi sẽ rước thầy ở chung.”Kiều không còn lý do từ chối:Nghe lời nàng phải chiều lòng,Giã sư, giã cảnh, đều cùng bước ra.Và đến khi bị buộc phải nối duyên với
Kim Trọng, Kiều đã từ chối vì thấy mình không còn xứng đáng chứ không phải cái
tâm của nàng đã tịnh bụi trần.Nàng rằng: “Gia thất duyên hài,Chút lòng ân ái, ai ai cũng lòng.Nghĩ rằng trong đạo vợ chồng,Hoa thơm phong nhị, trăng vòng tròn
gương.Chữ trinh đáng giá ngàn vàng,Đuốc hoa chẳng thẹn với chàng khi xưa.Thiếp từ ngộ biến đến giờ,Ong qua, bướm lại đã thừa xấu xa.Bấy chầy gió táp mưa sa,Mấy trăng cũng khuyết, mấy hoa cũng tàn.Còn chi là cái hồng nhan,Đã xong thân thế, còn toan nỗi nào?Nghĩ mình chẳng hổ mình sao,Dám đem trần cấu dự vào bố kinh!Đã hay chàng nặng vì tình,Trông hoa đèn chẳng thẹn mình lắm ru!Kiều theo Giác Duyên tu hành không phải
tầm đạo mà tìm chốn an thân. Dù Kiều “đem mình bỏ am mây”, ăn mặc theo thiền
nhưng cái tâm Kiều chưa thật sự giác ngộ. Xưa nay nàng chỉ bị hành hạ về cái
“thân” nên nàng chỉ mới nghĩ đến và biết đến giải khổ cho “thân”. Đến đêm hôn
lễ này thì nàng mới thật sự cảm nhận được thế nào là “khổ tâm”. Trước đây, Kiều
nghĩ đoàn viên với người thân, hội ngộ với gia đình là điều hạnh phúc lớn nhất
của đời nàng, là mục đích sống thúc giục nàng vượt qua gian nan. Nhưng nay Kiều
mới nhận ra cuộc đời là một chuỗi khổ đau, khi trọn nguyện ước rồi mà Kiều còn
đau khổ. Vì Kiều tự nhận mình không còn xứng đáng với Kim Trọng nên thấy thẹn vô
cùng:Nói chi kết tóc se tơ,Đã buồn cả ruột, mà nhơ cả đời.Cho nên:Từ rày khép cửa phòng thu,Chẳng tu mà cũng như tu mới là.Kiều biết tâm mình còn cố chấp không thể
làm ngơ với khổ đau. Đó là quy luật tâm lý bình thường. Bất kỳ vết thương nào
dù lành lặn cũng để lại cho người ta vết sẹo, vết thương càng nặng vết sẹo càng
sâu. Huống hồ tâm hồn Kiều đã biết bao lần bị tổn thương, thử hỏi làm sao Kiều
có thể xem như không việc gì? Với Kiều, việc ái ân cùng Kim Trọng sẽ làm Kiều
không thể nào quên được cái hồi ức khủng khiếp kia. Như thế thì:Còn tình đâu nữa, là thù đấy thôi.Cho nên Kiều thà phụ lòng chàng:Người yêu ta xấu với người,Yêu nhau thì lại bằng mười phụ nhau!Thà rằng phụ nhau để cái tâm Kiều được
hoàn toàn yên tịnh. Đó là bước đầu của việc tu tâm. Đã vứt bỏ được tình, không
còn nỗi lo, Kiều thấy lòng mình thanh thản vô cùng. Cho nên tiếng đàn của nàng
“Xưa sao sầu thảm nay sao vui vầy”:Phím đàn dìu dặt tay tiên,Khói trầm cao thấp, tiếng thuyền gần xa.Khúc đâu đầm ấm dương hòa,Ấy là hồ điệp hay là Trang Sinh?Khúc đâu êm ái xuân tình!Ấy hồn Thục Đế hay mình đỗ quyên?Trong sao châu nhỏ duềnh quyên!Ấm sao hạt ngọc Lam Điền mới đông!Lọt tai nghe suốt năm cung,Tiếng nào là chẳng não nùng xôn xao…Cho hay thục nữ chí cao,Phải người sớm mận tối đào như ai?Hai tình vẹn vẽ hòa hai,Chẳng trong chăn gối, cũng ngoài cầm
thơ.Khi chén rượu, khi cuộc cờ,Khi xem hoa nở, khi chờ trăng lên.Ba sinh đã phỉ lời nguyền,Duyên đôi lứa cũng là duyên bạn bầy.Như vậy, Kiều đã có hạnh phúc thật sự
với cuộc sống giản dị bên gia đình. Kiều đã có cuộc sống hoàn toàn tự do, tâm
hồn hoàn toàn thanh thản. Niềm vui đời thường ấy gần với lối sống lý tưởng của
Lão giáo, nhưng là kết quả của một quá trình giác ngộ Phật học.Mặc dù không phải là người tinh thông
Phật học nhưng không phải Nguyễn Du không có tuệ giác của đạo Phật. Tuệ giác
của ông lớn lắm không phải do học Phật mà có, mà do tiếp thu tư tưởng văn hóa
dân tộc, nhất là kinh nghiệm sống thực tế. Cho nên, Truyện Kiều là sự
kết tinh của những tư tưởng thời đại Nguyễn Du. Ở thời đại này, có rất nhiều
người tin theo thuyết định mệnh. Các nhân vật trong Truyện Kiều cũng
thế, Thúy Vân tin đến mức trở thành con rối của định mệnh, Đạm Tiên tin đến nỗi
trở thành nhân vật chức năng - sứ giả của Hội chủ Hội đoạn trường, Kiều thì tin
với một thái độ bất lực. Qua đó, ta thấy Nguyễn Du tin định mệnh ở một mức độ
nhất định. Nhưng thuyết định mệnh ở Nguyễn Du đã bị chi phối rất nhiều bởi luật
nhân quả, nghĩa là định mệnh nhưng có thể thay đổi được nhờ vào sự nỗ lực của
chính bản thân con người. Ông giải thích nỗi khổ của con người do nhiều nguyên
nhân, do tạo vật đố toàn, do định mệnh an bài, do nghiệp báo tiền duyên. Trong
đó, nguyên nhân sâu xa là do xã hội đem đến. Ông phê phán mạnh mẽ những xấu xa
của xã hội nhưng không đi đến đấu tranh “thay đổi sơn hà”. Tư tưởng này vừa
mang tính cải lương vừa thể hiện thái độ không đồng tình của Nguyễn Du đối với
chiến tranh, minh chứng là ông để Từ Hải bị triều đình tiêu diệt. Ông khuyên
con người phấn đấu làm việc tốt, tu dưỡng tâm hồn, sống hòa đồng và nhân hậu
với mọi người. Đây là quan niệm của nhà Phật cũng là mơ ước của nhân dân. Quan
niệm này khẳng định giá trị tích cực của Truyện Kiều. Giá trị này không
chỉ dừng lại ở đây mà nó còn được khẳng định nhờ giá trị luân lý đạo đức.2. Giá trị Truyện
Kiều đạt được khi tiếp biến các hệ tư tưởng Nho, Phật, Lão trong xây dựng
hình tượng nhân vật:Truyện Kiều là một tuyệt tác văn
học. Giá trị của nó không dừng lại ở lĩnh vực nghệ thuật ngôn từ hay tư tưởng
tác phẩm. Tuy vậy, tác phẩm vẫn có một vài hạn chế về tư tưởng. Mặc dù hạn chế
ấy không ảnh hưởng đến giá trị chung của tác phẩm nhưng qua đó ta thấy được sự
phức tạp trong tư tưởng và những quan niệm nhân sinh của tác giả.2.1. Những phức tạp trong tư tưởng
Nguyễn Du khi xây dựng hình tượng nhân vật:Nguyễn Du và Thúy Kiều là hai người cùng
cảnh ngộ, cũng từng trải qua cơn gia biến. Nhưng cơn gia biến của Kiều chỉ làm
thay đổi hoàn cảnh sống của một gia đình, còn cơn gia biến của Nguyễn Du gắn
liền với một cuộc thay đổi sơn hà. Những cuộc bể dâu mà Nguyễn Du gặp còn nhiều
hơn Kiều, những oan khổ mà Nguyễn Du gặp phải còn nhiều gấp mấy lần Kiều. Trong
20 năm (1782-1802) đã có bốn triều đại thay nhau trị vì xã tắc: Trịnh, Lê, Tây
Sơn, Nguyễn. Nguyễn Du là nhân chứng lịch sử, ông chứng kiến tất cả các cuộc bể
dâu đó. Hết triều đại này hưng thịnh rồi suy vi đến triều đại khác, nó cứ diễn
ra tuần hoàn như thể là một quy luật được định sẵn ở giới tối cao. Cho nên, ông
tin vào định mệnh. Hơn nữa, nhìn thấy cuộc sống của bao con người trong xã hội
cứ như một trò ảo thuật “thoắt ẩn rồi thoắt hiện”, mới thấy đó thì không còn
như thế nữa, một triều đại mà chỉ trị vì có vài năm… Tất cả càng làm ông tin
vào Phật giáo với tâm tưởng cuộc đời là bể khổ, cõi đời là cõi phù sinh. Đời là
vậy, thế mà có biết bao người cứ mãi đắm chìm trong ảo vọng cứ ngỡ danh là thực
danh, lợi là thực lợi nên cố tranh giành để rồi phải tạo nghiệp chướng. Chi
bằng vứt bỏ những điều ham muốn kia, theo Lão Tử tìm một lối sống an lành.Do vậy, Nguyễn Du mặc dù là nhà Nho chính
thống nhưng trong Truyện Kiều cũng như thơ chữ Hán đều chịu sự chi phối
của cả ba tư tưởng Nho, Phật, Lão.Như việc giải thích về nguyên nhân nỗi
khổ của Kiều, lúc thì ông cho rằng Kiều khổ do số hồng nhan bạc phận theo quy
luật biến đổi âm dương, tạo vật đố toàn của Lão giáo. Với thuyết này, Kiều khổ
là để cân xứng với tài sắc nàng mang. Điều này tồn tại như một quy luật:Lạ gì bỉ sắc tư phong,Trời xanh quen thói má hồng đánh ghen.Lúc thì ông lại cho rằng, Kiều khổ do
định mệnh. Cái khổ của Kiều là do đấng tối cao an bài. Với tư tưởng này, con
người an phận theo cái phúc phần mình được hưởng và chấp nhận cái phần số của
mình không than van.:Bắt phong trần phải phong trần,Cho thanh cao mới được phần thanh cao.Lúc thì ông bảo, Kiều khổ do nghiệp báo
luân hồi, do kiếp trước tạo nghiệp nên kiếp này phải trả:Đã mang lấy nghiệp vào thân,Cũng đừng trách lẫn trời gần trời xa.Cũng có lúc ông bảo, Kiều khổ do mang
cái tâm dục vọng, cái tâm không kiên định, lòng nhiều ham muốn nên khổ:Lại mang lấy một chữ tình,Khư khư mình buộc lấy mình vào trong.Vậy nên ở chốn thong dong,Ở không yên ổn, ngồi không vững vàng.Ma đưa lối, quỷ dẫn đàng,Lại tìm những chỗ đoạn tràng mà đi.Điều này càng thể hiện rõ ở đoạn kết câu
chuyện. Đến đoạn này, tư tưởng Nguyễn Du như đã thực sự trải qua mười lăm
năm rèn luyện và đã chứng kiến nhiều cuộc bể dâu. Cho nên, tư tưởng ông
không còn thuần nhất tuân theo bất cứ một học thuyết nào mà nó là sự phức hợp,
sự tiếp biến các tư tưởng của thời đại:Ngẫm hay muôn sự tại trời,Trời kia bắt phải làm người có thân.Bắt phong trần, phải phong trần,Cho thanh cao mới được phần thanh cao.Có đâu thiên vị người nào,Chữ tài chữ mệnh dồi dào cả hai.Có tài mà cậy chi tài,Chữ tài liền với chữ tai một vần.Đã mang lấy nghiệp vào thân,Cũng đừng trách lẫn trời gần trời xa.Thiện căn ở tại lòng ta,Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài. Ở đoạn kết này, ta thấy rõ sự phức tạp
trong tư tưởng Nguyễn Du. Ông đã giải thích nỗi khổ của Kiều do nhiều nguyên
nhân khác nhau. Nhưng một nguyên nhân mà ông luôn trốn tránh, đó là nguyên nhân
của thực tại xã hội lúc bấy giờ. Ông không hề kết án chế độ. Có lẽ ở thời đại
Nguyễn Du, tư tưởng tiến bộ nhất là lật đổ triều đại để thay một vì vua vô minh
bằng một vị minh vương mà thôi, nhà thơ chỉ mới nhận ra tính phản động của xã
hội chứ chưa nhận ra sự mục ruỗng của chế độ. Còn sự tàn nhẫn của xã hội đối
với hạnh phúc của con người, Nguyễn Du chỉ để cho cuộc đời của các nhân vật
mình làm minh chứng chứ ông không hề có lời bàn luận nào thêm. Đối với ông, mọi
lời bàn luận đều trở nên thừa, vì sự thật đã quá hiển nhiên. Ông cũng hiểu có
điều không nên nói, có điều muốn nói thì không biết nói thế nào. Sở dĩ có điều
này là do ông mang tâm trạng hoang mang, bế tắc, thế giới quan mang nhiều mâu
thuẫn sinh ra từ mâu thuẫn của thời đại.Cho nên, không thể xác định Truyện
Kiều được sáng tác nhằm thể hiện tư tưởng của học thuyết nào. Thực chất là
qua việc tiếp thu các học thuyết Nho, Phật, Lão, Nguyễn Du muốn thể hiện nhân
sinh quan của mình. Nhân sinh quan ấy thể hiện rõ ở thái độ của ông đối với các
học thuyết ấy.Đối với Nho giáo, dường như Nguyễn Du
cũng không đồng tình mặc dù ông xuất thân Nho giáo. Có lúc ông tin theo tinh
thần thuận mệnh của Nho gia nên đã để nhân vật của mình sống theo sự sắp đặt
của định mệnh. Một vài nhân vật có đời sống tâm hồn rất tầm thường, chỉ biết
nhất nhất tuân theo mệnh. Nhưng ông cũng nhận ra Nho giáo chỉ biết dạy con
người cố sống, cố hành động giúp ích cho xã hội, nhất là phải tuyệt đối trung
thành, cống hiến cho triều đình, trong khi hạnh phúc cá nhân con người thì
không được quan tâm. Kiều chỉ muốn có hạnh phúc bình thường, muốn giữ cái ý
thích cá nhân của mình, muốn được tự do làm theo những gì mình yêu thích. Kiều
chỉ muốn đàn bản nhạc thật bi ai để tâm hồn mình trải rộng ra đón nhận và đồng
cảm với bao kiếp người khổ ải trong cuộc sống. Thế mà cái ước muốn nhỏ nhoi ấy
lại không thể thực hiện. Cuộc đời thật trớ trêu, nó đã đày đọa nàng đến mức
nàng sợ hãi tất cả những gì đau thương. Nàng không còn dám nghĩ đến việc chống
đối lại với bất cứ điều gì. Cái sở thích đã thành nết, thành tật rồi mà nàng
còn còn phải từ bỏ. Kiều phải nghẹn ngào thú nhận “Ăn năn thì sự đã rồi”.Cho nên, với luân lý tốt đẹp của Nho
giáo, Nguyễn Du ghi nhận để phát huy còn với tính chất phản động của nó thì ông
cũng tô đậm lên để phê phán một cách triệt để.Còn với Lão giáo, chủ nghĩa tự nhiên chỉ
là thứ thuốc giảm đau cho các vết thương tâm hồn. Lão Tử thấy được quy luật của
sự chuyển hóa mâu thuẫn nhưng ông không chủ trương phát triển mâu thuẫn, giải
quyết mâu thuẫn mà lại chủ trương ngăn cản mâu thuẫn phát triển, mong muốn giữ
nguyên hiện trạng ấy. Vận dụng quan điểm này vào sinh hoạt xã hội, Lão Tử cho
rằng người ta nên biết đủ, không tranh giành, có như vậy mới mong bảo toàn sinh
mạng, tránh được những điều nguy hại. Với triết lý sống như thế con người trở
nên thụ động, xã hội sẽ không tiến triển. Nguyễn Du không chấp nhận cái lý
tưởng sống đó. Và ông đã bổ khuyết cho tư tưởng ấy bằng triết lý tu tâm của nhà
Phật. Nghĩa là, con người phải nhận ra mâu thuẫn ấy, phải chấp nhận số kiếp
“hồng nhan bạc phận”, “tài mệnh ghét nhau” vì đó là quy luật. Nhưng quy luật ấy
không phải bất biến, nó sẽ được thay đổi nếu chúng ta tích cực làm việc thiện,
điều này gần với quan niệm “ở hiền gặp lành” của nhân dân. Nhưng tư tưởng của
ông gần với tinh thần Phật giáo hơn. Ông cho rằng ta làm việc thiện thì có thể
trả được nghiệp chướng mình gây chứ chưa hẳn là hết khổ, con người chỉ hoàn
toàn thoát khổ khi biết từ bỏ dục vọng, tu tâm. Như thế thì ông chủ trương giải
quyết mâu thuẫn xã hội bằng một triết lý duy tâm, kết quả là rèn luyện và hình
thành nên con người có lòng Bồ Tát trong khi xã hội thì bất công tràn ngập. Do
đó, đoạn cuối của truyện, nhiều người cho đó là một kết thúc gượng gạo. Nhưng
thực ra đoạn đoàn viên này thể hiện sự kết hợp hài hòa tư tưởng tam giáo đồng
quy trong tư tưởng Nguyễn Du. Đồng thời, đó cũng là mơ ước của Nguyễn Du. Đoạn
đoàn viên này cũng làm cho tác phẩm không rơi vào bi lụy, nó mang màu sắc
lạc quan thích hợp với cảm quan nghệ thuật của người Việt Nam thời bấy giờ.
Ngoài ra, nó cũng thể hiện sự kết hợp hài hòa giữa tính lãng mạn và tinh thần
hiện thực của tác phẩm.Để nhận xét Truyện Kiều ta chỉ
dùng một chữ “tuyệt”. Đứng về phương diện văn chương, tả tình, tả cảnh, ngay cả
miêu tả tâm lý nhân vật, Truyện Kiều của Nguyễn Du là tuyệt hảo không chê
vào đâu được. Tác phẩm là áng văn chương thanh tú và mĩ lệ. Còn về phương diện
tư tưởng, ông không để tác phẩm mình rao giảng một cách giáo điều luân lý của
chế độ, nhưng bài học luân lý thì trở nên bất diệt. Tác phẩm của ông không nhằm
buộc tội chế độ nhưng bản chất chế độ lại bị lột trần. Ông luôn tôn trọng sự
hòa hợp giữa tình người và lòng người, nghĩa là sự hòa hợp giữa con người cá
nhân với con người xã hội và đề cao lòng nhân đạo, lòng trắc ẩn của con người.
Cho nên qua Truyện Kiều, ta nhận ra nhiều bài học nhân sinh sâu sắc.2.2 Triết lý nhân sinh Nguyễn Du muốn
gởi gắm:Bêlinxki từng nói: “Nghệ thuật không có
tư tưởng như con người không có tâm hồn”. Và không có tư tưởng nào mà không
mang ý nghĩa nhân sinh nhất định. Truyện Kiều của Nguyễn Du đã tiếp
thu hệ tư tưởng Nho, Phật, Lão trong việc xây dựng hình tượng nhân vật, làm nổi
lên giá trị hiện thực và tinh thần nhân đạo của tác phẩm. Tuy nhiên, khi vận
dụng các học thuyết này vào tác phẩm, nó cũng đem đến cho Truyện
Kiều ý nghĩa nhân sinh có giá trị.Truyện Kiều là triết lý về cuộc
đời, ở đấy có những hình ảnh khổ đau, hạnh phúc và u mê, lầm lạc. Cuộc đời Kiều
là sự tổng hợp mọi cảnh đời trong xã hội. Kiều từng là người con hiếu thảo,
từng là người tình ngây thơ, là vợ lẽ, là con hầu, từng làm vợ người quyền thế,
từng “kề vai” kẻ bất nhân, từng là người trung quân, từng là kẻ bất nghĩa, từng
là mệnh phụ, từng là ni cô… Kiều đã trải qua cuộc sống với không ít ngày hạnh
phúc, cũng không ít ngày đau khổ.Mỗi con người chúng ta, ít nhất cũng một
lần khổ đau, một lần thất bại hay một lần vấp ngã. Đọc Truyện Kiều, chúng
ta sẽ tìm thấy sự đồng cảm xót thương cùng nàng Kiều. Nếu ai đó đã từng rơi vào
một trong những hoàn cảnh đau khổ như Kiều thì ắt hẳn sẽ không cầm được giọt
nước mắt thương người, tủi phận. Còn những ai hạnh phúc, đường đời được trải
gấm dệt hoa thì không thể nào không có lòng trắc ẩn khi thấy sự chống trả một
cách yếu ớt của Kiều cùng với số mệnh, với khổ đau để vươn lên tìm hạnh phúc.
Đó là giá trị nhân sinh của Truyện Kiều.Văn chương có tác dụng làm thanh lọc tâm
hồn con người .Và nếu chúng ta có lòng học hỏi thì khi đọc tác phẩm ta sẽ học
hỏi rất nhiều. Đọc Truyện Kiều bằng cái nhìn khách quan, cái nhìn quán
xuyến, chúng ta sẽ học được những bài học của khổ đau và kinh nghiệm.Nếu ai đó nghĩ rằng, ta sẽ học được gì
khi Truyện Kiều chỉ là câu chuyện về cô gái giang hồ? Ta sẽ tiếp thu
được những gì khi Truyện Kiều chỉ là sự thể hiện những giáo lý khô
khan của Khổng Nho, trong khi thời đại tôn sùng Nho giáo đã là cái thời lắng
sâu vào quá khứ, con người đã cố gắng chôn vùi nó thì còn khơi dậy làm gì? Còn
Phật và Lão chỉ là cái giường ru ngủ, nơi dừng chân của những tâm hồn quá mỏi
mệt thì có ý nghĩa gì trong xã hội tiến bộ ngày nay?Ai đã từng nghĩ thế thì có lẽ chưa hiểu
gì về tinh hoa các học thuyết ấy và chưa thực sự “cảm” Truyện Kiều. Thực
ra, trong các học thuyết ấy thì học thuyết nào cũng nhằm đem đến cho con người
cuộc sống tốt đẹp hơn, chỉ có điều là thực hiện bằng những con đường khác nhau
mà thôi. Nho giáo chủ trương sống “nhập thế”, làm hết sức mình để giúp đời. Lão
giáo chủ trương sống “vô vi”, không tranh giành để đạt được sự hòa hợp trong
cuộc sống. Phật giáo dạy con người lòng thương yêu nhân loại để người với người
kết nên một cuộc đời thật tốt đẹp dựa trên tình thương yêu lẫn nhau. Như vậy,
cả ba học thuyết đều dạy con người phải có tinh thần thực tiễn, phải nhận thức
được ý nghĩa cuộc sống và phải vượt qua những trở ngại trong cuộc đời để vươn
lên tìm hạnh phúc.Ta thấy cuộc đời Kiều trải qua bao thăng
trầm sóng gió, có những lúc Kiều không chịu nổi khổ đau phải tìm đường tự vẫn.
Nhưng xét kỹ ra, những lúc Kiều không chịu nổi là những lúc nhân phẩm Kiều bị
chà đạp đến xót xa. Lần tự vẫn đầu là vì nàng không chịu được cảnh phải từ một
cô gái khuê các trở nên một kỹ nữ. Lần thứ hai là lúc Kiều trốn tránh cảnh
“Giết chồng mà lại lấy chồng”. Còn những lần bị hành hạ, bị giày vò, bị đay
nghiến thì cũng không thể nào làm tắt đi ý chí đấu tranh giành quyền
sống, giành hạnh phúc cá nhân ở Kiều. Qua đó ta thấy, trong xã hội phong kiến,
con người, nhất là người phụ nữ rất coi trọng nhân phẩm của mình. Điều này vừa
khẳng định giá trị nhân văn của thiên truyện, đồng thời cũng khẳng định giá trị
cuộc sống của con người. Con người phải biết vươn lên mọi hoàn cảnh để bảo vệ
sinh mạng của mình, tìm ra ý nghĩa cuộc sống của mình.Những lúc nào đó chúng ta thất bại, chúng
ta khổ đau, chúng ta tuyệt vọng, ta hãy nghĩ đến Kiều. Trong khi Kiều chỉ là
một cô gái yếu ớt phải chống trả với mọi thế lực tàn bạo trong xã hội trong
suốt 15 năm đau khổ, thì chúng ta sao lại không tin vào khả năng của
mình? Truyện Kiều đã cổ vũ tinh thần chúng ta, khuyên chúng ta không
nên bi quan với cuộc sống, định mệnh còn có thể thay đổi thì hoàn cảnh sống
không lý nào lại bất biến. “Xưa nay nhân định thắng thiên cũng nhiều”. Mọi
chuyện “Có trời mà cũng có ta”, nghĩa là mọi khổ đau do nguyên nhân khách quan
đem đến nhưng một phần nỗi khổ cũng là do con người luôn than phiền nỗi khổ,
trốn tránh nó để rồi nó cứ mãi đuổi theo.“Ôi! Núi xanh vốn không già, vì tuyết mà
bạc đầu.Nước xanh vốn không sầu vì sóng mà nhăn
nheo”. [14;7]Con người ta vốn tự do tự tại, không lo
sầu thì phiền não từ đâu mà đến, khổ sầu từ đâu mà ra? Phải chăng do ngoại cảnh
đem đến, như tuyết làm bạc đầu ngọn núi, như sóng làm mặt nước nhăn nheo?Thế nhưng, nếu không có ngoại cảnh thì
có chắc con người đạt được hạnh phúc? Trong khi Phật dạy, đời là bể khổ, khổ
sầu của con người là do sinh, lão, bệnh, tử, sở cầu bất đắc, ái biệt ly… gây
ra. Những khổ đau ấy làm cho con người cảm tưởng hạnh phúc cá nhân luôn mâu
thuẫn với cuộc đời. Nhưng nếu chúng ta không giải quyết mâu thuẫn ấy thì mâu
thuẫn càng tăng, còn chúng ta sẽ không tiến bộ. Cho nên, sống là chấp nhận khổ
đau, chấp nhận thất bại, không chỉ dừng lại ở chấp nhận mà phải đấu tranh để
giải quyết nó. Ta thấy, Kiều là một cô gái yếu đuối nhưng tinh thần vươn lên, ý
thức về nhân phẩm lại mãnh liệt. Kiều ý thức được nỗi khổ của mình và ý thức
được chính mình mới là người giải trừ nỗi khổ ấy, Kiều không hề trốn tránh nó:Kiếp này trả nợ chưa xong,Làm chi thêm một nợ chồng kiếp sau.Kiều nghĩ sống là để trả nợ kiếp trước.
Cho nên trốn nợ bằng cái chết là hèn nhát, là càng chồng thêm nợ. Vì thế, khi
Kiều trốn cùng Sở Khanh bị Tú Bà bắt lại và buộc phải tiếp khách, nàng không
thể tự tử vì tự tử là nàng mang thêm nợ. Tú Bà bỏ tiền mua Kiều nhưng trá hình
bằng trò cưới lẽ. Kiều đã vịn vào cớ này để từ chối tiếp khách. Nay lại trốn
theo Sở Khanh, bị bắt, đuối lý nàng đành chấp nhận “Chút lòng trinh bạch từ nay
xin chừa”. Kỳ thực, nàng có thể tự tử vì chết là hết. Nhưng nàng không làm thế.
Kiều sợ chết ư? Lý do này vô lý. Kiều sợ họ làm khó gia đình ư? Họ không có cái
lí để làm điều đó. Nhưng Kiều chấp nhận tủi nhục vì nàng là người hiểu đạo lý.Qua Truyện Kiều, ta nhận ra nghệ
thuật ứng xử của con người với gia đình và xã hội. Nghệ thuật ứng xử ấy không
phải thể hiện ở triết lý khô khan của Khổng Nho - nhân, lễ, nghĩa, trí, tín.
Cũng không phải là lòng Bồ Tát, vị tha của đạo Phật. Lại càng không phải là
tính khiêm tốn đến “vô vi” của Lão giáo. Nó chính là sự dung hợp những giáo lý
của các học thuyết ấy. Như việc Kiều tha bổng Hoạn Thư là biểu hiện cái cái lý
trí sáng suốt, suy xét đến ngọn nguồn của sự vật (cách vật chí tri) kết hợp với
lòng vị tha, sẵn sàng bỏ lỗi cho người biết “tri quá” cùng với tính cách khiêm
tốn không ra oai với kẻ thù. Tất cả những điều đó như xuất phát từ các học thuyết
Nho, Phật, Lão nhưng lại chính là đạo lý của người Việt Nam. Người Việt Nam
không có cách ứng xử ủy mị như nếu người ta tát vào má bên phải của mình thì
chìa cái má bên trái cho người ta tát nốt. Cách ứng xử như lối của Kitô giáo ấy
không phù hợp với tính cách chúng ta. Với người Việt Nam, nếu người ta tát mình
một cái thì mình phải biết ngăn cản không cho họ có cơ hội tát thêm cái thứ hai
chứ cũng không phải tìm cách tát lại. Gia đình Kiều bị bọn sai nha làm cho điêu
đứng nhưng họ không tìm cách trả thù. Báo ân mà không gây oán là điều
mà Truyện Kiều muốn thể hiện.Khi cái lòng ta không thù oán, ta không
có gì phải nghĩ suy, lúc đó ta mới thực sự sống thanh thản:“Đời ta yên lặng, không nghĩ quanh co,Người đều lo sợ, ta vẫn không lo”.Ngã sinh dĩ an, bất thích ư ưu,Chúng nhân hữu ưu, ngã hành vô ưu).
(Pháp cú kinh)Dẫu rằng cuộc sống bắt chúng ta phải
luôn đấu tranh với đau khổ, sống là để mưu cầu hạnh phúc. Nhưng nếu cứ vì hạnh
phúc cá nhân, luôn tính toán thiệt hơn, để dục vọng lôi cuốn thì ta sẽ
luôn “Ở không an ổn, ngồi không vững vàng”. Con người sẽ luôn thấp thỏm,
lo âu “Thấy người nằm đó biết sau thế nào?”. Lo âu sẽ làm ta luôn sầu muộn, băn
khoăn, bất ổn. Đó là tâm trạng của Kiều bởi nàng là người “thích ưu tư”, đa
sầu, đa cảm;Cho hay là giống hữu tình,Đố ai gỡ mối tơ mành cho xong.Còn chúng ta, ta hãy nhìn lại cuộc sống
của mình, bộn bề những lo toan, những cạnh tranh trong xã hội, tất cả chỉ làm
cho chúng ta thêm mỏi mệt. Rồi một ngày nào đó ta thất bại, ta bế tắc, ta khổ
đau. Những lúc ấy có khi nào ta tự hỏi: Cuộc sống của chúng ta từ đâu đến? Giá
trị của đời sống là gì? Mục đích của cuộc sống là ở chỗ nào?Những lúc này, ta hãy tạm quên điều ấy
đi, lắng nó xuống tận đáy của dòng suy tưởng, hãy mở Truyện Kiều để
tìm thấy triết lý sống của Kiều. Rồi hãy nhìn lại cuộc sống, có mấy ai không
đau buồn, tủi khổ, sướng vui, hạnh phúc. Tất cả những điều đó làm nên cuộc đời.
Cuộc đời là thế đấy! Ai cũng muốn mọi cái tốt lành đều đến với mình nhưng đâu
phải lúc nào cũng đạt được. Muốn ước mơ được thực hiện, con người phải
không ngừng phấn đấu, nỗ lực thậm chí phải chịu đựng tất cả những khổ đau và
vượt qua nó bằng tinh thần kiên định.“Nếu chẳng một phen sương lạnh buốtHoa mai đâu dễ ngửi mùi hương”.(Thiền sư Hoàng Bá Hy Vân).Hạnh phúc của chúng ta không ở đâu xa.
Xác định được mục đích cuộc sống đã là hạnh phúc. Vì nếu ta có mục đích sống ta
sẽ có nghị lực vượt lên trên khổ đau để sống. Người Việt Nam cũng như người
Trung Hoa không có ý niệm sống để rửa tội, để sau khi chết rồi được sung sướng.
Quan niệm đó của Kitô giáo họ không thể hiểu nổi, còn chúng ta ngày nay cũng
chưa hẳn đồng tình. Người Việt Nam chúng ta không có quan niệm sống để đạt tới
cảnh Niết Bàn vì quan niệm Niết Bàn huyễn hoặc quá. Qua Truyện Kiều,
Nguyễn Du cho ta biết mục đích chân thực của đời sống là tìm cái vui trong
những sinh hoạt đời thường, sống hòa hợp với gia đình và xã hội bằng một tâm
hồn thanh thản, thoải mái. Đó là giá trị đích thực của Truyện Kiều.3. Tư tưởng Nho giáo, Phật giáo
trong Truyện Kiều của Nguyễn Du3.1. Tưởng Nho giáo trong Truyện
KiềuTruyện Kiều là một kiệt tác của văn
học Việt Nam. Khi tiếp nhận tác phẩm này rất nhiều nhà nghiên cứu đề cao giá
trị nhân văn của tác phẩm: Nguyễn Du đã vượt qua những ràng buộc của Nho giáo
để ngợi ca tình yêu tự do, ngợi ca hạnh phúc riêng tư của con người. Tất nhiên
đó là những kết luận không thể phủ nhận được. Nhưng là một sản phẩm của ý thức
hệ phong kiến, sinh ra trong gia đình có truyền thống nho học, bản thân lại
từng làm quan cho triều đình nhà Nguyễn, Nguyễn Du không thể không ảnh hưởng
bởi tư tưởng Nho giáo. Sự ảnh hưởng ấy được ông thể hiện khá rõ trong việc lý
giải số phận của nhân vật chính - Thúy Kiều bằng thuyết thiên mệnh. Nguyễn Du
cho rằng mọi khổ đau tủi nhục của Kiều đều do trời định. Nhà thơ đã nhiều lần
nói đến trời, đến thiên mệnh như các nhà kinh điển của nho gia. Trong Truyện
Kiều tư tưởng thiên mệnh ấy được tác giả thể hiện dưới dạng "tài mệnh
tương đố'', "hồng nhan bạc mệnh".Trong Truyện Kiều mâu thuẫn giữa tài và
mệnh tập trung ở nhân vật nàng Kiều. Để hiểu được mâu thuẫn này thì phải nhận
thức được thế nào là tài, thế nào là mệnh. Tài là tài năng, nhan sắc, là những
gì tốt đẹp của con người. Tài là một giá trị thực tại. Số mệnh là một thực thể
siêu hình, nó không tồn tại và không có hiệu lực thực tại nhưng ở Truyện Kiều
mệnh có một vai trò to lớn: "chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau".Tác giả đã nhận thức nỗi khổ của Thúy
Kiều với một ý nghĩa siêu hình, bản chất số phận của nàng là mâu thuẫn giữa tài
và mệnh. "Tài mệnh tương đố" là niềm tin của tác giả. Những lực lượng
tàn phá cái hay, cái đẹp đều được nhà văn khái quát thành số mệnh. Bởi theo
thuyết thiên mệnh của Nho giáo, người ta giàu nghèo sướng khổ là do trời định
trước: "tử sinh hữu mệnh, phú quý tại thiên". Người ta bằng kinh
nghiệm ở đời, theo hướng duy tâm thần bí để suy ra rằng, sở dĩ có điều bất bình
là đạo trời vốn ghét cái trọn vẹn ("tạo vật số toàn/ tạo hóa kị
doanh"):"Lạ gì bỉ sắc tư phongTrời xanh quen thói má hồng đánh
ghen"Tài hoa thì bạc mệnh! Đó là mệnh đề mà
tác giả đã chứng minh bằng cuộc đời của Thúy Kiều. Kiều được miêu tả như một
người đẹp toàn diện. Sắc đẹp ấy, tài năng ấy đã dự báo một cuộc đời đầy sóng
gió bởi: "rằng hồng nhan tự thủa nào/ cái điều bạc mệnh có chừa ai đâu''.
Hay ẩn trong "tài" chính là "họa": "chữ tài liền với
chữ tai một vần"Mệnh đề ấy còn được Nguyễn Du cụ thể hóa
ở nhân vật Đạm Tiên. Đạm Tiên cũng là người con gái đẹp, tài năng "nổi
danh tài sắc một thì" nhưng:"Kiếp hồng nhan có mong manhNửa chừng xuân thoắt gãy cành thiên
hương".Nhìn chung, Nguyễn Du cắt nghĩa cái đau
khổ của Thúy Kiều hay cái đau khổ của cuộc đời nói chung thông qua nàng Kiều là
do mâu thuẫn giữa tài và mệnh. Tư tưởng ấy dường như quán xuyến từ đầu đến cuối
tác phẩm và được tác giả khái quát ở phần cuối tác phẩm:"Ngẫm hay muôn sự tại trờiTrời kia đã bắt nhầm người có thânBắt phong trần phải phong trầnCho thanh cao được mới phần thanh caoCó đâu thiên vị người nào"3.2. Tư tưởng Phật giáo trong Truyện
KiềuBên cạnh việc vận dụng học thuyết Nho
giáo, Nguyễn Du còn vận dụng học thuyết Phật giáo vào việc lí giải số phận nhân
vật, bởi vì dường như khi giải thích bằng thuyết thiên mệnh, ông vẫn chưa thực
sự thỏa mãn, vẫn bị bế tắc. Vì thế Nguyễn Du đã tìm đến đạo phật. Ông dùng
thuyết nhân quả và nghiệp báo của đạo phật mà giải thích số phận của nhân vật.
Giáo lý nhà phật khẳng định: "nước bao giờ cũng chảy xuống, tham muốn và
tình dục sẽ đưa con người vào vòng trầm luân đau khổ, từ đó đẩy con người vào
nghiệp báo luân hồi". Sở dĩ Thúy Kiều có số phận mong manh như thế vì nàng
có cái nghiệp tiềm ẩn bên trong, cái nghiệp tiềm ẩn từ kiếp trước:"Kiếp xưa đã vụng đường tuKiếp này chẳng kẻo đền bù mới xuôiDẫu sao bình đã vỡ rồiLấy thân mà trả nợ đời cho xong"Chúng ta có thể tìm thấy rất nhiều câu
thơ thể hiện thuyết nghiệp báo trên của đạo phật ở Truyện Kiều, nó thấm
nhuần vào tư tưởng của nhân vật cho nên Kiều đã dự cảm được vận mệnh cuộc đời
mình từ khi còn nhỏ:"Kiếp này trả nợ chưa xongLàm chi thêm một nợ chồng kiếp sau"Dưới ánh sáng của nhân duyên học (từ
dùng của đạo phật), các quan điểm thiên mệnh đều ngã quị, không thể tồn tại mà
xưng hùng xưng bá để dày đọa kiếp người. Con người khổ ải là do hành vi
"thất niệm" của mình tạo ra từ trước cho nên không thể trách trời
được:"Đã mang lấy nghiệp vào thânThì đừng trách lẫn trời gần trời
xa"Dựa vào thuyết nghiệp báo của đạo phật,
chúng ta thấy rằng chết không phải là hết, chết là một sự thoát xác, thay đổi
từ trạng thái sinh hoạt này sang một trạng thái sinh hoạt khác, khổ đau hoặc
sung sướng hơn, tùy vào nghiệp của mình đã tạo ra ở kiếp trước. Người Việt Nam
nói riêng và người Phương Đông nói chung đã hấp thụ tư tưởng này nên chúng ta
không bao giờ tin chết là hết, chết là mất hẳn. Có lẽ vì vậy nên người Việt
thường có quan niệm rằng: con người sau khi chết thể xác tan rã nhưng tinh thần
còn tồn tại. Thực ra đó là ảnh hưởng từ thuyết nghiệp báo của nhà phật. Kiều
cũng đã tin như thế:"Kiều rằng những đấng tài hoaThác là thể phách còn là tinh anh"Để chứng minh cho lòng tin ấy, Nguyễn Du
đã cụ thể hóa sự xuất hiện mờ ảo linh thiêng của Đạm Tiên trong buổi chiều
thanh minh và những lần nàng hiện về báo mộng cho Kiều. Vì nhận thức chết là
chưa hết nên khi trao duyên lại cho Thúy Vân, Kiều đã dặn em:"Mai sau dẫu có bao giờ đốtLò hương ấy so hương phím nàyTrông ra ngọn cỏ lá câyThấy hiu gió thì hay chị về"Theo triết lý của đạo phật, ở đời không
có cái gì tự nhiên mà có, ngẫu nhiên mà sanh. Sở dĩ nàng Kiều mang nghiệp báo
là do một túc duyên tiền định.Có người cho rằng nếu đúng như thuyết
nghiệp báo và luật nhân quả (gây nhân nào gặp quả ấy) của đạo phật thì tại sao
những người hiếu thảo, vị tha như Kiều vẫn chịu khổ. Thực ra, triết lý nhân quả
của đạo phật chia làm nhiều thứ: nhân quả hiện tại, nhân quả nhiều đời, nhất
thế nhân quả, tam thế nhân quả. Thân phận Thúy Kiều chính là biểu hiện của thứ
nhân quả nhiều đời, thứ nhân quả được truyền từ kiếp trước. Trong Truyện
Kiều còn hiển thị cả thứ nhân quả hiện tại. Những kẻ làm việc bạc ác tinh
ma như Hoạn Thư, Mã Giám Sinh, Tú Bà, Bạc Bà, Bạc Hạnh cuối cùng đều bị trừng
phạt (thể hiện ở đoạn thơ Kiều báo ân báo oán)Vì muốn chứng minh một cách rõ ràng
thuyết nhân quả - báo ứng là một định lý hiển hiện có thật và mọi người đều có
thể được đáp ứng tương ứng với hành vi của mình đã tạo ra trong kiếp sống hiện
tại, tác giả Truyện Kiều đã để cho kiều sống lại thoát khỏi oan kiếp tiền định
ở sông Tiền Đường vì nàng biết rèn luyện tâm tính.Điểm đặc biệt của đạo Phật chính ở chỗ
phàm là con người dù tội lỗi bao nhiêu nhưng biết thành tâm sám hối, ăn năn thì
có thể trở thành trong sạch được. Lối thoát của đạo phật là đi tu: "tu là
cội phúc, tình là dây oan''. Kiều đã luyện đúng tinh thần của đạo phật, nhờ thế
mới có cái hậu của Truyện kiều, cái hậu ấy chính là sự sum họp với những người
nàng yêu thương nhất. Trải qua mười lăm năm liu lạc, cuối cùng nàng đã đạt được
ước nguyện đoàn viên. Mười lăm năm đoạn trường của nàng là bài học về khổ đế mà
nguyên nhân vừa hợp với giáo lý, vừa hợp với tinh thần giới luật nhà phật là
lòng khát ái, dục ái. Tư tưởng Phật giáo trong Truyện Kiều còn
thể hiện ở quan niệm về chữ "tâm"Trong kinh luận, Phật giáo thường chép:
"tam giới duy tâm, vạn pháp duy thức" (ba cõi dục giới, sắc giới và
vô sắc giới là do tâm, vạn pháp hữu hình, vô hình, tâm pháp, sắc pháp đều do
thức tạo ra). Theo đạo phật, tâm là chủ thể của muôn sự muôn vật. Riêng đối với
con người mọi vật đều do tâm thúc đẩy. Với Kiều tâm cũng quyết định mọi vui
buồn và giá trị của đời sống:"chữ tâm kia mới bằng ba chữ
tài".Đọc Truyện Kiều chúng ta còn bắt gặp cả
tinh thần từ bi bác ái, vị tha của đạo phật. Điều đó thể hiện ở cách ứng xử của
kiều với những người xung quanh. Kiều đã hy sinh tình yêu, hy sinh hạnh phúc
riêng tư của bản thân để cứu gia đình ra khỏi cơn gia biến. Đó là lòng hiếu
thảo. Mười lăm năm lưu lạc, mười lăm năm chịu kiếp đọa đày, đáng ra nàng phải
thương phận mình nhưng lúc nào kiều cũng băn khoan về những người thân, về mẹ
cha, về Kim Trọng. Đó chính là sự vị tha.Đọc Truyện Kiều chúng ta còn bắt gặp âm
hưởng của đạo phật qua những thuật ngữ của đạo phật: đoạn trường, am
mây, Nhồi tâm hương... Lúc ở "quan âm các" nhà Hoạn Thư,
công việc của thúy kiều được Nguyễn Du tả như sau: “ngày phô thủ tự, đêm nhồi
tầm hương". Ngày phô thủ tự, nghĩa là ngày bày ra chép kinh. Đêm nhồi tầm
hương", ở đây là ngũ phần hương, năm thứ hương của pháp thân là: giới,
định, tuệ, giải thoát và giải thoát tri kiến. Nhồi tầm hương là ngồi thiền để
tô bồi năm phần hương của pháp thân.3.3. Sự giao thoa của tư tưởng Nho giáo
và Phật giáoTác phẩm Truyện Kiều vừa tồn tại triết
lý của Nho giáo, vùa tồn tại triết lý của Phật giáo (như chúng ta đã khảo sát ở
trên), sở dĩ như thế vì bản thân tác giả đã tiếp thu cả hai tư tưởng này. Nhưng
trong Truyện Kiều, tư tưởng Nho giáo và Phật giáo không tồn tại một cách biệt
lập mà giữa chúng có sự đan xen nhau.Tư tưởng thiên mệnh là nội dung của Nho
giáo nhưng ở Truyện Kiều nó không thuần túy Nho giáo nữa mà có thêm màu sắc
Phật giáo. Nhà thơ giải thích tư tưởng định mệnh của Nho giáo bằng ngôn ngữ của
Phật giáo. Mâu thuẫn của tài và mệnh là là biểu hiện tư tưởng định mệnh của Nho
giáo thì nguồn gốc sâu xa của nó lại chính là chữ nghiệp theo quan niệm của
Phật giáo. Để thủ tiêu mâu thuẫn của tài và mệnh, con người phải tu tâm bởi vì
theo đạo phật thì "thiện căn" - gốc rễ của cái thiện là ở trong lòng
mình. đây là những lời của sư tam hợp khi nghĩ về cuộc đời Kiều:"Sư rằng phúc họa đạo trờicội nguồn cũng ở lòng người mà racó trời mà cũng có tatu là cội phúc tình là dây oan"Sư Tam Hợp cũng cho rằng mọi việc (phúc
họa) do ở trời nhưng sau đó lại đề cao hành vi tu tâm. Như thế là Nguyễn Du đã
đi từ nho sang phật hay nói đúng hơn là nhà thơ đã kết hợp Nho giáo với Phật
giáo trong việc lý giải cuộc sống. Sở dĩ kết hợp được là vì chữ nghiệp theo
quan niệm của Phật giáo cũng là một tưởng định mệnh. Cái khác là trong Nho giáo
định mệnh do một lực lượng siêu nhiên bên ngoài con người chi phối (trời) còn
với Phật giáo thì định mệnh nằm ngay trong bản thân con người và chi phối con
người bằng luật nhân quả. Điều này đã được Hoàng Ngọc Hiến nói đến trong
"triết lý Truyện Kiều": "tìm hiểu Truyện Kiều với nhu cầu hệ
thống không khỏi phân vân vì ngôn ngữ triết học trong tác phẩm. Ngôn ngữ Nho
giáo lẫn với ngôn ngữ Phật giáo...". Đúng như thế, trong Truyện Kiều người
phát ngôn cho tư tưởng Nho giáo là Đạm Tiên, song ngôn ngữ của Đạm Tiên vừa có
nói đến trời, đến nhân, đến hiếu, vốn là những đức của Nho giáo đồng thời cũng
nói đến "hội chủ", "đến sổ đoạn trường" đến "quả kiếp
nhân duyên" của Phật giáo:"Vâng trình hội chủ xem trườngMà sao trong sổ đoạn trường có tênÂu đành quả kiếp nhân duyênCũng người một hội một thuyền đâu
xa"Đọc Truyện Kiều, chúng ta bắt gặp
rất nhiều câu thơ thể hiện sự giao thoa của tư tưởng Nho giáo và Phật giáo. Chữ
"trời" có khi được tác giả thay bằng chữ "thiên mệnh" của
nho, cũng có lúc được thay cho chữ "nhân quả", "kiếp
nghiệp" của đạo Phật. Ngay trong cuộc đời mình, có lúc Kiều cho rằng ngọn
nguồn khổ đau của mình đều do trời nhưng cũng có lúc nàng đổ lỗi cho nghiệp,
kiếp:"Nàng rằng nhân quả dở dangĐã toan trốn nợ đoản tàng được sauSố còn nặng nợ má đàoNgười đà muốn chết trời nào có cho"Nguyễn Du dùng chủ nghĩa thiên mệnh để
cắt nghĩa cuộc sống mà chủ nghĩa thiên mệnh thì có tính cách siêu hình, trong
khi đó ông cũng lờ mờ nhẩn ra rằng con người cũng có vai trò to lớn trong việc
cải tạo vận mệnh của mình: "xưa nay nhân định thắng thiên cũng
nhiều", do đó nhiều trường hợp tác giả tỏ ra không nhất quán, bế tắc khi
lí giải đau khổ của Thúy Kiều hay đau khổ của cuộc đời nói chung. Vì vậy,
Nguyễn Du đã tìm đến đạo phật với mong muốn giải thoát được sự bế tắc ấy. Và ở
đây ông đã gặp chữ "tâm" của đạo phật" thiện căn ở tại lòng ta/
chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài". Sự đan xen của tư tưởng Nho giáo và Phật
giáo trong Truyện Kiều một mặt phản ánh mâu thuẫn trong thế giới quan của
Nguyễn Du, mặt khác phản ánh đặc trưng tư tưởng của thời đại bấy giờ, thế kỷ
XVIII - nửa đầu thế kỷ XIX cùng với sự suy tàn của chế độ phong kiến, Nho giáo
không còn giữ địa vị độc tôn như trước nữa, Phật giáo có điều kiện phát triển.
đồng thời giữa Nho giáo và Phật giáo có xu hướng kết hợp với nhau và với tín
ngưỡng dân gian để tìm một lời giải cho thời đại.20/1/2015Đỗ Đức Dục
Sông Rum hết nước, họ này hết quan”.
Nếu như các triết gia đi từ những hiện
tượng riêng lẻ để đi đến khái quát chúng thành quy luật thì các nhà nghiên cứu
đi ngược lại. Nghĩa là, nhà nghiên cứu đi từ những thuộc tính, những biểu hiện
của hiện tượng rồi quy hiện tượng ấy vào quy luật chung, dựa vào quy luật chung
ấy mà tìm đến bản chất của hiện tượng và tiến hành lý giải chúng. Chẳng hạn, ta
cho câu tục ngữ “hễ gieo gió thì gặt bão” là học thuyết nhân quả của nhà Phật
thì ta có thể dựa vào thuyết ấy mà lý giải câu tục ngữ trên.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét