Ông Julius Oppenheimer gốc người Do Thái, từ nước Đức sang
Hoa Kỳ lập nghiệp và hoạt động trong ngành xuất cảng vải sợi tại thành phố
New York. Vốn là một đại thương gia, ông đã nhiều lần cùng con trai sang thăm
châu Âu.
Ngay từ thuở nhỏ, Robert đã tỏ ra là một cậu bé thông minh và hiếu học. Cậu
theo ban trung học trong thành phố New York. Các sách viết bằng tiếng La
Tinh, Hy Lạp, đối với cậu không khó và môn Vật Lý được cậu ưa chuộng nhất.
Trong các câu chuyện giữa chúng bạn, Robert bàn luận rõ ràng, cậu ghét tính
ba hoa và ưa tư lự. Phải chăng tính ưa thích cô độc là một đặc tính của các
nhà bác học?
Vào một dịp hè, ông Julius dẫn con trai đến phòng thí nghiệm của Giáo Sư
Auguste Klock, xin cho con theo học thêm về môn Hóa Học. Robert tiến bộ đến nỗi
cậu ngốn hết cả chương trình một niên học trong 6 tuần lễ. Ông Klock đã phải
ngạc nhiên về trí thông minh của cậu học trò mới này và đã nói: "Cậu
Robert học khá đến nỗi không vị Giáo Sư nào nỡ cấm cản không cho cậu học thêm
bài mới".
Khi bước chân vào trường Đại Học Harvard, Robert đã say sưa với các sách báo
của thư viện nhà trường. Các tác phẩm triết học Đông Phương cũng như Tây
Phương đã làm chàng thanh niên này đam mê, suy nghĩ. Trong 3 năm trường,
chàng đã theo 6 môn học chính và 2 môn học phụ, trong khi các sinh viên khác
chỉ có thể học tối đa 5 môn học.
Rồi vào năm 1925, Robert Oppenheimer tốt nghiệp trường Đại Học Harvard với hạng
ưu và lời khen ngợi của Hội Đồng Giáo Sư. Sau đó chàng sang nước Anh và ghi
tên vào trường Đại Học Cambridge. Tại Cơ Sở Thí Nghiệm Cavendish, chàng được
theo học Giáo Sư J. Thomson và Lord Rutherford là các nhà tiền phong về khảo
cứu nguyên tử và cũng là các nhà bác học lừng danh thời bấy giờ. Chàng cũng
được gặp gỡ các nhà bác học lỗi lạc Niels Bohr người Đan Mạch, Paul Dirac người
Anh và Max Born người Đức. Ông Max Born mời chàng sang Đức theo học tại trường
Đại Học Goettingen.
Từ xưa, nước Đức vẫn nổi tiếng về Khoa Học và Đại Học Đường Goettingen là một
ngôi trường danh tiếng của châu Âu. Robert Oppenheimer sang Đức và sau 6 tuần
lễ ghi tên, chàng đã đậu văn bằng Tiến Sĩ, năm đó chàng mới 23 tuổi. Các Giáo
Sư đều khen ngợi bản luận án xuất sắc của chàng về Nền Cơ Học Lượng Tử (la
Mécanique Quantique). Ít lâu sau, chàng lại sang Thụy Sĩ, theo học trường
Bách Khoa Zurich là một trong các trường kỹ thuật danh tiếng nhất của châu
Âu.
Khi Robert trở về Hoa Kỳ, ông Julius hết sức ngạc nhiên vì thấy con trai gầy
còm chẳng khác gì một chiếc gậy. Thân hình cao lỏng khỏng, má hóp, ngực lép,
chàng Robert lại húng hắng ho. Ông Julius liền tìm cách cho con trai đi nghỉ
ngơi tại miền quê để dinh dưỡng cơ thể. Ông mua ngay cho con một nông trại
trong tiểu bang New Mexico. Tại nơi đây, cả ngày ngồi trên yên ngựa, chàng
Robert ngao du khắp các đồi núi. Cái nông trại miền New Mexico này không giống
với các nông trại khác. Nơi đây vắng vẻ, hiu quạnh, khiến cho người ta có cảm
tưởng một bãi sa mạc hơn là một miền đồng quê. Nhờ hít thở không khí trong
lành và nghỉ ngơi tĩnh dưỡng, Robert Oppenheimer đã hoàn toàn bình phục.
Năm 1928, Viện Kỹ Thuật California (the California Institute of Technology =
C.I.T.) là nơi tụ tập các nhà vật lý danh tiếng trên thế giới, đã gửi giấy mời
ông Robert Oppenheimer giữ chức Giáo Sư của Viện. Trường Đại Học California tại
Berkeley (the University of California at Berkeley) cũng đón mời. Ông Robert
Oppenheimer nhận lời giảng dạy tại cả hai trường.
Trong hơn 10 năm giảng huấn, ông Robert Oppenheimer đã được cảm tình của hầu
hết sinh viên. Họ đã gọi ông giáo sư trẻ 24 tuổi này là Oppie cho tiện và
thân mật. Tuy giữ chức Giáo Sư Đại Học nhưng Giáo Sư Oppie lúc nào cũng bình
dị và nội tâm của ông vẫn là một chàng sinh viên ưa hoạt động và hiếu học.
Robert Oppenheimer không e ngại khi chính mình phải học thêm một môn học nào
đó. Cũng vì vậy ông tìm tới Giáo Sư Arthur Ryder là nhà bác học chuyên về Triết
Lý Ấn Độ và xin học chữ Phạn. Đây là sinh ngữ thứ tám của ông nhưng đối với
ông cũng không khó và ít lâu sau, ông đã hiểu thấu nền triết học rất uyên
thâm và phức tạp này.
2/ Thời kỳ khảo cứu Nguyên Tử
|
Từ thập niên 1920, các lý thuyết mới về Quang Tử (Quantum)
và Thuyết Tương Đối (Relativity Theories) đã gây chú ý trong giới Khoa Học
nên các khảo cứu ban đầu của ông Robert Oppenheimer là về các hạt hạ nguyên tử
(subatomic particles), gồm cả các âm điện tử (electrons), dương điện tử
(positrons) và các tia vũ trụ (cosmic rays). Ngoài ra, ông còn huấn luyện một
thế hệ mới các nhà vật lý Hoa Kỳ và những khoa học gia này chịu ảnh hưởng của
Robert Oppenheimer cả về tinh thần độc lập lẫn tài lãnh đạo.
Từ năm 1933, sự việc Adolf Hitler lên nắm quyền tại nước Đức đã khiến cho ông
Robert Oppenheimer quan tâm tới chính trị. Vào năm 1936, ông Oppenheimer đứng
về phe các người cộng hòa trong cuộc Nội Chiến Tây Ban Nha đồng thời ông cũng
có cơ hội làm quen với các người Cộng Sản. Nhưng các thảm cảnh mà Joseph
Stalin gây ra đối với các nhà Khoa Học Nga đã khiến cho ông Oppenheimer không
còn giao du với đảng Cộng Sản nữa mà chỉ là một người theo lý thuyết dân chủ
cấp tiến (liberal democratic philosophy).
Năm 1943, Thế Chiến Thứ Hai đang ở vào thời kỳ khốc liệt. Các gián điệp của
Hoa Kỳ báo tin rằng các nhà bác học Đức đã tìm ra Nguyên Tử và đang tìm cách
áp dụng kỹ thuật này vào khí giới chiến tranh. Vì vậy Hoa Kỳ phải quyết định
mở một cuộc chạy đua kỹ thuật nguyên tử và Lục Quân Hoa Kỳ được giao cho
trách nhiệm tổ chức các nhà khoa học người Anh và người Mỹ để tìm ra một
phương pháp chế ngự năng lượng nguyên tử dùng cho các mục đích quân sự. Theo
đề nghị của Tướng Leslie Groves, Tổng Thống Franklin D. Roosevelt đã mời ông
Robert Oppenheimer giữ chức Giám Đốc Trung Tâm Khảo Cứu Nguyên Tử Lực của Hoa
Kỳ và Trung Tâm này có mục đích chế tạo ra bom nguyên tử.
Thực ra, việc bổ nhiệm này cũng hơi lạ lùng. Tuy Robert Oppenheimer nổi tiếng
về ngành chuyên môn của mình tức là ngành Vật Lý Nguyên Tử, nhưng ông chỉ giỏi
về mặt lý thuyết, suốt ngày sống giữa tấm bảng đen và những con số mà chưa hề
sáng chế về máy móc hay điều khiển một trung tâm khảo cứu nào. Vào thời kỳ
đó, tại Hoa Kỳ không thiếu gì các nhà bác học lừng danh từ châu Âu chạy sang
tị nạn như Albert Einstein, Niels Bohr, Enrico Fermi... và ngay cả trong
ngành Nguyên Tử cũng không thiếu gì các Giáo Sư tài ba, nhiều tuổi hơn Robert
Oppenheimer, uy tín cao hơn để xứng đáng giữ trọng trách điều khiển Trung
Tâm. Việc chế tạo bom nguyên tử là một công trình vĩ đại, nó đòi hỏi ở người
chỉ huy những đức tính mà chưa chắc gì một Giáo Sư Đại Học đã có đủ, và còn cần
tới một tài năng không những thuộc về địa hạt Khoa Học mà còn thuộc cả về địa
hạt Kỹ Nghệ và Quản Trị nữa. Dự Án Manhattan, tên riêng của dự án chế tạo bom
nguyên tử, được Tướng Leslie Groves thi hành. Ông này đã tín nhiệm Robert
Oppenheimer hơn là các nhà bác học đương thời danh tiếng khác.
Từ giã Đại Học Đường, Robert Oppenheimer với tuổi 38, đã tỏ ra là một nhân vật
xứng đáng giữ trọng trách đó. Ông đã thu được cảm tình của hầu hết các nhà
bác học tài ba dưới quyền cũng như đối với các chuyên viên. Trung tâm nghiên
cứu nguyên tử lực đầu tiên của Hoa Kỳ được đặt tại Los Alamos, gần thành phố
Santa Fe trong tiểu bang New Mexico, nơi mà trước kia, ông Oppenheimer đã từng
lang thang trên yên ngựa, đã biết từng đồi cát tới các con đường mòn. Nhà máy
nguyên tử này thật là lạ lùng: nó vừa là nhà máy vì gồm có các cơ xưởng lớn,
vừa giống như một tu viện vì mọi người làm việc quần quật suốt ngày, lại giống
một trại lính vì đóng ở giữa sa mạc, chung quanh có hàng rào kẽm gai bao bọc
và được canh phòng cẩn mật.
Trung tâm nguyên tử này có số vốn ban đầu là 60 triệu mỹ kim, lúc đầu chỉ gồm
400 người nhưng chẳng bao lâu tăng lên tới 4,500 công nhân. Người ta cố gắng
làm việc nhưng vào thời kỳ đó, chưa ai có thể tiên đoán được sức phá nổ của
nguyên tử vì từ trước tới giờ, lý thuyết nguyên tử vẫn còn nằm trong vòng giả
thuyết. Tại trung tâm nghiên cứu, ông Robert Oppenheimer bắt đầu tìm kiếm một
phương pháp tách chất Uranium - 235 ra khỏi Uranium thiên nhiên và xác định
khối lượng tới hạn (critical mass) của Uranium là chất để làm ra quả bom.
Trong giai đoạn nghiên cứu này, ông Robert Oppenheimer đã làm việc hơn 20 giờ
mỗi ngày, người gầy dộc đi đến nỗi chỉ còn nặng 52 kilô, trọng lượng này thật
là quá ít đối với một người cao 1,82 mét.
Ngày 16 tháng 7 năm 1945 là ngày quả bom nguyên tử đầu tiên được cho phát nổ
thử tại sa mạc Alamogordo trong tiểu bang New Mexico. Một làn chớp sáng lòa rồi
tiếp sau là một tiếng nổ long trời, làm cho mọi người tưởng chừng như được chứng
kiến một trận động đất dữ dội vậy. Sau đó, khói đen bốc lên cao ngất trời
theo hình một chiếc nấm vĩ đại. Trước cảnh tàn phá của thứ khí giới mới khủng
khiếp này, ông Robert Oppenheimer mới nhớ tới một câu trong quyển Kinh Ấn Độ
Bhagavad-Ghita : "Ta đã trở nên Tử Thần và làm cho nhiều Thế Giới run sợ,
hãi hùng".
Sau khi 2 quả bom nguyên tử A thả xuống đất Nhật và chấm dứt chiến tranh, mọi
người đều gọi ông Robert Oppenheimer là cha đẻ ra thứ bom A đó. Nhưng riêng
Giáo Sư Robert Oppenheimer lại bắt đầu ngờ vực thứ võ khí khủng khiếp mà ông
đã dày công chế tạo. Võ khí nguyên tử không những ảnh hưởng đặc biệt tới quân
sự mà còn trở nên vấn đề liên quan tới nền Đạo Đức nữa. Sự tàn phá của bom
nguyên tử lúc phát nổ rồi ảnh hưởng của bụi phóng xạ khi chất này tỏa rộng, lẫn
vào trong không khí mà rơi xuống đại dương, theo gió mà bay tới các lục địa
xa xôi, khiến cho mọi người e ngại về sự tồn vong của Nhân Loại.
Trong khi ông Robert Oppenheimer hối hận vì phát minh của mình thì vài nhà
bác học khác lại nghĩ tới việc chế tạo một thứ bom khủng khiếp gấp ngàn lần:
bom khinh khí H. Người ủng hộ dự án này một cách nhiệt liệt nhất là nhà bác học
Edward Teller, người Mỹ gốc Hungary. Vì vậy tại Hoa Kỳ vào thời bấy giờ, có
hai phe, người ủng hộ dự án chế tạo bom H, kẻ phản đối thứ khí giới quá khốc
liệt đó. Trong khi chính quyền Hoa Kỳ còn đang phân vân thì thình lình, người
ta báo tin rằng Liên Xô đã cho nổ thử một trái bom nguyên tử. Tin sét đánh
này làm cho nhiều người sửng sốt, phe ủng hộ dự án chế tạo bom H đã thắng và
Tổng Thống Harry Truman hạ lệnh chế tạo bom H đó. Được biết tin như vậy, ông
Robert Oppenheimer liền bước ra khỏi phòng khảo cứu và tuyên bố dứt khoát:
"Tôi không phải là một lái súng, tôi chỉ là một nhà bác học". Ông
Robert Oppenheimer từ chức Giám Đốc Trung Tâm Nghiên Cứu Nguyên Tử vào tháng
8 năm 1945.
Từ năm 1947 tới năm 1953, ông Robert Oppenheimer là Giám Đốc của Viện Nghiên
Cứu Cao Cấp thuộc trường Đại Học Princeton (the Institute for Advanced Study
at Princeton University) và cũng là Chủ Tịch của Ủy Ban Cố Vấn của Ủy Ban
Năng Lượng Nguyên Tử Hoa Kỳ (the U.S. Atomic Energy Commission = AEC). Ông
cũng là vị cố vấn cho Bộ Quốc Phòng Mỹ và giúp công vào việc soạn thảo bản đề
nghị đầu tiên của Hoa Kỳ về việc kiểm soát quốc tế năng lượng nguyên tử.
Năm 1953, một số tài liệu nguyên tử của Hoa Kỳ bị mất cắp. Phong trào chống Cộng
Sản tại Mỹ đang lên bồng bột. Các nhà bác học nguyên tử là những người bị
nghi ngờ. Ông Robert Oppenheimer cũng ở trong số đó. Hơn nữa, ông có giao du
với một số phần tử Cộng Sản. Sở phản gián đã gom góp được nhiều tài liệu để kết
tội ông. Các địch thủ của ông hùa nhau vào để hạ ông. Cũng có nhiều người đứng
ra bào chữa cho ông như nhà Đại Bác Học Albert Einstein và Phó Tổng Thống
Richard Nixon. Vào tháng 4 năm 1954, ông Robert Oppenheimer bị lôi ra trước một
ủy ban điều tra của Ủy Ban Năng Lượng Nguyên Tử nhưng Tổng Hội Các Nhà Khoa Học
Mỹ (the Federation of American Scientists) đã lên tiếng bảo vệ ông
Oppenheimer trước tòa án. Vụ xét xử về an ninh này đã công bố rằng ông Robert
Oppenheimer không phạm tội phản bội nhưng ông không được phép tiếp xúc với
các bí mật quân sự. Kết quả là chức vụ cố vấn cho Ủy Ban Nguyên Tử Lực Hoa Kỳ
của ông bị hủy bỏ. Sự lên án này đã làm sôi nổi dư luận tại Hoa Kỳ và tại
châu Âu. Ông Robert Oppenheimer là một biểu tượng quốc tế của các nhà Khoa Học
cố gắng giải quyết các vấn đề đạo đức (moral problems) sinh ra trong công cuộc
khám phá Khoa Học và ông cũng trở nên một nạn nhân của công cuộc săn tìm phù
thủy (a witch-hunt). Tuy đã bị mất chức, nhưng từ năm 1947 tới năm 1966, ông
Robert Oppenheimer vẫn còn là Giám Đốc của Viện Nghiên Cứu Khoa Học Cao Cấp tại
Princeton thuộc tiểu bang New Jersey. Tại Viện Khảo Cứu của tư nhân này, các
nhà bác học lỗi lạc được tự do tìm tòi, làm sao cho thiên tài của họ được
phát triển tối đa.
Vào năm 1963, Ủy Ban Năng Lượng Nguyên Tử Hoa Kỳ đã trao tặng ông Robert
Oppenheimer phần thưởng Enrico Fermi. Đây là danh dự cao quý nhất để khen thưởng
các đóng góp của ông vào nền Vật Lý Lý Thuyết. Nhiều người cho rằng công việc
này là một cố gắng của Chính Phủ Hoa Kỳ để sửa chữa lỗi lầm khi trước. Ông
Robert Oppenheimer về hưu năm 1966 và qua đời vào ngày 18 tháng 2 năm 1967 tại
thành phố Princeton vì bệnh ung thư cổ.
Khi còn sinh thời, ngoài việc nghiên cứu Khoa Học và viết sách, ông Robert
Oppenheimer còn ham thích các môn Hội Họa và Âm Nhạc. Phải chăng hai Nghệ Thuật
này là các món ăn phụ của các đầu óc Khoa Học phi thường?.
|
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét