Tập thơ Tinh huyết của Bích Khê
giai đoạn
phát triển thứ hai của phong trào
thơ mới
Tham luận tại Hội thảo về thơ 1. Trong số các tác phẩm của Bích Khê, tập
thơ Tinh huyết hiển nhiên là tác phẩm được biết đến rộng rãi hơn cả,
giản dị là vì đây có lẽ là tác phẩm duy nhất của nhà thơ này được in thành sách
ngay sinh thời tác giả, trong khi những tác phẩm còn lại phải chịu khoảng thời
gian nằm trong im lặng khá lâu (tính bằng hàng mấy chục năm) mới đến được công
chúng, và đến công chúng chỉ với tư cách là những di cảo. Ðiều này cũng có
nghĩa là, nếu muốn luận bàn về ảnh hưởng của thơ Bích Khê đến phong trào Thơ
Mới đương thời, hiển nhiên phải tập trung chú ý vào tập thơ này.Ðã có những nhận xét, theo đó tập
thơ Tinh hoa còn hay hơn, sâu sắc hơn, có giá trị hơn so với Tinh
huyết; nhận xét này có thể là đề tài thảo luận riêng. Nhưng một điều khác
trực tiếp có can hệ đến những gì sắp bàn trong bài này lại là một vài băn khoăn
về ranh giới giữa Tinh huyết và Tinh hoa. Là vì trong các dạng
công bố mà người ta được biết (Tinh huyết trong sách in 1939; Tinh
huyết và Tinh hoa trong bản in Thơ Bích Khê, Nghĩa
Bình 1988; Tinh hoa trong bản in ở Nhà xuất bản Hội Nhà văn 1997), có
một tình trạng là ranh giới giữa hai tập không thật rành rẽ, một số bài thơ đã
có trong Tinh huyết (bản in 1939) lại xuất hiện trong Tinh
hoa (bản Nghĩa Bình 1988 và bản HNV 1997), và khi cả hai tập thơ cùng in trong
một cuốn sách (bản Nghĩa Bình 1988) thì đến lượt hình hài tập Tinh
huyết cũng bị hư hao đáng kể so với chính mình ở bản in 50 năm trước! Vậy
thì đâu là Tinh hoa, đâu là Tinh huyết? Chẳng lẽ trong Tinh
huyết lại đã có một phần Tinh hoa và trong Tinh hoa vẫn
cứ bao gồm một phần Tinh huyết? Tình trạng này hẳn chỉ có thể được
giải quyết bởi những người nắm được di cảo của tác giả, tức là những thân nhân
của nhà thơ; và chúng ta cùng hy vọng việc này sẽ được giải quyết ngay trong
dịp hội thảo [1] này.Về phía người nghiên cứu, cho đến tận
lúc này, có lẽ không có cách nào khác hợp lý hơn là tiếp tục coi bản in 1939 là
bản chính thức của tập thơ Tinh huyết. 2. Như số khá đông trong các giới sáng tác
và phê bình nghiên cứu đã nhận xét, tập Tinh huyết tiêu biểu cho nỗ
lực của Bích Khê trên hướng “cập nhật” một số đặc tính của văn hóa thi ca Âu
Tây đương thời vào thơ tiếng Việt (khác với Tinh hoa là từ bỏ những
thể nghiệm “Âu hóa” ấy để trở về khai thác các đặc tính thi ca Ðông phương).
Nói rõ hơn, ở Tinh huyết có thể thấy một vài đặc điểm của chủ nghĩa
hiện đại Âu châu (modernisme), rõ nhất là những biểu hiện tượng trưng, siêu
thực, trong cách cảm nhận và thể hiện của nhà thơ.Tinh huyết bộc lộ một xu hướng khá
gần gũi với các nhà thơ tượng trưng Pháp (như Baudelaire, Verlaine): xem trọng
vai trò của trực giác và vô thức trong sáng tác nghệ thuật. Lối sáng tác của
khá nhiều bài trong Tinh huyết là lối sáng tác tượng trưng, thường
dựa vào liên tưởng, cuồng tưởng, ám thị, trực giác, thường thể hiện những cảm
quan phi thực tại, siêu thực tại, và hiển hiện ra trong những dòng thơ đầy nhạc
tính.Tất nhiên điều vừa nói trên đây không
phải đặc điểm bao trùm toàn bộ các bài của Tinh huyết; trong tập vẫn có
một loạt bài truyền đạt cảm quan thực tại cổ điển, ví dụ có thể kể tên các
bài “Tỳ bà”, “Ảnh ấy”, “Thi vị”, “Cuối thu”, “Cùng một cô đào hát bộ”,
“Quả măng cụt”… Nhưng nếu tiếp tục kể thêm nữa mong kéo dài danh mục này,
hẳn sẽ phải do dự, vì nhiều trường hợp tác giả khởi đầu từ cảm quan thực tại cổ
điển (hoặc xúc cảm lãng mạn duy lý), nhưng rồi những liên tưởng rồi cuồng tưởng
dấy lên, đẩy đưa xúc cảm của ông sang miền của huyễn tưởng phi thực tại. Ta thử
xem bài “Cùng một cô đào hát bộ” chẳng hạn. Bài này tuy nằm trong
phần II mang tiêu đề chung là Ðẹp và Dâm, nhưng hầu như toàn bài này
lại là lời diễn tả khá thật thà một xúc cảm hoàn toàn thực ở tác giả về diễn
xuất của một đào nương. Xin lưu ý khổ thơ cuối cùng: Mặt cô buồn quá! - Tôi yêu quá!Nghệ thuật tràn ra giữa bể đêmTôi chợt ôm cô trong giấc mộngNút bao thanh khí, đã nư thèm.Hai câu trên vẫn còn ở trong địa hạt
thực tại, hai câu dưới đã sang địa hạt tưởng tượng, và ít nhiều là cuồng tưởng
nữa, vì tác giả không chỉ mơ tưởng được ôm được hôn cô đào hát bộ, mà còn “nút
bao thanh khí” nữa. “Nút”, một từ đã hơi cổ, không thông dụng ở Đàng Ngoài nữa
nên trở thành phương ngữ miền trong, nghĩa nó là “mút”, “hút”, như “hút mật” có
thể nói là “nút mật” (đây là căn cứ theo cuốn từ điển cách nay trên một trăm
năm của Huình Tịnh Paulus Của). Nhưng “nút bao thanh khí” hay “hút bao thanh
khí” lại là một sự việc ít nhiều trừu tượng, vì “thanh khí” không phải là
“thanh” và “khí” mà điều muốn nói tới có lẽ là một phẩm chất nào đó đối với thi
nhân là tuyệt vời, có thể được hình dung (đương nhiên là theo kiểu tượng trưng)
như bầu khí trong trẻo thanh sạch. Hóa ra “nút” (= hút) lại là hành vi bày tỏ
sự trìu mến: trìu mến đối với cô đào và thực ra là đối với cái nghệ thuật đẹp đẽ
mà cô trình diễn đã khiến nhà thơ cảm động sâu sắc. Một cách trìu mến phải nói
là lạ lùng.Ở trên vừa nêu nhận xét về lối sáng tác
thường được vận dụng khá nhiều trong Tinh huyết, theo đó tác giả dựa vào
liên tưởng, trực giác, vào ám thị, cuồng tưởng, đẩy xúc cảm từ thực sang phi
thực, siêu thực tại. Nhưng cũng cần chú ý đến cái đối tượng mà các bài thơ kiểu
ấy của Bích Khê thường nhắm vào thể hiện. Tôi nghĩ một trong những “đề tài” chủ
yếu của tác giả Tinh huyết là con người, là thân xác người, là giá
trị người. Có thể nói tới cảm quan nhân bản như một nét đặc sắc của thơ Bích
Khê, và về mặt này dường như khó có nhà Thơ Mới nào vượt nổi ông. Nhiều người
đọc Bích Khê thường chỉ nhớ việc nhà thơ vừa khắc họa vừa rúng động trước thân
thể những mỹ nữ, “Nàng là tuyết hay da nàng tuyết điểm?/ Nàng là hương hay nhan
sắc lên hương?”… Quả là Bích Khê không chỉ có một bài thơ về vẻ đẹp phụ nữ,
không chỉ một lần dùng thơ vẽ ra “tranh lõa thể”; ông là nhà thơ ca tụng vẻ đẹp
thân thể phụ nữ.Ôi đi! Đoàn tiên lột khỏa thânHoan hô xác thịt chiếm ngôi thầnNhưng ta không nên quên là Bích Khê còn
có những bài thơ hoặc hàng loạt đoạn thơ về từng phần của thân thể con người
nói chung, không nhất thiết là phụ nữ: bàn chân, hộp sọ, cặp mắt, trái tim, cặp
lông mày, cặp đùi, cặp vú,… Có khi ông thể hiện tiếp cận mới này bằng thao tác
thơ vịnh quen thuộc:Ôi khối mộng của hồn thơ chếnh choáng!Ôi buồng xuân hơ hớ cánh đào sương!Ôi bình vàng ôi chén ngọc đầy hương...Ôi! Sọ người! Sọ người! Gương phép
tắc! (“Sọ người”)Ô cặp mắt đa tình ngời sắc kiếm!Một bàn chân ve vuốt một bàn chân!(“Bàn chân”)Ôi! Cặp mắt của người trong tợ ngọcSáng như gươm và chấp chóa kim cương!(“Cặp mắt”)Hãy nhớ rằng nhà thơ mỗi lần nói tới một
bộ phận thân thể thì mỗi lần ấy, cái được nói tới luôn luôn là những bộ phận
của thân thể sống. Ở Tinh huyết, những “mặt tươi”, những “môi son”, những
“vú nõn”, v.v… hiển nhiên đều được tiếp cận như vậy, nhưng không gây cảm giác
lạ, có lẽ vì đó là những bộ phận ở mặt ngoài thân thể. Ðối với cái sọ, cũng
thao tác “cắt riêng” như thế (gọi bằng cái sọ tức là chỉ vào phần chìm khuất
sau lớp da thịt tóc tai) lại dễ tạo cảm giác lạ, đôi khi cả cảm giác nhờm tởm
(như gợi nghĩ tới cái sọ đang phân hủy). Thật ra ở Tinh huyết, cái sọ
không phải cái đầu lâu dưới huyệt mà là phần sống động gắn liền trên thân
người, có điều con mắt mơ của thi sĩ đã hình dung nó ra sao đó (chẳng hạn, ngầm
gắn nó với năng lực tư duy của con người?) nên thi sĩ có thể lên giọng ca tụng
nó như khối mộng, như buồng xuân, như hồ nguyệt…Có thể nói phần thân thể người hấp dẫn
đến mức ám ảnh hồn thơ Bích Khê chính là cặp mắt. Tôi nghĩ ai đó (người viết
những dòng này chưa kịp làm) có thể dùng thống kê để thấy hình ảnh con mắt, cặp
mắt người, nhất là cặp mắt mỹ nhân, hiện diện thường trực ra sao trong thơ Bích
Khê.Trong cả bài thơ dài nhan
đề “Châu”, một trong những cái mà hồn thơ tác giả dõi theo, dò hỏi
chính là đôi mắt:Hỡi đôi mắt! nơi ngươi là ngọc thạch...Ngươi là ai? Ngươi hỡi! Ngươi là ai?Ở trường hợp này nhà thơ không áp dụng
kiểu thơ vịnh sự vịnh vật xưa cũ, trái lại, ông lúc thì trầm tư lúc lại tự ngập
chìm vào trạng huống mê loạn để làm hiện ra những ảo cảnh, nơi mà mọi sự vật
đều ở trong một trạng thái gần như tan loãng, quay cuồng, các phần thân thể con
người chuyển hóa, biến động một cách siêu thực tại:Nhạc khiêu vũ đâu đây lan sóng múaTôi tưởng chừng… da thịt biến ra thơmNhững đầu lâu rã hết khí xanh rờnNhững xiêm áo bay rờn trong cảnh mộngCả địa ngục đi vào trăm lỗ hổngBắn tinh ra trộn trạo giữa nguồn
hương (“Châu”, III)Bài “Châu” là bài cuối của
phần cuối Tinh huyết (phần này mang tên Cuồng và Ánh sáng). Có thể
tìm thấy ở bài này khá nhiều nét siêu thực và tượng trưng trong xúc cảm và sự
thể hiện của tác giả.Bản thân từ “châu” đã khá đa nghĩa (đây
cũng là từ mà ở miền ngoài ít thông dụng hơn so với ở miền trong), ngoài những
hàm nghĩa ít liên quan nên ta có thể tạm thời loại ra (những từ “châu” đồng âm,
trỏ một vùng đất lớn, hoặc trỏ một hòn đảo, một doi đất, bãi đất…); còn lại,
các từ “châu” trỏ hạt ngọc trai, trỏ dòng nước mắt, trỏ tính chất quý giá… vốn
đã không thật tách bạch nhau. Ở bài thơ này của Bích Khê, có thể cảm thấy
“châu” như một tinh chất quý báu, một chất thể biến hóa, như trạng thái chung
cục của những biến hóa. “Cặp mắt say thơ mộng” có thể “dần biến ra châu trắng
mịn mà”; đôi mắt đẹp trên pho tượng mỹ nhân có thể “biến ra châu nguyên vẹn cốt
thiên đàng”… Cho đến người nữ không rõ hình hài mà nhà thơ yêu mến “Em đã là
châu lệ cũng châu”, và chính tiếng nói của nhà thơ “Tôi chết rồi tiếng nói như
châu”. “Thơ tôi” (đây là nhân vật trữ tình trong thơ Bích Khê tự xưng) vừa “lưu
luyến giữa dòng châu”, vừa có thể được “tượng hình bằng châu bằng lệ”… Nhưng
“châu” còn như chất thể đã tiết xuất ra, đã ứa trào ra, từ những gãy đổ, từ
những rạn vỡ:Châu vỡ Thiên Tài lai láng cảChết rồi! khí phách của tôi đâu?Say mức say mơ say mất mâyThần châu tôi xuất phút này đâyMau lên! Tinh túy ngàn muôn triệuThế giới - hư linh - hiệp lại nàyQua suốt các đoạn của toàn
bài “Châu”, có thể thấy hồn thơ tác giả như một nhân vật chu du trong
thế giới ảo cảnh, dõi theo một đối tượng khi ẩn khi hiện, tha thiết muốn trò
chuyện với nó, - đối tượng đó là đôi mắt:Tôi đã hôn lên đôi mắt thơRồi mang đôi mắt ở trong mơGiờ đôi mắt hiện xanh như ngọcÁm ảnh hồn tôi đến ngất ngưCuộc rượt đuổi của thi nhân với cặp mắt
tạo thành một thứ gần như hành động, gần như kịch tính cho cả
bài “Châu”. Mỗi khi cặp mắt hiện hình là “Toàn thân tôi rởn ốc/ Cả
linh hồn óc não phổi tim gan…” Thi nhân muốn hỏi đôi mắt ấy thật nhiều thật
nhiều:Hỡi đôi mắt! hồ thủy tinh trong suốtSoi trần gian địa ngục vạn đời maHãy nói tên thần bí của muôn hoaHãy kể hết nhiệm màu muôn thế giớiNhững bí quyết khi nhạc lên vời vợiNhững thơm ngào phối hiệp giữa trăng
sao…Người là ai? Người hỡi! Người là ai?Nhưng đôi mắt lờ lặng và mê sayNhìn đắm đuối không một lời náo nứcSau nhiều lần sáp lại và bị lẩn tránh,
cuối cùng, thi nhân dốc hết tâm nguyện, và ông đã nhận được lời đáp từ cặp mắt:Hỡi đôi mắt! ngươi hãy hiện trên tayCho lòng ta ấp yêu nguồn suối lệHồn ta say trong nhạc vàng kể lểTình ta dâng trong gợn sóng thu baCả máu đào tủy trắng với xương maCùng tinh loãng và bao nhiêu bảo vậtÐể xây đắp bàn thờ cao chất ngấtLút mây xanh và lút cả thiên thaiNgươi là ai? Ngươi hỡi! Ngươi là ai?Bỗng đôi mắt rưng rưng dường rớm khócNhưng cười nụ trong màu hoa ánh ngọc:Ta là CHÂU! Thi sĩ! Ta là CHÂU!Ðộ căng mang đôi chút kịch tính, đến đây
được giải tỏa. Nhưng hàm nghĩa “châu” đã không nhờ đó mà trở nên dễ hiểu hơn.
“Châu” như ý niệm chất thể, như ý niệm giá trị, vẫn mờ nhòe trong những liên
hội mà trực giác chỉ soi rọi từng lúc ít ỏi. Tuy vậy, hiệu quả gây ám ảnh của
nghệ thuật thơ không vì thế mà suy giảm. “Châu” chính là một hình ảnh được láy
đi láy lại như môtip chủ đạo (Leitmotiv) của toàn bài và do đó là một tượng
trưng. Một tượng trưng với hàm nghĩa nhân bản phổ quát.3. Như đã nêu ở nhan đề bài này, tập
thơ Tinh huyết (in xong lần đầu vào tháng 12.1939 tại Hà Nội, sau đó
được phát hành rộng rãi) có thể được xem như điểm đánh dấu hai giai đoạn phát
triển của phong trào Thơ Mới 1932-45. Một số cây bút ở Hà Nội từng tham gia
phong trào Thơ Mới như Vũ Hoàng Ðịch, Ðông Hoài… đã nói cho tôi biết nhận xét
này của họ, và từ việc xem xét cứ liệu cụ thể, tôi cũng đi tới nhận định như
vậy. Nếu mô tả thật khái quát tiến trình Thơ
Mới, có thể tóm gọn nó trong hai giai đoạn: giai đoạn đầu với vai trò chủ đạo
của những nhà Thơ Mới của (hoặc gắn với) nhóm Tự Lực Văn Ðoàn như Thế Lữ, Xuân
Diệu, Huy Cận… mà nét nổi bật chung về khuynh hướng nghệ thuật là thơ trữ tình
lãng mạn duy lý; giai đoạn sau với uy tín của Hàn Mặc Tử, Bích Khê… và “trường
thơ loạn” của họ mà dấu ấn rõ rệt về khuynh hướng sáng tác là sự xuất hiện
những đặc điểm tiền hiện đại chủ nghĩa hoặc hiện đại chủ nghĩa như tượng trưng,
siêu thực, suy đồi, tiền phong (Tất nhiên ở giai đoạn sau còn có khuynh hướng
trở về với nguồn thơ phương Ðông, nhưng ở một vài hiện tượng tiêu biểu của
khuynh hướng này như Xuân Thu Nhã Tập, người ta vẫn thấy những nét
của tinh thần tiền phong, tức là tinh thần hiện đại chủ nghĩa).Cần phải nói thêm rằng, sớm hơn Bích Khê
vài ba năm, vào năm 1936, người sẽ là đại diện số một của “trường thơ loạn” là
Hàn Mặc Tử đã công bố tập thơ Gái quê, nhưng tập thơ này vẫn chưa cho thấy
tác giả của nó đã đi sang phạm vi tượng trưng, siêu thực; vào năm 1937, một đại
diện khác, cũng đích thực của “trường thơ loạn” là Chế Lan Viên, đã trình làng
tập thơ Ðiêu tàn (cũng in tại Hà Nội) mà bài tự đề tựa chính là
tuyên ngôn của “trường thơ loạn”. Nhưng Ðiêu tàn (với phụ chú là
“thơ Chàm thơ Ma”) ra mắt chỉ khiến làng thơ đương thời ở đất Bắc thấy
“như một niềm kinh dị” (đây là mượn lời diễn tả của Hoài Thanh) chứ chưa tìm
được tri âm tri kỷ. Là vì khi ấy làng thơ đất Bắc vẫn còn đang tiếp tục dành
nhiều ngưỡng mộ cho các thi gia xuất hiện trên các cơ quan của nhóm Tự Lực (các
tờ Phong hóa, Ngày nay). Tập Thơ thơ của Xuân Diệu in thành sách
năm 1938, tập Lửa thiêng in thành sách năm 1940 nhưng khá nhiều bài
trong các tập này đã đến với người đọc từ dăm ba năm trước đó, chủ yếu cũng trên
các ấn phẩm của nhóm Tự Lực. Sang thập niên 1940, hoạt động văn nghệ của nhóm
Tự Lực sút kém rõ rệt; kiểu thơ của các thi gia gắn với Tự Lực cũng kém dần sức
hấp dẫn trong con mắt những người cầm bút trẻ. Ðến lúc này, người ta lưu ý
nhiều hơn đến những tìm tòi kiểu khác cho thơ tiếng Việt. Tập Tinh
huyết vì vậy là một trong những ví dụ hiếm hoi đáp ứng tâm thế ấy của giới
sáng tác trẻ đất Bắc. Có thể tìm thấy ảnh hưởng của “trường
thơ loạn” trong sáng tác của một loạt cây bút thơ ở Hà Nội những năm 1940-46
như Hoàng Lộc (Từ tịch dương đến bình minh), Ðông Hoài (Giác linh hương), Ðinh
Hùng (Mê hồn ca) và nhóm Dạ đài (Trần Dần, Trần Mai Châu, Vũ Hoàng
Ðịch…). Trừ Từ tịch dương đến bình minh của Hoàng Lộc hiện chưa tìm
lại được văn bản nên về xu hướng của nó buộc phải dựa vào nhận định của các
nhân chứng (dựa vào Vũ Hoàng Ðịch, Ðông Hoài); ngoài ra các trường hợp khác
đều có văn bản tác phẩm để xem xét.Nhìn chung, trong sáng tác, các cây bút
này đều xem trọng những gì như bất giác đến từ trực giác, từ vô thức; họ thích
thác lời những linh hồn của thế giới bên kia hoặc thích chuyện trò với chúng; ý
niệm thực tại ở họ như gồm cả cõi sống lẫn cõi chết và cái được nói đến nhiều
hơn lại là cõi chết; ở sáng tác của họ đôi khi cũng thấy cảm hứng đập phá của
phái tiền phong; họ cũng chú trọng sáng tạo nhạc tính của ngôn từ thơ ca.Ðông Hoài phác vẽ một thứ “Ngẫu
tượng siêu luân’’:Sặc sụa hương nào thơm xác maLòng đi âm phủ bước dương tàÐầu lâu ghé miệng hôn yêu dấuCổ mộ hoa lầu quỷ hát caTrần Mai Châu ở bài “Theo bóng tử
thần’’ trở lại một đêm tàn sát nào đó từ cổ đại trung đại:Trăng ơi! Trở lại đêm tàn sátNày ánh tà dương khóc bạo TầnEm có buồn không, giờ tử nạnTa cười ghi lại nét phù vânNửa đêm sao biếc về trong mộMừng cuộc hồi sinh hiện giữa trầnTrong bài “Về nẻo thanh tuyền’’,
Trần Dần thác lời hồn ma một kẻ từng có uy quyền trên thế gian nay đã mất hình
hài đã nằm dưới thuỷ cung vẫn đe dọa đòi lại những gì đã mất:Hồn ta mất mảnh thi hàiVề trên thế tục ta đòi cố đôTiếng ta than động trăng mờTừng đêm ta gọi lá cờ Nữ VươngNếu mấy sáng tác lẻ tẻ của Trần Dần, Vũ
Hoàng Ðịch, Trần Mai Châu, Nguyễn Văn Tậu in trong Dạ đài số 1 chưa thể
minh chứng đáng kể cho những điều họ nói trong “Bản tuyên ngôn tượng
trưng” (cũng in trong Dạ đài số 1), thì tinh thần của bản tuyên
ngôn ấy lại được bộc lộ rõ hơn trong tập Mê hồn ca của Ðinh Hùng. Tập
thơ này mãi đến 1954 mới in thành sách, nhưng hiển nhiên đây là thơ của thời kỳ
1944-46 mà một số bài đã đăng tải ngay những năm ấy (ví dụ bài đăng ở Dạ
đài số 1).Như tên gọi của nó, đây là những khúc
“mê hồn”, “lạc hồn”, những bài ca của một linh hồn chu du dấn bước vào những
miền lạ, hoặc thử làm lạ miền đất quen, chẳng hạn thử vào vai “người rừng”,
bước về “đô thị” để thấy “Ôi ngơ ngác một lũ người vong bản/ Mất tinh thần từ
những thuở xa xôi”, để thấy mình bị xa lánh và trở nên xa lạ, rốt cuộc ra tay
tàn phá đình tạ thành quách rồi trở lại núi rừng, trở lại cuộc sống hoang dã:Từng buổi hoàng hôn xuống lạ kỳTa nằm trên cỏ lắng tai nghe…Thèm ăn một chút hoa hoang
dại Rồi ngủ như loài muông thú kia.Dĩ nhiên linh hồn ấy cũng dấn bước vào
tình yêu, vào thế giới những “kỳ nữ”, những “người gái thiên nhiên”… Nhưng đáng
nói hơn là linh hồn ấy hướng về trò chuyện với người gái dưới mộ, dõi tìm bóng
dáng tử thần… Linh hồn ấy như thuộc về cả cõi sống lẫn cõi chết, thuộc về cả
hiện tại lẫn các thời đại xa xưa…Ai tìm ta đó trong đêm loạn? Có gặp Thơ về, Nhạc hiển linh?Ta gọi thiên tai, cười mệnh số…Trong những lời ca lạc hồn ấy đôi khi
vang lên những lời như toan nói tiên tri:Thế kỷ thanh bình nức nở qua Ta nhìn nhau khóc tuổi trăng già…Hoặc:Thời đại Hoàng Kim đã phục hồiTa mừng Bạo Chúa sắp lên
ngôi Tìm thơ vương giả, xuân lưu huyết…Thế giới mê hồn là cõi trời loạn, là cõi
hỗn độn, là nơi tử sinh chuyển hóa:Bừng mắt dậy, lửa hồi sinh đỏ rựcThịt xương về trong cổ mộ xôn xaoHỏa thiêu rồi! Làn tử khí lên
cao Chiều tái tạo bâng khuâng từng ngọn cỏ…Những đổ vỡ mà linh hồn này cảm thấy ở
đây là những đổ vỡ ở quy mô vũ trụ:Trời lâm nạn, thôi! hành tinh tan vỡ!…Chúng ta khóc như một bầy thú dữLòng dã man nghe trái đất tan tành.Mặc dầu cũng hướng tới một thế giới siêu
thực tại như tác giả Tinh huyết, nhưng ở Ðinh Hùng và các thi gia Hà Nội
kể trên, cõi siêu thực tại dường như vẫn bị viền khung bởi ý thức duy lý của
những cái tôi tác giả. Có vẻ như cái tiếng Việt xứ Bắc quá sáng rõ, cái câu thơ
lục bát, câu thơ bảy chữ hoặc tám chữ quá đều đặn đã phản lại tâm thế điên rồ
của họ, phản lại bước chân mê cuồng của họ. Thi nhân như là vẫn luôn ở bờ bên
này tuy biết có bờ cõi siêu thực tại bên kia; họ hầu như chưa mấy khi nhập hồn
mình được hoàn toàn sang đó như Hàn Mặc Tử đã làm được thường xuyên trong Thơ
điên (Ðau thương), Chơi giữa mùa trăng, Bích Khê đã làm được khá thường
xuyên trong Tinh huyết, Chế Lan Viên đã làm được ít nhiều trong Ðiêu
tàn.Dầu sao những hiện tượng trên đây ở giới
làm thơ ngoài Bắc đầu những năm 1940 vẫn cho thấy những tìm tòi của “trường thơ
loạn” miền Trung giữa những năm 1930 là bước đi hữu lý trên hướng cập nhật hóa
những tìm tòi của thi ca thế giới đương đại vào thi ca tiếng Việt. Họ không
trực tiếp chịu ảnh hưởng cụ thể của một ai đó trong “trường thơ loạn”; đơn giản
là họ thấy ở những Tinh huyết, Ðiêu tàn, Ðau thương (Thơ điên)… một hướng
sáng tác khả thi, hứa hẹn đem lại cái mới vào thơ tiếng Việt. Một số kết quả
sáng tác quá ít ỏi của họ trong thời gian quá ngắn ngủi chưa in thành dấu vết
đáng kể vào thành tựu phát triển của thơ ca tiếng Việt. Tuy vậy, thể nghiệm
sáng tạo của họ cũng như của các tác gia “trường thơ loạn” cho thấy đây là một
hướng có thể trông cậy được nhằm đưa thơ tiếng Việt vượt qua thời đại những mẫu
mực của thơ mới lãng mạn duy lý.Chú thích:[1] Hội thảo về Bích Khê được tổ
chức tại Quảng Ngãi.Hà Nội, tháng 11-2005Lại Nguyên Ân
Về phía người nghiên cứu, cho đến tận
lúc này, có lẽ không có cách nào khác hợp lý hơn là tiếp tục coi bản in 1939 là
bản chính thức của tập thơ Tinh huyết.
Tất nhiên điều vừa nói trên đây không
phải đặc điểm bao trùm toàn bộ các bài của Tinh huyết; trong tập vẫn có
một loạt bài truyền đạt cảm quan thực tại cổ điển, ví dụ có thể kể tên các
bài “Tỳ bà”, “Ảnh ấy”, “Thi vị”, “Cuối thu”, “Cùng một cô đào hát bộ”,
“Quả măng cụt”… Nhưng nếu tiếp tục kể thêm nữa mong kéo dài danh mục này,
hẳn sẽ phải do dự, vì nhiều trường hợp tác giả khởi đầu từ cảm quan thực tại cổ
điển (hoặc xúc cảm lãng mạn duy lý), nhưng rồi những liên tưởng rồi cuồng tưởng
dấy lên, đẩy đưa xúc cảm của ông sang miền của huyễn tưởng phi thực tại. Ta thử
xem bài “Cùng một cô đào hát bộ” chẳng hạn. Bài này tuy nằm trong
phần II mang tiêu đề chung là Ðẹp và Dâm, nhưng hầu như toàn bài này
lại là lời diễn tả khá thật thà một xúc cảm hoàn toàn thực ở tác giả về diễn
xuất của một đào nương. Xin lưu ý khổ thơ cuối cùng:
3. Như đã nêu ở nhan đề bài này, tập
thơ Tinh huyết (in xong lần đầu vào tháng 12.1939 tại Hà Nội, sau đó
được phát hành rộng rãi) có thể được xem như điểm đánh dấu hai giai đoạn phát
triển của phong trào Thơ Mới 1932-45. Một số cây bút ở Hà Nội từng tham gia
phong trào Thơ Mới như Vũ Hoàng Ðịch, Ðông Hoài… đã nói cho tôi biết nhận xét
này của họ, và từ việc xem xét cứ liệu cụ thể, tôi cũng đi tới nhận định như
vậy.
Cần phải nói thêm rằng, sớm hơn Bích Khê
vài ba năm, vào năm 1936, người sẽ là đại diện số một của “trường thơ loạn” là
Hàn Mặc Tử đã công bố tập thơ Gái quê, nhưng tập thơ này vẫn chưa cho thấy
tác giả của nó đã đi sang phạm vi tượng trưng, siêu thực; vào năm 1937, một đại
diện khác, cũng đích thực của “trường thơ loạn” là Chế Lan Viên, đã trình làng
tập thơ Ðiêu tàn (cũng in tại Hà Nội) mà bài tự đề tựa chính là
tuyên ngôn của “trường thơ loạn”. Nhưng Ðiêu tàn (với phụ chú là
“thơ Chàm thơ Ma”) ra mắt chỉ khiến làng thơ đương thời ở đất Bắc thấy
“như một niềm kinh dị” (đây là mượn lời diễn tả của Hoài Thanh) chứ chưa tìm
được tri âm tri kỷ. Là vì khi ấy làng thơ đất Bắc vẫn còn đang tiếp tục dành
nhiều ngưỡng mộ cho các thi gia xuất hiện trên các cơ quan của nhóm Tự Lực (các
tờ Phong hóa, Ngày nay). Tập Thơ thơ của Xuân Diệu in thành sách
năm 1938, tập Lửa thiêng in thành sách năm 1940 nhưng khá nhiều bài
trong các tập này đã đến với người đọc từ dăm ba năm trước đó, chủ yếu cũng trên
các ấn phẩm của nhóm Tự Lực. Sang thập niên 1940, hoạt động văn nghệ của nhóm
Tự Lực sút kém rõ rệt; kiểu thơ của các thi gia gắn với Tự Lực cũng kém dần sức
hấp dẫn trong con mắt những người cầm bút trẻ. Ðến lúc này, người ta lưu ý
nhiều hơn đến những tìm tòi kiểu khác cho thơ tiếng Việt. Tập Tinh
huyết vì vậy là một trong những ví dụ hiếm hoi đáp ứng tâm thế ấy của giới
sáng tác trẻ đất Bắc.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét