Việt ngữ nghiên cứu 1
TựaNăm 1948, ở trong Đoàn Văn hóa kháng
chiến Xuân Ang, Phú Thọ, tôi nhân đọc cuốn Tân quốc văn ngữ pháp của
Lê Cẩm Hy, toan dựa theo viết một cuốn ngữ pháp tiếng Việt, mà cứ lúng túng
mãi, không xử lý được nhiều trường hợp rắc rối trong ngôn ngữ, nên chưa viết
được.Tuy vậy, cái đại cương của ngữ pháp thì
tôi thấy như mình đã nắm được, nhân tháng bảy năm ấy có Hội nghị Văn hóa toàn
quốc ở Đông Lĩnh, tôi có bài thuyết trình "Một phương pháp dạy văn pháp
tiếng ta".Có lẽ cũng vì cái thuyết trình ấy, sau
đó không lâu, Hội Văn hóa Việt Nam thành lập, tôi được cử vào làm việc trong
Ban Ngôn ngữ văn tự của Hội.Muốn cho công việc của mình sớm có thành
quả cụ thể, từ đó qua đầu mùa xuân 1949, tôi viết ba bài nghiên cứu được in
ly-tô phát hành, tức là "Phân tích vần Quốc ngữ", "Một vài nhận
xét trong tiếng ta theo chữ Nôm", và "Tiếng đệm" đặt ở đầu sách
này.Bấy giờ tôi lại muốn trở lại viết cuốn
ngữ pháp, nhưng vẫn lúng túng không viết được, không làm sao xử lý được những
vấn đề mình đã cho là rắc rối. Tôi bèn tỉnh ngộ, thấy ra cái chỗ tại làm sao mà
mình bị bí ấy.Một thứ tiếng mới thành lập như tiếng
ta, mà muốn viết một sách ngữ pháp cho đâu ra đó, làm một việc tổng hợp, thì
rất khó. Bí là tại đó. Phải làm việc phân tích trước, phân tích tỉ mỉ kẽ còi
rồi, bấy giờ làm việc tổng hợp thì có lẽ dễ hơn.Vì như thế, tôi bỏ cái dã tâm [1] viết
sách ngữ pháp mà đi làm cái việc phân tích, tức là tám bài sau trong sách này,
năm 1950 đã do Hội xuất bản bằng ty-pô, đề nhan sách là "Tìm tòi
trong tiếng Việt".Từ 1951 về sau, tôi không còn làm việc
ngữ ngôn văn tự nữa, việc nghiên cứu bỏ dở.Nay nhân thắng lợi hòa bình, trở về thủ
đô Hà Nội, bèn góp lại những công trình nghiên cứu trong hai năm in thành một
cuốn sách, phụ lục cái thuyết trình về ngữ pháp ra sau cùng, đổi tên mới
là "Việt ngữ nghiên cứu".Trước kia, sau khi in ly-tô hay ty-pô
xong, tôi có thấy trong bài mình viết còn có chỗ nào sai sót thì điền bổ thêm
vào; và hiện nay, trước khi ra cuốn sách này, tôi còn thấy cái gì đáng nói nữa
cũng có nói thêm. Cả hai sự bổ túc ấy thuộc về bài nào thì để sau bài ấy chung
dưới một cái đầu đề nhỏ là: Viết thêm về sau. Những mẩu viết thêm ấy hoặc có
ghi đủ địa điểm và ngày tháng, hoặc chỉ ghi năm mà thôi, là tùy lúc bấy giờ có
ý cẩn thận hay cẩu thả, nhưng đều để nghiệm thấy tư tưởng mình tiến hay thoái,
và cũng để đánh dấu mình tuy không làm việc ngữ ngôn văn tự cũng để ý tới nó
luôn luôn, một cách dùng mà tự an ủi lấy mình.Hiện nay, các nhà giáo, các nhà văn
chúng ta có cái trách nhiệm phải làm cho tiếng nước ta tiến dần lên đến bậc
hoàn mỹ. Tiếng nói có hoàn mỹ thì mới đẩy văn học, khoa học tiến lên được, mới
phục vụ được cho nhân dân, cho quốc gia, dân tộc đi nhanh trên con đường tiến
hóa của hiện đại. Tiếng Việt Nam nếu còn cứ ở cái trình độ cũ thì dân tộc Việt
Nam có tiến đi nữa cũng chậm lắm.Tôi mong rằng khi sách này in ra, sẽ
được nhiều lời phê bình thảo luận, để bổ cứu cho sự sai lầm, thiếu sót của ý
kiến một người, và nhờ đó, công việc phân tích càng đầy đủ, tinh vi hơn để đi
đến tổng hợp.Nói như thế, không phải nói đợi phân
tích xong rồi mới viết sách ngữ pháp. Chúng ta cũng cứ viết sách ngữ pháp đi,
sau nhờ sự phân tích, phát hiện cái đúng đến đâu, sẽ sửa chữa nó đến đó.Công việc này là công việc làm vĩnh
viễn, không phải chỉ làm mười năm hay một trăm năm. Hễ thời đạo tiến hóa thì
ngữ ngôn phải tiến hóa, ngữ ngôn tiến hóa tức là dân tộc tiến hóa.Phan KhôiViết tại Hà Nội ngày 22-11-1954Tâm hồn và trí tuệ của Phan Khôi trong
"Việt Ngữ nghiên cứu"Tuổi trẻ của Phan Khôi là một thời bi
kịch của đất nước. Chủ quyền dân tộc đã mất dần! Chế độ thống trị của kẻ xâm
lược coi như đã an bài! Nhưng bi kịch không chỉ về chính trị mà còn về văn hóa.
Dân trí còn quá thấp! Trong dân gian, vẫn còn được kể lại chuyện không lâu
trước đó vua quan, sĩ phu, dân chúng chẳng ai tưởng tượng nổi là ở phương trời
kia, có những ngọn đèn không cần cho dầu vào mà vẫn thắp được sáng trưng, lại
chúc đầu xuống. Sang thế kỷ XX rồi kể chuyện đó lại để cười. Cũng để xót cho
cái thân phận nghèo nàn, lạc hậu của người dân đất Việt.Pháp lớn tiếng rằng sứ mạng cao cả của
họ là khai hóa An Nam. Ở châu Á, châu Phi ở đâu họ cũng đều tuyên bố vậy trên
cái thế mạnh của văn minh nước họ. Chính sách của họ là dân bản xứ thuộc địa
phải Pháp hóa (Franciser). Dân An Nam thì trước hết phải phi Hán hóa
(désiniser).Giới trí thức nho học đông đảo nước nhà
đứng vào thế bị động của một sự lựa chọn hết sức khó khăn. Rời bỏ văn hóa Hán,
tiếng Hán? Đó là giá trị không còn là ngoại lai mà đã thành cổ truyền của dân
mình rồi! Chấp nhận văn hóa Pháp? Đó đích thực là ngoại lai, là vô đại trước
đạo lý truyền thống! Chấp nhận tiếng Pháp, tiếng Tây? Nó xa lạ, kỳ dị!Trong điều kiện xã hội như thế, Phan
Khôi đã làm một sự lựa chọn cho mình. Ông vốn xuất thân Hán học, nhưng vẫn đi
vào Pháp học, vẫn học tiếng Pháp tới trình độ cao. Như thế, chẳng phải vì lẽ
sống, vì vinh thân như ai, cũng chẳng phải như ai vì tán thành đường lối
"hiệp tác", "đề huề" với Pháp, Phan Khôi có ý thức sâu sắc
là ở nước Nam ta, sự mở mang dân trí phải là sự mở rộng không gian văn hóa. Quả
nhiên, văn hóa có thời gian và cả không gian. Cái không gian văn hóa của xã hội
người Việt đã thành quá ư chật hẹp, lại khép kín sau cả mấy ngàn năm tiếp xúc
chỉ với Trung Hoa.Khác với nhiều nho sĩ, Phan Khôi không
đồng tình với cách nghĩ cho Quốc học phải tiếp tục là Hán học. Theo ông, xưa
nay, nước ta chẳng có gì là Quốc học cả. Toàn những vay mượn đó thôi! Của ta
chỉ có văn học với những sáng tác văn chương nghệ thuật. Nhưng văn học đó, dù
xuất sắc như Truyện Kiều, chưa coi là Quốc học được. Quốc học, theo ông
phải là học vấn, triết học, tư tưởng do chính ta xây dựng nên.Mà xây dựng nên trong tiếng ta, quốc ngữ
của dân tộc ta. Về quan điểm này, Phan Khôi gần với Phạm Quỳnh, tuy hai học giả
này khác nhau xa về quan điểm chính trị, về quan hệ với chính quyền Pháp. Phan
Khôi chẳng dính líu gì với chính quyền thực dân.Ông đã xông vào nghề báo tự do. Đó là
hoạt động để mở mang dân trí, và để luyện tiếng Việt trong văn chương báo chí
còn mới mẻ. Từ đó, đã nảy sinh và được nuôi dưỡng ở ông ý đồ lớn và lâu dài là
nghiên cứu tiếng Việt. Ý đồ này cũng đã sớm hình thành ở những nhà văn hóa
"Đông Kinh nghĩa thục" và ở những người cộng sản Việt Nam. Nhưng đến
năm 1943, mới có "Đề cương về văn hóa Việt Nam". Trong đó
Đảng nhấn mạnh yêu cầu nghiên cứu tiếng Việt về các mặt trong xây dựng ngôn ngữ
dân tộc.Nhưng nghiên cứu tiếng Việt là không dễ.
Người nghiên cứu phải có tâm hồn. Chính trong tâm hồn dân tộc, mà trước Phan Khôi,
không ít nhà văn hóa đã viết về ngữ pháp tiếng Việt. Nhưng người nghiên cứu
tiếng Việt còn phải có trí tuệ, trí tuệ về tiếng Việt, về ngôn ngữ. Nếu không
là dễ rơi vào lối mô phỏng tiếng Pháp, một ngôn ngữ văn hóa có uy thế rộng lớn.Phan Khôi là nhà văn hóa rất quý trọng
tiếng Việt, quyết tâm bảo vệ ngôn ngữ dân tộc. Ông theo đuổi sự nghiệp này, khi
hoạt động ở Sài Gòn, Huế, Hà Nội, rồi đi theo cách mạng giải phóng dân tộc,
hoạt động cho tới cuối đời. Và Phan Khôi có trí tuệ của một nhà Việt ngữ học.
Trí tuệ của ông hình thành từ một văn hóa mở rộng, với những hiểu biết không
chỉ về tiếng Việt, tiếng Hán mà còn về tiếng Pháp, tiếng Anh.Phan Khôi đã đi tới một nhận định có ý
nghĩa phương pháp luận. Ông thấy giữa các ngôn ngữ khác nhau vẫn tồn tại những
cái giống nhau mà ông gọi là "đại đồng". Và ngôn ngữ nào cũng được
phân biệt bởi những cái mà ông gọi là "tiểu dị".Nguyên lý "đại đồng tiểu dị"
đã phải lâu lâu mới hình thành rõ trong ngôn ngữ học. Vốn có niềm tin là trên
hành tinh chúng ta, thuở sơ khai, chỉ có một ngôn ngữ duy nhất. Nên loài người
hiểu nhau, hòa thuận, không chém giết nhau. Thanh bình trong khắp nhân thế. Đó
là phước lành của Chúa! Nhưng về sau, hóa ngông cuồng, loài người làm chuyện
động trời, cố xây ngọn tháp muốn cao tận mây xanh. Chúa đã trừng phạt! Trong
loài người, sinh ra những ngôn ngữ khác nhau và sự không hiểu nhau, rồi xung
đột, chiến tranh. Khoa học không cùng niềm tin giáo lý ấy. Từ thuở sơ khai,
thật kỳ diệu, đã tồn tại trong loài người sự đa dạng ngôn ngữ. Và từ đấy, hình
thành ngày càng phong phú sự đa dạng văn hóa. Đó mới là phước lành của Chúa đã
ban cho loài người!Nhưng, các ngôn ngữ khác nhau là của dân
tộc khác nhau! Quan điểm của dân tộc nổi lên ngày càng mạnh. Đến thế kỷ XX,
người ta cho tiếng Đức là của dân tộc Đức, chẳng giống gì với tiếng Pháp của
riêng dân tộc Pháp. Không thể có gì gọi là tư duy của loài người, chỉ có tư duy
của dân tộc được biểu hiện trong ngôn ngữ dân tộc.Cuối cùng, ngày nay, ngôn ngữ học lại đi
tới một nhận định như Phan Khôi. Không, trong những ngôn ngữ khác nhau, có thể
khác nhau xa, vẫn có những cái giống nhau. Đó là cái "đại đồng" như
Phan Khôi gọi. Nhiều nhà ngôn ngữ học hiện đại gọi những cái giống nhau ấy là
những "phổ niệm", tức "universaux" và ngôn ngữ nào cũng có
những đặc điểm riêng, những "tiểu dị" theo cách gọi của Phan Khôi.Rõ là Phan Khôi đã sớm vận dụng nguyên
lý "đại đồng tiểu dị" ông đã đề ra, tức nguyên lý "phổ niệm và
đặc điểm riêng", trong các bài của "Việt ngữ nghiên cứu".Không ít nhà nghiên cứu nước ngoài và
trong nước cho rằng tiếng Việt chẳng có gì là tư. Theo họ, tiếng Việt
chỉ có cái đơn vị gọi là tiếng, mỗi tiếng có một âm tiết,
như ăn, ngủ... và chỉ có cú pháp là sự tổ hợp các tiếng để làm
nên câu. Phan Khôi không nghĩ thế. Theo ông, tiếng Việt vẫn có từ như mọi ngôn
ngữ, đó là một cái đại đồng. Không nói ra hiển ngôn, ông cho rằng ngôn ngữ nào
cũng có từ mới liên hệ được với thực tế, ngôn ngữ là công cụ tư duy. Đó cũng là
quan điểm lôgic mà Phan Khôi rất đề cao.Tiếng Việt có rất nhiều từ đơn âm tiết.
Tiếng Pháp cũng có mà ít hơn. Tiếng Việt còn có những từ tạo nên bởi các tổ hợp
tiếng, như lạnh lùng... Đó là những từ láy theo cách gọi hiện nay.
Ngôn ngữ khác nhau cũng có những từ kiểu này, như tiếng Hán. Nhưng từ láy tiếng
Việt khác từ láy tiếng Hán, sự khác nhau là ở các âm luật khác nhau chi phối sự
cấu tạo từ láy trong hai ngôn ngữ. Phan Khôi đã nghiên cứu các âm luật đó trong
từ láy tiếng Việt và từ láy tiếng Hán.Tiếng Việt còn có những tổ hợp tiếng làm
nên những đơn vị mà Phan Khôi gọi là những "thành ngữ", như nhà
tranh... Đó là những từ ghép theo cách gọi hiện nay, hoặc những ngữ cố định
hóa, từ vựng hóa. Tiếng Pháp cũng có từ ghép và ngày càng nhiều."Đại đồng tiểu dị" chỉ đạo sự
nghiên cứu của Phan Khôi về cú pháp tiếng Việt. Trong tiếng Pháp, từ biến hình,
tức biến đổi hình thức theo chức năng cú pháp. Như động
từ dormir nguyên thức thành il dort, il dormait... Nó có
một yếu tố gốc gọi là căn tố, kết hợp với các yếu tố biểu hiện các nghĩa ngữ
pháp có tính chất phạm trù. Tiếng Việt không như thế. Nó không phải là ngôn ngữ
biến hình, mà là ngôn ngữ đơn lập. Nên có những người thường bảo trong tiếng
Việt chẳng có gì là phạm trù ngữ pháp. Phan Khôi cũng không nghĩ thế. Ông chú ý
đến các hư từ trong tiếng Việt, và đã dành một sự nghiên cứu riêng cho các hư
từ trong Truyện Kiều. Theo ông, phương thức dùng hư từ cũng là cái
"tiểu dị" của tiếng Việt. Nó biểu hiện rất tế nhị nhiều nghĩa ngữ
pháp.Phan Khôi cũng chú ý tới loại từ tiếng
Việt. Thấy trong tiếng Pháp có, chẳng hạn "la maison", trong tiếng
Việt có "cái nhà", nhiều người đã cho cái, con... là quán
từ, mạo từ chi đó. Phan Khôi đã nghĩ khác. Trong tiếng Việt, chẳng có cái nghĩa
ngữ pháp "đực, cái" mà chỉ có nghĩa ngữ pháp
"loại": cái, con... có thể coi là loại từ. Người viết bài
này xin bình luận thêm là nếu nghĩ tới một câu tiếng Việt như "cái nhà đẹp
quá!" thì loại từ cái ở đây cũng giống như article ở nghĩa ngữ pháp
"xác định" (défini) như là, "la maison est si belle!".Điều còn rất đáng chú ý là tác phong
nghiêm túc của Phan Khôi. Có thể nhận xét là ở nhiều bài trong "Việt
ngữ nghiên cứu" ông đã có, ở phần kết của bài, những điều chỉnh đối
với các nhận định trình bày ở phần trên. Đó là những điều chỉnh do nghĩ thêm
hay thấy thêm sự kiện trong thực tiễn sử dụng tiếng Việt. Không thể không thấy
đó là tác phong đáng quý ở người nghiên cứu khoa học. Sự nghiên cứu của Phan
Khôi chưa hoàn chỉnh chăng, có thể như thế đấy! Và đó là điều chúng ta thông
cảm với cảnh hầu như đơn độc của ông lúc cuối đời.Để khép lại những suy nghĩ và bình luận
về "Việt ngữ nghiên cứu" của nhà Việt ngữ học Phan Khôi,
tôi chân thành nói lên một đề nghị: Công trình này cần được đưa vào tủ sách các
nhà nghiên cứu ngôn ngữ học hiện nay, đặc biệt các sinh viên đại học khoa Ngữ
văn.Hoàng TuệHà Nội, tháng 1 năm 1997Phân tích vần quốc ngữTa gọi "Vần quốc ngữ", theo
thói quen xưa nay, gồm có: 23 tự mẫu hay chữ cái, 12 nguyên âm và vần xuôi, vần
ngược, và năm dấu: huyền, hỏi, ngã, sắc, nặng.Gọi "vần xuôi", vì mỗi
"vần" phụ âm ở đầu nguyên âm ở cuối; "vần ngược", vì mỗi
"vần", phụ âm ở cuối, nguyên âm ở đầu. Xuôi ngược là nghĩa như thế,
theo ước lệ, không cần có lý luận. Nhưng gọi "vần", thì thật không có
nghĩa gì cả, vì đó chưa phải là "vần". Tuy vậy, cái danh từ đã thông
dụng lâu rồi, đổi đi không tiện, cho nên ở đây cũng cứ gọi là "Vần quốc
ngữ".Vần quốc ngữ đã được đặt ra như thế, là
do người đời xưa sau khi có một cuộc tổ chức bằng lý trí có vẻ tổng hợp rồi mới
đặt ra. Nay chưa nói đến nó đã hoàn toàn hợp lý chưa, hẵng cứ công nhận nó như
thế, song nếu không đem phân tích ra cho kỹ thì không sao thấy được cái công
dụng của mỗi phần tử trong cuộc tổng hợp ấy, nhân đó cũng không nhìn biết được
cái giá trị thật của vần quốc ngữ nữa, cho nên cần phải phân tích nó.Tự mẫu hay chữ cáia, b, c, d, đ, e, g, h, i, y, k, l, m,
n, o, p, q, r, s, t, u, v, x: cộng 23 chữ cái. Trong đó có nguyên âm và phụ âm.Nguyên âma, ă, â, e, ê, i, y, o, ô, ơ, u, ư; cộng
12 chữ. Trong 12 chữ ấy ă, â, sinh ra bởi a, ê bởi e, ô, ơ bởi o, ư bởi u, vì
lẽ không sinh ra thêm thì không đủ dùng.Nhưng tự trung, ă, â, không phải là
nguyên âm độc lập, vì ă, thuộc về a, â thuộc về ơ, coi như khi
viết bá không viết bă, khi viết bớ không
viết bâ thì đủ biết. Y tuy độc lập những cũng chỉ là i kéo dài ra và
thuộc về i. Vậy ba âm ă, â, y phải kể là nguyên âm bất hoàn toàn. Rốt lại 12
nguyên âm chỉ còn có 9.Nguyên âm ghépHai hay ba nguyên âm đi với nhau làm
một, gọi là nguyên âm ghép, như ai, âu, eo, êu, oa oeo, ui, uôi v.v... Đó là
những âm ở trong vần ngược, nhưng thực ra thì cũng là những nguyên âm do nguyên
âm đơn sinh ra để cho đủ dùng trong tiếng nói đó thôi. Công dụng của nó cũng
như nguyên âm đơn.Nguyên phụ âm
Phụ âm
B, c, ch, d, đ, g, gi, gh, h, k, kh, l,
m, n, ng, ngh, nh, ph, qu, r, s, t, th, tr, v, x: cộng 26 chữ. Những phụ âm này
dùng đứng đầu nguyên âm, nguyên âm ghép hay nguyên phụ âm, làm cho tiếng nói
càng nảy nở thêm nhiều ra và đủ điều kiện sinh ra vần.
Trong hết thảy phụ âm trên đây có những
phụ âm đôi ba như ch, ghi, ngh v.v... là vì phần phụ âm đơn không đủ dùng nên
phải ghép mà đặt thêm ra, chứ không đồng một tính chất với phụ âm kép dr, pl,
tr, trong tiếng ngoại quốc, bởi vậy dù nó có đôi ba cũng cứ coi như một. Lại,
điều này rất quan hệ, phải biết: phụ âm chưa phải là âm; chỉ khi nào nó đứng
đầu nguyên âm, nguyên âm ghép hay nguyên phụ âm thì mới thành âm mà thôi. Lệ
như: b chưa phải là âm, mà ba, beo, buôn mới là âm vậy.
Âm giai
Hết thảy các âm: nguyên âm, nguyên âm
ghép, nguyên phụ âm, chia làm hai loại: bình và trắc, nguyên âm (trừ ă, â ra)
nguyên âm ghép và những nguyên phụ âm tận cùng bằng ng, nh, m, n thuộc về loại
bình; còn những nguyên phụ âm tận cùng bằng c, ch, p, t thuộc về loại trắc (đây
chưa nói đến bình trắc của năm dấu). Những âm bình ấy không cứ có phụ âm đứng
đầu nó hay không, kéo dài ra thành bốn thanh, tám giọng phù (nổi) trầm (chìm),
tức là cung bậc của nó, cũng tức là từ không dấu đến năm dấu theo thứ tự ấy gọi
là âm giai. Lệ như a, à, ả, ã, á, ạ; beo, bèo, bẻo, bẽo, béo, bẹo; ang,
àng, áng, ảng, ãng, ạng; ác, ạc; thanh, thành, thảnh, thãnh, thánh, thạnh;
thách, thạch v.v...
Âm hệ
Do âm giai sinh ra âm hệ. Theo như trên
mới vừa nói thì đã rõ, có hai thứ âm hệ: Một thứ nguyên âm hay nguyên âm ghép,
không cứ có phụ âm đứng đầu nó hay không, chỉ có sáu âm giai; một thứ nữa:
nguyên phụ âm theo từng chiều của nó, tức là bốn chiều, ng-c, nh-ch, m-p, n-t,
không cứ có phụ âm đứng đầu nó hay không, thì có cho đến tám âm giai. Thứ âm hệ
trên gọi là âm hệ sáu, thứ âm hệ dưới gọi là âm hệ tám.
Âm hệ của mỗi âm
Bất kỳ thứ âm nào, mỗi âm, không cứ
thuộc về âm hệ sáu hay âm hệ tám, không cứ có phụ âm đứng đầu nó hay không, đều
theo âm giai của nó mà có âm hệ riêng. Vậy như: âm hệ a gồm
có a, à, ả, ã, á, ạ; âm hệ beo gồm có beo, bèo, bẻo,
bẽo, béo, bẹo; âm hệ ang gồm có ang, àng, ảng, áng, ạng,
ác, ạc; âm hệ thanh gồm có thanh, thành, thảnh, thãnh, thánh, thạnh,
thách, thạch, v.v... Hay là nói một cách khác: ạ, à, ã, á, ạ, thuộc về âm
hệ a; beo, bèo, bẻo, bẽo, béo, bẹo, thuộc về hệ beo; ang, àng, ảng, ãng, áng,
ạng, ác, ạc thuộc về âm hệ ang; thanh, thành, thảnh, thãnh, thánh, thạnh,
thách, thạch thuộc về âm hệ thanh v.v... Trong mỗi âm hệ, không dấu và dấu
huyền là bình, bốn dấu hỏi, ngã, sắc, nặng là trắc.
Biểu âm giai và âm hệ
Như thế, tỏ thêm ra rằng âm hệ tám có nhập thanh, còn âm hệ
sáu không có nhập thanh. Lại cử lệ dưới đây một câu tám chữ đủ tám cung bậc
khác nhau để khái quát các âm hệ. Bất kỳ gặp một âm có dấu gì cũng cứ bắt đầu
tìm âm hệ từ không dấu:
Âm hệ
Thứ tự và sự phối hợp năm dấu với bốn
thanh
Hỏi: Tại sao sắp năm dấu theo thứ
tự: Không dấu rồi đến huyền, hỏi, ngã, sắc, nặng, rồi đến hai dấu sắc, nặng của
nhập thanh? [2]. Lại
căn cứ vào đâu đem chúng nó phối hợp với bốn thanh và chia ra phù trầm như thế?
Đáp: Ấy là theo tự nhiên của âm
thanh tiếng Việt Nguyên cái luật bình trắc và bốn thanh đã có trong chữ Hán, mà
nó cũng ám hiệp với tiếng ta. Cái luật ấy đã cai trị tiếng ta từ xưa, về sau có
quốc ngữ mới có năm dấu, thì tự nhiên năm dấu phải phối hợp với luật ấy, miễn
cho không cưỡng không sai là được.
Người bắt đầu ra luật bốn thanh là Thẩm
Ước ở đời Nam Bắc triều bên Trung Hoa. Một hôm ông vua hỏi: "Thế nào là
bốn thanh?". Ông ấy đáp ngay rằng: "Thiên tứ thánh triết". Ta
không rõ bốn chữ ấy người Trung Hoa thuở Nam Bắc triều đọc như thế nào; chứ
theo tiếng ta thì đó là bốn thanh bình, thưởng [3],
khứ, nhập thuộc về giọng phù, đem đánh dấu là không [4],
hỏi, sắc, sắc - nhập; nếu thêm "thiền, tữ, thạnh, triệt", bốn thanh
giọng trầm, đánh dấu là huyền, ngã, nặng, nặng - nhập nữa, thì đủ tám cung bậc
của bốn thanh. Ở đây căn cứ vào sự thực và tự nhiên ấy mà đem hai cái phối hợp
với nhau.
Vả lại, bốn thanh chia ra tám cung bậc
ăn với hai giọng phù trầm như thế, còn căn cứ ở sự liên quan giữa chúng nói với
nhau nữa. Trong tiếng ta, thật thế, bốn âm có giọng phù, tức là bốn dấu
"không", hỏi, sắc, sắc - nhập thường có họ với nhau; bốn âm có giọng
trầm, tức là bốn dấu huyền, ngã, nặng, nặng - nhập thường có họ với nhau. Đây
cử ra những chứng cứ rất chắc chắn.
1. Những từ ngữ có tiếng đệm tận cùng bằng
ang, hễ chữ đầu là dấu sắc, dấu hỏi thì tiếng đệm ấy ắt là không
dấu. Như: xốn xang, bống bang, lối lang, ngổn ngang, vẻ vang, sửa sang
v.v...
2. Một số từ ngữ đôi, chữ trước hoặc sắc
hoặc hỏi, thì chữ sau không dấu, và cái chữ trước ấy có thể hai
dấu ấy thay nhau. Như: bảnh bao, bính bao; hớ hênh, hở hinh; trống không, trổng
không v.v...
3. Một số chữ Hán Việt có thể đọc được vừa
bằng dấu sắc, vừa bằng dấu hỏi. Như: cung kính, cung kỉnh, khiêm tốn,
khiêm tổn, tốn phí, tổn phí; ảnh hướng, ảnh hưởng, cảm ơn, cám ơn; giải thưởng,
giải thướng, yểm thế, yếm thế; tự ải, tự ái v.v...
4. Một số từ ngữ đôi, không dấu, dấu hỏi,
dấu sắc thường đi với dấu sắc nhập. Như: trung trúc, anh ách, thin thít,
háo hức, ráo riết, ấm ức; lẩn khuất, thổn thức, thẩm thoát và thổn, thẩm có thể
đổi là thốn, thấm được v.v...
Trên đó thấy bốn dấu giọng phù liên quan
với nhau, dấu này thường đòi hỏi dấu kia, hay là dấu này có thể lẫn lộn với dấu
kia.
5. Những từ ngữ có tiếng đệm tận cùng bằng
ang, hễ chữ đầu là dấu ngã, dấu nặng thì tiếng đệm ấy ắt là dấu
huyền. Như: chững chàng, bẽ bàng, phũ phàng, vội vàng, rộn ràng, gọn gàng
v.v... [5]
6. Một số chữ Hán nguyên là nặng có thể chuyển
ra Nôm là huyền. Như: lăng loạn, lăng loàn; nhất nhị, nhất nhì; lỗi nghị,
lỗi nghì; mùa hạ, mùa hè; tin nhạn, tin nhàn; muôn vạn, muôn vàn; chuyển vận,
chuyển vần; phỉ nguyện, phỉ nguyền v.v...
7. Một số chữ Hán - Việt có thể đọc được
vừa bằng dấu nặng vừa bằng dấu ngã. Như: trầm tịnh, trầm tĩnh, kỵ nữ, kỹ
nữ, kỵ nghệ, kỹ nghệ; giá trị, giá trĩ; cô cựu, cô cữu; tự vận, tự vẫn; dần
mẹo, dần mão v.v...
8. Một số từ ngữ đôi, dấu huyền, dấu nặng,
dấu ngã thường đi với dấu nặng nhập. Như: trùng trục, anh ách, thình
thịch, ậm ực, nặn nọt, dại dột, mãi miệt, nghiệt ngã, vật vã v.v...
Trên đó thấy bốn dấu giọng trầm liên
quan với nhau, sự đòi hỏi và lẫn lộn cũng như bốn dấu trên.
Những cái cử lệ trên đây nếu bị coi là
sự tình cờ trong ngữ âm thì oan uổng quá. Ta nên chú ý ở những cái từ ngữ: ấm
ức, ậm ực, anh ách, ành ạch, trung trúc, trùng trục, tại sao lại không nói ấm
ức, ấm ực, anh ạch, ành ách, trung trục, trùng trúc - thì đủ thấy chắc chắn phù
đi với phù, trầm đi với trầm là cái luật tự nhiên trong tiếng ta, không phải
bịa đặt ra được mà cũng không thể cãi chối được.
Cái luật phù đi với phù, trầm đi với
trầm, gọi tắt là luật phù trầm. Nó còn có những điều kiện chế bớt như đồng phụ
âm, đồng vận thì có thể trái luật, tức như mơ màng, rình rang, tấp nập, tách
bạch v.v... Tôi có viết riêng một bài đề là "Tiếng
đệm", nói những điều ấy kỹ càng lắm, ở đây chỉ dẫn chứng vừa đủ mà
thôi. Xem bài "Tiếng đệm" ở sau.
Tóm lại, trong tiếng ta chia ra hai
loại: bình và trắc. Bình trắc lại phối hợp với bốn thanh: bình thanh thuộc về
bình; ba thanh thướng, khứ, nhập thuộc về trắc. Bốn thanh lại chia ra hai giọng
phù trầm thành tám cung bậc, phối hợp với năm dấu hay muốn cho tiện thì gọi
ngay là tám dấu. Cả một sự tổ chức theo tự nhiên ấy biểu hiện đầy đủ trong cái
biểu âm giai âm hệ như trên. Đó là thuộc về phần âm.
Vận và vận hệ
Do âm sinh ra vận. Vận cũng tức là vần.
Mà đây mới là vần thật.
Vận, lấy một nguyên âm (nguyên âm ghép,
nguyên phụ âm) làm gốc, buộc thêm hai cái điều kiện: 1) hạn chế bởi bốn thanh,
2) đổi khác bởi các phụ âm đứng đầu nó mà làm thành ra.
Do đó sinh ra vận hệ. Có hai thứ vận hệ.
Một thứ: nguyên âm hay nguyên âm ghép làm gốc thì chỉ có hệ bình và hệ trắc;
một thứ nữa: nguyên phụ âm làm gốc thì có hệ bình, hệ trắc và hệ trắc - nhập.
Thứ trên gọi là vận hệ hai, thứ dưới gọi là vận hệ ba.
Hệ bình, gồm phù thướng, trầm
thướng, phù khứ, trầm khứ, tức là bốn dấu hỏi, ngã, sắc, nặng, bốn cung bậc ấy
làm vận với nhau.
Hệ trắc, gồm phù thướng, trầm
thướng, phù khứ, trầm khứ, tức là bốn dấu hỏi, ngã, sắc, nặng, bốn cung bậc ấy
làm vận với nhau.
Hệ trắc nhập, gồm phù nhập và trầm
nhập, tức là dấu sắc - nhập và dấu nặng - nhập, hai cung bậc ấy làm vận với
nhau.
Nhập thanh, tuy cũng thuộc về loại trắc,
nhưng nó khác nhau ở cái chữ tận cùng, chứ ấy - tức là c, ch, p, t - làm cho
phát âm phải cụt và gấp, khác với những chữ kia - ng, nh, m, n - có thể kéo dài
ra, cho nên không vào chung với hệ trắc được mà phải biệt riêng ra một hệ.
Theo điều kiện thứ nhất, tạp âm, không
phải là vận. Vậy như a với à là vận, nhưng với ả, ã, á, ạ không
phải là vận, uy với ùy là vận, nhưng với ủy, ũy, úy,
ụy không phải là vận; ong với òng là vận, nhưng
với ỏng, õng, óng, ọng, với óc, ọc không phải là vận.
Theo như trên, muốn tìm biết bất kỳ một
chữ nào thuộc về vận gì, hệ nào, dễ lắm:
Nỗ: gốc vận Ô, hệ trắc.
Lực: gốc vận ƯNG, hệ trắc nhập.
Cửu: gốc vận ƯU, hệ trắc.
Chiến: gốc vận IÊN, hệ trắc.
Nhất: gốc vận ÂN, hệ trắc nhập.
Định: gốc vận INH, hệ trắc.
Thành: gốc vận ANH, hệ bình.
Công: gốc vận ÔNG, hệ bình.
Theo điều kiện thứ nhì, đọc âm không
phải là vận. Vậy như a với à nếu là đồng nghĩa thì không kể là vận
được, mà phải khác nghĩa, nhất là phải có những phụ âm đứng đầu nó, thành ra
ba, cà, kha, thà, sa, xà v.v... thì mới là vận. Đó là nói riêng về vận hệ bình;
suy ra thì biết hệ trắc là hệ trắc-nhập cũng đồng một luật ấy.
Nguyên phụ âm cũng là những âm ở trong
vần ngược, ghép bằng một hay hai nguyên âm ở đầu với một hay hai phụ âm ở cuối,
như ac, it, ôn, uôn, ang, oanh, ương v.v... Công dụng của nó cũng như nguyên âm
ghép, khác nhau chỉ ở chỗ: nguyên âm ghép dùng mấy nguyên âm ghép nhau, đọc
nhanh nảy ra âm thứ ba, còn nguyên phụ âm thì cũng thế, mà cái phụ âm ở cuối
còn làm như cái bánh lái để bẻ theo chiều cái âm mình muốn phát. Vậy trong
những âm này có từng chiều của nó.
Nói về vận như trên đây là nói theo
nguyên tắc, còn khi làm thơ, làm văn, làm văn vần người ta cho ang, ương vần
với nhau, ong ông, ung vần với nhau, ước, ác vần với nhau, thậm chí an vần với
ang, ác vần với át, đó lại là chuyện khác, đây không nói đến. Tuy vậy, mặc dầu
thế nào là ba cái vận hệ bình, trắc, trắc-nhập cũng phải phân biệt.
Phụ âm
B, c, ch, d, đ, g, gi, gh, h, k, kh, l, m, n, ng, ngh, nh, ph, qu, r, s, t, th, tr, v, x: cộng 26 chữ. Những phụ âm này dùng đứng đầu nguyên âm, nguyên âm ghép hay nguyên phụ âm, làm cho tiếng nói càng nảy nở thêm nhiều ra và đủ điều kiện sinh ra vần.
Trong hết thảy phụ âm trên đây có những phụ âm đôi ba như ch, ghi, ngh v.v... là vì phần phụ âm đơn không đủ dùng nên phải ghép mà đặt thêm ra, chứ không đồng một tính chất với phụ âm kép dr, pl, tr, trong tiếng ngoại quốc, bởi vậy dù nó có đôi ba cũng cứ coi như một. Lại, điều này rất quan hệ, phải biết: phụ âm chưa phải là âm; chỉ khi nào nó đứng đầu nguyên âm, nguyên âm ghép hay nguyên phụ âm thì mới thành âm mà thôi. Lệ như: b chưa phải là âm, mà ba, beo, buôn mới là âm vậy.
Âm giai
Hết thảy các âm: nguyên âm, nguyên âm ghép, nguyên phụ âm, chia làm hai loại: bình và trắc, nguyên âm (trừ ă, â ra) nguyên âm ghép và những nguyên phụ âm tận cùng bằng ng, nh, m, n thuộc về loại bình; còn những nguyên phụ âm tận cùng bằng c, ch, p, t thuộc về loại trắc (đây chưa nói đến bình trắc của năm dấu). Những âm bình ấy không cứ có phụ âm đứng đầu nó hay không, kéo dài ra thành bốn thanh, tám giọng phù (nổi) trầm (chìm), tức là cung bậc của nó, cũng tức là từ không dấu đến năm dấu theo thứ tự ấy gọi là âm giai. Lệ như a, à, ả, ã, á, ạ; beo, bèo, bẻo, bẽo, béo, bẹo; ang, àng, áng, ảng, ãng, ạng; ác, ạc; thanh, thành, thảnh, thãnh, thánh, thạnh; thách, thạch v.v...
Âm hệ
Do âm giai sinh ra âm hệ. Theo như trên mới vừa nói thì đã rõ, có hai thứ âm hệ: Một thứ nguyên âm hay nguyên âm ghép, không cứ có phụ âm đứng đầu nó hay không, chỉ có sáu âm giai; một thứ nữa: nguyên phụ âm theo từng chiều của nó, tức là bốn chiều, ng-c, nh-ch, m-p, n-t, không cứ có phụ âm đứng đầu nó hay không, thì có cho đến tám âm giai. Thứ âm hệ trên gọi là âm hệ sáu, thứ âm hệ dưới gọi là âm hệ tám.
Âm hệ của mỗi âm
Bất kỳ thứ âm nào, mỗi âm, không cứ thuộc về âm hệ sáu hay âm hệ tám, không cứ có phụ âm đứng đầu nó hay không, đều theo âm giai của nó mà có âm hệ riêng. Vậy như: âm hệ a gồm có a, à, ả, ã, á, ạ; âm hệ beo gồm có beo, bèo, bẻo, bẽo, béo, bẹo; âm hệ ang gồm có ang, àng, ảng, áng, ạng, ác, ạc; âm hệ thanh gồm có thanh, thành, thảnh, thãnh, thánh, thạnh, thách, thạch, v.v... Hay là nói một cách khác: ạ, à, ã, á, ạ, thuộc về âm hệ a; beo, bèo, bẻo, bẽo, béo, bẹo, thuộc về hệ beo; ang, àng, ảng, ãng, áng, ạng, ác, ạc thuộc về âm hệ ang; thanh, thành, thảnh, thãnh, thánh, thạnh, thách, thạch thuộc về âm hệ thanh v.v... Trong mỗi âm hệ, không dấu và dấu huyền là bình, bốn dấu hỏi, ngã, sắc, nặng là trắc.
Biểu âm giai và âm hệ
Như thế, tỏ thêm ra rằng âm hệ tám có nhập thanh, còn âm hệ sáu không có nhập thanh. Lại cử lệ dưới đây một câu tám chữ đủ tám cung bậc khác nhau để khái quát các âm hệ. Bất kỳ gặp một âm có dấu gì cũng cứ bắt đầu tìm âm hệ từ không dấu:
Âm hệ
Thứ tự và sự phối hợp năm dấu với bốn thanh
Hỏi: Tại sao sắp năm dấu theo thứ tự: Không dấu rồi đến huyền, hỏi, ngã, sắc, nặng, rồi đến hai dấu sắc, nặng của nhập thanh? [2]. Lại căn cứ vào đâu đem chúng nó phối hợp với bốn thanh và chia ra phù trầm như thế?
Đáp: Ấy là theo tự nhiên của âm thanh tiếng Việt Nguyên cái luật bình trắc và bốn thanh đã có trong chữ Hán, mà nó cũng ám hiệp với tiếng ta. Cái luật ấy đã cai trị tiếng ta từ xưa, về sau có quốc ngữ mới có năm dấu, thì tự nhiên năm dấu phải phối hợp với luật ấy, miễn cho không cưỡng không sai là được.
Người bắt đầu ra luật bốn thanh là Thẩm Ước ở đời Nam Bắc triều bên Trung Hoa. Một hôm ông vua hỏi: "Thế nào là bốn thanh?". Ông ấy đáp ngay rằng: "Thiên tứ thánh triết". Ta không rõ bốn chữ ấy người Trung Hoa thuở Nam Bắc triều đọc như thế nào; chứ theo tiếng ta thì đó là bốn thanh bình, thưởng [3], khứ, nhập thuộc về giọng phù, đem đánh dấu là không [4], hỏi, sắc, sắc - nhập; nếu thêm "thiền, tữ, thạnh, triệt", bốn thanh giọng trầm, đánh dấu là huyền, ngã, nặng, nặng - nhập nữa, thì đủ tám cung bậc của bốn thanh. Ở đây căn cứ vào sự thực và tự nhiên ấy mà đem hai cái phối hợp với nhau.
Vả lại, bốn thanh chia ra tám cung bậc ăn với hai giọng phù trầm như thế, còn căn cứ ở sự liên quan giữa chúng nói với nhau nữa. Trong tiếng ta, thật thế, bốn âm có giọng phù, tức là bốn dấu "không", hỏi, sắc, sắc - nhập thường có họ với nhau; bốn âm có giọng trầm, tức là bốn dấu huyền, ngã, nặng, nặng - nhập thường có họ với nhau. Đây cử ra những chứng cứ rất chắc chắn.
1. Những từ ngữ có tiếng đệm tận cùng bằng ang, hễ chữ đầu là dấu sắc, dấu hỏi thì tiếng đệm ấy ắt là không dấu. Như: xốn xang, bống bang, lối lang, ngổn ngang, vẻ vang, sửa sang v.v...
2. Một số từ ngữ đôi, chữ trước hoặc sắc hoặc hỏi, thì chữ sau không dấu, và cái chữ trước ấy có thể hai dấu ấy thay nhau. Như: bảnh bao, bính bao; hớ hênh, hở hinh; trống không, trổng không v.v...
3. Một số chữ Hán Việt có thể đọc được vừa bằng dấu sắc, vừa bằng dấu hỏi. Như: cung kính, cung kỉnh, khiêm tốn, khiêm tổn, tốn phí, tổn phí; ảnh hướng, ảnh hưởng, cảm ơn, cám ơn; giải thưởng, giải thướng, yểm thế, yếm thế; tự ải, tự ái v.v...
4. Một số từ ngữ đôi, không dấu, dấu hỏi, dấu sắc thường đi với dấu sắc nhập. Như: trung trúc, anh ách, thin thít, háo hức, ráo riết, ấm ức; lẩn khuất, thổn thức, thẩm thoát và thổn, thẩm có thể đổi là thốn, thấm được v.v...
Trên đó thấy bốn dấu giọng phù liên quan với nhau, dấu này thường đòi hỏi dấu kia, hay là dấu này có thể lẫn lộn với dấu kia.
5. Những từ ngữ có tiếng đệm tận cùng bằng ang, hễ chữ đầu là dấu ngã, dấu nặng thì tiếng đệm ấy ắt là dấu huyền. Như: chững chàng, bẽ bàng, phũ phàng, vội vàng, rộn ràng, gọn gàng v.v... [5]
6. Một số chữ Hán nguyên là nặng có thể chuyển ra Nôm là huyền. Như: lăng loạn, lăng loàn; nhất nhị, nhất nhì; lỗi nghị, lỗi nghì; mùa hạ, mùa hè; tin nhạn, tin nhàn; muôn vạn, muôn vàn; chuyển vận, chuyển vần; phỉ nguyện, phỉ nguyền v.v...
7. Một số chữ Hán - Việt có thể đọc được vừa bằng dấu nặng vừa bằng dấu ngã. Như: trầm tịnh, trầm tĩnh, kỵ nữ, kỹ nữ, kỵ nghệ, kỹ nghệ; giá trị, giá trĩ; cô cựu, cô cữu; tự vận, tự vẫn; dần mẹo, dần mão v.v...
8. Một số từ ngữ đôi, dấu huyền, dấu nặng, dấu ngã thường đi với dấu nặng nhập. Như: trùng trục, anh ách, thình thịch, ậm ực, nặn nọt, dại dột, mãi miệt, nghiệt ngã, vật vã v.v...
Trên đó thấy bốn dấu giọng trầm liên quan với nhau, sự đòi hỏi và lẫn lộn cũng như bốn dấu trên.
Những cái cử lệ trên đây nếu bị coi là sự tình cờ trong ngữ âm thì oan uổng quá. Ta nên chú ý ở những cái từ ngữ: ấm ức, ậm ực, anh ách, ành ạch, trung trúc, trùng trục, tại sao lại không nói ấm ức, ấm ực, anh ạch, ành ách, trung trục, trùng trúc - thì đủ thấy chắc chắn phù đi với phù, trầm đi với trầm là cái luật tự nhiên trong tiếng ta, không phải bịa đặt ra được mà cũng không thể cãi chối được.
Cái luật phù đi với phù, trầm đi với trầm, gọi tắt là luật phù trầm. Nó còn có những điều kiện chế bớt như đồng phụ âm, đồng vận thì có thể trái luật, tức như mơ màng, rình rang, tấp nập, tách bạch v.v... Tôi có viết riêng một bài đề là "Tiếng đệm", nói những điều ấy kỹ càng lắm, ở đây chỉ dẫn chứng vừa đủ mà thôi. Xem bài "Tiếng đệm" ở sau.
Tóm lại, trong tiếng ta chia ra hai loại: bình và trắc. Bình trắc lại phối hợp với bốn thanh: bình thanh thuộc về bình; ba thanh thướng, khứ, nhập thuộc về trắc. Bốn thanh lại chia ra hai giọng phù trầm thành tám cung bậc, phối hợp với năm dấu hay muốn cho tiện thì gọi ngay là tám dấu. Cả một sự tổ chức theo tự nhiên ấy biểu hiện đầy đủ trong cái biểu âm giai âm hệ như trên. Đó là thuộc về phần âm.
Vận và vận hệ
Do âm sinh ra vận. Vận cũng tức là vần. Mà đây mới là vần thật.
Vận, lấy một nguyên âm (nguyên âm ghép, nguyên phụ âm) làm gốc, buộc thêm hai cái điều kiện: 1) hạn chế bởi bốn thanh, 2) đổi khác bởi các phụ âm đứng đầu nó mà làm thành ra.
Do đó sinh ra vận hệ. Có hai thứ vận hệ. Một thứ: nguyên âm hay nguyên âm ghép làm gốc thì chỉ có hệ bình và hệ trắc; một thứ nữa: nguyên phụ âm làm gốc thì có hệ bình, hệ trắc và hệ trắc - nhập. Thứ trên gọi là vận hệ hai, thứ dưới gọi là vận hệ ba.
Hệ bình, gồm phù thướng, trầm thướng, phù khứ, trầm khứ, tức là bốn dấu hỏi, ngã, sắc, nặng, bốn cung bậc ấy làm vận với nhau.
Hệ trắc nhập, gồm phù nhập và trầm nhập, tức là dấu sắc - nhập và dấu nặng - nhập, hai cung bậc ấy làm vận với nhau.
Nhập thanh, tuy cũng thuộc về loại trắc, nhưng nó khác nhau ở cái chữ tận cùng, chứ ấy - tức là c, ch, p, t - làm cho phát âm phải cụt và gấp, khác với những chữ kia - ng, nh, m, n - có thể kéo dài ra, cho nên không vào chung với hệ trắc được mà phải biệt riêng ra một hệ.
Theo điều kiện thứ nhất, tạp âm, không phải là vận. Vậy như a với à là vận, nhưng với ả, ã, á, ạ không phải là vận, uy với ùy là vận, nhưng với ủy, ũy, úy, ụy không phải là vận; ong với òng là vận, nhưng với ỏng, õng, óng, ọng, với óc, ọc không phải là vận.
Theo như trên, muốn tìm biết bất kỳ một chữ nào thuộc về vận gì, hệ nào, dễ lắm:
Nỗ: gốc vận Ô, hệ trắc.
Lực: gốc vận ƯNG, hệ trắc nhập.
Cửu: gốc vận ƯU, hệ trắc.
Chiến: gốc vận IÊN, hệ trắc.
Nhất: gốc vận ÂN, hệ trắc nhập.
Định: gốc vận INH, hệ trắc.
Thành: gốc vận ANH, hệ bình.
Công: gốc vận ÔNG, hệ bình.
Theo điều kiện thứ nhì, đọc âm không phải là vận. Vậy như a với à nếu là đồng nghĩa thì không kể là vận được, mà phải khác nghĩa, nhất là phải có những phụ âm đứng đầu nó, thành ra ba, cà, kha, thà, sa, xà v.v... thì mới là vận. Đó là nói riêng về vận hệ bình; suy ra thì biết hệ trắc là hệ trắc-nhập cũng đồng một luật ấy.
Nguyên phụ âm cũng là những âm ở trong vần ngược, ghép bằng một hay hai nguyên âm ở đầu với một hay hai phụ âm ở cuối, như ac, it, ôn, uôn, ang, oanh, ương v.v... Công dụng của nó cũng như nguyên âm ghép, khác nhau chỉ ở chỗ: nguyên âm ghép dùng mấy nguyên âm ghép nhau, đọc nhanh nảy ra âm thứ ba, còn nguyên phụ âm thì cũng thế, mà cái phụ âm ở cuối còn làm như cái bánh lái để bẻ theo chiều cái âm mình muốn phát. Vậy trong những âm này có từng chiều của nó.
Chữ 油, họ đọc yàu, ta viết du;
Chữ 用, họ đọc yồng, ta viết dụng;
Chữ 演, học đọc yin, ta viết diễn;
Chữ 羊, họ đọc yường, ta viết dương.
Những chữ nào họ phát âm bằng k thì ta, theo tự vị, đều viết bằng gi, như:
Chữ 江, họ đọc kiang, ta viết giang;
Chữ 間, họ đọc kan, ta viết gián;
Chữ 柬, họ đọc kan, ta viết giản;
Chữ 者, họ đọc ká, ta viết giả;
Chữ 加, họ đọc ka, ta viết gia.
Xem đó, ta thấy rõ người Quảng Đông có phân biệt những chữ mà tự vị quốc ngữ ta
vẫn phân biệt bằng d, và gi, hai bên tuy độc âm không giống
nhau, nhưng phân biệt thì bên nào cũng có phân biệt. Thì chữ Nôm lại cũng đã
phân biệt như thế trong lối viết của nó. Đại khái, trong chữ Nôm, không những
chữ Hán - Việt, cho đến những chữ thuần Nôm, hễ đáng phát âm bằng gi thì
đều dùng những chữ có âm i mà hài thanh cho nhau, trừ ra khi túng quá
thì mới dùng những chữ có âm khác, như:
giăng, giăng ra, viết 扛
giàn, giàn, gác, viết 籆
gián, con gián, viết 礠
giã, từ giã, viết 愇
giơ, giơ tay, viết 伽
Nói đến ch và tr. Trước xét những chữ Hán - Việt, về điểm
này ta thấy ta chỉ có thể phân biệt sau khi công nhận lối phát âm của mỗi chữ,
chứ không có thể tìm một luật chung nào để phân biệt cho một số chữ. Như do chữ
gốc 主 (chủ) sinh ra 注 và 註 ta đều đọc là chú, nhưng sinh ra 住 và 柱 ta lại đều đọc là trụ; do chữ 朱 (chu) sinh ra 珠 và 株, ta đều đọc
là chu, nhưng sinh ra 誅 , ta lại đọc là tru; do chữ gốc 至 (chí) sinh ra 致 ta lại đọc là trí; do chữ gốc 重 (trọng, có một âm nữa là trùng) sinh ra 種 ta lại đọc là chủng, sinh ra 鍾 ta lại đọc
là chung. Như vậy, lộn xộn lắm, không lấy đâu làm chuẩn đích.
Tra xem độc âm của người Quảng Đông thì cũng lại thấy lộn xộn nữa. Phần nhiều
chữ họ đọc ch, thì ta cũng đọc ch: như , họ đọc cheng, ta đọc chính; 主 họ đọc chứ, ta đọc chủ. Phần nhiều chữ họ
đọc chh thì ta đọc tr; như 長 họ đọc chhường, ta
đọc trường; 沈 họ đọc chhầm, ta đọc trầm. Nhưng
không hẳn như thế cả đâu, có những chữ trái lại: như 知, họ đọc chi ta
lại đọc trí; 祉 họ đọc chhé, ta lại đọc chỉ.
Trên đây, muốn tìm tòi xem thử có thể có một cái luật chung nào để phân biệt ch
và tr cho những chữ Hán - Việt không, thì kết quả như thế đó, chưa thấy được lấy
một tia ánh sáng. Nhưng chữ Nôm, trong những chữ thuần Nôm, thì vẫn phân biệt ch và tr theo
phát âm, là những âm có lẽ từ xưa đến nay chưa thay đổi. Như:
Tre, cây tre, viết 捾,
hài thanh với tri 知.
Che, che đậy, viết 曕,
hài thanh với chi 支.
Trê, cá trê, viết 吱, hài thanh với tri 知.
Chê, chê khen, viết 吱, hài thanh với chi 支.
Do những bằng chứng cử ra trên đây, tôi kết luận rằng người Việt Nam miền Bắc đời
xưa vốn có phân biệt d với gi, ch và tr, vì chính
họ đã đặt ra chữ Nôm mà chữ Nôm có phân biệt những âm ấy.
Nhân nghiên cứu chữ Nôm về phương diện phân biệt d và gi,
ch và tr mà về phương diện khác, tôi thấy được một điều đáng gọi
là lạ lắm, vì từ trước đến nay tôi chưa hề tưởng đến.
Chữ già, già cả, chữ Nôm viết là 緥. Sao lại
phải dùng cho kỳ được chữ 茶 (trà) để hài thanh? Sao không mượn
ngay chữ 伽 là chữ Hán mà tự nó phát âm đúng
là già như thói quen vẫn mượn?
Tôi chịu bí trước câu hỏi tọc mạch ấy hèn lâu. Sau, vì thấy ra có nhiều chữ như
thế, tôi bèn lập một cái giả thuyết:
Chính cái chữ viết là 緥, theo tiếng bây giờ đọc là già ấy,
thì có lẽ người đời xưa không đọc là già mà là trà chăng, chỉ có đọc
như thế thì mới viết như thế mà thôi.
Già, ở miền Quảng Trị, Huế, có nói là tra, như nói
"ông tra bà lão". Tra với trà chỉ khác
một cái dấu, người đời nay có nói già là tra, thì người đời
xưa có thể nói già là trà lắm.
Huống chi có nhiều chữ bằng gi và bằng tr cùng nghĩa với
nhau, như giời, trời; giăng, trăng, gió bụi, tro bụi;
nhà gianh, nhà tranh; giả nợ, trả nợ,
lúa giỗ, lúa trỗ; giải chiếu, trải chiếu; giầu cau, trầu cau; giồng trọt, trồng trọt; giở
giáo, trở tráo; giằn giọc, trằn trọc. Đời nay có thể nói những chữ bằng gi ấy
ra tr thì đời xưa há lại không có thể nói già ra trà hay
sao? Có thể lắm chứ.
Chẳng một chữ già thôi đâu, chữ Nôm còn viết chữ giận là 梼, dùng chữ 陳 (trận), hài thanh, hoặc chẳng cần thế,
mà lại mượn ngay chữ 陳 nữa. Quyết không phải vì không có chữ
gì khác hài thành buộc phải dùng chữ trận. Theo giả thuyết trên, ta
có thể đoán rằng người đời xưa nói giận là trận, cho nên
dùng trận hài thanh hoặc mượn ngay chữ trận tiện hơn.
Trong thành ngữ ta có nói "nổi trận lôi đình",
nghĩa là giận lắm, người đời nay quen dùng như thế. Cái thành ngữ ấy thấy bắt đầu
viết thành chữ trong truyện Lục Vân Tiên, câu "Vân Tiên nổi trận
lôi đình", bản Nôm in bằng chữ 陳, nên bản quốc ngữ nào cũng in theo
la trận và ai cũng đọc là trận. Tôi tưởng in theo và đọc như thế
là sai, vì như thế là chỉ căn cứ ở cái bất di bất dịch của hình chữ mà không
căn cứ ở cái di dịch của tiếng nói. Theo sự di dịch của tiếng nói thì người đời
xưa nói trận nên viết trận, còn ta nay đã nói giận thay
cho trận thì mặc dầu thấy bản Nôm in là 陳 (trận)
cũng cứ phải in quốc ngữ là giận và đọc là giận mới đúng. Vả
lại, cái thành ngữ ấy gốc bởi chữ Hán "lôi đình chi nộ" mà ra, lôi
đình là sấm sét; thế thì nó là cái giận như sấm sét chứ không phải cái trận của
sấm sét. Thêm nữa, người ta chỉ nói trận mưa trận gió, chứ không ai nói trận sấm
sét bao giờ.
Khi nào cái giả thuyết trên đây được coi là chân lý thì hai câu có chữ trận nghĩa
ấy trong Truyện Kiều: "Phong, lôi nổi trận bời bời...",
và "... Bất bình nổi trận đùng đùng sấm vang", đều phải chữa
lại là giận cả. Mà có phải, hai chữ trận trong câu ấy nếu đổi
là giận thì nghĩa nó đầy đủ, giản dị và không kềnh càng như để nguyên
chữ trận chăng?
Trong Truyện Kiều có câu "trà khan giọng tình", chữ giọng ấy,
bản nôm nào cũng in là 愳,
hài thanh với trọng. Nếu là giọng, sao không hài thanh bằng chữ khác
gần hơn, mà lại hài thanh với trọng? Chưa hết đâu, còn giàu viết 腂, hài thanh với triêu, giàu viết , hài thanh với trạo, giềng viết 欮, hài thanh với trình. Những chữ này, vì chưa tìm
thêm được chứng cứ nào khác nữa nên không dám võ đoán mà nói rằng đời xưa đọc
là giọng là trọng, giàu và tràu, giạu là trạu,
giềng là triêng; nhưng ít nữa cũng dám mạnh dạn mà nhận rằng gi và tr ở
thời xưa có họ rất gần gũi với nhau.
Trong chữ Nôm có chữ 俼 là một chữ đặc biệt hội ý chứ
không hài thanh như rất nhiều chữ khác. Cái chữ ấy, ngay nay ở Trung Nam đọc là
trời mà ở Bắc có đọc là giời, nhưng quyết hẳn ngày xưa không đọc như thế
đâu, mà đọc là lời. Cái chứng chắc chắn là: các sách bên đạo từ xưa
truyền lại, đều chép là "Đức Chúa Lời", cả mà "Đức Chúa Lời"
ấy tức là Đức Chúa Trời hay Giời ngày nay. (Theo sách bên đạo rất xưa, chữ lời ấy
còn viết là blời nữa, nhưng đây chưa nói đến).
Một cái chứng cứ chắc chắn nữa là: Chữ lời, lời nói, chữ Nôm viết
là 坘. Tại sao viết như vậy? Ta có thể
đoán rằng vì lời đối với đất là lời nói hai chữ
cùng một âm, cho nên khi dùng khẩu bàng làm dấu cho chữ lời thứ hai
là đủ. Có người bảo rằng không hẳn như thế, vì chữ lời là lời nói
ấy người Bắc vẫn nói là nhời. nhưng đó không phải là cái lý cứng đủ
viện lấy, nó có thể do âm lời biến chuyển ra, cho nên trong chữ Nôm
chỉ có chữ lời (埅)
mà không có chữ nhời, cũng như âm nhớn do âm lớn biến
chuyển, âm nhạt do âm lạt biến chuyển, cho nên trong chữ
Nôm chỉ có chữ hài thanh… với lẫn (吝), chữ 辣, mượn
chính chữ lạt chứ không có chữ nhớn chữ nhạt.
Đưa ra chỉ một chữ trời, nói đờ xưa đọc là lời, dù chứng cứ
dồi dào đến đâu cũng còn e là mồ côi không đủ tin. Tôi phải đưa ra thêm nhiều
chữ khác nữa.
Giống như viết trời là lời, trong sách đạo xưa còn viết trả nợ
là lả nợ, con trai là con lai, mặt trăng là
mặt lăng; trái đất là lái đất, tro bụi là lo bụi; trở lại
đạo đọc là lở lại đạo; lời trối của kẻ chết, lời lối của
kẻ chết. Bảy chữ ấy miền Bắc có chuyển sang gi hết sáu chữ, giả nợ,
con giai, mặt giăng, gio bụi, giở lại, lời giối, cũng
như lời chuyển sang giời; chỉ có chữ lái miền Bắc
không dùng thì không có chuyển. Bây giờ xét đến chữ Nôm, viết bảy chữ ấy thế
nào: trả viết 呂, mượn chữ lã; trai viết 瑸hài thanh bằng lai, trăng viết 斏, hài thanh bằng lăng; trái viết , hài thanh bằng lai, tro viết 炉 爐 mượn chữ lô; trở viết 呂; vẫn mượn chữ lã; trối viết 虝, hài thanh bằng lỗi. Có thể hài thanh bằng cách khác mà
không dùng, có thể mượn ba chữ Hán sẵn trai, trái trở, (齋 債 阻), mà
không mượn, cố viết cách nào cho tỏ ra được là phụ âm l mới nghe, thế
còn gì nữa mà chẳng tin đời xưa đọc những chữ theo l, và còn gì nữa
mà chẳng tin chữ Nôm là viết đúng tiếng nói của người Việt Nam thời cổ?
Đây nói đến sự tương quan của hai âm b và v. Chúng ta đã biết
rằng có những chữ phát âm bằng b và bằng v cùng nghĩa với
nhau, như bua quan, vua quan; phân bua, phân vua;
be rượu, ve rượu; cái vú, cái bú; bui thay, vui thay;
gắn bó, gắn vó; sóng bỗ, sóng vỗ; chết bằm, chết vằm; ăn bận, ăn vận;bên trời, ven trời... Những
chữ ấy hiện ngày nay nơi thì phát âm theo b, nơi thì theo v; tựu
trung cũng có chữ bua, be, bui, bụ, hầu như không ai dùng đến mà chỉ
dùng vua, ve, vui, vú, âm v muốn có cái cơ chế thay thế cho
âm b. Nhưng xét theo chữ Nôm thì chẳng những những chữ ấy thôi mà còn
có nhiều chữ khác ngày nay phát âm bằng v, đời xưa cũng phát âm bằng b nữa
vậy.
Như chữ vợ, viết 堓,
hài thanh với bi (備); chữ vóc, viết 伣, hài thanh với bốc (卜); chữ vâng, viết 埄, hài thanh với bang (邦 ); chữ voi, viết 瞤, hài thanh với bôi (為); chữ vói, viết 囘, hài thanh với bối (貝); chữ vó, viết 暚, hài thanh với bố (布). Bấy nhiêu
chữ không hài thanh với v mà với b, có thể tin rằng những
chữ ấy đời xưa đều phát âm bằng b cả.
"Tú bà với Mã Giám Sinh", chữ với ấy, ngày nay có nơi còn đọc
là vuối. Nhưng theo chữ Nôm thì có thể đời xưa còn đọc là buối nữa
kia, vì viết là 貝, mượn ngay chữ bối.
Những chữ đời nay đọc là v và âm b cũng còn thoi thóp như
chữ vua, chữ vui, thì đời xưa chắc hẳn chỉ đọc là b, vì
chữ Nôm viết vua là 噖, hài thanh với bố (布); viết
vui là 戞, hài thanh với bôi (盃).
Bấy nhiêu điều tìm thấy như trên đây mà lúc mới đầu tôi cho là lạ lắm, đến bây
giờ không thấy có gì là lạ cả, nó chỉ là sự biến chuyển của tiếng nói trải qua
các thời đại.
Kết luận bài này, tôi muốn đưa ra một câu chuyện về ngữ âm học ở Trung Hoa.
Bên Trung Hoa, có nhiều kinh sách từ hơn hai ngàn năm xưa để lại. Đời Hán, đời
Đường đã có nhiều nhà nho chú thích các kinh sách ấy. Nhưng đến đời Tống, cái
phong trào lý học thịnh hành, Chu Hy cùng một vài đồ đệ chia nhau chú thích lại
tất cả theo quan điểm của lý học. Cố nhiên là bọn họ đã đánh đổ một số nhiều cựu
thuyết của các nho Hán, Đường. Từ đó các triều vua Trung Hoa cả đến nước ta nữa,
đều đem ban bố các sách chú thích của Tống nho, bắt thiên hạ đọc theo, tức tục
ta quen gọi là "sách Chu chú". Chính ở Trung Hoa lúc bấy giờ có những
nhà nho lấy điều ấy làm bất bình, nhưng phải đành chịu dưới một sức mạnh, không
làm gì được.
Đến cuối đời Minh đầu Thanh, có một vị đại nho là Cố Viêm Vũ dấy lên. Ông này
tinh thông khoa ngữ âm học là khoa người Tàu tự sáng tạo chứ không có dính dấp
gì với phonétique của phương Tây. Ông có làm ra năm bộ sách về ngữ âm học, gọi
chung là "Âm học ngũ thư", tôi chỉ thấy nói thế thôi, chưa được biết
mặt một cuốn nào. Lại thấy nói trong các sách ấy ông sáng tạo thêm một ngành gọi
là "Cổ âm học", chuyện lấy những câu những chữ của sách xưa làm chứng
cho nhau để tìm xem mỗi đời xưa đọc như thế nào. Cái âm đã biết đúng được, thì
cái nghĩa cũng nhờ đó mà biết được đúng. Do đó, họ Cố đã đính chính lại nhiều lời
chú thích của Tống nho về sách xưa, mà cho đến ngày nay các học giả đàn anh đều
công nhận là xác đáng.
Sau họ Cố, ba trăm năm nay, có nhiều người theo phương pháp của ông chú thích lại
các kinh sách, chữa cái lầm của Tống nho. Bọn họ đã thành ra một phái gọi là
"Phái khảo cứ". Sách của họ in ra, tuy không đánh bạt nổi các sách
Chu chú nhưng cũng cởi mở được tư tưởng người ta, nhờ vậy mà Trung Hoa hơn nửa
thế kỷ nay tiếp thu tư tưởng mới một cách dễ dàng. Gần nay, những sách xưa khó
hiểu như Mặc Tứ, Hoài Nam Tứ, đều có người chú giải rõ ràng, khiến
người đọc hiểu được. Trước những hiệu quả ấy, "uống nước nhớ nguồn",
học giới Trung Hoa quy công cho Cố Viêm Vũ.
Có người sẽ hỏi: Sự tìm tòi theo chữ Nôm, nói trong bài này, nhắm chừng có thu
được lợi ích gì? Và còn câu chuyện vừa kể đây muốn nói chi?
Tôi vẫn biết một vài nhận xét của tôi đây chỉ là nông nổi, lẻ loi, vụn vặt, một
mình nó, tất nhiên không có ích lợi gì. Nhưng đó cũng là một lối tìm cho biết
đúng cổ âm. Tôi kể đến câu chuyện cổ âm học Trung Hoa, mong người khác thấy sự
ích lợi lớn của nó mà dựng ra nhiều lối khác nữa để nước Việt Nam cũng sẽ có một
ngành cổ âm học của mình thì sẽ có ích lợi cho ngôn ngữ văn tự, cho học giới
tương lai nhiều lắm.
Ta không có kinh sách gì đời xưa để lại, khỏi nói sự chú thích theo quan điểm
nào, đúng hay không đúng, cải chính hay không cải chính. Nhưng có một quyển Truyện
Kiều không xưa mấy, chưa đầy trăm rưỡi năm nay mà trong đó, bây giờ đã có
những lời không hiểu được rồi. Khi nước ta có cổ âm học phát đạt, thì những cái
từ ngữ như "bóng tàu", "chóc mòng", "vân mòng",
"đồng vọng", "cánh suyền", "bạc đen", "mồi
thủy tinh" v.v... không còn giải thích phấp phỏng mù mờ như các bản in
ngày nay mà sẽ được cắt nghĩa đâu ra đó, cấp cho mọi người một sự thỏa mãn.
1948
Viết thêm về sau
Về tr và l.
Hầu hết những chữ bây giờ ta đọc là tr, thì đời xưa đều đọc là l cả.
Trong bài đã kể ra một số rồi, đây tôi lại lấy bằng chanứg ở chữ Nôm mà cử thêm
một số nữa.
Trong, trong ngoài, xưa đọc là long, chữ Nôm viết 瑇, hài thanh với long.
Trải, từng trải, xưa đọc là lải, chữ Nôm viết 惐, hài thanh với lai.
Trông, trông nom, xưa đọc là lông, chữ Nôm viết 鐭, hài thanh với long.
Trước, trước sau, xưa đọc là lước, chữ Nôm viết 苉, hài thanh với lược.
Trọn, trọn vẹn, xưa đọc là lọn, chữ Nôm viết 論 , mượn chữ luân.
Trăm, trăm ngàn, xưa đọc là lăm, chữ Nôm viết 炧, hài thanh với lâm.
Trôi, nước trôi, xưa đọc là lôi, chữ Nôm viết 粇, hài thanh với lôi.
Trống, chông trống, xưa đọc là lống, chữ Nôm viết 逨, hài thanh với lộng.
Trao, trao đổi, xưa đọc là lao, chữ Nôm viết 墹, hài thanh với lao.
Tròn, vuông tròn, xưa đọc là lòn, chữ Nôm viết 覻, hài thanh với lôn.
Một số lớn những chữ đọc theo l đã biến thành tr, nhưng có
một số nhỏ vẫn chưa biến ở một vài nơi.
Trốn tránh, cũng có nơi nói trốn lánh. Ở Trung Nam bộ
nói tròng trắng tròng đỏ trứng gà, ở Bắc bộ còn nói lòng trắng lòng đỏ
trứng gà. Ở Nghệ An, có nơi nói trồng cây là lồng cây.
(1951)
Mấy chữ Nôm lạ mắt
Ta biết cái thói quen viết chữ Nôm đời xưa có theo bốn lối: một là cái gì vốn
là chữ Hán thì viết ngay chữ Hán, như tài, mạng thì viết 命, hai chữ nào âm gần một chữ Hán thì mượn chữ Hán ấy, như mượn
沛 (phải) làm phải, mượn 羅 (la) làm là; ba là đặt chữ theo phép hội ý như chữ
俼 (trời); bốn là đặt chữ theo phép chỉ nghĩa hài thanh,
một bên chỉ nghĩa, một bên hài thanh như nhiều chữ có trong bài này.
Nhưng có một số ít chữ, không hiểu tại sao mà viết như vậy, ta phải lấy làm lạ
mắt, nghĩa là nó không đúng với một lối nào trong bốn lối nói trên đó.
Như chữ "vậy" mà viết là 丕, chữ này là chữ Hán, đọc phi. Thế
là mượn chữ phi làm chữ vậy hay sao? Hai âm cách nhau xa quá, làm sao
mượn được?
Trong bạch thoại, tiếng phương Bắc Trung Hoa ngày nay, có một chữ viết là 呸, đọc là phẩy, một thán từ, thường có dấu than theo
sau. Tôi ngờ rằng đời xưa ta đọc chữ 丕 (phi) của chữ Hán là phậy, và
tiếng "vậy" trong Nôm thì nói là phậy mà không là vậy, cho
nên mới mượn phây làm phậy. Đó là một câu nói ước chừng,
không có chứng cứ, nhưng cũng đưa ra để gợi nó thành vấn đề.
Trong Truyện Kiều in chữ Nôm, bao nhiêu chữ "rằng" đều viết
là 浪, chữ này là chữ Hán, đọc là lãng. Tại sao lãng mà
lại mượn là rằng được? Tôi ngờ đời xưa, một là chữ "lãng"
không đọc là lãng mà đọc khác, một là tiếng "rằng" không nói là “rằng”
mà nói "lằng", cho nên mới dùng chữ 良 (lang) hài
thanh. Vả lại có lẽ không phải viết 浪, có theo bộ khẩu như thế thì mới chỉ
nghĩ rằng hay lằng tức là nói được chứ. Đây tôi cũng lại
nói ước chừng nữa.
Một chữ nữa là chữ "thầy" mà Nôm viết là 柴, chữ này
là chữ Hán, đọc sài.
Tôi ngờ cho, một là tiếng "thầy" đời xưa không nói thầy mà
nói sầy, một là chữ 柴 đời xưa không đọc sài mà đọc thài. Hai
lẽ ấy phải có một lẽ thì mới viết Nôm chữ "thầy" bằng chữ 柴 được.
Đây thì tôi mong rằng tôi nói có lý, chứ không nói ước chừng như trên kia.
Hai phụ âm s và th trong chữ Hán - Việt và cả tiếng Nôm nữa
thường thông dụng với nhau hay là thay thế cho nhau. Như
蔡 (thái) họ Thái, cúng nói họ Sái;
倉 卒 (thảng thốt),
cũng nói sảng sốt;
紗 (sa) thành ra Nôm là the;
疏 đọc là thơ, cũng đọc là sơ;
所 (sở) thành ra Nôm là thửa hay sửa.
Những chữ như thế còn nhiều hơn nữa, không kể hết.
Trong tiếng Nôm cũng vậy:
Sở thịt cũng nói thớ thịt;
Sưa sớt cũng nói thưa thớt.
Thợ mộc, thợ may, ở Hà Tĩnh có nơi nói sợ mộc, sợ may;
cái thúng, ở Bắc bộ có nơi nói cái súng.
Vả lại, ta nói "thầy", chữ Hán là 師 (sư), sư với sầy cùng
một phụ âm với nhau, vậy tôi nói quyết đời xưa nói thầy là sầy cho
nên mượn chữ "sài" làm ra Nôm là sầy, mà bây giờ cái âm ấy
đổi đi thành ra thầy.
Chữ này lại càng lạ lắm. Gương là cái gương soi mà lại viết ra Nôm là 爯, là nghĩa gì? Chữ 姜 (khương) bàng là hài thanh, còn chữ
(ty hay tư) đứng bên kia để làm công việc chi? Không khi nào có một chữ Nôm viết
vô lý như thế.
Chữ 爯 ấy tôi ngờ là chữ 同 (đồng) mà từ lâu viết mất một nét rồi cứ thế viết quen đi. Đáng
lẽ phải viết chữ… một bên để tỏ ra cái gương soi làm bằng đồng, nhưng viết như
thế thì cái chữ có đến ba bộ phận, rộn quá, cho nên chỉ viết... mà thôi, thành
ra… Về sau mất cái sổ thành ra 爯, người ta cũng cứ hiểu đó là gương.
Điều này cũng lại có lẽ nhớ đó tìm được một dấu vết lịch sử. Do chữ gương ấy,
chúng ta đoán về triều Trần lúc đã có chữ Nôm, xứ ta còn dùng gương bằng đồng.
Còn một chữ nữa, trước kia tôi cũng lấy làm lạ, mà bây giờ không lạ nữa, là chữ
"nào" mà Nôm viết 儍.
Chữ "nào" mà viết như thế, thật chẳng hiểu ra làm sao hết. Chẳng hợp
với một lối nào trong bốn lối.
Ông Trần Văn Giáp bảo tôi, đó là mượn chữ 鬧 (náo) làm chữ "nào". Chữ
"náo" viết chữ "môn" ở ngoài, chữ "thị" ở trong,
tức gọi là "Thị tại môn tiền náo". Nhưng người ta lại theo kiểu
"tháu đấm", và bỏ bớt một cái chấm, thành ra 儍 (chữ "náo" không phải
"môn" ngoại đâu, ta viết lầm).
Tháu đấm là một lối giản bút, viết gọn đi, như chữ 回 viết 已, chữ 聞 viết 耳.
Tháu đấm chữ 鬧
đáng lẽ phải viết 市 , nhưng người ta đã mỹ thuật hóa, làm
cho nó dễ coi, thành ra 儍.
Có một câu thơ xưa chế người chỉ biết chữ Nôm không biết chữ Hán.
Tam quốc Tào Phi kêu Tào vậy,
Cửu giang Vương Bố gọi Vương nào.
Vì chữ Nôm lấy chữ "phi" làm chữ "vậy" như đã nói ở trên,
và chữ "nào" Nôm hơi giống chữ 佈 (bố).
Viết ngày 19-2-1953
Chú thích:
[1] Trong sách nói "Dụng quốc âm phú thi", có người hiểu lầm nói người đời Trần đã dùng tiếng nôm làm thơ và phú. Thực ra chữ "Phú thi" ấy chỉ là làm thơ. Nay còn truyền chỉ có thơ Nôm đời Trần mà thôi, còn phú Nôm đến đời Lê mới có.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét