Hồ Thế Hà và hành trình khám phá bản thể
thơ ca, giải mã chân dung thi sĩ
(Đọc Thơ Việt Nam hiện đại - Thi
luận và Hồ Thế Hà được biết đến như một tác giả
đa-di-năng/ đa dạng, và ở bất kì vai trò nào ông cũng tạo cho mình một dấu ấn
riêng: một nhà giáo tâm huyết, nhiều cống hiến; một nhà thơ tài hoa, giàu sáng
tạo; một nhà khoa học uy tín, nhiều thành tựu. Bằng tinh thần làm việc say mê,
nghiêm túc; thái độ cầu thị, trách nhiệm; tâm thế khai phóng, sáng tạo; ngay từ
những trang viết đầu tiên, ông đã buộc người khác phải ứng xử với mình như một
cái tôi văn hóa, một nhân cách khoa học bản lĩnh, một nghệ sĩ nhiệt tâm. Có thể
nói, một trong những mảnh ghép quan trọng nhất kết nối cái đa dạng trong chỉnh
thể thống nhất, làm nên “căn cước”, “bản mệnh” Hồ Thế Hà, đó là thơ ca. Bên
cạnh sáng tác (1), ông được biết đến như một chuyên gia về thơ với nhiều năm
giảng dạy và nghiên cứu thơ ca. Tính từ đầu những năm 90 của thế kỷ XX, khi tập
tiểu luận - phê bình đầu tiên được trình làng (Sức bền của thơ, 1993) đến nay,
ông đã in riêng 9 tập chuyên luận, tiểu luận - phê bình văn học (2), in chung
và chủ biên hơn 20 tập chuyên luận, tiểu luận - phê bình văn học. Trong đó, có
không ít những công trình được các nhà văn, nhà nghiên cứu, phê bình, đông đảo
công chúng độc giả đánh giá cao, và được vinh danh tại các giải thưởng về văn
học nghệ thuật ở Trung ương và địa phương.Điều dễ dàng nhận thấy trong gần 30 năm
cầm bút của Hồ Thế Hà là sự chuyên nghiệp và tính hệ thống trong chuỗi các công
trình đã và sẽ công bố. Với ba chiều cạnh trung tâm được xác lập xoay quanh
những vấn đề về thơ ca là ý hướng tính khoa học và trực giác nghệ thuật; lý
thuyết và phương pháp tiếp cận; diễn ngôn nghiên cứu, phê bình, ông đã tạo nên
phong cách, bản sắc không lẫn với bất kỳ nhà nghiên cứu, phê bình trước và cùng
thời với ông. Muốn hiểu Hồ Thế Hà, không còn cách nào khác, người ta cần phải
tôn trọng và đọc vào hệ thống của ông (mặc dù ông quan niệm đó là một hệ thống
động và mở). Và một lần nữa, tính đa dạng và nhất quán từ quan niệm đến thực
hành nghiên cứu, phê bình được thi triển sinh động, sắc nét trong chuyên luận
mới nhất: Thơ Việt Nam hiện đại - thi luận và chân dung (Nxb. Hội Nhà
văn, 2018). Như một cách đọc âm bản công trình này, chúng tôi khước
từ cách đọc tuyến tính, riêng rẽ, để lặn sâu vào cấu trúc bên trong, nhận
diện ý hướng tính chủ đạo, hệ thống phương pháp xuyên
suốt, lối trình bày nhất quán, và cái mục đích cốt tủy mà
cuốn sách hướng đến.1. Sự hài hòa, thuần thục ý hướng tính
khoa học và trực giác nghệ thuậtVới một nhà nghiên cứu chuyên nghiệp,
việc xác định ý hướng tính khoa học là điều tối quan trọng. Bởi lẽ dù anh ta có
lựa chọn đối tượng đa dạng như thế nào, phương pháp tiếp cận phong phú đến đâu,
hay lối diễn giải biến ảo ra sao, thì ý hướng khoa học cần phải được tỏ lộ và
biểu hiện nhất quán, xuyên suốt. Có như vậy, những bài viết của anh ta, dù dưới
dạng bình/điểm, tiểu luận - phê bình, hay chuyên luận mới có cơ may tạo thành
một chỉnh thể thống nhất, góp phần giải quyết những vấn đề một cách toàn diện,
nhiều chiều. Không chỉ có ý hướng tính khoa học, trực giác của người nghiên
cứu, đặc biệt trong lĩnh vực văn học nghệ thuật cũng cần thiết không kém. Đó là
giây phút đắm chìm trong suy tư, trượt ra ngoài tư duy logic, thu trọn trong
“giác quan thứ sáu”, giúp họ có thể đón bắt những khoảnh khắc bất chợt, dù chưa
thành hình, song có thể là khởi đầu cho một ý tưởng khoa học độc đáo.Theo dõi các công trình của Hồ Thế Hà từ
những năm đầu thập niên 90, người đọc có thể dễ dàng nhận ra sự hài hòa giữa ý
hướng tính khoa học sâu sắc và trực giác nghệ thuật nhạy bén. Đó thực sự là một
hành trình dài lâu với nhiều thức nhận, trầm tư, khai phóng nhằm tiệm cận, luận
giải các vấn đề thơ từ hiện tượng, chân dung, phong trào, đến lý thuyết, bản
chất, tiến trình thơ. Từ chung đến riêng, từ khái quát đến cụ thể (và ngược
lại), các công trình của Hồ Thế Hà đã mở ra những góc nhìn mới, đồng thời là
những kiến giải, phát hiện mới về thực thể thơ, một trong những lĩnh vực phong
phú, phức tạp bậc nhất của đời sống văn học Việt Nam.Thơ Việt Nam hiện đại - Thi luận và Chân
dung, theo tôi, là một bước ngoặt đáng kể trong chặng đường nghiên cứu của Hồ
Thế Hà. Bởi lẽ trong công trình này, ông dành phân nửa để luận về thơ, bao
quát, hệ thống tiến trình gần 90 năm vận động, đổi mới, phát triển của thơ Việt
Nam hiện đại kể từ thời điểm phong trào Thơ mới xuất hiện (1932). Một chặng
đường dài, phức tạp, nhiều khúc quanh, không dễ để nhận diện, khái quát nếu
người viết không đủ tài năng, bản lĩnh, và cả sự mạo hiểm, dấn thân. Lựa chọn
thời điểm này để công bố (mặc dù một số bài viết đã được giới thiệu trong nhiều
năm trước đó) cho thấy sự thận trọng cần thiết của Hồ Thế Hà. Sau hơn ba mươi
năm giảng dạy, sáng tác, nghiên cứu, sống trải trong từng thời khắc trọng đại
của đất nước; với tài năng, đam mê, kinh nghiệm, cùng độ lùi thời gian cần
thiết để nhìn lại, đủ để ông tiếp cận, làm chủ, diễn giải vấn đề một cách thấu
đáo, đáng tin cậy. Dĩ nhiên, đây không đơn thuần là sự đột khởi mà tất cả đã
nằm trong “dự đồ văn chương” của Hồ Thế Hà từ những bài viết đầu tiên, có thể
xa hơn, như một bản mệnh được xác quyết ngay từ khi ông sinh ra trên mảnh đất
Bình Định, nơi tụ hội những vì sao sáng của thơ ca Việt hiện đại.Thơ Việt Nam hiện đại - Thi luận và Chân
dung chính là sự tiếp nối những trầm tư, suy tưởng của ông về bản thể thơ
ca sau nhiều chuyên luận, tiểu luận - phê bình văn học đã được công bố. Trước
và cùng thời với ông đã xuất hiện không ít nhà nghiên cứu, phê bình tài danh
đạt được những dấu ấn quan trọng trong nghiên cứu thơ ca trên nhiều bình diện.
Hồ Thế Hà tự nhận mình là “người đến sau” với tâm thế tôn trọng, kế thừa, và cả
sự cố gắng, đối thoại đa chiều. Với tài năng và bản lĩnh, ông tìm kiếm cho mình
một nẻo đường riêng, dù ông biết đó là công việc vô cùng khó khăn, đòi hỏi mất
nhiều thời gian và công sức, thậm chí có phần rủi ro. Hai mươi tám tiểu luận
chia đều trong hai phần Thi luận và Chân dung, là minh chứng
sinh động nhất khẳng định ý hướng tính khoa học của ông.Khởi đầu cuộc hành trình, Hồ Thế Hà đã
đặt ra câu hỏi mang tính bản thể luận: “Thơ là gì?” Với câu hỏi tưởng dễ mà khó
này, ông đã đi từ đặc trưng loại thể/thể loại trong sự đối sánh với các loại
hình nghệ thuật/các thể loại khác, kết nối lịch sử quan niệm về thơ từ Cổ chí
Kim, từ Đông sang Tây, để có cái nhìn thấu đáo, nhiều chiều về những cạnh khía
khác nhau trong quan niệm về thơ. Trên tinh thần kế thừa và đối thoại, ông xác
lập cho mình một quan niệm nhất quán về thơ: “Thơ là một thông điệp thẩm mỹ
nhân văn đặc biệt được tổ chức và tư duy bởi hệ thi pháp của một ngôn ngữ cụ
thể để tạo nên chỉnh thể nghệ thuật độc đáo nhằm đem lại cho người đọc những
rung cảm thẩm mỹ bất ngờ” [tr.18] (3). Kể từ đây, lý thuyết về thơ của ông
được diễn giải trong một hệ thống chặt chẽ, khoa học từ hình tượng cái tôi
trong thơ trữ tình, chất liệu sáng tạo - ngôn ngữ, cái hàm ẩn, súc tích và
những khoảng lặng trong ngôn từ, tính triết lý và giá trị nhân văn trong thơ,
vai trò đồng sáng tạo của người đọc… Hệ thống này không chỉ dừng lại trong phạm
vi lý thuyết thuần túy mà được chính ông thực hành trong tư cách chủ thể sáng
tạo (nhà thơ) và chủ thể tiếp nhận (nhà nghiên cứu, phê bình). Hồ Thế Hà đã
vượt thoát cái nhìn tản mạn, chi tiết, để trình hiện những trầm tư khái quát,
tổng thể về các vấn đề của thơ ca Việt Nam hiện đại.Về tiến trình thơ, ông không chỉ tìm
hiểu theo tiến trình thời gian mà bao quát cả những không gian văn học khác
nhau. Trong từng không gian đa dạng ấy, ông phát hiện, lý giải tấm mạng lịch
sử, xã hội, thiết chế văn hóa, khung tri thức thời đại đan dệt nên ngôi nhà hữu
thể - ngôn ngữ cùng hệ giá trị văn hóa, tinh thần, hệ tư tưởng triết - mỹ phổ
quát, hệ thi pháp độc đáo, riêng khác. Thơ Việt Nam hiện đại được ông bao quát
trong nhiều chặng đường; trên hành trình ấy, ông phác họa chân dung, phong cách
của những nhà thơ có nhiều thể nghiệm và cách tân, với nhiều hệ hình khác nhau.Để nhận diện tiến trình thơ Việt, nếu Đỗ
Lai Thúy xác lập và dựa vào lý thuyết hệ hình (4), Nguyễn Đăng Điệp quan tâm
đến những dấu hiệu chuyển đổi hệ hình tư duy (5), thì Hồ Thế Hà lại khám phá hệ
giá trị văn hóa, tinh thần, hệ tư tưởng triết - mỹ, hệ thi pháp đặc trưng làm
cơ sở cho lối nhìn về lịch sử thơ Việt Nam hiện đại. Cách làm này vừa khước từ
phương pháp tiếp cận và lối viết lịch sử văn học truyền thống đi từ bối cảnh
lịch sử, xã hội, lực lượng sáng tác, các tác giả, tác phẩm tiêu biểu, vừa tạo
điểm nhấn khác biệt so với lý thuyết hệ hình và chuyển đổi hệ hình của Đỗ Lai
Thúy và Nguyễn Đăng Điệp. Không những vậy, nếu nhìn xuyên suốt trong hệ thống
công trình của Hồ Thế Hà, đây là tư duy nhất quán. Một mặt, ông vẫn khởi đi từ
không gian văn hóa, xã hội, lịch sử, thời đại, điểm xuyết những gương mặt tiêu
biểu cho mỗi giai đoạn, nhưng mặt khác, quan trọng hơn, ông dựa vào hệ tiêu chí
về văn hóa, tư tưởng, thi pháp để dựng khung tiến trình văn học, phác thảo
phong trào, hiện tượng thơ, chân dung thơ. Với cách làm này, ông đã tạo tác bức
tranh thơ ca trong mỗi giai đoạn, từng phong trào bằng những nét chính từ cảm
quan về hiện thực và con người, hệ đề tài, chủ đề, cảm hứng chủ đạo, khuynh
hướng, thể loại, hệ hình thơ, đến không gian, thời gian, ngôn từ nghệ thuật...
Có thể nói, Hồ Thế Hà đã có một lối nhìn khác, và quan trọng hơn, một lối
viết khác về tiến trình thơ Việt Nam hiện đại.Ông kiến giải những bước chuyển của thơ
ca Việt Nam hiện đại như là kết quả của sự kế thừa, cách tân, chuyển dịch hệ
giá trị, hệ tư tưởng và hệ thi pháp từ giai đoạn này sang giai đoạn khác. Điều
này giúp ông có những luận điểm xác đáng, khách quan trong việc khẳng định vị
thế của các phong trào, hiện tượng thơ trong tiến trình thơ ca Việt Nam hiện
đại, đồng thời đưa ra những phân tích thuyết phục, thấu đáo nhằm trả lời cho
câu hỏi tại sao chưa có phong trào thơ Hậu hiện đại ở Việt Nam. Một mặt, ông
ghi nhận sự tồn tại của xu hướng sáng tác theo lối thơ Tân hình thức và thơ Hậu
hiện đại trong đời sống văn học Việt Nam đương đại; mặt khác, ông khẳng định,
đó chỉ là những hiện tượng riêng lẻ, chưa tạo được phong trào với hệ thi pháp
vững chắc, vừa ổn định vừa vận động như Thơ mới (1932-1945) hay thơ ca Cách
mạng (1945-1975). Bởi lẽ, những hiện tượng này về mặt sáng tạo, chưa tạo nên hệ
giá trị văn hóa, tinh thần, hệ tư tưởng triết - mỹ để hóa thân trong hệ thi
pháp thống nhất trong sự đa dạng: thi pháp tác giả, thi pháp phong trào, thi
pháp thời đại; về mặt tiếp nhận, các tác phẩm chưa dành được sự đón nhận nồng
nhiệt của độc giả. Từ đây, ông đề xuất những chuẩn mực của thơ và nhà thơ cần
đạt để có thể định vị trên bản đồ thi ca Việt. Rõ ràng, Hồ Thế Hà đã trình hiện
một cái nhìn điềm tĩnh, giàu suy tư về các vấn đề của thơ ca Việt Nam hiện đại.
Một ngòi bút già dặn, từng trải, hòa trộn trong một tinh thần đối thoại, tranh
luận thiện chí, khách quan, cho thấy sự nghiêm túc, trách nhiệm của một nhà
nghiên cứu thực thụ và sự xông xáo, quyết liệt của một nhà phê bình tài hoa, có
cá tính.Hệ thống lý thuyết về thơ được xác lập
ngay từ đầu chính là tiêu chí để ông lựa chọn những chân dung thơ Việt Nam hiện
đại trong Phần thứ hai: Chân dung. Mười bốn chân dung không phải là sự lựa
chọn ngẫu nhiên, tùy hứng, mà tất cả phải thích ứng với hệ thống nhất quán,
xuyên suốt về thơ ca. Có thể chưa hoàn toàn bao quát đầy đủ, song các nhà thơ
được lựa chọn là những gương mặt tiêu biểu cho hệ giá trị văn hóa, tinh thần,
hệ tư tưởng triết - mỹ, hệ thi pháp trong không gian văn hóa, lịch sử của thời
đại, trong một phong trào, khuynh hướng, hiện tượng mà họ thuộc về. Lẽ cố
nhiên, những tài năng thơ họ vừa “con đẻ” của thời đại họ vừa vượt thoát vươn
đến thời đại khác, đó còn chưa kể không ít tác giả đường thơ vắt ngang qua
nhiều giai đoạn, nhiều thời kỳ, nhiều phong cách.Nhờ ý hướng khoa học nhất quán và trực
giác nghệ thuật nhạy bén, Hồ Thế Hà đã kiến giải thi pháp, phong cách
độc sáng của Hàn Mặc Tử qua tư duy nghệ thuật thơ hiện đại và tư duy tôn
giáo; nhận ra người lạ mặt Chế Lan Viên giữa thế giới điêu tàn với
kiểu tư duy triết lý, suy tưởng về “niềm kinh dị”; thức nhận sự đa
dạng, biến ảo trong tính hệ thống, chỉnh thể với cảm hứng triết mỹ - nghệ thuật
lục bát Huy Cận; đồng cảm với bản mệnh đời - bản mệnh thơ gắn với
tinh thần, tư tưởng, triết mỹ, tôn giáo của Bùi Giáng; ngỡ ngàng với
Hữu Thỉnh trong khả năng nắm bắt và cảm nhận đời sống ở dạng uyên nguyên, minh
triết; chia sẻ thiên tính nữ bao la, uyên nguyên và nhân văn trong
thi giới Xuân Quỳnh; thấu hiểu cảm thức hiện sinh trong cái tôi cô
đơn và lưu vong của Hoàng Vũ Thuật; đồng hành cùng Lâm Thị Mỹ Dạ
trong hành trình thơ đầy khắc khoải từ thời chiến sang hậu chiến; giải
mã những mẫu gốc trong vô thức và hữu thức sáng tạo của Nguyễn Quang
Thiều; thích thú với khả năng tạo sinh nghĩa biến ảo, kỳ thú trong
thơ Mai Văn Phấn; góp nhặt những mảnh vỡ tiềm thức, gọi về những suy
tư lớn về đất nước, nhân dân, con người trong thơ Nguyễn Hoa; trăn
trở cùng Trịnh Công Lộc trong những vần thơ giàu suy tư, đậm triết lý về
nhân dân, đất nước, con người và môi trường sinh thái; và đồng
cảm cùng Lê Khánh Mai về duyên mệnh thơ ca và sứ mệnh thi sĩ trong cái
nhìn khắc khoải, đắm say về cuộc đời và con người.Ở bất kỳ trang viết nào, người đọc cũng
nhận ra những nhận định có chủ kiến cùng một cái nhìn phức hợp, đa chiều của Hồ
Thế Hà. Những nhận định ấy rõ ràng một phần nào đó đã được thử thách và kiểm
nghiệm từ chính kinh nghiệm sống, kinh nghiệm thẩm mỹ, hành trình sáng tạo và
thành tựu nghiên cứu trải dài trong suốt hơn 30 năm của Hồ Thế Hà. Với những gì
đã làm được trong chuyên luận mới này, ông đã có đóng góp không nhỏ vào
việc tạo dựng lý thuyết thơ, xác lập tiến trình
thơ, định vị phong trào thơ, giải mã hiện tượng thơ
và khám phá chân dung thơ.2. Sự đa dạng, hiện đại của lý thuyết và
phương pháp tiếp cậnHồ Thế Hà từ khi bén duyên với thơ ca
trên hai tư cách chủ yếu: chủ thể sáng tạo và chủ thể tiếp nhận đã không ngừng
trầm tư về các vấn đề thuộc bản thể thi ca, bản mệnh thi sĩ và bản sắc con chữ.
Ông đã âm thầm kiến tạo cho mình một nẻo đường riêng, dài lâu và chuyên sâu về
chủ đề mà mình nghiên cứu. Một phong cách làm việc chuyên nghiệp được thể hiện
rõ nét trong các phương pháp và lí thuyết tiếp cận. Dù chỉ là một bài bình thơ
ngắn, một tiểu luận dài hơi, hay một công trình công phu, ông luôn lựa chọn cho
mình một điểm tựa từ hệ giá trị văn hóa, tinh thần, hệ tư tưởng triết - mỹ và
hệ thi pháp, phong cách.Những nhà thơ được Hồ Thế Hà lựa chọn
nằm trong hệ thống mà ông đã xác lập, đặc biệt, các tác phẩm của họ luôn được
cộng đồng độc giả đón nhận nồng nhiệt. Những gương mặt thơ ấy phần nào đã định
hình trong hiểu biết và kinh nghiệm cộng đồng diễn giải, đồng thời thành tựu
nghiên cứu, phê bình của những người đi trước đã có một độ dày đáng kể; buộc
ông phải kiếm tìm cho mình một nẻo đi riêng để tránh dẫm lên hành trình của nhà
nghiên cứu, phê bình trước đó.Với ý hướng nghiên cứu “đi từ gốc”, mỗi
vấn đề và hiện tượng thơ ca luôn được Hồ Thế Hà soi rọi dưới ánh sáng của hệ tư
tưởng triết - mỹ: triết học văn hóa/ liên văn hóa, triết học lịch sử, triết học
ngôn ngữ, triết học hiện sinh, triết học nhân bản, mỹ học phương Tây, mỹ học
phương Đông, mỹ học tiếp nhận hiện đại. Nhờ vậy, công trình của ông thoát khỏi
kiểu cảm nhận thuần túy cảm xúc, để vươn tới tầm tư tưởng, triết - mỹ trong một
chỉnh thể khái quát, thống nhất. Trên nền tảng ấy, những tiểu luận của Hồ Thế
Hà vận dụng sáng tạo nhiều thủ pháp trên nền chính của lý thuyết, phê bình văn
học hiện đại. Từ lý thuyết thi pháp học, ông giải mã phong cách “Chế Lan
Viên - người lạ mặt giữa thế giới điêu tàn”; nhận diện “Các dạng thái của cái
tôi trữ tình trong thơ Bích Khê”; khảo nghiệm tính “Triết mỹ lục bát của Huy
Cận trong Lửa thiêng”; diễn giải “Bản mệnh thơ Bùi Giáng” gắn với cảm thức
hiện sinh; bước vào “Thế giới tương hợp trong thơ Hoàng Vũ Thuật”. Từ tư
duy tôn giáo và triết học liên văn hóa, ông khám phá “Thế giới biểu tượng trong
thơ Hàn Mặc Tử - từ đạo nguồn đến nghệ thuật”. Với điểm tựa phê bình phân tâm
học và cổ mẫu, ông phân tích sự “tương hợp và đa thanh” trong thơ Hữu Thỉnh;
tìm về những mẫu gốc ám ảnh tuổi thơ trong thơ Nguyễn Quang Thiều; phát hiện
“Những mảnh vỡ tiềm thức trong thơ Nguyễn Hoa”. Qua lý thuyết giới và âm
hưởng nữ quyền, ông kiến giải “Thiên tính nữ trong thi giới Xuân Quỳnh”, phác
thảo hành trình thơ Lâm Thị Mỹ Dạ, soi tỏ duyên mệnh thi ca Lê Khánh Mai.
Từ phê bình hiện tượng luận và tâm thức hậu hiện đại, ông phân tích “Thơ
tạo sinh nghĩa Mai Văn Phấn”. Dưới góc nhìn phê bình sinh thái, ông luận
giải “Những tiêu điểm thẩm mỹ thơ Trịnh Công Lộc”. Mười bốn tiểu luận - phê
bình về chân dung, phong cách các nhà thơ đều rất công phu, với trữ lượng khoa
học cao trong một dung lượng lớn, trình hiện một cách đọc khác, một lối trình
bày riêng của Hồ Thế Hà. Ở đây, chúng tôi xin dừng lại điểm qua một số chân
dung được ông khám phá, giải mã, cho thấy sự đa dạng, hiện đại trong lý thuyết
tiếp cận, qua đó là những phát hiện, kiến giải mới về những hiện tượng tưởng
chừng như đã cạn kiệt cách đọc.Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên, Bích Khê, Huy
Cận là những ngôi sao sáng trong phong trào Thơ mới (1932-1945). Đã có rất
nhiều công trình nghiên cứu, phê bình về họ với những phương pháp tiếp cận đa
dạng như phê bình tiểu sử, phê bình văn hóa - lịch sử, phê bình phân tâm học,
phê bình từ lý thuyết thi pháp học… Tuy nhiên, với những nhà thơ lớn, phức tạp,
thơ ca của họ như những sinh thể nghệ thuật luôn vẫy gọi sự tìm tòi, thể nghiệm
bằng những lối vào khác nhau. Trong số những nhà thơ ấy, Hồ Thế Hà có
hẳn một chuyên luận riêng dành cho Chế Lan Viên - Thế giới nghệ thuật thơ
Chế Lan Viên (2006). Đây được xem là một trong những công trình công phu
và hay nhất cho đến nay nghiên cứu về thơ Chế Lan Viên. Tiểu luận “Chế Lan Viên
- người lạ mặt giữa thế giới điêu tàn” in trong phần Chân dung như là
một sự bổ sung, phát hiện mới của Hồ Thế Hà. Ông phân tích tư duy hỗn
hợp biểu hiện trong khách thể thẩm mỹ mang tính tưởng tượng, hư cấu, siêu
hình và chủ thể sáng tạo mang tính cực đoan, thần bí, quái đản, để khái quát
nên kiểu tư duy triết lý, suy tưởng đặc trưng phong cách thơ Chế Lan
Viên (điều đã được ông xác quyết từ chuyên luận trước đó). Trên cơ sở triết học
phương Đông khúc xạ, hóa thân trong thi pháp thể loại, thi pháp hình thức, Hồ
Thế Hà đã khám phá chất triết mỹ trong thơ lục bát Huy Cận. Ông nhận diện chất
thơ, hồn thơ đa sắc; sự chuyển dịch của không gian - thời gian theo trục hiện
sinh trần thế; sự đa dạng, biến ảo của hình thức thể loại; sự minh triết, điêu
luyện của ngôn từ; tất cả hòa quyện làm nên phong cách độc sáng của thể loại
lục bát mang bản sắc Huy Cận: triết mỹ - nghệ thuật - tư tưởng.Với Hàn Mặc Tử, Hồ Thế Hà có một tiểu
luận nghiên cứu công phu, xuất sắc. Hành trình nghiên cứu, phê bình về Hàn Mặc
Tử ghi nhận dấu ấn phê bình ấn tượng của Hoài Thanh, Hoài Chân, phê bình tiểu
sử của Trần Thanh Mại, phê bình thi pháp phong cách của Đỗ Lai Thúy, Nguyễn
Đăng Điệp, Lý Hoài Thu, Chu Văn Sơn... Với tiểu luận “Thế giới biểu tượng trong
thơ Hàn Mặc Tử - từ Đạo nguồn đến Nghệ thuật”, Hồ Thế Hà đã mở ra cho mình một
hướng tiếp cận riêng, độc đáo, với nhiều phát hiện, kiến giải thú vị. Từ tư duy
tôn giáo trên nền tảng triết học liên văn hóa, ông khám phá ngọn nguồn của
những biểu tượng đặc sắc trong thơ Hàn Mặc Tử
như Trăng - Hồn - Máu được khởi sinh từ Đức Chúa
trời và những điển tích trong Kinh Thánh, góp phần làm nên thi pháp và
phong cách độc sáng của “ngôi sao chổi” trên bầu trời thi ca Việt.Từ phê bình cổ mẫu - phân tâm học chất
liệu của Gaston Bachelard, Hồ Thế Hà đã dẫn dụ người đọc vào thế giới hình tượng
và ngôn từ nghệ thuật của Hữu Thỉnh. Sự xuất hiện thường xuyên của các hình ảnh
mang tính biểu tượng như khu vườn, cánh đồng, con đường, dòng sông, bầu trời,
mặt đất, mẹ, em, cỏ hoa, hương thơm… trong thơ Hữu Thỉnh, theo nhà nghiên cứu
đều có sự liên hệ máu thịt, tương tác nhau được tái sinh từ bốn nguyên tố mẫu
gốc của nhân loại: nước, lửa, đất và không khí. Qua việc phân tích những biểu
hiện sinh động của các mẫu gốc (nguyên sinh và phái sinh), tác giả đã cho thấy
sự đa dạng và đa nghĩa trong thơ Hữu Thỉnh. Kết nối các biểu tượng với tâm lý
học sáng tạo và vô thức sáng tạo, Hồ Thế Hà giải mã sự đa thanh trong ngôn từ
thơ Hữu Thỉnh như là biểu hiện thi pháp, làm thành phong cách cá nhân nhà thơ.
Cũng dẫn lối vào từ những cổ mẫu, nhưng khác với thế giới tương hợp và đa thanh
của Hữu Thỉnh, Hồ Thế Hà phát hiện những ám ảnh, mặc cảm ấu thơ đã hóa thân
thành máu thịt, “làm thành vết sẹo trong tâm hồn”, “bỗng một ngày bừng thức,
cựa quậy trong suy nghĩ, trong những thao thức đêm”, “tạo thành chấn tích thi
ca về một khách thể thẩm mỹ riêng, có sức lay động và day dứt” trong thơ Nguyễn
Quang Thiều. Hình tượng làng Chùa (Đất), ngọn đèn dầu (Lửa), dòng sông Đáy
(Nước), cùng những hình tượng tái sinh từ mẫu gốc như người bà bất hạnh, người
cha hư vô, những người đàn bà mang thiên tính nữ cao đẹp; hay sự cải biên mẫu
gốc trong quá trình tiếp xúc với thế giới hiện đại phương Tây… tất cả đã kết
tinh thành những trầm tích văn hóa trong tư duy thơ Nguyễn Quang Thiều.Không chỉ khám phá cấu trúc nội tại của
văn bản ngôn từ, những nghiên cứu, phê bình của Hồ Thế Hà còn mở rộng, nối kết
những thực thể văn chương trong sự tương tác với những vấn đề chính trị, xã
hội, văn hóa, thời đại. Ông quan niệm, tác phẩm không chỉ là văn bản, mà là văn
bản và sự đọc, tức là không chỉ có nghĩa chủ ý mà còn có nghĩa kiến tạo. Ông
sắm vai người đọc để phát hiện, kiến giải những giá trị tư tưởng, thẩm mỹ của
tác phẩm, và quan trọng hơn, nhằm tạo sinh nghĩa, làm dôi nghĩa của văn bản.
Nghiên cứu, phê bình với Hồ Thế Hà là hành vi đồng sáng tạo với tác giả.Trong những năm gần đây, phê bình nữ
quyền, phê bình sinh thái, phê bình thông diễn học lấy người đọc làm trung tâm,
nổi lên như các hướng nghiên cứu mở, giàu tiềm năng. Hồ Thế Hà đã vận dụng
nhuần nhuyễn những thành tựu lý thuyết mới mẻ đó để giải mã những hiện tượng
thơ Xuân Quỳnh, Trịnh Công Lộc, Mai Văn Phấn, Lâm Thị Mỹ Dạ và Lê Khánh Mai.
Ông đã nối kết văn bản ngôn từ thơ ca với những vấn đề giới/ nữ quyền, vấn đề
sinh thái, hay sự hỗn độn, vô nghĩa lý trong tâm thức xã hội hiện đại/ hậu hiện
đại… Khi nhân loại đang phải đối mặt với trình trạng mất cân bằng sinh thái
nghiêm trọng, hậu quả tất yếu của quá trình đô thị hóa và sản xuất công nghiệp.
Với tư cách người nghệ sĩ có lương tri và trách nhiệm, Trịnh Công Lộc đã thể
hiện sự trăn trở, khắc khoải về các vấn đề mang tầm phổ quát của nhân loại,
nhân sinh, nhân tính. Từ góc nhìn phê bình sinh thái nhân văn, Hồ Thế Hà đã
phát hiện ra những tiêu điểm thẩm mỹ đặc sắc trong thơ Trịnh Công
Lộc. Thế giới nghệ thuật thơ Trịnh Công Lộc trong sự diễn giải của ông đầy
những biểu tượng ám dụ từ hình tượng đến ngôn từ. Ông đã khái quát lên thi pháp
đối cực, đối trọng, thi pháp phản biện, đối thoại nhằm thể hiện những vấn đề
trường cửu về thế giới và con người trong thơ Trịnh Công Lộc.Phải thuần thục, am tường lý thuyết,
phải thẩm thấu, sành sõi văn chương, phải tài hoa, lịch lãm đến chừng nào đó
mới có thể giúp Hồ Thế Hà viết được những trang nghiên cứu, phê bình vừa đậm
chất lý luận giàu mỹ cảm, vừa khoa học vừa tinh tế đến vậy. Rõ ràng, những nhận
định, kiến giải của Hồ Thế Hà được xây dựng trên một cơ sở khoa học vững chắc
và một trực giác nghệ thuật tinh tế, chứ không phải từ tình cảm yêu ghét thuần
túy, lại càng không phải phát xuất từ những quan điểm phi khoa học. Điều này
một lần nữa khẳng định phẩm chất, tài năng và bản sắc khoa học của ông trên
hành trình khám phá, giải mã những thực thể thơ Việt hiện đại.3. Sự tinh tế, sáng tạo trong diễn ngôn
nghiên cứu và phê bình văn họcTrong chuyên luận của mình, Hồ Thế Hà đã
cho thấy sự hài hòa, thống nhất tư duy của một nhà lí luận, nhà phê bình, một
nhà văn học sử, một chủ thể sáng tạo và một chủ thể tiếp nhận. Sự tương hợp,
cộng hưởng của hệ thống này thể hiện rõ nét trong diễn ngôn nghiên cứu, phê
bình của ông. Ở đó, chúng ta nhận rõ sự hàn lâm, uyên bác của tư duy lý luận,
triết - mỹ; sự tinh tế, biến ảo của tư duy phê bình; sự biện chứng, khái quát
của tư duy văn học sử; sự mềm mại, tinh tế của tư duy sáng tạo. Hồ Thế Hà đã
thể hiện rõ bản sắc khoa học, cái tôi cá nhân của mình từ những nhận định có tầm
khái quát, sâu rộng đến những kiến giải cụ thể, riêng lẻ.Với kinh nghiệm sống, kinh nghiệm thẩm
mỹ với tư cách là chủ thể sáng tạo và chủ thể tiếp nhận, ông đã đồng cảm, đồng
hành với mỗi nhà thơ trong từng quan niệm về thơ, về sứ mệnh nhà thơ. Trong tâm
thế người sáng tạo, ông hiểu hơn ai hết quy chế vận hành tâm lý và hành vi sáng
tạo; với tư cách người nghiên cứu, ông luôn hướng tới sự khái quát, đối thoại
trong từng nhận định, luận giải về các chiều kích đa dạng của thơ ca. Chúng ta
có thể nhận diện diễn ngôn khái quát, luận giải, đối thoại xuất hiện
đều đặn trong mỗi tiểu luận, xoay quanh trục chính là mối quan hệ giữa thơ ca -
nhà thơ - độc giả. Bàn về thơ, ông cho rằng: “Ngôn ngữ trong tác phẩm nghệ
thuật ngôn từ là một thứ ngôn ngữ có độ mở cao nhất và đánh thức được nhiều
trường cảm xúc nhất, làm cho quá trình đồng sáng tạo giữa tác giả và độc giả
ngày càng phong phú” [tr.43]. Ông luôn xác quyết về ý nghĩa tồn tại của thơ dù
ở bất kì thời đại nào: “Thơ vẫn đi bên cạnh cuộc đời, thơ vẫn vĩnh hằng trong
từng cảm giác bé nhỏ của mỗi chúng ta” [tr.123]. Tâm thế đối thoại, luận giải
luôn thường trực trong tư duy và diễn ngôn nghiên cứu, phê bình của Hồ Thế Hà.
Ông đối thoại với thành tựu của người đi trước trong những quan niệm về thơ,
đối thoại với công chúng về hiện tượng “có phải thơ đang chết?”, hay đối thoại
với cái gọi là “phong trào thơ Hậu hiện đại” trong đời sống văn học Việt Nam
đương đại. Không chỉ dừng lại ở sự đối thoại giữa hai chủ thể, diễn ngôn nghiên
cứu và phê bình của Hồ Thế Hà còn hướng đến sự đối thoại với độc giả, truyền
thống và ngữ cảnh văn hóa, nhằm xác lập một cái nhìn sâu sắc về thơ, một tâm
thế thụ hưởng đúng đắn của cộng đồng diễn giải.Diễn giải về tâm lý và hành vi sáng tạo
của nhà thơ, ông xác quyết “Sau một chặng đường thăng hoa của ý tưởng và trí
tuệ, họ đã đi bên cạnh cuộc đời với niềm vui chấp nhận sự đơn độc. Họ thao thức
và không ngừng khám phá, thăm dò hiện thực để yêu thương và mơ mộng vào những
gì tốt đẹp cho con người và chính mình bằng tác phẩm” [tr.57]. Từ đó, ông chia
sẻ quá trình lao động chữ nghĩa miệt mài, khó nhọc trên cánh đồng chữ của mỗi
chủ thể sáng tạo, mà chính ông, trong tư cách nhà thơ cũng đang dự phần; đồng
thời đòi hỏi mỗi nhà thơ ý thức trách nhiệm và tinh thần làm việc không mệt mỏi
để tạo sinh những sinh thể nghệ thuật mới lạ, giàu sức sống.Tính khái quát không chỉ thể hiện trong
các diễn ngôn chung về lý thuyết thơ, mà còn ở nhận định về phong cách thơ.
Chúng ta đã từng bắt gặp những khái quát đầy ấn tượng về cá tính, phong cách
nhà thơ trước 1945 trong Thi nhân Việt Nam của Hoài Thanh, Hoài
Chân, Mắt thơ của Đỗ Lai Thúy, và nay, trong Thơ Việt Nam hiện
đại - Thi luận và Chân dung, Hồ Thế Hà tiếp tục mở rộng với những khái quát về
phong cách, thi pháp của thế hệ nhà thơ sau 1975. Bằng lối giảm trừ hiện tượng
luận, cô đọng, hàm súc, Hồ Thế Hà đã vẽ nên chân dung các nhà thơ vô cùng sắc
nét, sinh động: “Ta có một Chế Lan Viên sau 1975 rất triết lý và trí tuệ; có
một Bùi Giáng từ thơ trang nghiêm đến trò chơi ngôn ngữ; có một Hoàng Hưng đổi
mới và vụt hiện ngôn từ; có một Hữu Thỉnh văn hóa dân gian mà hiện đại và dân
tộc một cách nghệ thuật; có một Xuân Quỳnh đa cảm, tự hát giàu thiên tính nữ;
có một Nguyễn Duy bụi bã và hoài vãng đến day dứt; có một Thanh Thảo luôn mới
và quay tròn bứt phá như những ru-bich thơ; có một Hoàng Cầm tuổi càng cao càng
trẻ lại trong âm tính và dục tính; có một Lê Đạt phu chữ tạo ra nhiều “bóng
chữ”; có một Trần Dần “đơn giản đồng nhất thơ vào chữ”, đưa con âm thành âm
thanh, ý nghĩa và thị giác; có một Đặng Đình Hưng văn xuôi hóa thi ca thành âm
nhạc tuôn chảy tràn dòng thơ; có một Dương Tường với thơ âm bồi và con âm và
cuối cùng là thơ không lời/ thơ hình vẽ, thơ trình diễn, sắp đặt; có một Đoàn
Thị Lam Luyến khát yêu và khát sống trong tình yêu ly tan; có một Dư Thị Hoàn
tan vỡ tình trong văn hóa và bao dung; có một Bùi Chí Vinh bụi bặm mà tự nhiên
như phố thị; một Nguyễn Khắc Thạch thiền lý và Phật lý; một Nguyễn Quang Thiều
kết tinh thơ thành cổ mẫu; có một Mai Văn Phấn liên tục hiện hữu thơ không cần
mái che ngôn từ để tạo sinh nghĩa mới; có một Đồng Đức Bốn thi hóa ca dao thành
đồng dao hiện đại….”. [tr.175]. Có thể nói, Hồ Thế Hà đã tiếp nối những bậc
tiền bối, đồng hành cùng những nhà nghiên cứu cùng thời để hoàn chỉnh bức chân
dung đa sắc về phong cách, thi pháp của các nhà thơ Việt Nam trải dài từ những
năm đầu thế kỷ XX đến nay. Đó là kết quả của một quá trình tìm hiểu lâu dài,
chuyên nghiệp, một tư duy khoa học thuần thục, sắc bén, một “con mắt xanh” mẫn
cảm, tinh tế, trong một lối diễn đạt tinh giản tối đa, song lại có sức khái
quát cao.Với bản tính nghệ sĩ sẵn có, Hồ Thế Hà
hiểu hơn ai hết sức mạnh năng sản của mỗi con chữ. Không chỉ đọc sâu, đọc kỹ,
ông còn có khả năng khiến từng con chữ bật dậy, tạo sinh nghĩa, hiện hữu trong
ngôi nhà của chính mình. Ông cần mẫn, kĩ lưỡng trên cánh đồng chữ để đánh thức
tiềm năng, khơi dậy ý nghĩa, nhờ vậy, những bài thơ, dòng thơ như được tái sinh
dưới ngòi bút tài hoa của mình. Chính điều này đã tạo dựng phẩm tính nghệ
thuật, giá trị biểu cảm, chất thơ bàng bạc trong diễn ngôn nghiên cứu, phê
bình của Hồ Thế Hà, khiến người đọc không khỏi bất ngờ, thích thú, ngạc
nhiên.Để có được điều đó, Hồ Thế Hà luôn tìm
cách làm mới, “lạ hóa” trong những lối diễn giải về thơ. Nhằm tránh sự lặp lại,
xơ cứng, khuôn mẫu khi bàn về thơ và phong cách, chân dung nhà thơ; ông sáng
tạo nhiều liên tưởng thú vị: “Kiếp đời và nghiệp thơ Hàn Mặc Tử là nhân quả
định mệnh của nhau để còn đây những trang thơ châu ngọc sinh thành từ huyết lệ
của sự hủy hoại thể xác và tinh thần, của cái chết mòn trong tâm tưởng và tư
tưởng” [tr.208]; “Thơ lục bát Huy Cận thường vực dậy vầng trăng trên bầu trời
cao rộng để thượng giới và hạ giới được chan hòa trong màu bạc lân tinh của mùa
động thiên nhiên và mùa ái ân của con người đang thức” [tr.258]. Ông “lạ hóa”
ngôn từ khi khái quát về thơ Xuân Quỳnh: “Xuân Quỳnh là nhà thơ của tình
yêu và cái đẹp bị lâm nguy nhưng nữ tính vĩnh hằng đã giải lâm nguy
để tiếp tục hồi sinh bằng cái đẹp khác có tên gọi là tình yêu và sự sống
bất tử” [tr.326]; hay nhận định về thơ Hoàng Vũ Thuật: “Trong thơ Hoàng Vũ
Thuật, câu chữ thường lưu vong trong thế giới siêu thực để hư vô
hóa những hệ lụy và bất ổn của cuộc sống hiện tại (NVH nhấn mạnh)” [tr.343]. Hồ Thế Hà
thường hay sử dụng nhiều tính từ có sức gợi, độ sâu lắng và ngân vang, cùng thủ
pháp so sánh, ứng chiếu độc đáo: “Trong cái bông đùa, cà rỡn có sự thăng hoa
của đau xót miên trường; trong cái hồn nhiên có sự uyên uẩn, nhức nhối của trí
tuệ; trong điên loạn, cuồng say có sự mộng mơ và mê đắm của cõi tình. Tất cả
những nghịch lí trên chính là tâm thức hiện sinh của Bùi Giáng trên từng chặng
hành trình sống và hành trình thơ” [tr.266].Diễn ngôn nghiên cứu, phê bình của Hồ
Thế Hà vừa đa dạng do sự tích hợp nhiều tri thức, tư tưởng, vừa độc đáo bởi sự
sáng tạo, liên tưởng thú vị. Với ông, nghiên cứu, phê bình không chỉ một khoa
học mà còn là một nghệ thuật. Ở đó không đơn thuần là những thao tác, phương
pháp có tính khách quan, khoa học, mà còn là hành vi đồng sáng tạo, tạo
sinh/làm dôi nghĩa cho văn bản. Có thể nói, diễn ngôn nghiên cứu, phê bình của
Hồ Thế Hà không phải là thứ diễn ngôn dễ dãi, bất chợt, mà nó đã được chắt lọc,
nghiền ngẫm, suy tư từ chính sự sống trải với đời, với nghề và với thơ của ông.
Dù có đa dạng đến đâu, nhưng diễn ngôn nghiên cứu, phê bình của ông luôn hài hòa,
thống nhất giữa tư tưởng - triết luận - thẩm mỹ.4. Kết luận Xuyên suốt 28 tiểu luận nghiên cứu, phê
bình trong Thơ Việt Nam hiện đại - Thi luận và Chân dung là sự nhất
quán về hệ giá trị tinh thần, văn hóa, hệ tư tưởng triết - mỹ, hệ thi pháp,
phong cách, làm điểm tựa quy chiếu trong những luận bàn về thơ ca, diễn giải về
chân dung. Một nhà nghiên cứu, phê bình có bản sắc đã khó, một nhà nghiên cứu,
phê bình có tư tưởng lại càng khó hơn gấp bội. Có thể nói, với những thành tựu
đã đạt được, Hồ Thế Hà đã xác quyết bản sắc và tư tưởng của chính mình. Có muôn
ngàn nẻo đường, lối đi để người nghiên cứu tiếp cận và diễn giải về thơ ca, và
không ai có quyền tuyên bố con đường mình đi là chân lý, cũng như mình đang nắm
trong tay chiếc chìa khóa duy nhất đúng. Bằng lối nhìn và cách đọc riêng/
khác, với tài năng, chuyên nghiệp, niềm đam mê, cùng trách nhiệm, sự nghiêm
túc, công chúng yêu văn học có quyền hy vọng và tin tưởng vào những công trình
công phu, xuất sắc tiếp theo của Hồ Thế Hà.Chú thích:(1) Cho đến nay, đường thơ của Hồ Thế Hà
khá dài, với 6 tập thơ đã được in và được cộng đồng độc giả đánh giá cao
bởi những tìm tòi, thể nghiệm nghệ thuật đặc sắc: Khoảnh khắc (tập thơ, 1990),
Nghìn trùng (tập thơ, 1991), Xác thu (tập thơ, 1996), Thuyền trăng (tập
thơ, 2013), Tơ sương (tập thơ, 2015), Xem mơ (tập thơ, 2018).(2) Kể từ những năm 90 của thế kỷ XX, Hồ
Thế Hà đã đều đặn xuất bản 9 chuyên luận, tiểu luận - phê bình văn học,
nhận được sự đánh giá tích cực từ phía các nhà văn, nhà nghiên cứu, phê bình và
công chúng bạn đọc: Sức bền của thơ (tiểu luận - phê bình, 1993), Thức
cùng trang văn (tiểu luận - phê bình, 1993), Tìm trong trang viết (tiểu
luận - phê bình, 1997), Thao thức thơ (bình thơ, 2004), Thế giới nghệ
thuật thơ Chế Lan Viên (chuyên luận, 2006), Những khoảnh khắc đồng hiện (tiểu
luận - phê bình, 2007), Tiếp nhận cấu trúc văn chương (tiểu luận - phê
bình, 2014), Khoảng lặng thơ (bình thơ, 2018), Thơ Việt Nam hiện đại -
Thi luận và Chân dung (chuyên luận, 2018).(3) Kể từ đây, những trích dẫn chỉ ghi
số trang được dẫn từ công trình của Hồ Thế Hà: Thơ Việt Nam hiện đại -
Thi luận và Chân dung, Nxb. Hội Nhà văn, Hà Nội, 2018.(4) Trong công trình Thơ như là mỹ học
của cái Khác (Nxb. Hội Nhà văn, 2012), Đỗ Lai Thúy đã đề xuất lý thuyết
hệ hình để xác lập tiến trình thơ Việt Nam. Theo ông có ba mô hình thơ ứng với
ba hệ hình: Nghĩa # Chữ (hệ hình tiền hiện đại), Chữ # Nghĩa (hệ hình
hiện đại), Chữ # Nghĩa (hệ hình hậu hiện đại).(5) Trong công trình Thơ Việt Nam hiện
đại - tiến trình và hiện tượng (Nxb. Văn học, 2014), Nguyễn Đăng Điệp đã
chỉ ra những dấu hiệu chuyển đổi hệ hình tư duy thơ trên nhiều phương diện
gắn liền với sự chuyển dịch của các không gian văn hóa từ hiện đại đến
hậu hiện đại và các thiết chế văn hóa, xã hội, người đọc tương ứng, nhằm nhận
diện tiến trình vận động, đổi mới của thơ Việt Nam từ đầu thế kỷ XX.9/8/2019Nguyễn Văn Hùng
4. Kết luận
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét