Huế được xem là một thành phố vườn, cả thành phố là một công viên lớn, ở đâu
cũng thấy được một màu xanh mát dịu của cỏ cây, sông, hồ, đồi núi. Nhìn từ trên cao, Huế với màu xanh bát ngát, mênh mông. Cây
xanh được xem là lá phổi của vùng đất Cố đô, là di sản luôn được chăm dưỡng,
nâng niu. Những con đường rợp bóng cây xanh, mỗi mùa đơm hoa kết nụ rực rỡ. Những
công viên cây xanh phủ kín. Những khu vườn xanh mát, đầy hoa đầy trái. Tất cả
làm nên một Huế xanh.
Dưới bóng râm của tán cây, người về ngồi đó trầm tư trong bạt ngàn hương sắc cỏ
cây mùa hè. Nắng hồng về đậu trên bông kim phượng rồi qua bông cẩn rầm rì ca
vui. Đây chiếc lồng đèn soi mình trên cột gỗ và chữ vạn trang nghiêm ẩn hiện
trong màu tối cát tường. Những loài hoa mộc mạc, bình dị ấy được khắc trên Cửu
đỉnh đã đi ra từ những khu vườn, đi vào lịch sử, đi vào thi ca. Ở đó, một thế
giới sâu thẳm, ban sơ đã tồn tại bằng hơi thở tươi trong vô ngần của xứ sở,
lung linh tỏa sáng trong dòng chảy văn hóa hơn bảy thế kỷ đầy biến động. Nếu một
ngày nặng mang những nỗi niềm nhân thế, thử dạo bước qua một khu vườn xứ Huế,
gánh chất chồng ấy sẽ vơi đi bớt phần nào.
Cất bước vào căn nhà rường khiêm tốn trong khu vườn xanh mát, tôi chìm đắm
trong không gian hằng lưu cữu vệt sống mấy trăm năm. Nói đến kiến trúc nhà Huế
xưa, người ta thường nghĩ ngay đến nhà rường. Rường là cách gọi rút ngắn của rường
cột. Nhà rường là loại nhà có hệ thống cột kèo gỗ, được dựng lên theo những quy
cách nhất định. Dù to lớn đến đâu, nhà rường cũng được kết cấu hoàn toàn bằng hệ
thống chốt và mộng gỗ, để có thể lắp ráp và tháo gỡ dễ dàng. Nhà rường là một tác
phẩm nghệ thuật, là một phần tinh hoa kiến trúc cần phải gìn giữ, bảo tồn trong
mạch nguồn văn hóa của Huế, một vẻ đẹp để nhớ về Huế xưa. “Vua chúa ở nhà rường.
Hoàng thân quốc thích ở nhà rường. Quan lại ở nhà rường, người giàu ở nhà rường.
Phật và thánh ở nhà rường. Ma quỷ cũng ở nhà rường. Ông bà tổ tiên ở nhà rường.
Con cháu cũng ở nhà rường. Nhà rường vẫn là đặc trưng của kiến trúc, văn hóa Huế
một thời xưa cũ.” - Nhà nghiên cứu Chu Sơn đã khẳng định như thế.
Tôi không còn là áng mây phiêu diêu khắp núi ngàn sông thẳm. Về đây nghe tiếng
mọt thở than trong căn nhà im vắng, nghe lá ngoài vườn xôn xao khúc nhạc xanh.
Nghe ai đó kể chuyện ngày xưa. Có gì trong ngăn kéo ký ức, khi nhịp đập thực tại
cũng ngân vỡ từ bao giờ. Những trang sách ố màu năm tháng bên chiếc tù và xa hồi
chiến trận. Cán cân cũng bất lực đong đếm buồn vui, được mất. Thôi thì lấy
phích nước chêm thêm ấm trà đối ẩm, bật radio rè rè tiếng nói một thời xanh. Những
kẻ sĩ bạc đầu hương khói, ngậm ngùi nhìn con nước nổi trôi. Nào ai giăng tình
bên bến cũ, bỏ mặc một người ngồi vớt mộng trăm năm. Kim Long, cứ nhớ lại lên,
nhuộm lại trái tim xanh màu vĩnh cửu.
Mùa hạ ở những con đường vắng trong thành phố, cây dại thi nhau mọc đầy, trổ
màu tím mơ của hoa trinh nữ, màu rực rỡ của loài ngũ sắc, màu trắng tinh khôi của
xuyến chi dọc lối mòn khuất lấp, bên mảnh đất trống, không người ở và bên trên
bờ tường cổ Kinh thành. Lân la, cây bò trên đống gạch hoang phế, nhuộm lên tấm
ngói lưu li vàng màu hoa dại. Nhịp hè xao xuyến nhánh bằng lăng trổ hoa tím biếc,
ngây thơ vươn ra giữa lòng đường đông người qua lại trên đường Hà Nội, Phạm Hồng
Thái. Đó là thứ màu Chàm xưa, màu cô gái buồn thiu tâm hồn vũ nữ gắn lên gạch
tháp hình ngọn Mê Ru, màu làm mát dịu hồn người trên phố. Chợt nhớ lối về dĩ
vãng phía đô thành ngựa xe dập dìu, cờ phướn rực trời trong nắng sắc kinh đô. Hồn
hoài cổ bỗng dưng nhẹ thênh, miên man bám vào bờ sen nở dập dìu mặt nước Ngự
Hà. Làm sao quên đường những ngày nắng vàng trên lăng Minh Mạng. Nắng vương
trên màu cửa thếp, le lói sáng một vùng không gian chìm trong u tịch. Nghe lá
thông rơi ngoài thềm xa, nghe cánh sen nở thầm thì trên mặt hồ Trừng Minh chưa
phai mộng cũ. Màu xanh và vô vàn sắc màu của mùa hè như những chiếc dù treo ngược
gợi nhớ về bóng mưa bay ngược. Đi dưới tháng ngày nhiều màu sắc cũng là cách vẽ
lại những buồn vui. Dù rằng tất cả mọi thứ xung quanh chúng ta là hợp thể của
nhiều thứ màu sắc khác nhau. Khi ta nhìn thấy một số màu sắc nhất định, những cảm
xúc khác nhau sẽ phát triển từ những màu sắc biểu hiện đó. Màu sắc mô tả nhiều
cảm giác, tâm trạng và suy nghĩ của chúng ta khi đối diện với các tình thái của
đời sống. Ở một chiều kích khác, có thể nói màu sắc đã kích thích tâm trí chúng
ta như mùa hè này đã chạm vào cõi hoang vắng của tôi vậy. Màu sắc trong tâm lý
học dùng để phân tích các khả năng nhận thức, kiểm chứng độ chính xác của thông
tin, cảm xúc và là một liệu pháp tâm lý giúp ích cho một số người chọn các màu
yêu thích để cân bằng cảm xúc, bình tĩnh trước các áp lực cuộc sống. Dĩ nhiên với
màu sắc của bức tranh xứ Huế vào hạ, chúng ta có thể có được cảm giác yên bình,
trong lành và khởi sự của nhiều hy vọng, yêu thương.
Giữa mùa hè, con đường “phượng bay mù không lối vào” đẹp u buồn. Ngày xưa, người
nhạc sĩ họ Trịnh viết nên bài ca tình lãng bằng đôi mắt nghệ sĩ bao dung bên
con đường hoa phượng. Giờ đây màu hoa bị át đi một tí bởi sắc vàng của điệp,
màu ngát xanh của hàng cây si, long não… chen nhịp bên đường. Phượng bay về xa
xăm, rơi vào bể khứ bềnh bồng. Khách qua đường dừng chân ghé lại bên quán nước
vỉa hè. Cây lung lay gọi nàng gió đến bông đùa trưa nóng. Gió từ sông Hương thổi
lên mát rượi hồn phong sương trĩu gánh mảnh tình trong. Nhẹ nhàng nhìn lên màu
trời xanh biếc, phong sương nhuộm đầu lữ thứ.
Đây đó tiếng chim ngân ca trên hàng cây xanh mát gọi mời. Tiếng chim vút cao
qua Kỳ Đài, dừng lại bên Ngọ Môn rồi líu lo ca hát trong vườn Cơ Hạ. Bốn bề yên
tĩnh, chỉ có âm thanh thiên nhiên réo rắt căng ra vỗ về ban trưa khoảng vắng.
Tiếng hót tù túng của những chú chim bị nhốt trong lồng. Chiếc lồng chật hẹp
không giữ được hồn thiên nhiên bay bổng theo tiếng gọi hè. Tôi ước gì có thật
nhiều tiền để mua hết những chú chim, thả chúng bay về với cội nguồn ngày hạ.
Và thả bay bao hồn lang bạt về đâu giữa nắng trưa ướt đẫm giọt mồ hôi lam lũ.
Chim kêu hè, ve gọi hạ lửng lơ trong thinh không vắng lặng. Tôi đưa em về trên
con đường phượng bay, lướt qua hàng cây xanh xanh, đã thấy mùa rộn rã trong
lòng Thành Nội ngập mùa hạ dâng.
Giữa tháng Bảy, những đám mây con trôi chầm chậm, lấp dần ánh nắng đang cố
nhoài mình trên cao. Chúng tụ họp lại thành từng mảng trắng đục rồi ôm nhau, thầm
thì trên nền trời đang dần quánh lại, che mất đi khoảng thiên thanh vạn tuổi.
Đây đó lảnh lót những tiếng chim khuyên, chào mào và cả những chú sáo tinh nghịch
thi nhau hót nhập nhành trên ngọn cây thị già. Đã bao năm ngậm thở chút bụi bặm
thời gian, cây thị chẳng thấy bị lũ chim quấy rầy bởi thứ âm thanh réo rắt, náo
động phá tan cả một bể không gian rầm rì trong tĩnh lặng. Tiếng ồn ào tạo nên
chút xáo động nho nhỏ, vui tai làm tôi ngơ ngác giật mình. Mở mắt. Có ai gọi?
Giấc mơ ban trưa yên ả hãy còn đọng lại trong tôi lờ mờ một khuôn mặt bé xinh,
ngây thơ của thuở nào non dại. Thoáng thấy một mái tóc buông lơi hồn nhiên, chiếc
cài tóc dát ngang vầng trán mịn màng, cong cong hai hàng mi dài xa vắng.
Khẽ đẩy nhẹ ô cửa nhỏ, tôi nhìn ra gò đất màu xanh. Kia, cây thị, một mình nó
cùng tháng năm, đứng lẻ loi trên gò đất nổi, giữa khóm tre làng và những hàng
cây dại. Hẳn có một sự thỏa thuận, hay ít ra là lời cầu xin của đám cây đủ chủng
loại, thị kia mới cho chúng chen chúc xung quanh gò để tồn tại. Lòng cảm thông
nhân ái đã cứu rỗi những sinh linh yếu ớt, mỏng manh đương cần sự che chở của
thị già. Đây đó vài ngọn sầu đông, dăm ba cây phượng hoe hoe đỏ mấy bông hoa cuối
mùa. Tôi chợt thương xót mùa hè quá. Mới đây thôi còn rầu rĩ của đám ve sầu, lốm
đốm lửa cháy trên cành phượng chỉ độc một màu. Cuối tháng Bảy rồi, tôi ngửi thấy
một mùi hương vừa là lạ vừa quen quen, huyền hoặc và rất dịu. Nhớ ra mùa thị
chín đã bắt đầu. Kia, quả bói đã nhú ra vàng ươm lên những ngọn đèn vàng đó thắp
sáng lên cho những chiếc lá xanh thầm lặng.
Độ cuối tháng Bảy, không khí của cái xóm nhỏ, nằm khuất trong một con hẻm xa
tít phố thị và cách biệt cả những cánh đồng thôn quê xanh rì, màu mỡ, tự dưng
có một sự khang khác đặc biệt. Bao nỗi tất bật lo toan mà từng gia đình ở đây
đang gánh vác cái cơ nghiệp cồng kềnh trăm mối, cũng vơi đi khi có một làn gió
nhẹ thoảng qua. Tôi để ý một mùi hương ngan ngát, trộn lẫn mùi trái chuối ba
lùn chín rục, mùi nồng nồng tựa hương sầu đông mùa hoa nở và mùi tinh khiết,
thơm tho của hoa huệ ngày rằm. Cả xóm nhỏ bừng tỉnh, ngây ngất trong hương say,
có chút gì đó hư hư thực thực xen lẫn trong cuộc sống tầm thường, một sợi chỉ
vô hình đang cố níu kéo, có khi làm căng ra những tâm hồn đã lâu lắm chưa được
mở. Khoảnh khắc đó khiến người ta quên đi ngay cuộc sống bon chen, đầy sầu muộn.
Chỉ cần một nhịp hít thở, hương thị sẽ tràn vào, căng đầy lồng ngực. Hương thị
sẽ đến với ta dìu dịu, trong những trưa hè rực lửa hay những đêm trăng rền rĩ của
bạt ngàn chuyện sống. Tự dưng thấy đời thật nhẹ! Người lớn thì trầm trồ cho cái
phút giây ban đầu hơi ngỡ ngàng, là lạ, gợi lại một thời đã qua gắn với hương
thị quyến rũ. Trẻ con lại tiếp tục tái diễn trò của người lớn năm xưa, dưới gốc
thị bằng niềm vui thích và sự say mê tận hưởng thứ quả và hương của trời đất
trong cái vườn cổ tích vấn vương, đầy níu kéo. Nghiệm ra, có những mùi hương gợi
nhớ một thoáng êm đềm của quá khứ, ru ta trong giấc nồng êm đẹp và vĩnh cửu bảo
tồn những kỷ niệm thuở xửa xưa như một hành trang tuệ giác cho bao tâm hồn vọng
cảm.
Thị ấy đã bao năm đứng vững chãi trên một nền đá khá chông chênh mà chắc thị đã
đè bẹp chúng theo tháng năm bởi sức lực của những cái rễ khỏe, ôm trọn, chồng nổi
lên lớp đá khá nặng nề, to tướng. Tuổi lão niên, già hơn bất cứ người nào trong
xóm đã tạo nên thị một tấm thân đùng đùng, ít ra cũng chứa nổi ba cái chuông
chùa cùng một lúc. Thân thị rỗng, có một lỗ cửa khá lớn, nhìn sâu hun hút như một
cái hang đen ngòm. Lỗ ấy bị người ta đục bỏ, đốt lửa. Vết than cháy còn in rõ
trên thân và in lên trên những khuôn mặt, những chiếc áo của cậu bé con tinh
nghịch lỡ làng thám hiểm cái hang cây. In cả lên mặt tôi và một khuôn mặt xinh
xinh của cô bé xóm bên ngày ngày vẫn rủ nhau ra nhặt thị vàng chín rụng. Có những
ngày mưa phủ bạc cả một vùng, trùm lên cây thị một màn lưới nước trắng xóa, đè
những tán lá xanh và những chùm quả vàng mọng. Cô bé ấy và tôi dầm trong mưa ướt,
chạy đến ngồi bên gốc thị và nhặt trái chín bị mưa gió quật rơi khỏi cành cây yếu
ớt. Bé nhặt đủ một túi nhỏ đem về tặng mẹ và treo một chùm nhỏ trong phòng để lấy
hương. Tôi cũng làm theo và tặng luôn bé một chùm thị tràm nho nhỏ nhưng đã rộ
vàng, thơm phức. Cô bé cám ơn và nhặt tiếp bông thị vừa rơi xuống, màu trắng
tinh khiết bị nhuốm bẩn bởi dòng nước mưa đục ngầu. Cô bé cười bảo rằng hoa thị
đẹp. Tôi phải cố công nhặt nhạnh suốt từ sáng sớm đến trưa hôm sau đủ một vòng
đeo cổ trắng tinh màu hoa thị. Cô bé đeo lên và hôn nhẹ lên thân thị cùng với nụ
cười trao tôi thay lòng cảm ơn mà tôi đã nhắc khéo là không cần đến.
Tôi chỉ nhớ… Một cơn mưa đầu mùa lại đến vội xóa tan bầu hoài niệm. Ở ô cửa nhà
tôi, dù xa lắm tôi vẫn trông thấy chiếc vòng hoa thị nằm kia, vắt vẻo trên một
cành non gần mặt đất. Những hoa thị trắng, thơm thơm như quả thị đang rơi. Lặng
yên, tôi cố hít thở thật sâu mùi hương bao năm nuôi tôi khôn lớn.
Cho đến bây giờ, tôi vẫn thích cái cảm giác ngắm bóng chiều từ từ đổ xuống
thành Huế từ không gian một quán cà phê nhỏ nằm mặt sau Đại Nội, quán Chiều.
Khi những ánh tà dương thưa thớt dần trên những hàng cây, mặt đường, vẻ u uẩn của
lầu Tứ Phương Vô Sự trước mặt Chiều dấy lên nhiều nốt lặng. Khoảnh khắc đó đồng
hiện cùng những bản nhạc tiền chiến dìu dắt lòng người. Quán nằm gọn ngay đoạn
giao giữa hai con phố Đặng Thái Thân và Phùng Hưng, dáng vẻ thâm nâu, lúp xúp,
nơi bóng tối toát lên vẻ kiêu hãnh của nó. Khi đêm xuống, những ngọn nến lung
linh đổ bóng khung cửa sổ, le lói sáng từng chiếc bàn thấp, sóng sánh giọt cà
phê của những nỗi niềm. Tôi ngồi xuống đây, bên những bạn hiền, bên giọt cà phê
rỉ ri nhỏ xuống đáy cốc, biến màu trong suốt thủy tinh sang màu đen huyền của một
đam mê chiều. Cà phê tí tách va vào nỗi lòng người luyến cảnh hoàng hôn một
thoáng xao động nhỏ. Một màn mưa vàng lá điệp buông xuống vỉa hè. Chiều. Chiều
tím bên sông. Thành quách nhạt mờ theo vết ố vàng của vòm mây. Bàn tay ai nắm lại,
mừng rỡ, rồi ngân nga câu chuyện bạn hữu muôn đời. Dòng người ngược xuôi trên
phố, mang theo nặng gánh lo toan, bàng hoàng đứng ngắm hoàng hôn đang đến gần
hàng cây. Giọt nắng rơi vào cốc cà phê, pha vàng màu huyền. Màu khói lam nhả
vào nền xanh tán lá. Mắt người đăm đắm biết bao dòng suy nghĩ chạy qua rồi thả
vèo cho trôi nổi vào xa xăm. Điếu thuốc tàn, châm thêm điếu nữa, đốt những suy
tư cháy theo khói thuốc. Khói bay, tiếng thở dài của một ngày đánh nhịp trên lối
về. Có những mạch đời diễu qua trước mắt, chảy lâm râm bọt bèo khổ ải. Tiếng cười
trên phố, giọt mồ hôi lam lũ lề đường, dòng miên man hạnh phúc chảy loanh quanh
trong chiều tím. Ai đưa sợi dây diều nâng lên những khát vọng nổi trôi và những
giấc mơ hóa bão.
Thành phố lên đèn, tôi lại lang thang qua con đường hun hút màu đêm, tưởng chừng
đã nuốt chửng vào lòng nó tất cả ký ức của một Kinh đô cũ. Những người bạn mới
quen rảo bước trên con đường đẫm hơi nước ngỡ như dẫm chân lên từng vết thời
gian khắc khoải, mờ đục. Từng hàng rào âm u lướt qua, một khu vườn yên lặng và ở
điểm cuối trơ ra một ngôi nhà ba gian mộc mạc còn sáng đèn leo lét. Những chiếc
bóng thầm lặng ngồi quây quần bên nhau mặc kệ trời vừa làm cơn mưa đêm thì thầm.
Tôi được mời ngồi xuống một trong những chiếc chiếu trải trên nền đất với dăm
ba đĩa bánh, ánh nến soi sóng sánh từng cốc cà phê đen. Một người bạn trẻ mặc
chiếc áo kaki, gương mặt thanh tú sau cặp kính trắng ngồi chiếu giữa ôm đàn. Tôi
đang bận rộn với những ý nghĩ sắp xếp lại tuổi trẻ sau những bộn bề, sắp xếp lại
từng trang bản thảo rơi vãi đâu đó trên cọng tóc sâu. Rồi bộn bề, tóc sâu cũng
chìm lắng ở một góc nào đó trong tâm trí khi các bạn hát. Một thế giới khác đã
hiện ra, đẩy người nghe nổi trôi bồng bềnh trên sóng nước, rồi lăn như một viên
đá hồn nhiên trên đồi cao. Âm thanh lê thê kéo theo những ca từ dìm nghiệt ngã
của đời sống thường nhật vào vũng rã rời. Khổ đau đóng băng. Hân hoan tỏa nắng.
Những người trẻ chăm chú lắng nghe quanh ánh nến chập chờn, tưởng hình tưởng
bóng lung linh kia là cái tôi lạc trôi đã được tìm thấy. Tôi bị quyến rũ trong
tiếng guitar ấm trầm, một giọng hát trầm khàn, như tiếng gió qua khe đá trên
núi cao, như tiếng thác đổ xuống từ tầng trời Đao Lợi. Thứ âm nhạc đó đích thị
dành cho tuổi trẻ mờ phai sau biết bao trận pháo kích của kỹ nghệ, những trò giải
trí tầm phào, một lối sống lụy vật chất, một tinh thần phế bạc như bộ mặt của
thời đại. Tôi ra vườn, hít một hơi thở sâu như cố lưu trọn cái không khí hiếm
có của một khu vườn, một căn nhà và những người bạn đang níu kéo một điều gì đó
không thể gọi tên trong giấc xanh của mình. Đâu đó trong góc vườn, một tiếng ve
trở mình, cất tiếng sầu lạc lỏng, bất thường trong đêm tối. Ấy là hè cũng vội về
trong đêm.
Sớm mai, nắng rọi trên sông vắng, lòng rỗng mênh mông. Dòng nước buồn thở tiếng
ăn năn, lặng trôi về cố xứ. Ôm màu xanh vĩnh cửu vào lòng, tôi lật tung từng kỷ
niệm còn niêm màu hoa dại. Rồi một mai lên chốn sơn khê, đón mây trắng về hội
thung xanh. Dưới cội trang già, nghe chim gọi ngày da diết. Nếu còn ôm mộng du
tử hỏi sao chân không làm đau xước đám cỏ trai mơ mỏng. Cứ đi về nơi ấy, để
nghe ngọn gió hát ca, thấy suối chảy qua bàn chân mát lạnh.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét