Về một quãng đời thuở hàn vi
của Trịnh Công Sơn
Ai yêu nhạc Trịnh, hãy xem truyện này, với nhiều chi tiết rất
thú vị về một quảng đời của Trịnh Công Sơn thuở hàn vi, qua lời kể lại cuả 1 bạn
học khi ở Trường Sư Phạm Qui Nhơn và làm nhà giáo tại Bảo Lộc.
“Tôi học chung một khóa Sư phạm với Trịnh Công Sơn, khóa I,
ngày 22- 4-1962 khóa đầu tiên mở ra ở Quy Nhơn. Tên gọi là khóa Thường Xuyên 2
năm. Tiêu chuẩn thi vào ít nhất phải có Tú Tài I. Tuy nhiên, khóa ấy đa số thí
sinh đều đã có Tú Tài II, một số đã có một hoặc hai chứng chỉ Đại học. Trong số
300 giáo sinh được chấm đậu đa phần đều là người Huế, chiếm khoảng 60%, 40% còn
lại rải rác các tỉnh Bình Định, Phú Yên, Nha Trang lên tận các tỉnh cao nguyên
như Đà Lạt, Lâm Đồng, Pleiku, KonTum...Đa số chúng tôi lúc ấy đều là con nhà
nghèo, hoặc học hành dở dang hoặc không đủ khả năng tài chánh vào Sài Gòn hoặc
ra Huế để vào Đại học. Cho nên cố thi vào Sư phạm để chắc chắn trong hai năm sẽ
có công ăn việc làm nuôi bản thân và giúp gia đình. Nhắc lại ở đây, lúc ấy, Bộ
Giáo Dục và Bộ Y Tế rất thiếu nhân viên. Khóa nào vừa đào tạo xong là được bổ
nhiệm liền, lương lại tương đối cao. Trong khi những ngành khác như Công chánh,
Nông Lâm Súc tốt nghiệp ra trường, nằm nhà nhiều năm vẫn chưa được tuyển dụng.Trịnh công Sơn theo ban Pháp văn, tôi theo ban Anh văn. Những
ngày mưa gió ủ ê,không đi ra ngoài được vì đất nhão, chúng tôi nằm khoèo ở nhà,
Sơn kể cho tôi nghe về cuộc đời Sơn, nhiều chuyện vui buồn lẫn lộn. Chuyện gia
đình Sơn là một trong những chuyện buồn. Cha mất sớm, gia đình khánh kiệt, má
Sơn phải chật vật lắm mới nuôi nổi bầy con. Sơn phải bỏ học, về lại Huế,phụ
giúp mẹ. Sư phạm Quy Nhơn là con đường ngắn nhất có thể giúp Sơn đạt được ý
nguyện này. Đơn giản vậy thôi!
Hiệu trưởng trường là thầy Đinh thành Chương. Trường Sư Phạm
và trường Kỹ Thuật Quy Nhơn được ngân sách Mỹ tài trợ xây cất rất qui mô và tân
kỳ, tọa lạc tại Khu Sáu, sát bờ biển, khoảng giữa đường từ phố Quy Nhơn đến Ghềnh
Ráng, nơi thi sĩ Hàn Mặc Tử an nghỉ ngàn thu. Đến một chút nữa là Quy Hòa, Trại
Cùi, ở đó có nhiều bà Xơ tận tụy một đời chăm sóc cho bệnh nhân mắc phải chứng
nan y, bệnh phong cùi. Lúc bấy giờ, thành phố Quy Nhơn hãy còn tiêu điều, xơ
xác. Ngay con đường chính Gia Long chạy từ Núi Một (ga xe lửa) đến bến Cảng
hãy còn nhiều ngôi nhà đổ nát, vôi vữa hoang tàn trong chiến tranh chưa có ai dọn
dẹp. Đường Lê Lợi chạy từ trung tâm phố thẳng ra biển còn rất nhiều nhà tranh,
vách lá. Gợi lại một vài cảnh cũ để cho thấy chính phủ lúc ấy có dụng ý khi cho
xây hai ngôi trường đại qui mô, đem về đây hơn một ngàn giáo sinh và học sinh kỹ
thuật mỗi năm là để vực dậy nền kinh tế ở đây.
Để giới thiệu và quảng bá rộng rãi cho nhiều nơi biết tiếng về
trường Sư Phạm, Ban Giám Đốc trường cho thành lập Ban văn nghệ, sẽ trình diễn một
chương trình độc đáo chưa từng có ở Quy Nhơn từ trước đến giờ. Trịnh Công Sơn
được bầu làm trưởng ban chịu trách nhiệm tổng quát, Thanh Hải phó ban thứ nhất
chịu trách nhiệm về nhạc, Võ văn Phòng phó ban thứ hai chịu trách nhiệm một vở
kịch thơ nhan đề “Tiếng cười Bao Tự”. Tôi được chọn phụ trách phần thổi sáo đệm
thơ trong suốt vở kịch dài hơn 45 phút. Trong dịp này tôi mới biết và quen Trịnh
Công Sơn.
Buổi trình diễn được dự trù đúng vào ngày Song Thất năm đó
(7/7/1962) chứ không phải đợi đến ngày mãn khóa như Đinh Cường nói.Trong thời
gian này,Trịnh Công Sơn sáng tác trường ca "Tiếng hát Dã Tràng"
hay gọi ngắn hơn là "Dã Tràng ca" làm tiết mục mở màn mà cũng là tiết
mục đặc sắc nhất, công phu nhất. Nhạc trưởng Trịnh Công Sơn với ban hợp xướng
do anh tuyển chọn gần 50 người, khổ công trong ba tháng trời tập luyện đã thành
công tuyệt vời trước sự ngac nhiên đầy thích thú của quan khách và khán giả.
Tôi không ở trong ban hợp xướng đó nên không thuộc bài này chỉ nhớ lõm bõm câu
được, câu mất xin ghi ra đây:
Tiếng Hát Dã Tràng :
“Dã tràng...Dã tràng... Dã tràng... Dã tràng xe cát biển Đông,
Dã tràng xe cát hoài công. Trùng dương ơi... Trùng dương ơi vỗ sóng vào bờ .. Thôi còn gì nữa đâu, còn gì nữa đâu... Đời lên cơn đau... Xuân, Hạ, Thu, Đông
bốn mùa làm rét mướt... Tôi gọi tên tôi giữa nước non ngàn...”
Cũng trong thời gian học Sư phạm, anh còn sáng tác những nhạc
phẩm khác như “Biển nhớ”, ” Nhìn những mùa thu đi”, “Nắng Thủy tinh” và một
số nhạc thiếu nhi cho chúng tôi sử dụng đi thực tập, dạy các em nhỏ. Những bản
nhạc ngắn, dễ hát, dễ nhớ như “Ông Tiên vui”, “Ông mặt trời”. Tôi xin ghi
lại một bài tượng trưng:
“Ông Tiên vui. Ông Tiên vui,ông có cái râu dài. Đêm ông về nằm
yên trên đỉnh mây. Hôm em lên Ông chợt đi đâu vắng! Lúc em về, em buồn đến ngẩn
ngơ. Ông Tiên vui Ông có cái căn nhà, trên ngọn đồi hằng đêm Ông ghé qua. Hôm
em lên Ông chợt đi đâu vắng! Lúc em về em buồn đến ngẩn ngơ”.
Xin nhắc lại ở đây, Quy nhơn lúc ấy còn nghèo lắm. Cả thành
phố có mỗi một quán kem duy nhất, vừa bán kem, vừa bán cà phê thuốc lá, bia,
trà. Đó là quán Phi Điệp, nằm trên đường Phan Bội Châu, đối diện với hội trường
Quy Nhơn, nơi đã trình diễn văn nghệ. Mỗi buổi chiều hoặc tối, anh chị em nào
có tiền thì vào quán kêu một bình trà ngồi với nhau nhâm nhi nghe nhạc. Khá một
chút nữa thì kêu chai bia với một tô bò viên gân, ngầu pín của ông ba tàu đậu
cái xe phở trước cửa quán. Thế là sang lắm rồi. Còn những anh chị nào "bô
xu" thì ra biển ngồi ngắm trăng suông. Biển Quy Nhơn là biển bùn nên cát ở
đó màu vàng xỉn trông dơ dáy, không trắng như biển Nha Trang. Dọc theo bãi biển
là một hàng dương, chạy dài đến bệnh viện Nguyễn Huệ là xóm chài. Tuyệt nhiên
không có một lều quán hay kiosque nào bán cà phê, bia rượu gì cả. Trịnh Công
Sơn và Tôn Nữ Bích Khê có hẹn hò ra đó với ông Đinh Cường thì cũng chỉ để ngắm
trăng vàng vỡ vụn trên sóng biển mà thôi.
Ba năm tại Blao tức Bảo Lộc
Sau hai năm, mãn khóa, chúng tôi tốt nghiệp ra trường. Tôi và
Trịnh Công Sơn cùng bốn giáo sinh khác là Nguyễn thị Ngọc Trinh (Huế), Nguyễn
văn Sang, Trương khắc Nhượng, Đỗ thị Nghiễn (Nha Trang) cùng được bổ nhiệm
chung một Sự vụ lệnh đáo nhậm nhiệm sở Ty Tiểu Học Lâm Đồng. Sự vụ lệnh mang số
961-GD/NV/38/SVL tạm thời tuyển bổ do ông Nguyễn hữu Quyến, Xử lý thường vụ Hiệu
Trưởng Trường Sư Phạm Quy Nhơn ký ngày 4/8/1964. Sau hai năm tập sự chúng tôi
được điều chỉnh tuyển dụng bằng Nghị định mang số 596-GD/NV/BC/QĐ do XLTV Đổng
lý Văn Phòng, Phụ tá chuyên môn Phạm văn Thuật ký ngày 6/5/1966. Đến năm1967,
chúng tôi mới được chính thức bổ dụng bằng Nghị định mang số 687/GD/NV/3BC/NĐ kể
từ ngày 1/9/1966 do T.ỤN Ủy Viên Giáo Dục Đổng lý văn phòng Huỳnh ngọc Anh ký
ngày 7/4/1967. Với chỉ số lương 320 cộng thêm phụ cấp đắc đỏ vùng cao lúc bấy
giờ, chúng tôi lĩnh được 5200 đồng, tương đương 2 lượng rưỡi vàng Kim Thành. Vật
giá lại rất rẻ. Tiền ăn, ở mỗi tháng chỉ hết 600 đồng. Chai bia con cọp 3 đồng.
Một dĩa thịt bò lúc lắc 4 người ăn giá 7 đồng. Tô phở 3 đồng, cà phê loại ngon
1 đồng. Cơm bữa với ba món 6 đồng. Thời gian từ 64-67 chúng tôi sống sung sướng,
tiêu pha rộng rãi mà vẫn còn rủng rỉnh. Tôi từ Nha Trang lên theo đường Nha
Trang - Đà Lạt - Bảo Lộc. Trịnh Công Sơn từ Huế bay vào Sài Gòn, rồi từ Sài Gòn
đi xe đò lên Bảo Lộc. Không hẹn mà gặp lại nhau trên bến xe vắng vẻ, thưa thớt
bóng người.Blao - Bảo Lộc là đây sao? Một phố quận vào chiều thứ sáu sao mà vắng
lặng, buồn hiu hắt. Trời lại mưa lâm râm, lành lạnh. Hai chúng tôi, mỗi người một
va ly quần áo nhẹ tênh. Lang thang tìm người hỏi thăm đường đến Ty Tiểu Học Lâm
Đồng.
Lúc bấy giờ, Thị xã Đà Lạt biệt lập với tỉnh Lâm Đồng. Tỉnh
Lâm Đồng chỉ có vỏn vẹn hai quận: Blao (Bảo Lộc) và Djiring(Di Linh). Trước năm
1960, Tòa hành chánh Tỉnh đặt ở Di Linh. Sau dời về Bảo Lộc mới mấy năm khi
chúng tôi đến, nên trông nó như một thị trấn nhỏ vừa mới bắt đầu tạo dựng.
Chúng tôi tìm được đến Ty thì trời đã sụp tối mặc dù chưa tới 6 giờ. Sương mù bốc
lên từ mặt đất, bay là đà dưới chân. Ty chỉ cách bến xe non nửa cây số. May mắn,
lúc ấy bác lao công đang khóa cửa chuẩn bị ra về. Khi biết chúng tôi là giáo
viên mới đổi đến, bác ân cần mời về ở tạm tại nhà bác qua đêm.
Đêm đó chúng tôi trải chiếu, chăn dưới thềm nhà, năm người bạn
trẻ, trừ anh Lãng nằm trên giường, tuổi chỉ từ hai bốn đến hai sáu, cùng nhau
trao đổi những câu chuyện quê hương đi dần từ Sài Gòn ra đến Huế rồi thiếp vào
giấc ngủ. Lúc bừng thức dậy là đã 9 giờ sáng.
Đến sáng thứ hai, trình diện tại Ty để chờ bổ nhiệm, chúng
tôi gặp hầu hết các bạn khác từ các nơi cũng đã đến từ ngày thứ bảy, chủ nhật.
Sư phạm Quy Nhơn đủ mặt: Nguyễn Thị Ngọc Trinh, Đỗ thị Nghiễn, Trương khắc Nhượng.
Sư phạm Sài Gòn: Nguyễn Hảo Tâm, Nguyễn Văn Ba, Nguyễn Văn Tâm, Trần văn Nghị.
Nữ có các cô Nguyệt, Châu, Hải. Sư phạm Long An chỉ có một ngoe là Ngô thanh Bạch.
Ty trưởng đương thời là ông Trương cảnh Ngôn sắp về hưu. Tôi, Trương khắc Nhượng,
Đỗ thị Nghiễn và Nguyễn hảo Tâm được bổ về trường Tiểu học Tân Bùi, cách Bảo Lộc
5km. Nguyễn Thị Ngọc Trinh bổ về trường Nữ Bảo Lộc ngay trung tâm phố. Nguyễn
văn Ba ở tại Ty phụ tá kế toán. Riêng Trịnh Công Sơn được biệt nhãn hơn, bổ về
một trường Sơ cấp Thượng, ở sát nách Ty chừng non cây số, với chức Trưởng Giáo.
Nhắc lại ở đây, theo quy chế của Bộ Giáo Dục, một trường chỉ
có bốn lớp trở xuống gọi là truờng Sơ cấp. Người đứng đầu gọi là Trưởng Giáo,
không có phụ cấp chức vụ 200 $, nhưng vẫn phải đứng lớp. Trường từ năm lớp trở
lên là trường Tiểu học. Đứng đầu là Hiệu trưởng. Trường dưới chín lớp vẫn phải
phụ trách một lớp, có lãnh phụ cấp chức vụ. Từ 10 lớp trở lên, Hiệu trưởng
được miễn dạy. Ngạch chúng tôi là Giáo học bổ túc tập sự. Chỉ số lương 320, do
ngân sách Bộ Giáo dục đài thọ như đã nói ở trên.
Sau khi phân bổ xong, chúng tôi được Ty cho phép một tuần ở
nhà để lo thu xếp nơi ăn chốn ở. Thứ hai tuần tới sẽ trình diện nhiệm sở mới.
Khi về đến nhà, chúng tôi bò lăn ra cười với cái chức Trưởng Giáo của Sơn. Vì lần
đầu mới được nghe cái chức này, ai cũng liên tưởng tới các chức Trưởng lão hay
Giáo chủ trong Ma giáo của tiểu thuyết kiếm hiệp Kim Dung.
Mấy ngày thong thả, chúng tôi đi dạo khắp nơi để tìm nhà trọ
nhưng không nơi nào vừa ý. Nhất là nhà vệ sinh thì khiếp quá. Có ai đó mách
chúng tôi, ở về phía Ty công chánh có ngôi biệt thự vừa xây xong, chủ nhà ngỏ ý
muốn cho thuê, nhưng hơi đắt. Tôi và Sơn đến ngay. Nhà rất đẹp, tọa lạc trên một
khu quang đãng, thoáng tầm nhìn. Chủ nhà là một người đàn bà trạc ba mươi, người
mảnh dẻ, hiện là trưởng phòng kế toán của Ty công chánh Lâm Đồng. Sau khi nói
chuyện dăm phút chúng tôi bằng lòng thuê toàn bộ căn nhà, trừ cho bà và đứa con
gái một phòng để ở, với giá 1200 đồng một tháng. Trên đường về nhà Sơn lẩm bẩm: “Đàn
bà mà tên là Phi, lại lót thị. Thị Phi... Thị Phi!". Sơn tủm tỉm cười
một mình. Tôi biết Sơn đang nghĩ về bà chủ nhà, trẻ, sống một mình.Chúng tôi rủ
thêm hai người bạn nữa để chia phòng, bớt tiền. Anh Nguyễn Hảo Tâm và Nguyễn Văn Ba đến xem nhà và đồng ý ngay. Tôi và Sơn có công tìm nhà nên được ưu tiên ở
căn phòng trước, có cửa sổ quay ra mặt đường. Tâm và Ba căn phòng kế. Bà chủ
cùng đứa con gái ở phòng trong cùng.
Những ngày chúng tôi sống trong ngôi "biệt thự" của
bà Trần Thị Phi thật là vui nhộn. Cũng chính trong căn phòng có khuôn cửa sổ
ngó ra con đường đất đỏ trước mặt của căn nhà này, Trịnh Công Sơn đã sáng tác
các nhạc phẩm: “Chiều một mình qua phố”, “Lời buồn thánh”, ”Vết lăn trầm” và “Ca
khúc da vàng”.
Chiều Một Mình Qua
Phố (Trịnh Công Sơn) - Khánh Ly
Lời buồn Thánh - Trịnh Công
Sơn - Khánh Ly
Vết lăn trầm - Trịnh Công
Sơn - Trần Thu Hà
Album Ca khúc da
vàng Khánh Ly Trịnh Công Sơn
Ngày lãnh lương đầu đời
Mới ngày nào vừa trình diện để nhận nhiệm sở, thoáng cái đã đến
cuối tháng lãnh lương. Ngày lãnh lương đầu tiên, chúng tôi ai nấy đều háo hức đến
Ty thật sớm để ký tên vào sổ lương, lãnh một món tiền lớn do chính tay mình làm
ra, món tiền mà từ xưa tới nay cá nhân tôi chưa hề cầm được trong tay. Hai năm
trọ học ở Quy Nhơn, cha mẹ tôi phải khó nhọc lắm mới dành dụm được 600$ hằng
tháng để gửi cho tôi chi tiêu. Có tháng chậm tới ngày thứ mười mà tôi vẫn không
dám viết thư dục, vì tôi hiểu rõ hoàn cảnh của tôi: con nhà nghèo. Lãnh lương
xong, ra khỏi cửa, Sơn sải chân đi thật lẹ. Sơn vốn cao, chân dài. Tôi thấp, chỉ
tới tai Sơn, chân ngắn, nên phải nhảy ba bước một, mới bắt kịp. Vừa thở, vừa
kêu Sơn đợi. Sơn không đáp cứ cắm đầu đi thẳng.
Vừa vào phòng, Sơn khóa ngay cửa lại. Tôi ngạc nhiên coi anh
chàng làm cái trò gì đây. Sơn để nguyên quần áo, giầy vớ nằm vật ngửa ra đi
văng, tay rút trong túi quần ra cái phong bì tiền lương lúc nãy, xé phong bì, nắm
hết nắm tiền 5200$ gồm giấy 5$, 10$, 50$ tung lên trên trần nhà. Giấy bạc mới
tinh, phát ngân viên Thành vừa lãnh từ kho bạc ra, rơi lả tả xuống người Sơn,
rơi xuống đi văng. Sơn hốt lên, tung trở lại. Sơn cười sằng sặc. Sơn cười ha hả.
Tiếng cười nghe là lạ. Nó pha lẫn niềm vui và nỗi phẫn hận. Rồi Sơn chửi thề: "Đù mạ mi! Đù mạ mi! Tiền! Tiền!". Đó là lần đầu tiên tôi nghe Sơn chửi
thề. Và cũng là lần duy nhất suốt ba năm sống chung với nhau. Tôi để mặc Sơn tự
do trong những giây phút ấy. Tôi không muốn xen vào để quấy rầy Sơn đang đắm
chìm trong thế giới riêng tư của mình. Tôi yên lặng đếm số tiền của mình một
cách chậm rải. Từng tờ, từng tờ. Tôi để mười ngón tay tôi cảm nhận đầy đủ cái cảm
giác sung sướng đang rung lên từng chập với tiếng kêu sột soạt của những tờ bạc
mới chạm vào nhau. Cái âm thanh sao mà dễ thương thế. Cái mùi giấy bạc mới sao
mà thơm thế! Đầu tôi phát họa mau lẹ một kế hoạch. Hãy trích ra 3000$, ra bưu
điện mua ngay một cái “măng-đa” gửi về cho Má. Chắc Má mừng và vui lắm khi nhận
được số tiền này do thằng con gửi về. Thằng con do một tay bà nuôi nấng chắt
chiu, dành dụm từng đồng của gánh hàng đè nặng trên vai bà hằng ngày, để ngày
hôm nay bà sung sướng và hãnh diện âm thầm không dám thổ lộ cùng ai. Con bà đã
thành ông giáo!Chiều hôm đó chúng tôi không ăn cơm nhà. Phải tự khao một chầu
linh đình mới được. Tại nhà hàng Ngọc Hương (bây giờ ông bà chủ quen mặt chúng
tôi quá rồi) có mặt đông đủ những ông giáo trẻ vừa mới có được thành tích: một
tháng công vụ. Đêm đó chúng tôi tưng bừng ăn uống, cười nói hả hê. Ra về lúc
chín giờ, điện cúp. Bá vai nhau đi khệnh khạng, xiên xẹo giữa phố vắng dày đặc
sương mù. Đến cuối dốc cầu, xếp hàng ngang, vạch quần, vừa đi vừa tè, vẽ thành
rồng, rắn loang lổ trên mặt đường nhựa. Ôi! một thời tuổi trẻ vô tư, hồn nhiên.
Một thầy, một cô, một chó cái. Tôi không hình dung được lúc ông Cao Bá Quát làm
Giáo thụ ở Quốc Oai cái cảnh nó ra làm sao mà ông tả oán bằng những câu thê thảm:
Một thầy, một cô, một chó cái. Học trò dăm đứa, nửa người, nửa ngợm, nửa đười
ươi. Nhưng cái cảnh ông Trưởng giáo Trịnh Công Sơn ngồi dạy học ở ngôi trường
Sơ cấp. Thượng thì thật là vừa bi vừa hài. Mỗi buổi sáng, cái hoạt cảnh ông đi
dạy đã là buồn cười rồi.
Tôi và Sơn có điểm giống nhau là không bao giờ đeo đồng hồ.
Tôi dạy buổi chiều nên tha hồ nằm nướng trên giường. Sơn phải dậy sớm lúc bảy
giờ để đến trường. Những ngày có mặt trời thì nhìn bóng nắng mà đi. Những ngày
sương mù hay mưa dầm thì lắng nghe tiếng kèn lính chào cờ ở một đồn lính nào đó
rất xa vọng lại văng vẳng. Te te... Tò tí te... Tò tí te... Sơn xỏ vội chiếc áo
ka ki màu vàng cụt tay (chiếc áo này tôi thấy mặc từ lúc còn ở trường Sư phạm),
đôi giầy ba-ta màu nâu, nách trái kẹp cuốn vở soạn bài cuộn tròn, miệng ngậm ống
vố, chân sãi bương bã đến trường. Trường không xa lắm, non nửa cây số, Sơn lội
bộ hằng ngày, trên con đường đất đỏ, càng lúc càng lên dốc. Ngày nắng thì bụi đỏ
mù trời, ngày mưa thì nhèm nhẹp. Đi một lúc phải tìm chỗ nào có cây hay cục đá
để gạt bớt đất nhão dính vào đế giày càng lúc càng nặng. (Ấy thế mà ông Trịnh
Cung đã tưởng tượng ra cảnh Trịnh Công Sơn gò lưng đạp xe đến trường, xa năm, bảy
cây số). Có hôm Sơn ngồi chờ mãi mà vẫn không nghe thấy tiếng kèn đồng giục giã
tò te, tí te, cứ ngồi ôm đàn tìm nốt nhạc. Đến khi sương tan hết, mặt trời ló
ra thì đã gần đứng bóng. Ba chân, bốn cẳng Sơn vội vã như ngựa phi nước đại đến
trường.Một hôm tôi bỗng nảy ý định đến xem ngôi trường của ông Trưởng
giáo nó ra làm sao. Leo hết con dốc ngắn, ngôi trường hiện ra trên một khoảng đất
trống, xung quanh trơ trọi không một cây cối gì cả. Trường được ngăn đôi thành
hai lớp học. Mái tranh, vách đất, không cửa nẻo. Trong lớp, một bàn vuông cho
thầy, sáu bộ bàn ghế dài cho trò. Trên vách treo một bảng đen, màu đen bạc thếch
ở giữa. Chắc trải nhiều năm tháng không ai buồn sơn lại. Bụi đỏ bám khắp nơi. Từ
vách đến bàn ghế thầy lẫn trò. Tôi đến đó khoảng mười giờ. Học trò hầu hết là
các em bé người Thượng, chỉ xen lẫn vài em người Kinh, có lẽ con của một vài
gia đình lính đóng đồn gần đó. Tất cả đều bẩn thỉu. Có đứa ở trần, đánh độc chiếc
quần xà lỏn. Có đứa cũng đủ bộ nhưng màu đất đỏ đã nhuộm từ ống quần trở lên
nên không còn nhận ra được màu nguyên thủy của nó là màu gì. Thầy Sơn đang ngồi
tư lự, miệng ngậm ống vố, mắt nhìn lơ đãng về phía cánh rừng xa xa mặc cho đám
học trò làm gì thì làm. Một túm đang gò lưng trên bàn, méo mồm méo miệng nắn
nót viết bài theo trên bảng. Một túm đang bò lê bắn bi dưới đất. Cuối lớp vài đứa
đang dựa lưng vào vách, há mồm ngủ. Thấy tôi vào, Sơn cười méo miệng:
-Tới đây chi cha?
- Tới coi ông Trưởng giáo làm ăn ra sao cho biết, tôi cười cười
- Còn ông già Thống đâu?
- Ông Thống dạy buổi chiều.
- Có mấy lớp anh Sơn -
Ba, tôi dạy lớp ba, ông già Thống dạy lớp một và hai.
- Học sinh đông không?
- Thì ông thấy đó, bữa nào không đi hái trà thì được hai chục,
bữa nào cha mẹ nó cần thêm nhân công thì mươi, mười lăm đứa.
Những đứa học trò thấy có người lạ thì cứ trố mắt nhìn. Sơn
gõ gõ cây thước lên bàn làm hiệu. Đám học trò ngưng hẳn cuộc chơi chờ lệnh thầy.
Sơn nói: “Hôm nay thầy có khách, cho các em về sớm”. Đám trẻ con mừng hớn hở ra
mặt, vội thu xếp sách vở, ùa ra khỏi cửa. Trong giây lát, tất cả trở về trong
yên lặng. Sơn ngồi trầm ngâm, nán lại thêm chút nữa, đảo mắt nhìn quanh một
vòng rồi tặc lưỡi đứng lên. Hai chúng tôi yên lặng xuống đồi. Trong thâm tâm có
lẽ mỗi người đang theo đuổi một ý nghĩ khác nhau. Sơn nghĩ gì? Tôi thì nghĩ
"May cho ông thi sĩ họ Cao ngày xưa, ngồi dạy học ở nơi khỉ ho, cò gáy còn
có một cô, một chó cái để an ủi. Ngày nay ông nhạc sĩ họ Trịnh cũng ngồi dạy một
nơi y như vậy mà không có gì bầu bạn ngoài một nỗi buồn cô quạnh". Trên đường
về, tôi gợi ý với Sơn nên nhập hai buổi lại thành một, để có thêm ông già Thống
cho vui .Sơn đồng ý là ý kiến hay.
Sau khoảng vài tháng đầu niên khóa 64-65, ông Trương cảnh
Ngôn về hưu, ông Lê cao Lợi, thanh tra kỳ cựu, có tu nghiệp ở Mỹ một thời gian,
được Bộ đề cử chức Ty Trưởng thay ông Ngôn. Đây là thời gian vàng son của Trịnh
Công Sơn. Ty trưởng Lợi, trung niên, có tâm hồn văn nghệ, thích thơ, nhạc, nên
đối với một người như Sơn ông dành cho nhiều dễ dãi. Đôi lúc nhắm mắt làm ngơ
cho Sơn dùng thì giờ dạy học làm việc riêng của mình. Việc này khiến một vài
giáo viên già, lâu năm trong nghề so bì.
Khi chúng tôi đặt chân lên Bảo Lộc, trời đã vào thu. Những
tháng đầu hãy còn lạ nước, lạ cái, không biết đi đâu, làm gì để hết thì giờ vì
chỉ phải dạy có một buổi, chúng tôi có suốt những buổi chiều lang thang. Cứ hết
"những bước chân âm thầm" trong khuôn viên trường Nông Lâm Súc im lìm
vắng vẻ với những tàn cây sao, cây gõ, cây gụ cao vút tận trời xanh, lại đến đoạn
quốc lộ I chạy xuyên qua con phố Blao lèo tèo vài quán ăn dọc đường ngắn củn.
Chúng tôi lại đi vòng bờ hồ cho đến khi chiều xuống hẳn, sương mù bắt đầu xuất
hiện trên mặt hồ, ban đầu mỏng rồi dầy dần, cho đến lúc che khuất một chòm cây
khô giữa hồ, chỉ còn thấy một thân cây khô với những cành khẳng khiu vươn lên
trơ trọi giữa khoảng trời mây. Đến lúc đó ai cũng cảm thấy mỏi chân và muốn vào
quán ngồi uống cà phê, hoặc uống bia nghe nhạc, chờ tối để về nhà tìm giấc ngủ.
Trong cái không gian và thời gian đó Trịnh Công Sơn cảm hứng sáng tác nhạc phẩm
“Chiều một mình qua phố.” Cái lạ là suốt thời gian gần ba năm làm nhạc tại Bảo
Lộc, những bản “Chiều một mình qua phố,“Lời buồn thánh”, “Vết lăn trầm” và
tập ”Ca khúc da vàng,” mặc dù đã có tiền nặng túi, Sơn vẫn không có nổi cây đàn
(hay Sơn không muốn mua?). Sơn dùng cây đàn ghi ta của cô Đỗ thị Nghiễn. Cây
đàn này đã giúp Sơn ghi lại những nốt nhạc mà Sơn thai nghén trong những lúc đi
dạy hoặc lang thang với chúng tôi ban ngày, tối về chúng tôi say sưa trong giấc
ngủ thì Sơn ôm đàn say sưa dò lại những âm thanh đang chập chờn ẩn hiện trong đầu
Sơn. Sau những đêm như thế, Sơn phờ phạc hẳn. Một giỏ rác đầy tràn những tờ giấy
bản dùng để quay ronéo Sơn chép vội những dòng nhạc vừa xuất hiện trong đầu rồi
chợt biến, vo tròn, ném, lại dò tìm. Sơn sợ làm ồn giấc ngủ của tôi, nên phải
chận phím để tạo những âm thanh câm.Nhạc phẩm đầu tiên được ấn hành
Mặc dù trước đó Trịnh công Sơn đã có nhiều nhạc phẩm rất hay
như "Ướt mi", "Thương một người", "Biển nhớ",
"Nhìn những mùa thu đi"... nhưng chỉ chuyền tay nhau hát trong chốn bạn
bè, không có điều kiện hay vì những lý do nào đó Sơn không thể xuất bản để phổ
biến rộng rãi. Đến khi ở tại Blao, sau khi hoàn chỉnh nhạc phẩm "Chiều
một mình qua phố", Sơn quyết định mang đứa con của mình về Sài Gòn tìm nhà
xuất bản. Sơn ở rịt tại Sài gòn gần ba tuần lễ. Ông giáo già Thống chạy chiếc
xe gắn máy Sach cũ kỹ, già nua không thua gì tuổi đời của ông, đến chỗ chúng
tôi trọ, tìm Trịnh Công Sơn.
Khánh Ly - Ướt Mi (Trịnh Công
Sơn) PBN 99
Thương một người - Khánh Ly
Biển Nhớ (Trịnh Công Sơn) - Khánh
Ly
Nhìn Những Mùa Thu Đi
- Thầy ơi, thầy có biết ông Sơn ở đâu không?, ông hỏi tôi.
- Ông ấy về Sài gòn rồi, ông ta không nói gì với ông sao?,
tôi đáp.
- ối giời ơi, tôi chết mất, một mình tôi phải ôm ba lớp suốt
ba tuần nay, ông rền rỉ.
- Thầy có biết lúc nào ông ấy về không?
- Không thể nào biết được.
- Thế thì tôi chết mất.
Nói xong ông thất thểu dắt xe ra ngõ. Tôi nhìn theo mà ái ngại
cho tuổi già của ông. Vài năm nữa là về hưu nên ông cố đeo cái nghề này trong
chốn đèo heo hút gió để mong được chút tiền hưu, an hưởng tuổi già. Tình trạng
này còn dài dài đến với ông và ông vẫn phải ôm ba lớp và ông vẫn rền rĩ như mọi
bận. Chúng tôi gọi đùa sau lưng, ông là "Con ngựa già của...Trưởng Giáo
Trịnh", nhại lại nhan đề một truyện ngắn trong nhóm Nhân Văn Giai Phẩm miền
Bắc.
Mấy ngày sau Sơn về. Phờ phạc, hốc hác. Tôi kể chuyện ông già
Thống đi tìm. Sơn nói là sẽ xin lỗi sau. Xong, Sơn ngủ vùi suốt ngày hôm đó.
Ngày hôm sau Sơn kể cho tôi nghe mọi việc về nhạc phẩm "Chiều một
mình qua phố". Sơn nói: "Mình bán cho cha Duy Khánh. Chả trả có
ba ngàn đồng bạc, mình nài thêm, chả nói, nhạc Phạm Duy là đắt nhứt mà cũng chỉ
tới năm ngàn là cùng, ông là nhạc sĩ mới, giá vậy là cao lắm rồi". Sơn
tặc lưỡi nói tiếp: "Thôi cũng được, nhưng tiếc một điều là chả làm hư bài
hát của mình. Mình bán đứt bản quyền rồi đâu có ý kiến chi được”. Tôi thắc mắc: “Hư
là hư làm sao?". Sơn nói: "Nhạc của mình êm, nhẹ để diễn tả nỗi
buồn của những ngày lang thang trên phố vắng, đìu hiu, quạnh quẽ mà chả cứ rống
lên như bò rống. Sơn giả giọng Duy Khánh, tay nắm lấy da cổ họng giựt giựt,
miệng rống lên "Chiều một mình qua phố... ố... ố... ố". Tôi không
sao nín cười được.
Thương một người - Khánh Ly
Biển Nhớ (Trịnh Công Sơn) - Khánh Ly
Nhìn Những Mùa Thu Đi
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét