Nhân nhớ Bích Khê và đọc thơ Bích
Khê
Bàn về thơ tượng trưng.
(Kính tặng Cụ bà Lê Mai Khê, thân
mẫu Bích Khê,
Và mến tặng bạn Lạc Nhân - Nguyễn Quý Hương, anh rể
Bích khê).
Hồi tiền chiến, có hai người viết
về Bích Khê như sau này "... mà thơ Bích Khê, đọc đôi ba lần thì
cũng như chưa đọc...”. Người ấy là Hoài Thanh và Hoài Chân viết trong
cuốn Thi nhân Việt Nam. Hồi đó, chiếu thi nhân nhiều người ngồi: Có
đến mấy chục người - kể cả những người làm thơ ngồi vào đó cho đông
mà thôi! Trong cuốn sách ấy, mỗi người làm thơ chiếm mấy trang phê
bình của Hoài Thanh và Hoài Chân. Riêng Bích Khê có mấy dòng...
Có ai ngờ vài ba dòng ấy lại là
vài ba dòng rất đúng - đúng vì thơ Bích Khê đọc một lần chưa phải
là đọc. Hoài Thanh và Hoài Chân có ngờ đâu đó gần là lời "thú
tội" đối với người hiện đã là người thiên cổ cũng như đối với
văn thi giới hai ba chục năm sau đọc lại Bích Khê và hiểu Bích Khê...
nhất là hiểu thơ Bích Khê và cảm thông với Bích Khê. Tôi nói cảm
thông, vì người ta cảm thông với thơ với tranh. Người ta cảm thông với
nghệ phẩm, cùng với nghệ phẩm là một rồi yên lặng trong phi thời
gian và phi không gian: cái đẹp không trần truồng trong tưng bừng cũng
như không lõa lồ trong những cõi thiếu thông minh, thiếu tế vi... chẳng
hạn là thế! Người đề tựa thơ của chàng là Hàn Mạc Tử và người đề
bạt thơ của chàng là Hoàng Trọng Miên: hai người này ngày đó say mê
thơ Bích Khê thật đã không lầm.
Chỉ tiếc rằng thơ Bích Khê sắp ra
đời thì chiến tranh lớn lần thứ hai sắp xảy ra: khí hậu nhân sinh
bắt đầu thiếu thăng bằng. Lẽ tự nhiên, người ta quên thi nhân và quên
thơ. Có chiến tranh là có quên: văn nghệ thiệt thòi nhiều nhất...
Tôi thường nói Xuân Diệu và Huy Cận
tiền chiến là thi nhân tượng trưng, thuộc thi phái tượng trưng. Kể
cũng hơi ép: vì đây là hai người đi vay mượn của những người làm thơ
ở xa xôi lắm: Mallarmé, Verlaine... là những thi nhân của những chân
trời mù mù mịt mịt đối với nước non này... Đã là kẻ vay mượn thì
dù có tài người làm thơ chỉ có quyền hãnh diện một cách tương
đối...
Có mấy người không hề vay mượn mà
vẫn là những thi nhân có vị trí riêng biệt trong thi giới: vị trí
của những người làm khuôn thuộc cho mai sau... những người dệt gấm Á
Đông cho thanh niên tiền bán thế kỷ và những thi nhân làm thơ như chạm
trổ đồ trang sức của những đời vương giả đã khuất trên sử xanh:
Quách Tấn, Đông Hồ...
Chúng ta thêm vào đó hai người có
kích thước: Hàn Mạc Tử, Bích Khê, hai người làm thơ tượng trưng và
gần như không vay mượn của chân trời mới âu tây một mẩu âm thanh nào.
Đất Á Đông vốn là đất phong phú về nhạc tính: nhạc tính là vốn
liếng Á Đông có từ ngàn năm từ muôn thuở: người làm thơ chỉ cần nuôi
dưỡng tình ý và nuôi dưỡng tài làm thơ nhạc tính từ đó vang lên,
vang lên...
Ngôn ngữ Á Đông vốn là ngôn ngữ đơn
âm và chứa rất nhiều thanh... tượng trưng bắt đầu từ đó...
Thơ tượng trưng?
Người ngàn năm sau thường bội bạc
với người đời trước và phủ nhận chất tri thức của kẻ đã có mặt
trong sử xanh; đôi khi họ cứ tưởng cái họ tìm ra là cái mới nhất.
Họ có biết đâu rằng cách đây bảy tám trăm năm, Dante đã nói về nhạc
tính trong thơ: một bài thơ chỉ là một giai âm (ùn poème est
composition de mots disposés d'une manière musicale). Ly khai với nhạc
tính, thơ chỉ còn là một nhan sắc trơ trẽn, thiếu duyên. Mô Phật! Văn
học Việt Nam nếu rất phong phú thì có lẽ chúng ta đã chẳng cần
mượn cái Bà Huyện Thanh Quan để hãnh diện mà cũng chẳng phải mời
chàng Lê Thánh Tôn lên làm "nguyên súy" của cả một hội Tao
đàn: cái ông này chễm chệ lên ngồi đó rồi ngày sau con cháu vẫn
rộng lượng như rộng lượng với bất kỳ một người đã chết nào...
Lom khom dưới núi tiều vài chú.
Lác đác bên sông chợ mấy nhà
Thật quả tình chưa làm rung động
được bất kỳ một hồn thơ nào! Một Bích Khê mới gần hai mươi tuổi làm
thơ Đường luật vịnh Đèo Hải Vân cho Phạm Quỳnh và Huỳnh Thúc Kháng
đăng cách đây hàng gần thế kỷ, còn làm lòng người bâng khuâng và thê
thê buồn đìu hiu hơn nhiều...
Bỗng nhiên, đời nhà Đường bên Tàu xưa,
có một ông Trẩm Dự đem cái mớ bằng trắc ra ngăn mọi hướng của lòng
người, của tình người... rồi gọi nó là âm luật. Ở đời, thật không
có ai dại dột hơn là người lấy khuôn thước để do tình người, lòng
người, ý người? Trong thơ có cả một vạn nẻo và một ngàn lẻ một...
lối và hướng. Cái ông Trẩm Dự ấy có ngờ đâu những bài thơ hay nhất
lại là ngoài một số thơ Đường luật, những bài Cổ phong và bài Từ.
Và có ai ngờ thơ tự do ngày nay lại cũng chỉ là một loại... từ.
Tôi có một ông bạn ở lâu năm bên
Pháp mới về, và vốn lại là người yêu thơ, mơ thơ, hay hỏi tôi về thơ
và... thơ. Tôi nghịch ngợm chép bài Tống biệt và đưa cho xem, nói dối
rằng đó là của Đông Hồ và Thanh Tâm Tuyền cùng chung làm. Đọc xong
anh cho rằng không ngờ thơ tự do mà lại có bài hay đến vậy. Tuyệt
tác! Tuyệt tác! Đến lúc tôi nói rằng tác giả bài ấy là Tản Đà và
bài ấy đã có từ một thuở xa xôi lắm và là một bài Từ ngắn, ông
bạn mới ngã cả cái con người ra, rồi ông đâm ra thẩn thờ và không
hiểu giữa Từ và thơ tự do, biên giới ở đâu? Kể ra tôi có một ông bạn
thơ cũng hơi quá đáng! Nhưng biết làm sao!
Sự thật chỉ có vấn đề hay và dở?
Và nhạc tính trong thơ.
Nhưng Bích Khê không phải chỉ là
người làm thơ Đường luật, thơ Cổ phong và từ một cách rất tượng
trưng. Một hôm, chàng ly khai với thơ cũ và trưởng thành trong những
nhịp thơ mới: nhịp của những Hàn Mạc Tử, Xuân Diệu, Huy Cận... Người
của thời mới có nhịp mới. Bích Khê, thi nhân tượng trưng của thơ
Đường trở nên thi nhân tượng trưng của Thơ Mới. Thời làm sao, ngâm làm
sao, nhịp làm vậy: Câu thơ chỉ là phản ảnh của cá tính nhìn qua một
thứ quang tuyến... Mariane Moore, một thi bá của Mỹ, nói đúng lắm:
"Le rythme est la personne, la phrase n'est que la radiographie de la
personnalité". Cùng với những thi nhân tiền chiến, chàng sáng tạo
lại (recréation) âm thanh của chàng trong một số thi tiết mới. Tôi chưa
hiểu mấy câu thơ sau đây là thơ mới hay thơ tự do, hay thơ siêu tự do:
Mâm vàng đây, đũa ngọc đây
Tiệc hoa sang
Rượu chung đầy
Trông ra mây nước muôn trùng biếc
Nước ái non tình bóng nguyệt rây
Tiếp ly cạn, cạn ly đầy.
Năm con một vợ ngồi vòng xây
Nhạc chim thanh tước rót về đây
Đổ cành vàng lá lục
Nâng chén tình ròng
Ca một khúc
Tiệc hoa hề chén ngọc hề
Giang hồ vút cánh say chung rượu
Năm vẻ rồng bay, ánh sắc mây
Tiền ròng bạc tốt trong tay trắng
Danh nghĩa cao sang tợ mặt trời
Tiếng xe rổn rảng sau bờ trúc
Bóng vợ bóng con lẩn bóng cây
Đông liễu tây đào ngồi khép nép
Nẻo xuân rủ gấm phủ hon đay
Mình ơi!
Rót chén này
Nu cười Bao Tự điểm xuân ngây
Rạng màu yến tiệc ngọc lung lay
Xa xa đường thoảng tiếng châu reo
Dặm cỏ
Ven đồi
Hoa lác đác
Ngực ai ai rung lạc tiếng trong veo .
Đó là thơ
Và là thơ Bích Khê - trong bao nhiêu
bài thơ như vậy của con người tài hoa bạc mệnh: thơ là sự phối hợp
của âm thanh: thơ là sự tràn trề của tình ái, nhiều nhịp, nhiều
khúc, nhiều hướng, một ngàn lẻ một đêm nhiều trăng sao, thiếu trăng
sao buồn như nước mắt, buồn như những nỗi, những mối, những ngổn
ngang, buồn như tha ma mà không buồn như tang, buồn như rượu nồng, buồn
hề, buồn đũa ngọc mâm vàng... buồn như một bài nhạc buồn đầy nhạc
tính... buồn không ủy mị; buồn một thứ thê thê không gây đam mê, buồn
của kẻ ngắm cái đẹp, thưởng ngoạn rồi một đi trên một ngàn lẻ một
hướng dũng trong nhân sinh.
Ngàn năm mới thường có một thuở...
thơ như thế. Cũng như ngàn năm một thuở Nguyễn Du trong Truyện Kiều;
một thuở Tình quê của Hàn Mạc Tử; một thuở Tống biệt và Cảm thu
của Tản Đà cũng như ngàn sau về ngàn xưa có Hoàng Hạc lâu của thi
bá họ Thôi... chẳng hạn.
Những nghệ sĩ - theo cái nghĩa chân
chính của nó - của cả loài người cũng như của riêng một dân tộc nào
đó , đều có một nếp sống, một tác phong tư tưởng và tưởng tượng...
một mình một cõi, không giống ai. Họ sống khác người mà khi buông
xuôi hai tay, họ cũng không giống thiên hạ. Cummings gọi nó là
"unicité". Có người gọi tác phong ấy là độc đáo. Tôi thì
tôi gọi nó là cái một. Ai đã gần Bích Khê đều thấy chàng có cái
một ấy. Cả một đời Bích Khê chàng trung thành với cái một ấy, và
không muốn ai chạm đến cái một của chàng - cho đến ngày chàng nằm
xuống, một đi... Tôi xin nói lại: cái một ấy, chàng nâng niu nó, nuôi
dưỡng nó... đến cái trình độ người ta nhìn chàng như nhìn một ngôi sao
lẻ tránh một ngàn lẻ một ngôi sao khác để đi con đường hành tinh
riêng của mình. Thi nhân họ bướng bỉnh và ngửa nghiêng như vậy: ai lại
gần được Bích Khê thì lại gần đuốc Edward Cummings, một nhà thơ trứ
danh của Mỹ hiện thời. Không ai hiểu được Cummings, không ai chịu nổi
Cummings vì không ai dám chạm đến cái một trong đời sống cơ thể, tinh
thần và trí thúc ngược với tất cả những công thức giả dối của đời
sống; không ai thương Cummings... Nhưng hiện thời Cummings đứng hàng đầu
trên chiếu thi nhân âu Mỹ... Về cái một Cummings, chàng thường nói:
“Être un individu c'est surtout reconnaitre une valeur sacrée à Iunicité de
tout être humain, sauvegarder cette unicité ét se battre sans cesse pour
l’affirmer". Ý Cummings muốn nói rằng cái độc đáo của một cá
nhân có một giá trị thiêng liêng, đã là con người thì phải bảo vệ
cái độc đáo ấy và tranh dấu để cho nó phát hiện. Cummings nói về
con người như vậy, như¬ng ông áp dụng vào ông nhiều nhất, và trước
hết...
Và chúng ta thêm vào đó một nguồn:
Bích Khê.
Ai đã gần Bích Khê đều biết: mỗi
bài thơ của chàng là mỗi một và cả tập thơ là cả một cái một
toàn diện. Ngày nay Bích Khê đã khuất để lại cho chúng ta một sự
nghiệp làm Hoài Thanh, Hoài Chân chưa kịp đọc... Chị ruột chàng là
bà Ngọc Sương vẫn đọc; anh rể chàng là Lạc Nhân Nguyễn Quí Hương vẫn
đọc; bạn chàng là tôi vẫn đọc; cháu chàng là Nguyễn Lê Thu An, một
thiếu nữ tuổi đôi mươi đương làm thơ chờ ngày ra đời và có mặt trong
thi giới, cũng vẫn đọc... nhiều lần.
Nhung tượng trưng là gì?
Cũng mãi vài chục năm nay, người ta
mới hay nói đến danh từ tượng trưng. Thực ra, danh từ ấy là dịch chữ
"Symbolisme" của văn học âu Mỹ. vậy tượng trưng trong văn thơ
là gì? Nói cho đúng, thật khó nói: có người cho rằng tượng trưng là
một thực thể thần bí và tượng trưng vọng từ cõi thông minh của Á
Đông... Có người cho rằng vấn đề tượng trưng chỉ là một vấn đề kỹ
thuật trong thơ: một vấn đề bằng trắc và thi tiết... Có người nữa
lại cho rằng thi nhân tượng trưng là người đi "lột" ngôn ngữ
của họa, nhạc, điêu khắc... để áp dụng vào thơ và nhà thơ tượng
trưng tìm nguyên lý của vận văn trong tinh hoa của âm nhạc. Nói một
cách khác: nhạc tính là căn bản của thơ... còn có người khác nữa
lại cho rằng thơ tượng trưng là một thứ thẩm mỹ siêu hình (esthétique
métaphysique)...
Ấy đấy! Những người nói về thơ
tượng trưng như vậy đều là những thế lực trong thi giới Âu Mỹ; và đã
vậy thì chúng ta cũng khó mà tổng hợp được một ý tưởng về tượng
trưng trong thơ.
Nhưng dù khó mà nói cho ra thế nào
là tượng trưng, chúng ta cũng nhận thấy mấy điều. Một là nguyên lý
của thơ tượng trưng là nhạc tính - hơn thế: tinh tuý của âm thanh. Hai
là phải có tài mới làm được thơ tượng trưng. Remy de Gourmont, một
nhà văn và là một nhà tư tưởng hiện đại kích thước cỡ âu châu đã
nói: "II y a deux classes d écrivains, ceux qui ont du talent - les
symbolistes; ceux qui n’en ont pas - les autres". Ý ông muốn nói rằng
chỉ có hai hạng văn thi nhân: một hạng có tài là văn thi phái tượng
trưng, còn một hạng nữa là hạng không có tài: hạng không phải là văn
thơ tượng trưng. Ý tưởng ấy là một ý tưởng hơi quá đáng, nhưng nó
cũng phản ánh được thái độ của văn giới đối với thi phái tượng
trưng.
Có tượng trung Âu - Mỹ. Cũng có
tượng trưng Á Đông. Tôi nghĩ rằng về thi phái tượng trưng Á Đông -
thuần túy Á Đông - chúng ta có hai đại diện: Bích Khê và Hàn Mạc
Tử.
Tự thuở rất xa xưa, người làm thơ
đã làm nhạc. Ngày nay những ngày rất mới này, những nhà thơ tự do
bây giờ cũng vẫn tạo cho họ một nếp nhạc tính mới. Nhạc không phải
là một thực thể thẩm mỹ (entité esthétique) cố định muôn đời chỉ có
một, mà là một thục thể tiến hóa theo thông minh của con người: nhạc
không phải là âm thanh bằng trắc của cuối thế kỷ thứ 19 trở về
trước, mà cũng chẳng phải là âm thanh riêng trong những thính đường âm
nhạc của một địa phương nào bây giờ.
Lịch sử vẫn đi cái nhịp của nó:
người của thế hệ sắp tới sẽ đòi hỏi cho thính giác một thứ nhạc
tính mà hiện thời rất có thể là chúng ta đương... từ chối: Chứ sao!
Chỉ có người làm thơ giỏi và
người làm thơ dở mà thôi. Cũng như chỉ có thơ hay và thơ không hay. Có
lẽ Remy de Gourmont muốn nói rằng chỉ có một thứ thơ có nhạc tính
và một thứ thơ khô khan - nghĩa là một thứ thơ thiếu sáng tạo
(création). Và ý tưởng ấy là một ý tưởng nói cho cả muôn thuở, cho
cả ngàn năm... Cứ nghe thi bá Dante là người của thuở rất xa xưa nói
thì rõ, và chúng ta có thể kết luận với Dante rằng: thơ tượng trung
có từ thuở có thơ Lý Bạch, Bạch Cư Dị, Thôi Hiệu... đã là thi nhân
tượng trưng, vì thơ của các thi bá ấy đọc lên nghe như những giai âm:
những câu thơ... Bạch vân thiên tải không du du. Tình xuyên lịch lịch
Hán Dương thụ. Phương thảo thê thê Anh Vũ châu là gì, nếu không phải
là nhạc trước thính giác người đời xưa, người ngày nay và cả người
mai sau...
Chẳng có Baudelaire... thì chẳng có
Valéry và Valéry vẫn hãnh diện rằng mình là đứa con lộng lẫy cuối
cùng của dòng họ tượng trưng bên âu Mỹ. Còn Jacques Prévert không bao
giờ từ chối thơ ông là nhạc. Từ ngày Bích Khê làm thơ, chàng đã chú
trọng đến nhạc tính: bài thơ Đường xưa nhất và bài thơ dài dài ngắn
ngắn hay loạn nhất của Bích Khê sau này vẫn là những bản dàn quen
tai và lạ tai.
Chiến tranh thường vạch biên giới,
cho nên bỗng nhiên Bích Khê đứng ra một bên. Thực ra đừng có việc
những người gây lộn với những người, thực ra nếu ai cũng rủ nhau đi
tắm mát, lên nền Vũ Vu hóng gió rồi hát mà về... như ở một thời
thịnh trị thái bình nào đó và ở trong giấc mơ của thầy Tăng Điểm
thi những thi nhân như Bích Khê, đương có mặt đâu đây, sẽ có mặt đâu
đây...
Nhất là bên chàng có một người
rất có thế lực cũng làm thơ đầy nhạc tính Á Đông - tôi nói lại:
nhạc tính Á Đông - cho người Việt Nam là người Á Đông đọc: Hàn Mạc
Tử.
8/1/2017
Tam Ích
Theo http://www.chuyencafebuoisang.com/
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét