Thứ Năm, 22 tháng 10, 2020

Bích Khê (1916 - 1946)

 Bích Khê (1916 - 1946)

Nếu như những ánh sao băng có tạt 
ngang bầu trời và để lại chút dấu thời gian...

Bích Khê

Tên thật: Lê Quang Lương
Bút hiệu khác: Lê Mộng Thu
(24/3/1916 Quảng Ngãi - 17/1/1946 Quảng Ngãi)
Hưởng dương 30 tuổi. 

Nhà thơ
“Đề bia dựng trước mộ” 
Thân bệnh: ngô vàng mưa lá rụng
Bút thần: sông lạnh bóng sao rơi
Sau nghìn thu nữa trên trần thế
Hồn vẫn về trong bóng nguyệt soi

"Ta có thể sánh văn thơ của Bích Khê như đóa hoa thần dị... Và đem phân chất, ta sẽ thấy thơ chàng gồm có ba tính cách khác nhau: Thơ tượng trưng, thơ huyền diệu và thơ trụy lạc... Sự điên cuồng ấy uyên nguyên ở một phần thiên tài, và ở một phần sự "Đau khổ"...

Hàn Mặc Tử

Tỳ Bà

Tiếng hát Thái Thanh

Tỳ Bà

Thơ Bích Khê

Nhạc Phạm Duy

Tiếng hát Tấn Minh

Lời bài hát: Tỳ Bà
Bài hát: Tỳ Bà - Thái Thanh
Sáng tác: Phạm Duy; Thơ: Bích Khê
Nàng ơi! Tay đêm đang giăng mềm
Trăng đan qua cành muôn tay êm
Mây nhung pha màu thu trên trời
Sương lam phơi màu thu muôn nơi.
Vàng sao nằm im trên hoa gầy
Tương tư người xưa thôi qua đây
Ôi! Nàng năm xưa quên lời thề
Hoa vừa đưa hương gây đê mê.
Cây đàn yêu đương làm bằng thơ
Cây đàn yêu đương run trong mơ
Hồn về trên môi kêu: em ơi
Thuyền hồn không đi lên chơi vơi.
Tôi qua tìm nàng vay du dương
Tôi mang lên lầu lên cung Thương
Tôi không bao giờ thôi yêu nàng
Tình tang tôi nghe như tình lang.
Yêu nàng bao nhiêu trong lòng tôi
Yêu nàng bao nhiêu trên đôi môi
Đâu tìm Đào Nguyên cho xa xôi
Đào Nguyên trong lòng nàng đây thôi.
Thu ôm muôn hồn chơi phiêu diêu
Sao tôi không màng kêu: em yêu
Trăng nay không nàng như trăng thiu
Đêm nay không nàng như đêm hiu.
Buồn lưu cây đào tìm hơi xuân
Buồn sang cây tùng thăm đông quân
Ô! Hay buồn vương cây ngô đồng
Vàng rơi! vàng rơi: Thu mênh mông.

Bích Khê (1916-1946), tên thật là Lê Quang Lương; là một nhà thơ nổi tiếng thời tiền chiến. Ngoài bút hiệu Bích Khê, ông còn ký bút hiệu Lê Mộng Thu khi sáng tác thơ Đường luật.

Tiểu sử

Bích Khê sinh ngày 24 tháng 3 năm 1916 tại xã Phước Lộc, huyện Sơn Tịnh, tỉnh Quảng Ngãi. (1)

Thuở nhỏ, Bích Khê học tiểu học ở Phước Lộc và Đồng Hới, học trung học ở Huế, rồi ra Hà Nội học ban tú tài nhưng nửa chừng bỏ dở.

Năm 1931, 15 tuổi, ông đã biết làm thơ Đường luật, ca trù. Năm 1934, cùng người chị ruột tên Ngọc Sương vào Phan Thiết học thêm và mở trường dạy học tư.

Năm 1937, bị bệnh phổi, sau khi điều trị trở về lên sống trên núi Thiên Ấn thuộc Quảng Ngãi, ông lại ngược xuôi trên một chiếc thuyền quanh các ngả Sa Kỳ - Trà Khúc. 

Năm 1938, ông lại cùng chị Ngọc Sương vào Phan Thiết mở trường dạy học, được vài năm thì bị chính quyền Pháp ra lệnh đóng cửa.

Năm 1941, Bích Khê dạy học ỏ Huế. Năm 1942, bệnh phổi tái phát, ông trở về Thu Xà. Ông qua đời ngày 17 tháng 1 năm 1946, tại Thu Xà, hưởng dương 30 tuổi.

Tác phẩm

Trước khi đến với Thơ mới, một thời gian dài (1931-1936), Bích Khê đã viết ca trù, thơ Đường luật, và đăng trên các báo Tiếng Dân, Tiểu thuyết thứ Năm, Người mới... Sau 1937, ông chuyển hẳn sang làm "thơ mới" do sự tác động của Hàn Mặc Tử và chịu nhiều ảnh hưởng của nhà thơ vắn số này...

Các sáng tác của Bích Khê

Tinh Huyết

(1939)

Tác phẩm duy nhất ra đời khi ông còn sống 

và rất được người yêu thơ chú ý.

Tác phẩm chưa xuất bản

Tinh Hoa 

(Sáng tác từ 1938 đến 1944)

Mấy dòng thơ cũ 

(Tập hợp khoảng 100 bài thơ đường luật đã đăng trên các báo từ 1931-1936) [2]

Người lưu giữ thơ Bích Khê đầy đủ nhất là thi sĩ Quách Tấn. Năm 1971, Quách Tấn viết và cho xuất bản cuốn Đời Bích Khê. Năm 1975, ông cho in Thơ Bích Khê (Nhà xuất bản Nghĩa Bình, 1988) và Bích khê tuyển tập (Hà Nội, 1988)...

Thông tin liên quan

Bích Khê và Hàn Mặc Tử là hai số phận có những nét tương đồng: cả hai đều từ thơ cũ (thơ Đường luật) chuyển sang thơ mới, đều mắc bệnh nan y, đều tài hoa và chết trẻ.

Năm 1935, Hàn Mặc Tử ra Phan Thiết gặp Mộng Cầm, cháu Bích Khê, nên Hàn biết người cậu trẻ này. Buổi gặp gỡ giữa hai thi sĩ diễn ra khá nhạt nhẽo. Mãi đến năm 1937, khi Bích Khê đọc được những sáng tác của Hàn trong tập Đau thương (bản đánh máy), ông mới thực sự cảm phục mà thư từ qua lại.

Gần cuối năm 1938, Bích Khê gửi cho Hàn Mặc Tử nhiều thơ, bị trả lại kèm theo lời khiêu khích mỉa mai (cốt làm cho chàng tức). Ông xé nát tập thơ đó và thề là Trong sáu tháng sẽ trở nên một thi sĩ phi thường, bằng không sẽ chẳng bao giờ nghĩ đến chuyện làm thi sĩ nữa'. Ngờ đâu sự hằn học của chàng đã bật nẩy thiên tài của chàng ra...chỉ trong vòng ba tháng thôi, chàng đã viết được tập thơ bằng máu huyết, tinh tủy và châu lệ, tất cả say sưa đắm đuối của một tâm hồn thi sĩ...Cuối năm 1939, tập thơ ra đời với bài tựa do Hàn Mặc Tử viết, đã gây nên một làn sóng dư luận mạnh mẽ.

Sau, Mộng Cầm có chồng, thấy Hàn Mặc Tử cứ đau khổ mãi, trong một lần ra thăm, Bích Khê tặng cho Hàn bức ảnh của ông chụp với chị Ngọc Sương rồi giới thiệu là chị mình cũng am hiểu văn chương và rất thích thơ Hàn. Đối ảnh sinh tình, Hàn Mặc Tử viết bài Người Ngọc. Trong bài, hai chữ Ngọc Sương được lồng vào thơ một cách kín đáo: Ta đề chữ ngọc trên tàu lá - Sương ở cung thiềm giỏ chẳng thôi - Tình ta khuấy mãi không thành khối - Như giận đòi phen cắn phải môi... (khi biết chuyện, Ngọc Sương đã yêu cầu em dừng ngay trò mai mối lại).

Ngày 11 tháng 11 năm 1940, Bích Khê như người mất hồn vì sự ra đi của Hàn mặc Tử - người bạn thơ mà ông hết lòng mến yêu (3).

Và theo Trần Thị Huyền Trang, Hàn Mặc Tử mất (1940), Trường thơ Loạn bắt đầu tan rã. Mặc dù Yến Lan, Chế Lan Viên và Bích Khê vẫn chơi thân với nhau, song không còn ai tha thiết với việc duy trì hoạt động Trường thơ. Nó còn tồn tại một thời gian nữa, rải rác trong các sáng tác và kết thúc cùng với sự qua đời của Bích Khê vào năm 1946.

Thơ phổ nhạc

Dị khúc với Bích Khê: 

CD Phát hành cuối năm 2011, gồm 10 ca khúc do nhạc sĩ Phạm Duy phổ từ thơ Bích Khê, gồm Tỳ Bà (sáng tác năm 1969), và 9 ca khúc sáng tác năm 2011: Nghê thường, Tranh lõa thể, Tôi chết rồi, Sầu lãng tử, Hoàng hoa, Thi vị, Một cõi trời, Mơ tiên, Huế đa tình.


Chú thích:

1. Theo website Bích Khê [1].

2. Có một số tài liệu ghi Bích Khê còn có các tập thơ "Đẹp", "Ngũ hành sơn". Điều ấy không đúng. Đó chỉ là những cái tên mà ông dự định đặt cho tập thơ thứ hai, trước khi dừng lại ở cái tên chính thức: "Tinh Hoa". Bích Khê cũng không hề viết thiên tự truyện "Lột truồng" như có người đã nói (theo website Bích Khê [2]).

3. Hàn Mặc Tử, hương thơm và mật đắng, Nxb Hội nhà văn, 1990, tr. 56-57.

ĐÔI NÉT VỀ NHÀ THƠ BÍCH KHÊ

BÍCH KHÊ – THÂN THẾ VÀ SỰ NGHIỆP

Bích Khê tên thật là Lê Quang Lương, sinh ngày 24.3.1916 (tức ngày 21.2. năm Bính Thìn), tại quê ngoại ở xã Phước Lộc, nay là xã Tịnh Sơn, huyện Sơn Tịnh. Ông lớn lên và sống chủ yếu tại quê nội ở thị trấn Thu Xà, thuộc xã Nghĩa Hòa, huyện Tư Nghĩa, tỉnh Quảng Ngãi. Đó là một thị trấn cổ, có nhiều Hoa kiều đến sinh cơ lập nghiệp. Nhờ giao thông thuận tiện, có sông lớn, gần cửa biển, nên Thu Xà đã từng có thời kỳ rất sầm uất, buôn bán thịnh vượng, nhưng đã dần sa sút từ khi chiến tranh thế giới lần thứ hai nổ ra.

Bích Khê xuất thân từ một gia đình Nho học có truyền thống đấu tranh yêu nước cách mạng. Ông nội nhà thơ là cụ Lê Trọng Khanh đỗ cử nhân năm tự Đức thứ 21 (1868), làm quan đến chức viên ngoại lang Viện cơ mật. Trước tình hình nhà Nguyễn bất lực, hèn nhát, từng bước đầu hàng đế quốc Pháp, cụ cáo quan về nhà, rồi không bao lâu sau đã tuẫn tiết tại quê nhà, để khỏi cộng tác với Nguyễn Thân đánh phá phong trào Cần Vương, khi tên tay sai đắc lực của thực dân phong kiến này ép cụ ra làm tham biện sơn phòng Nghĩa - Định (Quảng Ngãi - Bình Định). Các thế hệ tiếp theo đều có người tham gia các phong trào đấu tranh yêu nước, cách mạng, từ các phong trào Đông du, Duy Tân, chống sưu cao thuế nặng, các hoạt động của Đông kinh nghĩa thục hồi đầu thế kỷ 20, như cụ thân sinh Lê Quang Dục, đến phong trào cách mạng do Đảng cộng sản lãnh đạo như người chị ruột rất gần gũi Lê Thị Ngọc Sương, như người em họ Lê Trọng Lào, một trong những người cộng sản đầu tiên của Quảng Ngãi…

Cũng cần nói thêm gia đình Bích Khê còn là một môi trường văn chương rất thuận lợi cho hoạt động sáng tác của nhà thơ: các anh chị đều là những người yêu thơ, hay làm thơ, trong đó người anh cả Lê Quang Thuần có nhiều bài thơ được đăng báo, và đã để lại một tập thơ nhan đề: “Tùng khê thi tập”.

Thông minh và hiếu học, cậu thiếu niên Lê Quang Lương đỗ đầu kỳ thi tiểu học Pháp - Việt tại Đồng Hới năm 1929, rồi tiếp tục học bậc trung học ở trường dòng Pellerin tại Huế, và chỉ trong ba năm đã hoàn thành chương trình bậc học này. Sau đó, anh ra Hà Nội học ban tú tài, song chỉ được một năm, anh thôi học, để chia sẻ số tiền chu cấp ăn học của gia đình với một người bạn nghèo và cùng bạn vào Phan Thiết sống trong gia đình người anh trưởng để cùng nhau tiếp tục tự học.

Năm 1934 để tự túc việc ăn học đỡ gánh nặng cho gia đình, Bích Khê cùng người bạn mở một trường tư thục đặt tên là Hồng Đức tại Phan Thiết. Cuối năm đó, người chị Lê Thị Ngọc Sương tham gia việc quản trị nhà trường bị mật thám Pháp bắt giải về giam ở Quảng Ngãi, vì trước đó bà đã từng hoạt động cách mạng ở đây. Sau một năm học, phần thì buồn vì các người thân bị ly tán (vợ chồng người anh cả cũng vì chuyện cô em mà cũng bị tình nghi, và bị đổi ra Mũi Né), phần thì chán nản về việc người bạn muốn chiếm độc quyền sở hữu nhà trường, Bích Khê bỏ trường ra đi, lúc đầu lên sống trong các ngôi chùa tại Phan Thiết, bắt đầu mối duyên nợ với đạo Phật.

Cuối năm 1935, ông về Thu Xà sống với mẹ nhưng không được bao lâu thì ông mắc bệnh lao phổi, một trong tứ chứng nan y lúc bấy giờ. Ông phải đi nằm điều trị tại bệnh viện lao P. Pasquier ở Huế hơn một năm trời. Khoảng hạ bán niên 1937, bệnh thuyên giảm, ông trở về quê. Để thay đổi không khí thuận lợi cho việc điều dưỡng bệnh, và cũng để tìm nguồn cảm hứng cho sáng tác, ông sống lãng du khi thì ở trong chùa trên các núi Thiên Ấn, Phú Thọ, khi thì trú trong một túp lều trên bãi biển, khi thì lênh đênh trên thuyền trôi nổi trên các khúc sông Trà Khúc.

Trở về nhà một thời gian ngắn, ông lại vào Phan Thiết dạy học ở trường Quảng Thuận do ông Lạc Nhân Nguyễn Quý Hương, người anh rể sau này của ông, đứng ra mở từ niên khóa 1938-1939. Chính trong hai năm này, Bích Khê đã dồn sức để hoàn thành tập thơ đầu của mình, và “Tinh Huyết” đã ra đời vào cuối năm 1939. Nhưng do trường có nhiều giáo viên, nhân viên có tên trong sổ đen của mật thám, hoặc vì có tư tưởng tiến bộ biểu hiện trong thơ văn đăng trên báo, nhất là báo “Tiếng dân” của nhà chí sĩ Huỳnh Thúc Kháng, như hiệu trưởng Lạc Nhân, như bản thân Bích Khê, hoặc vì đã từng tham gia hoạt động chính trị như bà Ngọc Sương-nhân viên quản trị nhà trường, nên nhà trường đã nhiều lần bị đóng cửa, và đến cuối năm 1939 thì bị đóng cửa hẳn.

Về Thu Xà được ít lâu, Bích Khê có vào Quy Nhơn thăm Hàn Mặc Tử, trước khi người bạn thơ thân thiết này vào bệnh viện phong Quy Hòa (20.9.1940). Sau đó ông được trường Phú Xuân ở Huế mời ra dạy. Nhưng chỉ được bảy tháng, sức khỏe giảm sút: bệnh lao bước vào thời kỳ thứ hai, ông lại thôi dạy trở về nhà.

Giữa năm 1942, bệnh trở nặng, ông phải vào bệnh viện P. Pasquier lần thứ hai. Được chừng tám tháng, cơ sở điều trị bệnh lao hiện đại vào bậc nhất Đông Dương này cũng đành bó tay, khi bệnh đã bước vào thời kỳ thứ ba. Và đây là lần trở về quê cuối cùng.

Các năm sau đó Bích Khê và gia đình đánh vật với cơn bệnh quái ác, nhưng đành chịu thất bại. Bích Khê đã lặng lẽ ra đi vào ngày 17.01.1946, lúc mới tròn 30 xuân! Bây giờ thời cuộc đang rất khẩn trương, bạn bè không ai hay biết. Vài năm sau, khi chuẩn bị cho hội nghị thành lập Chi hội văn nghệ Liên khu V, ban tổ chức có gửi đến Thu Xà giấy mời ông tham gia. Bà mẹ già cầm tấm giấy và nói trong nước mắt: “Nó đã chết rồi, còn sống đâu mà đi họp”.

Những cuộc tình duyên của Bích Khê:

Một trong những yếu tố có tác động mạnh mẽ đến sáng tác của Bích Khê là phần đời tình ái của ông. Cũng như người thầy Baudelaire của mình, trước sau Bích Khê có ba người yêu. Song tất cả đều lần lượt ra khỏi cuộc đời ông để lại trong tâm hồn ông những hình bóng sâu đậm, những nỗi đau buồn khôn nguôi.

Trước hết là một học sinh trường Hồng Đức có bí danh là Song Châu. Mối tình đầu có tính chất thơ ngây này diễn ra khoảng một năm, và đã chấm dứt khi ông bỏ trường ra đi, do hoàn cảnh lúc này của ông, và cũng do Song Châu còn quá trẻ, mới chí là “người mỹ nữ xuân mười bốn” (1). Tuy vậy ông đã dành cho mối tình này cả một chương trong tập “Tinh Huyết” với nhan đề “Châu”.

Người thứ hai là Thanh Thủy cũng quê ở Quảng Ngãi. Tuy đã quen biết nhau từ hai năm trước ở Mũi Né, nhưng đến năm 1937, khi tác ngộ trên con sông Trà Khúc, tình yêu giữa hai bên mới nảy nở. Tưởng chừng một cuộc hôn nhân sẽ xảy ra, vì Thanh Thủy yêu Bích Khê tha thiết, và gia đình cũng khuyên ông lấy vợ, nhưng không ngờ ông lại từ chối với lý do để giữ một thứ “tình yêu thơ mộng, tình yêu thuần khiết”! (Phải chăng bên trong có một lý do xác thực hơn là tình trạng sức khỏe suy yếu?”). Để an ủi Thanh Thủy đang đổ bệnh vì thất vọng, ông gửi tặng bài thơ “Ngón giai nhân” kết thúc bằng hai câu:

Tình anh lụy ngón giai nhân

Sống lìa nay được ấy ngần đoàn viên.

Người thứ ba có biệt hiệu là Ngọc Kiều (tên thật là Nhung) cũng là một học sinh, nhưng là một học sinh đã lớn theo học lớp buổi tối ở trường Quảng Thuận (1938-1939). Đây là một mối tình nồng nàn, chín   chắn. Gia đình nhà thơ tiến hành dạm hỏi, nhưng gia đình Ngọc Kiều từ chối vì chê Bích Khê nghèo. Ngọc Kiều đau khổ đến phát điên khiến gia đình hoảng sợ buộc phải chấp nhận gả con. Nhưng một bất ngờ lớn đã xảy ra: đến lượt Bích Khê từ chối cuộc hôn nhân, vì cảm thấy mình bị xúc phạm danh dự quá lớn. Dù người yêu hết mực van xin, dù bà con, bạn bè hết sức khuyên nhủ, Bích Khê kiên quyết giữ ý kiến của mình. Tuy không có cái may mắn như Song Châu chiếm trọn một phần trong tác phẩm “Tinh Huyết”, nhưng hình ảnh của Ngọc Kiều luôn hiển hiện hay bàng bạc trong nhiều bài thơ của Bích Khê. Có khi là cái tên thật được lồng vào một chi tiết của thiên nhiên: “Nhung mây tê ngời sao kim cương” (Nghê thường). Có khi là một hình ảnh huyền ảo: “Đào nguyên trong lòng nàng đây thôi” (Tỳ bà).

Ngoài ra Bích Khê còn có một mối tình đơn phương kín đáo nữa. Đó là một quả phụ còn trẻ rất mực đoan trang, đã từng tham gia dạy học ở trường Quảng Thuận. Mười năm sau khi Bích Khê mất, trong dịp đến thăm bà Ngọc Sương, Minh Sim – tên của người phụ nữ ấy – mới biết được chuyện này, và đau đớn nhận những bức thư chưa bao giờ được gửi đi, mà Bích Khê để lại trước khi mất.

Tiến trình sáng tác của Bích Khê:

Tiến trình sáng tác của Bích Khê có thể chia ra ba giai đoạn:

1. Giai đoạn “thơ cũ”: Bích Khê bước vào làng thơ rất sớm, khi còn ở tuổi thiếu niên. Từ những năm 1931-1932, ông đã có thơ đăng ở báo “Tiếng dân”. Cho đến cuối năm 1936, nhiều bài được sáng tác theo các lối Đường luật, từ khúc và hát nói của ông đều đặn xuất hiện trên mặt báo này, và đăng rải rác ở một số báo khác như “Phụ nữ Tân Văn”, “tuần báo Đông Tây” dưới các bút danh Lê Mộng Thu, Bích Khê. Tuy tuổi đời tác giả còn trẻ, nhưng nhiều bài thơ của ông đã đạt đến trình độ già dặn, và được nhiều bậc túc nho tán thưởng. Hấp thụ truyền thống yêu nước của gia đình, đồng thời chịu ảnh hưởng của cụ Phan Bội Châu. “thơ cũ” của Bích Khê nằm trong xu hướng văn chương “ưu thời mẫn thế” hồi mấy thập kỷ đầu thế kỷ 20.

2. Giai đoạn “Tinh Huyết”: Từ năm 1936, Bích Khê từ giã con sông dù sao cũng vẫn êm ả của “thơ cũ”, để nhảy vào dòng xoáy của “thơ mới”. Điều đó không có gì là lạ trong xu thế đổi mới tất yếu của thơ ca Việt Nam đường thời, mà Hàn Mặc Tử cũng là một trường hợp tiêu biểu. Có lạ chăng là một khi đã chuyển hướng, Bích Khê muốn vượt lên đi đến một cuộc “Duy tân” (tên một bài thơ nổi tiếng của ông) thật mạnh mẽ, sâu sắc và táo bạo đối với thi ca. Để làm việc này, Bích Khê đã tìm đến các trường phái thi ca hiện đại của Phương Tây cuối thế kỷ 19 - đầu thế kỷ 20: chủ nghĩa lãng mạn, chủ nghĩa tượng trưng, chủ nghĩa siêu thực. Đặc biệt ông chịu ảnh hưởng của mỹ học Baudelaire mà ông tôn làm “Vua thi sĩ” (“Người ăn mày” - “Tinh Huyết”). Nhưng ông không dừng ở đó, mà còn tiếp biến nhiều quan điểm nghệ thuật khác của các nhân vật cự phách thuộc các trường phái nói trên: Rimbaud, Verlaine, Mallarmé v.v… Đương nhiên ông không phải là người độc nhất trong số các nhà thơ đương thời đã tiếp nhận ảnh hưởng của phương Tây, nhưng ông là người hơn ai hết muốn đi đến tận cùng của lý thuyết các trường phái ấy.

Tuy nhiên, trong khi hướng mạnh về phương Tây, Bích Khê vẫn giữ những mối liên hệ mật thiết, bền chặt với các truyền thống văn hóa, văn học Phương Đông và dân tộc. Lý Bạch của Trung Quốc, Hồ Xuân Hương và Tản Đà của Việt Nam vẫn để những dấu vết sâu đậm trong thơ ông. Và nếu Hàn Mặc Tử tìm nguồn cảm hứng trong Thiên Chúa giáo, thì Bích Khê đến với Phật giáo và Đạo giáo.

Tất cả những điều này chi phối mạnh mẽ hoạt động sáng tác của Bích Khê, nhất là trong thời gian đầu của quá trình chuyển hướng sang thơ mới, mà kết quả là sự ra đời của tập thơ “Tinh Huyết” vào cuối năm 1939, tập thơ đã được Hàn Mặc Tử đón nhận như “Một bông hoa lạ nở hương” (Tựa tập thơ “Tinh Huyết”).

3. Giai đoạn “Tinh Hoa”: Từ sau “Tinh Huyết” cho đến lúc trút hơi thở cuối cùng, mặc dù sức khỏe ngày càng suy giảm, Bích Khê vẫn tiếp tục sáng tác. Nhưng giờ đây người ta sẽ bắt gặp một Bích Khê khác. “Tinh Huyết” là cả một bầu máu nóng của tuổi trẻ với những ưu điểm, nhược điểm của nó. Sự háo hức đi tìm cái mới lạ, sự sôi nổi trong cảm hứng sáng tạo, một mặt đem lại sức sống và tính độc đáo cho các bài thơ, nhưng mặt khác có lúc cũng dẫn đến những gì còn sượng, chưa nhuần nhị. Có thể nói đó mới là một cuộc thử nghiệm táo bạo. Đến “Tinh Hoa”, sự bồng bột ban đầu lắng xuống, những cái gì quá đà được gạn lọc để hiện lên một Bích Khê chín chắn hơn, cả về tâm hồn lẫn nghệ thuật. Một sự so sánh những bài thơ trong dạng ban đầu trong “Tinh Huyết”, với những văn bản đã được sửa đổi của chung in trong tập “Tinh Hoa” sẽ cho ta thấy một phần quan trọng của sự chuyển hướng ấy. Trong sự kết hợp Đông - Tây, nếu trước kia ảnh hưởng của phương Tây có phần mạnh hơn, thì bây giờ yếu tố “Đông” trỗi dậy để tạo ra sự hài hòa trong nội dung cũng như trong hình thức.   Nói cách khác, “Tinh Hoa” là một cuộc trở về: trở về với những lối thơ truyền thống cùng những âm hưởng quen thuộc, nhưng cấu trúc không hoàn toàn như cũ; trở về với cách nghĩ, điệu cảm quen thuộc nhưng với một tâm trạng của con người thời đại mới. Tuy nhiên ông vẫn giữ một sự nhất quán về những quan niệm nghệ thuật cơ bản của mình.

Có thể khái quát tiến trình thơ của Bích Khê như sau: “Tinh Huyết” là phủ định của “thơ cũ”, và “Tinh Hoa” là phủ định của “Tinh Huyết” vậy!(Dĩ nhiên, đây là phủ định theo kiểu triết học biện chứng “phủ định của phủ định”)

Cuộc đời của người thi sĩ tài hoa bạc mệnh quá ngắn ngủi, nhưng ông đã kịp hoàn thành ba tập thơ:

- “Những dòng thơ cũ” tập hợp các bài thơ cũ được sáng tác trong khoảng 1931-1936 chưa xuất bản.

- “Tinh Huyết” được xuất bản vào tháng 12 năm 1939

- “Tinh Hoa” (2) được xuất bản trọn vẹn vào tháng giêng năm 1997 (trước đó đã được trích đăng một số bài trên các sách, báo trước và sau 1975).

Chú thích:

1. “Tinh Hoa” - “Tấm bia trước mộ thơ”

2. Có một số tài liệu ghi Bích Khê còn có các tập thơ “Đẹp”, “Ngũ hành sơn”. Điều ấy không đúng. Đó chỉ là những cái tên mà ông dự định đặt cho tập thơ thứ hai, trước khi dừng lại ở cái tên chính thức: “Tinh Hoa”. Bích Khê cũng không hề viết thiên tự truyện “Lột truồng” như có người đã nói.

PHIÊN HỌP THỨ NHẤT HỘI ĐỒNG 

BIÊN SOẠN TỔNG TẬP BÍCH KHÊ

Hội đồng biên soạn kêu gọi các nhà nghiên cứu, các nhà văn và bạn đọc xa gần nếu có tư liệu quý về Bích Khê hoặc những bài viết, sáng tác, cảm nhận  về Bích Khê đã công bố trên các tạp chí trong và ngoài nước, xin gửi về địa chỉ thobichkhe@gmail.com để Hội đồng chọn lựa, sử dụng.


BÍCH KHÊ VÀ NHỮNG NGHI ÁN 

TẠI QUÊ HƯƠNG NÚI ẤN SÔNG TRÀ

Qua những hồi ức của nhà thơ Quách Tấn và Nữ sĩ Ngọc Sương cho ta thấy, dù chỉ ở độ tuổi đôi mươi, Bích Khê vẫn luôn chứng tỏ mình tự chủ, tự quyết và tự biết mình trong học tập, trong lập thân, trong văn chương, trong tình yêu, ngay cả trong cái chết. Và ngay trong Lời Tuyệt mệnh, Bích Khê đã tự đề thơ trên mộ chí của mình, như một dự báo đầy tự tin và thật ung dung tự tại của một nhà thơ hiên đại trên khu vườn thơ ca Dân tộc. Trong thơ và ngay cả trong đời sống, Bích Khê như người đạt đạo ở tuổi 30!.

http://www.bichkhe.org/images/pixel.gif

Trang thơ Bích Khê

Đây bản đàn thơ

Đèo Hải Vân

Đêm xuân đến thôn Vĩ Dạ nghe đàn sáo

Đề ảnh

Đăng lâm

Bán sầu

Bán thơ

Cùng người trong sách Tương Hội

Cảm hứng

Chùa Ông Thu Xà

Dặm mòn

Dưới trăng ngồi gảy đàn

Gửi Liên Tâm

Gõ bồn

Giọt lệ trích tiên

Giữa cây đào

Hai tiên nữ nhớ Lưu Nguyễn

Hoàng Hạc lâu

Không phải lúc

Lên Kim tinh

Mỹ tửu ca

Mộng Xuân Hương

Nam hành

Ngũ Hành Sơn

Ngũ Hành Sơn (hậu)

Ngũ Hành Sơn (tiền)

Ngón giai nhân

Nghe chuông

Nhặt hoa

Quán khách xuân về

Tình oán

Tình xuân

Tóc xõa đàn tơ

Tôi chết rồi tiếng nói như châu

Tấm bia trước mộ

Thơ đề trên bia mộ

Tiếng đàn mưa

Tiếng ca

Tinh chất ngàn xuân

Trên núi Ấn nhìn sông Trà

Trăng sáng bến đò xưa

Về Thu Xà cảm tác

Xuân hồng

Tinh huyết

 (1939)

Nhạc và lệ

Mộng cầm ca

Tỳ bà

Ảnh ấy

Nhạc

Tân hôn

Thi vị

Hiện hình

Cơn mê

Hoàng hoa

Cuối thu

Nghê thường

Đẹp và dâm

Tranh lõa thể

Mộng

Sắc đẹp

Mơ tiên

Bàn chân

Cùng một cô đào hát bộ

Quả măng cụt

Người say rượu

Cuồng và ánh sáng

Ăn mày

Sọ người

Sầu lãng tử

Đồ mi hoa

Cặp mắt

Nàng bước tới

Phương Thảo

Mộng lạ

Thơ bay

Cô gái ngây thơ

Một cõi trời

Trái tim

Châu

Châu I

Châu II

Châu III

Những bài thơ khác

Xuân tượng trưng

Duy tân

Hồ Xuân Hương

Hàn Mạc Tử

Huế đa tình

Làng em

Nấm mộ

Tham khảo thêm về nhà thơ Bích Khê

Bích Khê (1916-1946)

Thụy Khuê

Bích Khê tên thật là Lê Quang Lương, sinh ngày 24/3/1916 tại quê ngoại, xã Phước Lộc, quận Sơn Tịnh, nhưng lớn lên tại quê nội thị xã Thu Xà, xã Nghĩa Hòa. Hai nơi đều thuộc tỉnh Quảng Ngãi. Mất ngày 17/1/1946, tại Thu Xà.

Là con út trong gia đình tám anh chị em (4 chị, 3 anh), cha là Lê Mai Khê một nhà nho mất sớm và mẹ là bà Phạm Thị Đoan. Thủa nhỏ Bích Khê học ở Thu Xà, rồi Đồng Hới và lên trung học vào trường dòng Pellerin Huế. Sau ra Hà Nội học tú tài, ban Triết. Năm 1934, Bích Khê bỏ học, cùng người bạn vào Phan Thiết mở trường tư, vừa dạy vừa sáng tác trong 2 năm (1934-1936). Mắc bệnh phổi từ 1935 (19 tuổi). Phải điều trị ở bệnh viện lao Pasquier, Huế, trong hơn một năm (1936-1937). 1938 trở lại Phan Thiết mở trường dạy học lần thứ nhì (1938-1939) và xuất bản tập thơ đầu tiên: Tinh huyết (1939) do Hàn Mặc Tử viết tựa.

Năm 1941 về Huế dạy học, được ít lâu, bệnh phổi tái phát, lại phải trở vào bệnh viện Pasquier điều trị lần thứ nhì, năm 1942. Mất năm 1946, ở tuổi ba mươi, đúng lúc cuộc kháng chiến toàn quốc bùng nổ.

Làm thơ từ 15 tuổi (1931), theo các thể cổ điển như: Đường luật, từ khúc, hát nói, đăng trên các báo Tiếng dân (Huế), Phụ nữ tân văn (Sàigòn), và Đông Tây (Hà Nội). Khoảng 1936, Bích Khê chuyển sang Thơ mới.

Tập Tinh huyết (1939), là tác phẩm duy nhất được in khi Bích Khê còn sống.

Thơ ông không được nhắc đến trong một thời gian dài ở miền Bắc, phần vì người ta không hiểu thơ Bích Khê, nhưng lý do chính là chính trị: Bích Khê dịch cuốn Retour de L’U.R.S.S (Ở Nga về) của André Gide, viết năm 1936, kể lại nỗi thất vọng sau khi đi thăm "thiên đường cộng sản". Mặc dù chưa in, nhưng việc dịch này, kèm thêm sự kiện Bích Khê tỏ ý bất bình khi nghe tin Tạ Thu Thâu bị ám sát, đã khiến người ta liệt Bích Khê vào hàng ngũ phản động Trotskit, và tên tuổi ông bị chính thức loại ra khỏi danh sách những nhà thơ tiền chiến.

Năm 1966, tại Sàigòn, báo Văn (do Trần Phong Giao quản nhiệm) làm số tưởng niệm Bích Khê (số 64, ra ngày 15/ 8/ 1966), với những tư liệu do gia đình cung cấp và bạn thân viết. Nhờ những bài của bà Lê Ngọc Sương (chị ruột nhà thơ), của Tam Ích, của Quách Tấn... mà chúng ta biết rõ thêm những chi tiết về cuộc đời Bích Khê, và một số thơ của ông cũng đến được với độc giả.

Tập Tinh hoa xuất bản sau này, gồm hai phần: Một số làm sau Tinh huyết và một số đã có trong Tinh huyết, được sửa lại, hoặc cắt ngắn đi.

So sánh hai cuốn thì Tinh huyết vẫn là tác phẩm chính. Những sáng tạo mới đều nằm trong Tinh huyết. Tinh hoa trở lại gần với thơ truyền thống. Tinh huyết là thời kỳ sáng tạo sung mãn, có Hàn Mặc Tử khuyến khích. Bích Khê xuất hiện sau Hàn Mặc Tử vài năm, chịu ảnh hưởng thơ Hàn Mặc Tử. Tác phẩm của Bích Khê cũng chịu những chìm nổi, đau thương, như tác phẩm của Hàn Mặc Tử.

Tuy nhiên, trong Tinh huyết, Bích Khê đã hình thành cấu trúc thi ca của riêng mình, một cấu trúc hiện đại, khác hẳn các nhà thơ mới, mà cũng không giống thi pháp của Hàn Mặc Tử.

Thi pháp Bích Khê

Thơ Bích Khê là sự giao lưu giữa thơ cổ và thơ hiện đại, trong một kiến trúc âm nhạc và hội họa. Đặc biệt trong lối tạo hình, ông đã sử dụng một phương pháp mới, lúc ấy chưa thịnh hành ở Việt Nam: phương pháp cắt dán (collage).

Bài Tỳ bà của Bích Khê là một khúc ngâm mới, dựa trên tinh thần Tỳ bà hành.

Tỳ bà hành của Bạch Cư Dị, bản dịch của Phan Huy Thực (nhiều nơi vẫn còn ghi là của Phan Huy Vịnh, con trai Phan Huy Thực) có những lời tuyệt bút:

Nước suối lạnh, dây mành ngừng đứt,

Ngừng đứt nên phút bặt tiếng tơ.

Ôm sầu, mang giận ngẩn ngơ,

Tiếng tơ lặng ngắt, bấy giờ càng hay.

Bình bạc vỡ tuôn đầy dòng nước

Ngựa sắt giong, xô xát tiếng đao.

Cung đàn trọn khúc thanh tao,

Tiếng buông xé lụa, lựa vào bốn dây.

Thuyền mấy lá đông tây lặng ngắt,

Một vầng trăng trong vắt lòng sông 

(Tỳ bà hành diễn nôm)

Tỳ bà hành là sự giao hòa âm nhạc và cảnh sắc trong một bút pháp thần diệu. Bích Khê mượn tinh thần Tỳ bà hành, tức là tinh thần giao hòa âm nhạc và cảnh sắc, nhưng thay đổi toàn diện bối cảnh, kiến trúc âm nhạc và kiến trúc hình ảnh, để tạo ra một tác phẩm hiện đại:

Vàng sao nằm im trên hoa gầy

Tương tư người xưa thôi qua đây

Ôi! nàng năm xưa quên lời thề

Hoa vừa đưa hương gây đê mê

Tôi qua tim nàng vay du dương

Tôi mang lên lầu lên cung Thương

Tôi không bao giờ thôi yêu nàng

Tình tang tôi nghe như tình lang

Yêu nàng bao nhiêu trong lòng tôi

Yêu nàng bao nhiêu trên đôi môi

Đâu tìm Đào Nguyên cho xa xôi

Đào Nguyên trong lòng nàng đây thôi

Buồn lưu cây đào xin hơi xuân

Buồn sang cây tùng thăm đông quân

Ô! Hay buồn vương cây ngô đồng

Vàng rơi! Vàng rơi: Thu mênh mông (Tỳ bà)

Phạm Duy - vẫn Phạm Duy - là người duy nhất nghe thấy tiếng nhạc lạ trong bài Tỳ bà và ông đã tạo ra một ca khúc réo rắt, âm hưởng giao thoa kim cổ. Phải nghe Thái thanh hát Tỳ bà mới thấm được cõi nghệ thuật linh diệu của ba thiên tài: Bích Khê, Phạm Duy, Thái Thanh.

Kiến trúc âm nhạc trong Tỳ bà Bích Khê dựa trên âm bằng (dấu huyền hoặc không có dấu). Toàn bài hầu như không có âm trắc (sắc, hỏi, ngã, nặng). Lối lập âm này, trong thơ mới, có một số người đã làm (đặc biệt Phạm Huy Thông), nhưng không mấy ai thành công như Bích Khê. Vì chỉ có âm bằng nên nhạc thơ đổi cung bậc, không còn điệu cổ điển và cũng khác hẳn thơ mới.

Về mặt tạo hình, lần đầu tiên, trong Tỳ bà, một nghệ sĩ Việt áp dụng thủ pháp cắt dán: các hình ảnh được "cắt dán" rồi ghép cạnh nhau, cho nên ảnh sau không "liên hệ" gì đến ảnh trước. Ví dụ, trong câu Vàng sao nằm im trên hoa gầy, hai hình ảnh vàng sao và hoa gầy, chẳng dính dáng gì với nhau, nhưng được nhà thơ cho nằm im trên nhau. Sự kiện này hầu như không có trong thơ cổ điển và thơ mới. Vì trong cấu trúc cổ điển và lãng mạn, chữ đi đôi với nghĩa, cho nên các yếu tố chữ phải có liên hệ chặt chẽ, để tạo thành một câu "có nghiã". Trong khi "vàng sao nằm im trên hoa gầy" của Bích khê là một câu gần như "vô nghĩa".

Lại cần phải phân biệt một điểm nữa: việc Bích Khê đem hình ảnh sao vàng ở trên trời xuống, cho nó nằm im trên hoa gầy (dưới đất) là một động tác cắt dán; không giống với động tác của Hàn Mặc Tử trong những câu "Bóng nguyệt leo song rờ rẫm gối" hay "Bỗng đêm nay trước cửa bóng trăng quỳ/ Sấp mặt xuống uốn mình theo dáng liễu" là những động tác tưởng tượng. Và cũng không giống câu: "Bóng gương lồng bóng đồ mi chập chùng", Nguyễn Gia Thiều dùng biện pháp ẩn dụ: bóng gương để chỉ nhà vua, bóng đồ mi, người cung nữ.

Tóm lại, cùng mô tả một cảnh "mây mưa", mỗi nhà thơ có một thủ pháp khác nhau, để đi tới đích.

Những phương pháp khác nhau đó, phản ánh thời đại, lối viết, và cá tính của nhà thơ: Ôn Như Hầu dùng ẩn dụ, phong cách tạo hình trong thơ cổ điển. Hàn Mặc Tử dùng tưởng tượng, một phong cách sáng tạo hiện đại phát triển từ Thi sơn (Parnasse). Và Bích Khê dùng phương pháp cắt dán (collage) trong hội hoạ hiện đại (Matisse). Nhưng việc đặt những yếu tố hoàn toàn khác nhau cạnh nhau, còn là phương pháp của Siêu thực nữa.

Cho nên có thể nói rằng ngay từ năm 1936, Bích Khê đã áp dụng những phương pháp rất mới của Tây phương để làm thơ, trong một tinh thần hết sức Đông phương.

Cấu trúc gián đoạn

Hình ảnh trong thơ Bích Khê là do cắt dán lắp ghép. Hình ảnh trong thơ Hàn Mặc Tử là do tưởng tượng. Nhìn bề ngoài có vẻ giống nhau nhưng thật ra rất khác: Tuy Hàn Mặc Tử là "thày" của Bích Khê, nhưng thơ Bích Khê "hiện đại" hơn thơ Hàn, vì có thêm kỹ thuật cắt dán và siêu thực, mà Hàn chưa kịp tiếp thu, đã mất. Nhưng cùng trong hoàn cảnh bệnh hoạn, Bích Khê không cô đơn, tuyệt vọng như Hàn, nên thơ Bích Khê không đạt được mức đớn đau tuyệt đỉnh và tuyệt tác như thơ Hàn Mặc Tử.

Biện pháp siêu thực trong thơ Bích Khê hiện rõ ở cả chữ, lẫn câu: Ông không chỉ để hai hình ảnh khác nhau cạnh nhau, mà còn để cả hai câu thơ hoàn toàn khác nhau cạnh nhau, như:

Vàng sao nằm im trên hoa gầy

Tương tư người xưa thôi qua đây.

Câu trên mô tả sự khăng khít xác thịt: Vàng sao nằm im trên hoa gầy

Câu dưới: Tương tư người xưa thôi qua đây, mô tả sự tan vỡ.

Nói đúng hơn, vừa đang yêu: tương tư, vừa tan vỡ: người xưa thôi qua đây.

Bích Khê đã đảo lộn trật tự thời gian sống, để tạo một nghịch cảnh, nghịch lý mới: thường thì người ta tương tư, rồi khăng khít và sau cùng mới lìa nhau; đằng này, người ta khăng khít trước, rồi mới tương tư, rồi xa nhau.

Tóm lại câu thơ của Bích Khê không có logique, vì vậy mà Hoài Thanh và nhiều người khác đọc không hiểu. Hoài Thanh ca tụng câu:

Vàng rơi! Vàng rơi! Thu mênh mông!

Vì đó là câu thơ hay, dễ hiểu. Sau này người ta cứ chép lại lời Hoài Thanh như cái máy, và không cần tìm hiểu gì thêm nữa về thơ Bích Khê.

Tỳ bà là một trong những bài thơ đầu tiên của Việt Nam có cấu trúc gián đoạn: Bích Khê dán những chữ không liên lạc gì với nhau cạnh nhau, dán những câu không liên lạc với nhau lại gần nhau, để tạo ra những hình ảnh tuyệt vời, hoàn toàn siêu thực: tay-đêm, giăng-mền, trăng-đan, mây-nhung, thuyền-hồn...

Nàng ơi! Tay đêm đang giăng mền

Trăng đan qua cành muôn tay êm

Mây nhung phơi màu thu trên trời

Sương lam phơi màu thu muôn nơi

Cây đàn yêu đương làm bằng thơ

Dây đàn yêu đương run trong mơ

Hồn về trên môi kêu: em ơi

Thuyền hồn không đi lên chơi vơi

Thu ôm muôn hồn chơi phiêu diêu

Sao tôi không màng kêu: em yêu

Trăng nay không nàng như trăng thiu

Đêm nay không nàng như đêm hiu. (Tỳ bà)

Mỗi câu thơ của Bích Khê là một đứt đoạn: Bích Khê là nhà thơ tiên phong, đã đi trước thời đại, thể hiện sự đứt đoạn trong không gian và trong thâm hồn. Sự đứt đoạn của đời sống là một trong những khám phá của nghệ thuật hiện đại trong toàn bộ thơ, văn, nhạc, hoạ, từ đầu thế kỷ XX. Bởi mỗi ý nghĩ của chúng ta là một đứt đoạn, mỗi hình ảnh chúng ta nhìn thấy trong đời sống là một đứt đoạn.

Bích Khê đã nhìn thấy sự đứt đoạn đó từ những năm 1936-39. Và bẵng đi một thời gian dài, mãi sau này, ở miền Nam mới thấy xuất hiện trong thơ Thanh Tâm Tuyền, trong ca từ Trịnh Công Sơn, và ở miền Bắc, trong thơ Lê Đạt.

Không nên đọc thơ Bích Khê như thơ cổ điển hoặc thơ mới, vì Bích Khê không làm thơ theo logique truyền thống, nghĩa là thơ có mạch lạc có nghĩa. Nên đọc thơ ông như xem tranh: khi ấn tượng, khi lập thể, khi siêu thực, khi trừu tượng... và cuộc triển lãm này có nhạc đệm.

Khó phân biệt được lúc nào Bích Khê dùng bút để viết, lúc nào ông vung cọ để vẽ, lúc nào ông vung đũa để đánh nhạc.

Và cũng cần phân biệt nhạc trong thơ Bích Khê khác với nhạc trong thơ Hàn Mặc Tử: Nhạc trong thơ Hàn là nhạc thầm trong mỗi chữ. Nhạc trong thơ Bích Khê là nhạc nổi trong thanh âm lạ, âm bằng.

Ở những bài thật hay, thơ Bích Khê là sự hoà âm giữa các điệu nhạc cổ, như điệu Hoàng hoa, điệu Mộng cầm, với những màu sắc tân kỳ của hội họa hiện đại:

Lam nhung ô! màu lưng chừng trời;

Xanh nhung ô! màu phơi nơi nơi.

Vàng phai nằm im ôm non gầy;

Chim yên eo mình nương xương cây.

Đây mùa Hoàng hoa, mùa Hoàng hoa:

Đông nam mây đùn nơi thành xa...

Oanh già theo quyên quên tin chàng!

Đào theo phù dung: thư không sang!

Ngàn khơi, ngàn khơi, ta, ngàn khơi:

Làm trăng theo chàng qua muôn nơi;

Theo chàng ta làm con chim uyên;

Làm mây theo chàng bên nhung yên.

Chàng ơi! hồn say trong mơ màng,

- Hồn ta? hay là hồn tình lang?

Non Yên tên bay ngang muôn đầu...

Thâm khuê oan gì giam xuân sâu?

- Ai xây bờ xanh trên xương người?!

- Ai xây mồ hoa chôn đời tươi?! (Hoàng hoa)

Bài Hoàng hoa thể hiện rõ sự giao hưởng giữa thơ và họa. Nhà thơ như một cánh chim, bay qua những khung cảnh khác nhau, vẽ lại trước mắt ta những bức tranh khác nhau, trong cùng một khoảnh khắc: Vàng phai nằm im ôm non gầy/ Chim yên eo mình nương xương cây/ Đây mùa Hoàng hoa, mùa Hoàng hoa/ Đông nam mây đùn nơi thành xa...

Những bức tranh trên đây (phần nhiều là ấn tượng) chỉ khơi cảm xúc, mà không mô tả. Ví dụ, trong bức đầu: Vàng phai nằm im ôm non gầy

Người đọc, người xem, người nghe, không thấy rõ hiện tượng "vàng phai nằm im ôm non gầy" nó như thế nào, mà chỉ mơ hồ cảm thấy một ấn tượng nào đó.

Những câu thơ kế tiếp cũng thế: Chim yên eo mình nương xương cây, rồi Đông nam mây đùn nơi thành xa, toàn là những bức ấn tượng, mơ hồ như sương phủ.

Ấn tượng mờ sương

Vì đâu có cảm tưởng mờ sương tỏa lên từ những bức tranh?

Khảo sát kỹ hơn, trong Vàng phai nằm im ôm non gầy, sự mờ sương tỏa ra ở bốn chữ vàng phai nằm im.

- Ai nằm im?

- Một màu nằm im

- Màu gì?

- Màu vàng. Không hẳn thế, màu vàng phai.

Nhưng không ai biết và không ai có thể định nghĩa được màu vàng phai ấy như thế nào?

Và cũng không ai có thể hình dung "vụ" vàng phai đó nằm im trên non gầy đó, như thế nào? Ấy là chưa kể: non gầy là gì?

Các vị kiểm duyệt thơ hoặc phê bình thơ nhưng không biết thơ, thường hay phê câu này, câu kia vô nghĩa, là vì thế.

Cho nên, nếu không phải là thi-họa sĩ, thì không thể vẽ được những hình ảnh Vàng phai nằm im ôm non gầy, ấy.

Sự gợi hình trong thơ Bích Khê, luôn luôn bắt nguồn từ hội họa, từ cách tạo ấn tượng trong lòng người xem trước, rồi mới nghe và đọc.

Bài Hoàng hoa, không chỉ bắc cầu giữa hội họa và âm nhạc, mà còn là nhịp cầu kim cổ. Hoàng Hoa, vùng đất Trung Hoa, thời Chiến quốc và đời Đường thường có "rợ" Hồ quấy nhiễu. Hoàng Hoa là bãi chiến trường.

Hoàng hoa còn là cúc vàng. Hoa cúc nở mùa thu, mùa lá vàng và cũng là lúc các thanh niên, thời chiến quốc, đến tuổi đi lính phải nhập ngũ, đi "quân dịch", năm sau mới về. Vì vậy Hoàng hoa vừa là cúc vàng, vừa là bãi chiến trường, vừa là thời đi lính.

Trong Chinh phụ ngâm có câu:

Xót người lần lửa ải xa

Xót người nương chốn Hoàng hoa dậm dài

Chữ Hoàng hoa trong Chinh phụ ngâm có hai nghĩa: vừa là hoàng hoa thú (người lính thú ở chiến trường), lại còn có thể là trại cúc vàng, nơi người chinh phụ tựa cửa nhớ chồng ngoài quan ải.

Vì vậy, hai câu: Đây mùa hoàng hoa mùa hoàng hoa/ Đông nam mây đùn nơi thành xa... tưởng như không có gì liên hệ với nhau, nhưng thực ra đó chính là khúc chinh phụ ngâm mới của Bích Khê, ngẫu hứng từ những câu: Xót người nương chốn Hoàng hoa dậm dài và Trống tràng thành lung lay bóng nguyệt trong Chinh phụ ngâm.

Người chinh phụ ngày xưa, ngâm:

Thủa lâm hành oanh chưa bén liễu

Hỏi ngày về ước nẻo oanh ca

Nay quyên đã giục oanh già

Ý nhi lại gáy trước nhà líu lo

Thủa đăng đồ mai chưa dạn gió

Hỏi ngày về chỉ độ đào bông

Nay đào đã quyến gió đông

Phù dung lại đã bên sông bơ xờ (Chinh phụ ngâm)

Và người chinh phụ ngày nay, trong thơ Bích Khê, hát:

Oanh già theo quyên quên tin chàng!

Đào theo phù dung: thư không sang!

Ngàn khơi, ngàn khơi, ta, ngàn khơi:

Làm trăng theo chàng qua muôn nơi;

Theo chàng ta làm con chim uyên;

Làm mây theo chàng bên nhung yên

Cùng bối cảnh nhớ chồng đi chinh chiến, nhưng hai khúc ngâm, xưa và nay, khác nhau.

Và đây, cảnh chết chóc nơi chiến trường, trong Chinh phụ ngâm:

Non Kỳ mộ chỉ trăng treo

Bến Phì gió thổi đìu hiu mấy gò

Hồn tử sĩ gió ù ù thổi

Mặt chinh phu trăng dõi dõi soi

Chinh phu tử sĩ mấy người

Nào ai mạc mặt nào ai gọi hồn?

Trong thơ Bích Khê, sa trường là giao hưởng giữa những hồn ma chiến trường trong cơn ác mộng của người chinh phụ:

Chàng ơi! hồn say trong mơ màng,

- Hồn ta? hay là hồn tình lang?

Non Yên tên bay ngang muôn đầu...

Thâm khuê oan gì giam xuân sâu?

- Ai xây bờ xanh trên xương người ?!

- Ai xây mồ hoa chôn đời tươi?!

Ánh sáng trong thơ Bích Khê

Thơ Bích Khê là sự gặp gỡ hai không gian cổ điển và hiện đại, là sự hòa tan hai không gian ấy trong lòng chữ. Nhìn một lõa thể, một cảnh thu, một vũ khúc, Bích Khê không vẽ lại những ấn tượng ấy trong hiện tại mà ông đẩy lùi chúng về hàng trăm năm, hàng ngàn năm trước, rồi mới đem chúng vào thơ.

Ví dụ, nhìn một điệu múa, Bích Khê viết :

Ô trời hôm nay sao mà xanh!

Ngọc trăng xây vàng trên muôn cành,

Nhung mây tê ngời sao kim cương,

Dạ lan tê ngời say men hương;

Lầu ai ánh gì như lưu ly?

Nụ cười ai trắng như hoa lê?

Thủy tinh ai để lòng gương hồ?

Không gian xà cừ hay san hô? (Nghê thường)

Vũ điệu trong thơ không còn là vũ điệu trước mắt ta nữa mà đã trở thành vũ điệu nghê thường của Đắc Kỷ, Bao Tự... trên cung Quảng.

Nhưng những khơi gợi ấy, lần này đến từ ánh sáng, thứ ánh sáng mơ hồ huyền ảo của một đêm trăng giữa ban ngày: Ô trời hôm nay sao mà xanh!/ Ngọc trăng xây vàng trên muôn cành/ Nhung mây tê ngời sao kim cương. Tất cả những chữ: trời, xanh, ngọc, trăng, vàng, mây, ngời, sao, kim cương... trong ba câu thơ, đều tỏa sáng. Trong luồng sáng huyền ảo ấy, một đóa lan đêm (dạ lan) gây hương lạ trong câu thơ nối tiếp, chia thế giới làm hai: thế giới của ánh sáng và thế giới của bóng tối qua một chữ dạ (nghĩa là đêm): Dạ lan tê ngời say men hương. Rồi tiếp theo đó là một chuỗi những ánh sáng lạ khác:

Lầu ai ánh gì như lưu ly?

Nụ cười ai trắng như hoa lê?

Thủy tinh ai để lòng gương hồ?

Không gian xà cừ hay san hô?

Không thể biết những luồng sáng như ánh lưu ly, ánh hoa lê, ánh thủy tinh, ánh gương hồ, ánh xà cừ, ánh san hô... chiếu vào người đẹp trên lầu hay chính người đẹp trên lầu toát ra những ánh sáng huyền ảo ấy. Tất cả bí mật ở đây nằm trong ánh sáng và thơ dựa vào ánh sáng để hiện hữu, y hệt như trong hội họa ấn tượng. Nhà thơ chưa vẽ, chưa đả động gì đến người đẹp, nhưng nàng đã xuất hiện: một sự xuất hiện liêu trai, mờ ảo, nghê thường, qua ánh sáng của vật chất chung quanh.

Và đó là lối tạo chân dung bằng ánh sáng trong thơ Bích Khê.

Trong bài Hiện hình, lại một chân dung khác, vẽ theo lối hiện thực hơn:

Tôi ráp lại xem. Ồ! sự lạ!

Một người thiếu nữ hiện trong trăng.

Khăn hồng chùi lệ ngấn đôi mắt;

Da thịt phô bày ý tuyết băng.

Nường hé môi ra. Bay điệu nhạc

Mát như xuân mà ngọt tợ hương:

Ôi sao là khúc Ba sinh lụy

Rào rạt như đầy nỗi cảm thương

Tiếng ngọc, màu trăng quấn quýt nường

Phút giây người lộ mỏng như sương

-Nường tan ra nhạc? - tan ra nhạc!

Khung trắng trời mây trắng lạ thường! (Hiện hình)

Người con gái trong bức tranh này hội tụ hai yếu tố tiếng và màu: tiếng ngọc, màu trăng.

Không biết chân dung nàng được vẽ bằng nhạc hay nàng chính là âm thanh?

Dường như bút lông của họa sĩ chấm vào nghiên nhạc để vẽ ra chân dung nàng. Rồi cát bụi, nàng lại trở về với cát bụi:

- Nường tan ra nhạc? - tan ra nhạc!

Khung trắng trời mây trắng lạ thường!

Mỗi chân dung người đẹp mà Bích Khê phác lên thường có những nét Bích câu kỳ ngộ. Bức Tranh lõa thể là Giáng Kiều khỏa thân trong óc người con trai mới lớn đầy khát vọng nhục tình:

Nàng ở mô? Xiêm áo bỏ đâu dây?

Đến triển lãm cả tấm thân kiều diễm.

Nàng là tuyết hay da nàng tuyết điểm?

Nàng là hương hay nhan sắc lên hương?

Mắt ngời châu rung ánh sóng nghê thường;

Lệ tích lại sắp tuôn hàng đũa ngọc.

Đêm u huyền ngủ mơ trên mái tóc

Vài chút trăng say đọng ở làn môi.

Hai vú nàng! hai vú nàng! chao ôi!

Cho tôi nút một dòng sâm ngọt lộng.

Ôi lồ lộ một tòa hoa nghiêm động!

Tôi run run hãm lại cánh hồn si...

Ồ hai tay rơi chén ngọc lưu ly;

Ồ hai chân nở màu sen ẻo lả;

Cho tôi nàng! cho tôi nàng! tất cả...

Tôi miên man uống lại mộng quỳnh dao

Cho đê mê, chới với, hồn lên cao,

- Một tinh cầu sẽ tan ra biển lệ. (Tranh lõa thể)

Tranh lõa thể, một tác phẩm tuyệt vời mà âm nhạc và màu sắc dâng lên theo nhịp rung thể xác. Chàng trai đứng trong phòng triển lãm, trước bức tranh khỏa thân có dáng dấp của một người xưa, chàng vào mộng, trở lại hàng ngàn năm trước, sống lại giấc mơ Tú Uyên - Giáng Kiều.

Hoặc ngược lại, chàng chính là Tú Uyên, đứng trước bức họa Giáng Kiều vừa hoàn tất, chàng xao động bối rối, sống một giấc mơ mới mà nhịp độ thể xác đồng tiến với đam mê, với âm nhạc, màu sắc và thời gian.

Chàng đã vượt ra trên lễ giáo cổ truyền để tiến tới tự do nghệ sĩ, dám phô bày nhục cảm xác thịt của mình trên trang giấy: Tú Uyên đã "hiện đại hóa tư tưởng" của mình qua thơ Bích Khê: Bích Khê nói hộ người xưa những ẩn ức dục tình của họ bằng tiếng thơ đời nay.

Đôi mắt Bích Khê

Châu, bài thơ cuối trong tập Tinh huyết là một trường khúc, diễn tả hành trình sáng tạo của Bích Khê, hành trình biến hóa từ chữ sang châu. Bài thơ có ba phần:

Phần I, định nghĩa những cái đẹp: Đẹp câm trong pho tượng. Đẹp huyền ảo của người trong mộng. Đẹp rã rượi của tiếng đàn, của đôi mắt mùa thu. Đẹp đau thương trong đôi mắt lệ, biến thành giọt châu.

Phần II, sự chuyển hóa từ cái đẹp sang cảm xúc và rung động trong tâm hồn nhà thơ.

Phần III, sự biến hóa những tinh lực, những rung động trong tâm hồn nhà thơ thành những giọt châu.

Đối với Bích Khê mắt là tác nhân chính và châu là thành quả của sáng tác.

Bích Khê coi mắt và châu như những tinh thể của thi ca.

Mắt nơi Bích Khê, tương đương với tưởng tượng nơi Hàn Mặc Tử.

Nếu Hàn Mặc Tử dùng óc tưởng tượng để sáng tạo thì Bích Khê dùng mắt để làm thơ.

Và đó là sự khác biệt sâu xa giữa hai người: Tất cả tinh anh nơi Bích Khê tụ vào đôi mắt. Nếu ai gần Bích Khê, chắc không thể nào tránh khỏi bị cuốn hút bởi đôi mắt. Ngày nay, chúng ta chỉ còn lại tấm ảnh duy nhất, chân dung một thiếu niên, có đôi mắt to đen đẹp tuyệt vời.

Bích Khê đã diễn tả hành trình sáng tạo của mình như sau: Trước tiên nhà thơ tiếp nhận những cảm xúc của thiên nhiên và đời sống, rồi nhập đồng trong tâm hồn:

Tôi dường nghe trong một phút mê man

Hồn thanh thiên cho đến phách dương gian

Đều vỡ lở cho rung rinh thần thức

- Một thế giới mờ đi trong sáng đục

Và im hơi cho xuất khí âm hư...

Từ vùng đồng thiếp ấy, đánh lên những âm giai và màu sắc, và những yếu tố này đọng lại trong ánh mắt, rồi từ tinh cầu mắt đó, biến thành những giọt châu thơ:

Sao? Màu nàng vấn vít lấy màu thơ

Với tình tiết và tên hoa vô thượng

Với đôi mắt đẹp câm trong sắc tượng

Biến ra châu nguyên vẹn cốt thiên đàng

Nên Thiên Tài đang tắm ở suối vàng

Theo trực giác bay lên nguồn ngọc lệ

Như thế, mỗi lần nhả châu trong mắt ngọc, thiên tài phải chết đi trong đê mê huyền bí, trong giếng loạn của tâm hồn:

Cho đã khát trong đê mê huyền bí

Ánh tiên tri nức nở sóng anh linh

Đường kinh tuyến hút nhiễm chất vô hình

Dẫn địa ngục đi vào đôi giếng loạn?

Đỉnh hoang loạn thể xác và tâm hồn cũng là đỉnh thơ: muốn đạt tới thơ, tức cõi châu, nhà thơ phải thăng hồn tới cực của đớn đau hoang loạn, tới sự mất trí, tới sự rã rời thể xác, tới xuất huyết, tới địa ngục và thiên đàng:

Tôi chết ngay đây chẳng nói rằng

Cả mình lạnh khớp đến hàm răng

Thần gì đã xuất ra đôi mắt

Vội đẩy hồn tôi tới bóng giăng

Một bóng giăng rồi một bóng giăng

Hồn vẫn phiêu lưu rất nhẹ nhàng

Đến mút không gian là bát ngát

Một trời thơ mộng đẹp mê man

Và trong vùng ánh sáng và âm thanh thần tiên ấy, đôi mắt thần tiên hiện ra:

Bỗng khúc dương cầm nấc tiếng thu

Bỗng đôi mắt ngọc hiện xanh mờ...

Và châu và báu và thanh khí

Nức nở tan thành vạn giọt thơ

Đạt đến cõi thơ, mọi sự lại bắt đầu trở lại.

Toàn bài thơ là hành trình của sáng tác, trong một vòng tử sinh huyền bí:

Tối hôm nay mùa thu đang ảo não

Trong gió rên và trong lá vàng bay

Mỗi gân trắng rúng rẩy một luồng say

Mỗi hơi thở hoa hồng vang nức nở

Và mạch máu không gian dường vỡ lở

Hú ma điên... kinh động vạn hồn đau

Muôn u phiền đầy đặc ứ trong đầu

Muôn sầu hận xây mồ ngay giữa phổi

Tôi ngây ngất trong bể lòng sôi nổi

Để hồn mê trôi dạt cõi xa mơ

Mình lặng ngồi trên tảng đá trơ vơ

Tình khóc mướt trong đêm thu ấp ủ

Đôi mắt Bích Khê chính là nguồn sáng tạo, nguồn khổ đau và hạnh phúc. Chưa ai hỏi mắt mình: Người là ai? Nhà thơ cũng không biết rõ nguồn sáng trong đôi mắt ấy từ đâu đến và sẽ dẫn mình đến đâu? Đôi mắt là cửa sổ của linh hồn như người ta thường nói, nhưng linh hồn Bích Khê là một cõi huyền bí xa lạ, của một cuộc đời ngắn ngủi trên dương gian, nhưng vô tận ở cõi siêu hình:

Hỡi đôi mắt! Nơi người là ngọc thạch

Nơi giếng người phản chiếu ảnh thiên thần

Nơi suối người giữ kín tiếng châu ngân

Nơi triển lãm cả một bầu tiên động

Nơi rung rinh cả một trời thơ mộng

Người là ai? Người hỡi! Người là ai?

-Nhưng đôi mắt lờ lặng và mê say

Nhìn đắm đuối không một lời náo nức

Nhạc khiêu vũ đâu đây lan sóng múa

Tôi tưởng chừng... da thịt biến ra thơm

Những đầu lâu rã hết khí xanh dờn

Những xiêm áo bay rờn trong cảnh mộng

Cả địa ngục đi vào trăm lỗ hổng

Bắn tinh ra trộn trạo giữa nguồn hương

- Hỡi đôi mắt! hồ thủy tinh trong suốt

Soi trần gian địa ngục vạn đời ma

Hãy nói tên thần bí của muôn hoa

Hãy kể hết nhiệm mầu muôn thế giới

Những bí quyết khí nhạc lên vời vợi

Những màu thiêng khi đau khổ lên cao

Những thơm ngào phối hiệp giữa trăng sao

Những khoái trá truyền qua hai xác thịt

Bằng hơi điện - bằng hơi điên tha thiết

Người là ai? người hỡi! người là ai?

- Nhưng đôi mắt lờ lặng và mê say

Nhìn đắm đuối, không một lời náo nức

Bích Khê, ngàn đời sau vẫn còn là vì tinh tú mới, chiếu vào cõi thơ, bằng đôi mắt ngọc của một thiên thần, biến chữ thành châu.

Thụy Khuê

Nguồn: http://thuykhue.free.fr/stt/b/BichKhe3.html

Mùa thu nhớ thi sĩ Bích Khê (1916 -1946)

Đinh Cường

Thi sĩ Bích Khê

(Ảnh gia đình BK tặng DC)

Ô! Hay buồn vương cây ngô đồng

Vàng rơi! Vàng rơi! Thu mênh mông 

(Tỳ Bà - Bích Khê)   

Bích Khê tên thật là Lê Quang Lương, sinh ngày 24 tháng 3 năm 1916 tại xã Phước Lộc, huyện Sơn Tịnh, tỉnh Quảng Ngãi trong một gia đình Nho giáo, cha là ông Lê Mai Khê, mất sớm, mẹ là bà Phạm Thị Đoan. Ông nội làm quan dưới triều Tự Đức. Ông thân sinh là người thông uyên Hán học, có dự vào những cuộc vận động xuất dương của cụ Phan Chu Trinh.

Gia đình gồm 8 anh chị em, Bích Khê là con út. Anh chị em Bích Khê phần đông đều có tâm hồn văn nghệ. Gia đình không được giàu có, nhưng vì là con út nên Bích Khê được hưởng đầy đủ sự nuông chiều. Lớn lên tại quê nội ở thị xã Thu Xà, một làng ở gần biển cách tỉnh Quảng Ngãi 10 cây số với người anh trưởng và hai người chị, còn người chị kế ở Sài Gòn.

Thi sĩ Bích Khê đã ra chào đời giữa hai yếu tố thiên nhiên: núi và sông. Sông Trà Khúc xanh trong uốn mình giữa hai ngọn núi Thiên Ấn, Thiên Bút. Mà sau này lớn lên Bích Khê đã cảm hứng làm bài thơ Đường sau đây:

Trên Núi Ấn Nhìn Sông Trà

Trà giang Thiên Ấn chuông gầm sóng

Vang tiếng ngàn năm đất Cẩm thành

Ngàn năm quả Ấn nằm trơ mốc

Một giải sông Trà chảy rậm xanh

Xót hồn cổ độ sương vài giọt

Xịch bóng tà huy nguyệt mấy canh

Nghìn dặm cổ nhân đâu có tá?

Cánh chim kêu lạnh đập trong cành.

Khi còn nhỏ, Bích Khê đã tỏ ra thông minh xuất sắc nhưng rất biếng học. Bị thầy quở phạt luôn vì tội không thuộc bài. Có lần không chịu đi học, Bích Khê bị mẹ bó tròn vào cột đánh. Sau đó Bích Khê mới bắt đầu lo học và ham học. Đúng 13 tuổi, ra Đồng Hới học tiểu học. Vài tháng sau hai đầu gối bị sưng to nên phải vào nằm nhà thương. Nơi đây Bích Khê vừa rên vừa học. Năm sau Bích Khê đỗ đầu kỳ thi Tiểu học Pháp-Việt toàn tỉnh. Gia đình cho ra Huế theo ban Trung học tại trường dòng Pellerin.

Học xong ban Thành chung vào năm 1932, Bích Khê lại ra Hà Nội học tư.

Về văn chương, tài năng của Bích Khê phát triển rất sớm. Năm 12 tuổi thiên tài Bích Khê đã phát lộ trong một vài bài thơ Đường luật mà ông thân sinh phải ngạc nhiên, nên hễ có bạn đến chơi nhà là ông đem khoe tài con mình.

Nét mặt lúc nào cũng trầm buồn, cuộc đời Bích Khê luôn luôn thay đổi và kéo dài những chuỗi ngày đau yếu.

Nhân dịp hè, Bích Khê rời Hà Nội, xin ở nhà tự học dư tiền nuôi một người bạn nghèo. Tuy gia đình không bằng lòng, Bích Khê vẫn thực hiện theo ý muốn. Tháng sau, Bích Khê cùng người bạn vào Phan Thiết sống với người anh ruột đang làm việc tại đó. Bích Khê luôn luôn hy sinh vì bạn. Sợ cuộc sống không được đầy đủ, Bích Khê bàn với bạn mở một trường tư. Nhờ sự vận động của người chị và sự giúp đỡ của 2 anh, trường được mở. Bích Khê thấy cần phải sống tự lập nên cùng chị và bạn đi ở riêng. Người chị mở cửa hàng bán dụng cụ học trò để giúp sự sống cho trường lúc ban đầu chật vật.

Trường mở được 2 năm, Bích Khê rời Phan Thiết trở về quê sống với mẹ. Gia đình dọn riêng cho Bích Khê một chái rộng với một giường ngủ, một bàn viết và hai ghế ngồi. Với tính rụt rè, Bích Khê ít giao thiệp nên chẳng quen mấy ai. Sống cạnh mẹ hiền và say đắm với nàng thơ, cửa phòng Bích Khê luôn luôn khép kín mài miệt đến nỗi đau ngực, gia đình đưa ra Huế soi điện mới biết là phổi yếu, nên Bích Khê phải nằm dưỡng bệnh ở đây hơn một năm. Bệnh lành Bích Khê lại về sống bên mẹ. Lúc ấy vào năm 1936. Lần này, Bích Khê xin mẹ lên núi ở. Chán núi Bích Khê lại xuống biển, và sau cùng lại đòi vào ở hẳn trong chùa, ăn trường trai và tụng kinh Phật. Ở chùa lâu ngày Bích Khê cảm thấy câu kinh tiếng mõ làm át tiếng thơ, hồn thơ không được phóng túng, nên lại rời khỏi cảnh tịch mịch ấy, trở về với tổ ấm gia đình.

Bích Khê sống mát mẻ bên lòng mẹ, lòng chị. Nhờ hoàn cảnh tốt, tình gia đình đậm đà nên Bích Khê ở nhà được một thời gian khá lâu. Trong thời kỳ này ông sáng tác rất nhiều thơ Đường luật, gửi đăng ở các báo Tiếng Dân, Tiểu Thuyết Thứ Năm, Người Mới với bút hiệu Lê Mộng Thu hoặc Bích Khê. Bích Khê đã tỏ ra rất xuất sắc ở những bài thơ ấy và rất được hoan nghênh [1]. Cho nên thơ Đường ]cũng đã chiếm một địa vị quan trọng trong thi nghiệp Bích Khê. Sau Bích Khê chuyển sang làm thơ mới như các thi sĩ Thế Lữ, Lưu Trọng Lư, Huy Thông, Thái Can… và gửi đăng báo Phụ Nữ Tân Văn ở Sài Gòn.

Bích Khê bắt đầu đọc say mê Paul Valéry, Mallarmé, nghiên cứu Baudelaire, Verlaine, Rimbaud. Năm 1938, nhân có một tâm trạng buồn, Bích Khê lại rời gia đình vào Phan Thiết, và lại mở tư thục để kiếm sống. Trường càng ngày càng đông học sinh, nên phải mở thêm lớp học tối để dạy các học trò lớn. Và chính ở lớp tối này đã để lại trong cuộc đời tình ái Bích Khê một cuộc tình duyên hết sức thơ mộng mà cũng là một kỷ niệm đầy đau thương. Trong số học sinh lớp tối, Bích Khê để ý đến một cô học trò tên N., cô này có cử chỉ dịu dàng và tính nết dễ thương, rồi Bích Khê yêu, yêu với lòng chân thành, si mê. Tuy là thầy nhưng Bích Khê không lớn tuổi hơn N. lắm, và N. đã đáp lại bằng một niềm yêu thương thầm kín. N. đẹp, có đôi mắt thật buồn—buồn như biết trước chuyện tình sẽ tan vỡ, dù rằng mối tình trở nên khăng khít giữa hai người. Thời gian làm tăng thêm sự thắm thiết ấy. Vì cảm thấy cần phải gần nhau hơn trong cuộc đời, nên Bích Khê và N. định việc kết hôn. Bích Khê biên thư bày tỏ cùng gia đình. Bà thân mẫu mừng khi hay tin con mình chịu lấy vợ. Bích Khê vẫn thường nói không thích lấy vợ. Bà liền vào Phan Thiết để cậy người đến hỏi ý kiến gia đình N. nhưng một sự bất ngờ mà chính Bích Khê tưởng không thể xảy ra được, là gia đình N. từ chối, bảo rằng đã hứa với một người khác. Trước sự phản đối và ép buộc của gia đình, N. bạo dạn bày tỏ là chỉ yêu một mình Bích Khê thôi. Gia đình vẫn không chịu, N. buồn ốm nặng và như phát điên, thuốc thang vẫn không khỏi. Gia đình N. thấy con càng ngày càng rối loạn thần kinh nên đành ưng thuận cho người mời gia Bích Khê đến tính việc hôn nhân. Nhưng vì lòng tự ái quá cao, Bích Khê từ chối. Sau đó Bích Khê và N. vẫn thường thư từ an ủi nhau và thỉnh thoảng gặp nhau thương khóc cho mối tình. Cũng từ đó, thơ đau thương của Bích Khê tuôn ra lai láng. Bích Khê thường liên lạc với thi sĩ Hàn Mặc Tử ở Quy Nhơn để trao thơ mình cho Hàn xem. Chính Hàn Mặc Tử đã khích lệ Bích Khê rất nhiều. Hàn biết Bích Khê có tài nên càng khiêu khích để Bích Khê nảy bật tài ra:

“Suốt trong năm 1938, tôi hết sức khích lệ chàng, mong mỏi ở chàng một thi sĩ xuất sắc, cao cường. Cái hy vọng của tôi sốt sắng quá, nóng nảy quá, đã một lần đưa tôi vào sự thất vọng chán chê và tức bực. Gần cuối năm ấy, chàng gửi ra cho tôi nhiều thơ, mà tôi chẳng lựa được bài nào cả. Tôi gửi trả lại chàng kèm với bức thư mà tôi đã dùng rất nhiều lời khiêu khích mỉa mai (cốt làm cho chàng tức). Quả nhiên chàng giận run người lên và vội trả lời thề với tôi rằng: Trong sáu tháng sẽ trở nên một thi sĩ phi thường, bằng không sẽ chẳng bao giờ nghĩ đến làm thi sĩ nữa.

Ngờ đâu sự hằn học của chàng đã bật nảy thiên tài của chàng ra. Không đợi đúng sáu tháng, chỉ trong vòng ba tháng thôi, chàng đã viết được một tập thơ, viết bằng máu huyết tinh tủy và châu lệ, và tất cả say sưa, đắm đuối của một hồn thi sĩ.” (Bích Khê, thi sĩ thần linh, bài của Hàn Mặc Tử trong tạp chí Trong Khuê Phòng số 98 ngày 10/6/1939) [2]. Cuối năm ấy, thi phẩm Tinh Huyết ra đời [3] Bích Khê không muốn sống nghề dạy học ở Phan Thiết nữa, cùng chị về Quảng Ngãi rồi lại cùng bạn làm một cuộc sống gần miền Nam để sáng tác và dịch sách.

Bích Khê gửi thư cho André Gide xin dịch quyển “Retour de L’ U.R.S.S” [4] (Ở Nga về). Tác giả từ Algérie gửi thư sang cho phép. Dịch xong nhưng không có tiền xuất bản, bản thảo cũng bị thất lạc sau nhiều lần gửi gắm.

Năm 1940, Bích Khê trở về sống với người anh thứ ở Sông Cầu rồi về Thu Xà để dự lễ cưới của chị. Cũng trong năm đó, chứng bệnh đau phổi trở lại với Bích Khê. Bích Khê lại ra Huế. Nằm chữa bệnh tại bệnh viện lao Pasquier một thời gian rồi về nhà tự điều trị. Thấy Bích Khê yếu nhiều, gia đình thêm lo lắng. Người chị đã đi theo chồng nhưng vẫn về an ủi và chăm sóc em thật chu đáo.

Sau những ngày chán chê cuộc sống, yếu đi vì đau ốm, tâm hồn Bích Khê bắt đầu thấy cô đơn. Chiều chiều Bích Khê ra sân ngồi nhìn bốn phương trời như tìm kiếm những người bạn thơ xa xôi. Lòng ao ước gặp lại một người quen trên dặm mòn:

Ôi chiều mùa thu sao mà buồn

Tầng khói biếc đầy… tràn về thôn

Dòng sông như đờ không muốn chảy

Có phải hôm nay chở nặng hồn?

Gió về mang cả mùi lăng tẩm

Buồn cắt lên đền những miếng đen

Người viễn khách, lòng sầu vạn cổ

Dặm mòn muốn gặp một người quen!

Thỉnh thoảng thơ Quách Tấn gửi đến, Bích Khê đọc rồi họa lại, thấy đỡ buồn hơn. Có lần Chế Lan Viên đến thăm, Bích Khê mừng ra nước mắt.

Mặc dù thuốc thang đầy đủ, tẩm bổ rất nhiều nhưng càng ngày Bích Khê càng xanh xao tiều tụy. Một hiện tượng lạ là cách bốn, năm năm trước, khi nằm dưỡng bệnh lần đầu ở nhà thương Huế, Bích Khê nằm mộng thấy một nàng tiên hiện ra giơ cao tay rải những mảng bông vải. Bông bay trắng xóa rồi rơi xuống đất ráp lần thành chữ và thành bốn câu thơ. Bốn câu thơ ấy cho Bích Khê biết là sẽ chết vào Lập Xuân. Vì thế nên cứ năm nào đau, Bích Khê cũng ngại mùa xuân. Nhưng bao mùa xuân qua Bích Khê vẫn sống, nên hết tin ở cái chết vào mùa xuân của mình.

Đến năm 1945, điều mộng ấy lại tái hiện một hôm, giữa đêm trăng sáng, Bích Khê bảo người nhà dìu ra sân ngắm trăng. Ánh sáng xanh dịu của trăng đã khêu lại tâm sự ngày cũ. Mối tình xưa, người xưa lại trở về sống trong hồn thi sĩ. Sáng hôm sau Bích Khê trao cho chị bài thơ “Làng Em” và nói: “Em mong một bóng hình trở lại, nhưng em biết không bao giờ”:

Nơi đây: làng cũ buồn thu quạnh!

Anh có khi nào trở lại chưa?

Ngày đi chậm lắm. Dòng sông biếc

Hừng sáng trong trời sợi sợi mưa.

Nơi đây: thành phố đời ngừng mạch

Mấy nàng lai khách vẫn buồn mơ

Đường lên hội quán sương khuya xuống

Đâu mấy chàng trai rõi nhớ hờ?

Anh có khi nào còn trở lại,

Chờ lúc hoàng hôn trăng đã lên

Tìm ngõ nhà em anh sẽ thấy

Khóm lan thơm nặng khí ưu phiền

Là lúc đêm về trên mái ngói

Những nhành nhãn muộn cánh dơi bay

Em đang nổi bệnh trong phòng vắng

Tình đệm theo trăng sáng sáng đầy…

(Trong tập Tinh Hoa, chưa xuất bản)

Rồi như là trăng sao mang niềm cảm nghĩ ấy đến cho N. Một hôm, thình lình Bích Khê nhận được thư N. gửi thăm, cho biết đã có chồng và hai con. Nàng xin phép Bích Khê cho nàng được đến thăm, vì tình xưa vẫn không chết trong lòng nàng. Bích Khê nửa mừng nửa ngại. Cả nhà đều vui mừng sắp được tiếp N., vì cho đó là niềm an ủi cuối cùng cho những ngày tuyệt vọng của Bích Khê. Thư trả lời đồng ý. N. từ Sài Gòn ra Thu Xà. Hai người gặp nhau nghẹn ngào. Ở lại Quảng Ngãi mấy hôm rồi nàng từ giã, để lại cho khóm lan bên ngõ một hồn đau, một xác gầy. Bích Khê tiễn nàng ra cửa với một cảm giác vĩnh biệt. Cách mười hôm sau Bích Khê nhận được một giỏ cam của N. từ xa gửi về, và cũng từ đó Bích Khê không bao giờ trông thấy bóng nàng nữa…

Sức khỏe mỗi ngày một xuống, căn bệnh lại càng tăng lên. Bích Khê cảm thấy thất vọng, tìm đủ cách đánh bại vi trùng, nên ai bày gì Bích Khê đều bảo gia đình làm theo và dù thuốc cay đắng, nhờm gớm thế nào Bích Khê cũng uống được. Bích Khê còn chịu khó theo phương pháp nằm luôn trên giường (repos absolu) không đi đứng nữa. Chính phương pháp này đã làm cho các gân tê bại, nên có lúc Bích Khê không đứng vững được. Bài thơ rải bông trong mộng lại nhắc nhở cho Bích Khê chết ở Lập Xuân. Bích Khê tin là mình chết ở mùa xuân này: “Xuân năm nay chắc quá chị ạ. Vì đã biết sức em”. Tháng sau Bích Khê trao cho chị hai bài thơ “Nấm mộ”:

Mây, tuyết, thời gian bay tợ nhạc

Hồn tôi đã thoát để tiêu dao!

Những tờ thơ nát đầy hơi hám

Tay khách đa tình sẽ chuyển trao

Rồi những mùa thu vô hạn thương

Trở về dưới biếc chập chờn hương

Mùa thu ám ảnh nhà thi sĩ

Muốn thổi tiêu vàng giữa khói sương

Gió tiêu sẽ quạt buồn thanh tịnh

Về chốn thôn già viếng mả tôi

Dẫy cỏ xôn xao, mây lớp phủ

Trên mồ con quạ đứng im hơi. [5]

(Trong tập Tinh Hoa, chưa xuất bản)

“Đề bia dựng trước mộ” gồm có 4 câu:

“Thân bệnh: ngô vàng mưa lá rụng

Bút thần: sông lạnh bóng sao rơi

Sau nghìn thu nữa trên trần thế

Hồn vẫn về trong bóng nguyệt soi”

Bệnh tình Bích Khê càng đi lần vào tuyệt vọng. Gia đình vẫn lo đầy đủ cho đến phút cuối cùng. Vì Bích Khê biết trước cái chết của mình nên vẫn tươi tỉnh nói chuyện nhiều và vui vẻ an ủi gia đình. Bích Khê cứ luôn tụng niệm “Di Lạc Tôn Phật” và tin tưởng ngày nhắm mắt có Phật đến rước. Nhờ sức tin tưởng mãnh liệt ấy, nên sự chết đối với Bích Khê như Bích Khê sắp trở về quê, cái quê hương đầy hương hoa phúc hạnh. Qua mùa đông, trời bắt đầu lập xuân. Bích Khê sửa soạn cho mình cái chết. Bích Khê xin mẹ may một bộ đồ trắng mới và gọi chị lại nhờ chép lời di chúc trao cho mẹ, căn dặn mẹ phải làm đúng.

Đây là những lời di chúc của Bích Khê để lại:

1. Khi chết không được khóc

2. Chết xong lịm liền chôn liền

3. Đám rất giản dị, một cái hòm vừa kín, một tấm drap đắp điếm thi hài và khi chôn không cờ trống.

4. Những bà con, bạn bè đến phúng điếu, tiền bạc không nhận, phải đem trả tận nhà.

5. Ngày cúng giỗ chỉ một nén hương, một bình hoa, không cúng cơm cá.

6. Tập thơ “Tinh Hoa” chị và anh rể mang quyền xuất bản

Một tối sau khi ăn cháo xong, Bích Khê gọi mẹ lên ngồi một bên, nói cho mẹ biết là còn ba ngày nữa, nhằm ngày rằm, Bích Khê sẽ chết. Và nói cho người xuống chùa Phú Thọ xin phép mời một vị sư, bạn cũ của Bích Khê, lên ở với Bích Khê 3 ngày đêm để tụng kinh cho Bích Khê nghe. Đến đêm thứ ba thì Bích Khê trút hơi thở cuối cùng. Đúng như lời Bích Khê nói. Lúc ấy là 12 giờ khuya ngày 15 tháng 12 năm Ất Dậu (tức ngày 17-1-1946). Cái chết đến với Bích Khê nhẹ nhàng quá, nhưng cũng chua xót làm sao. Người ta nghĩ đến bệnh lao. Nghĩ đến những thi sĩ, văn sĩ chung số phận: John Keats, Thạch Lam, Vũ Trọng Phụng… Và nhất là với tuổi 30-tuổi mà những thiên tài thường về với Trời-Khi mùa xuân tới, khi cảnh vật chung quanh hồi sinh lại thì Bích Khê qua đời. Bích Khê qua đời giữa mùa xuân tao loạn, nên ngày chết bạn xa không ai về được. Nấm mộ được đặt trên miếng đất của Hội Quán ở Thu Xà. Và qua mười năm khói lửa cũng chỉ một con quạ đứng im hơi trên nấm mồ…

Bích Khê và Thơ

Tác phẩm Bích Khê gồm có:

• Tinh Huyết (thơ) xuất bản năm 1939

• Đẹp-1949-thơ chưa xuất bản

• Tinh Hoa-1938 -1944-thơ chưa xuất bản

• Ngũ Hoành Sơn (thơ) chưa xuất bản

• Lột Truồng (thiên tự thuật) chưa xuất bản

• Mấy dòng thơ cũ (1931-1936) không xuất bản

Nói đến thơ Bích Khê, tôi nghĩ ngay đến nguồn thơ tượng trưng trong đó gồm có đủ những chất huyền diệu và trụy lạc, có đủ màu sắc trừu tượng và cụ thể. Hàn Mặc Tử đã ví thơ Bích Khê như một đóa hoa thần dị, một thứ hương quý trọng, thơm đủ mọi mùi phước lộc. Hoài Thanh cho rằng: “Tôi đã gặp trong Tinh Huyết những câu thơ hay vào bực nhất trong thơ Việt Nam:

Ô! Hay buồn vương cây ngô đồng

Vàng rơi! Vàng rơi! Thu mênh mông”

(Thi nhân Việt Nam, trang 237)

Ở đây chúng tôi thấy cũng cần phải nhắc đến 2 bài thơ Pháp, đã bắt đầu cho nguồn thơ tượng trưng và huyền diệu ấy là Charles Baudelaire (1821-1867) tác giả “Les Fleurs du Mal” (1857) mà Arthur Rimbaud đã gọi là “Nhà tiên tri, Vua thi sĩ, Một vì Chơn Chúa” (Le premier voyant, Roi des poètes, Un vrai Dieu) và Paul Valéry (1871-1945) tác giả tập thơ “Charmes” (1922) mà Bích Khê đã ít nhiều chịu ảnh hưởng, nhưng “chịu ảnh hưởng với một tài trí thông minh, khiến người đọc chỉ biết phục thiện mà không dám chê. Vẫn biết tài bắt chước mô phỏng, ai cũng có thể làm được, song lẽ nếu không phải một chân tài, sự mô phỏng sẽ trở nên vụng về sống sượng”.

(Hàn Mặc Tử - Tựa tập Tinh Huyết, trang VIII)

Với Tinh Huyết [6] tập thơ làm bằng tim, óc, thịt và máu, cùng những ý tưởng thanh cao và tội lỗi. Bích Khê yêu một thể thơ trụy lạc và nghệ thuật đi đến chỗ thắm chín tuyệt đích. Thơ Bích Khê ví như cái cầu vồng, đi từ mầu trắng bâng khuâng tới mầu gay gắt, ray rứt, điên cuồng, chỉ khi nào hiểu mới thấy được những màu kia. Bích Khê đã phát ra một sự rung động mới mẻ (un frisson nouveau), thường dùng những biểu tượng (symboles) để diễn tả - nghĩa là dùng những hình ảnh và những ý tưởng khác lạ có đủ ma lực gợi ra hay làm sáng tỏ đối tượng. Ta hãy nghe Bích Khê bày tỏ sự trần truồng một cách rất thanh tao:

Dáng tầm xuân uốn trong tranh Tố nữ

Ô tiên nương! Nàng lại ngự nơi này?

Nàng ở mô? Xiêm áo bỏ đâu đây?

Đến triển lãm cả tấm thân kiều diễm.

Nàng là tuyết hay da nàng tuyết điểm?

Nàng là hương hay nhan sắc lên hương?

Mắt ngời chân rung ánh sóng nghê thường;

Lệ tích lại sắp tuôn hàng đũa ngọc.

Đêm u huyền ngủ mơ trên mái tóc

Vài chút trăng say đọng ở làn môi.

(Tranh lõa thể - Tinh Huyết trang 41)

Thi sĩ họa với tiếng, tìm góp mùi hương vào trong nhịp và chữ. Với những hương, những sắc, thi sĩ đã dùng các biểu tượng “đũa ngọc” để ví với hàng nước mắt, “tuyết” là da nàng; thi sĩ còn thấy nhan sắc lên hương và nhìn mái tóc đen mướt u huyền mà tưởng chừng như đêm đang ngủ mơ. Bài thơ vì thế trở nên huyền diệu, cám dỗ được ngũ quan ta. Ngoài hình ảnh tân kỳ, biểu tượng đặc sắc, thơ Bích Khê còn hay về nhạc điệu. Bích Khê coi nhạc điệu là một yếu tố cần thiết trong việc truyền cảm. Bích Khê đã dùng những vần, những tiếng có âm thanh phù hợp với ý để tạo ra một âm điệu thần tình. Mơn man ta như một điệu đàn ngọc, một nỗi buồn rất Đông Phương trong bài Tỳ bà:

Vàng sao nằm im trên hoa gầy

Tương tư người xưa thôi qua đây

Ôi! Nàng năm xưa quên lời thề

Hoa vừa đưa hương gây đê mê

Tôi qua tim nàng vay du dương

Tôi mang lên lầu lên cung Thương

Tôi không bao giờ thôi yêu nàng

Tình tang tôi nghe như tình lang

Yêu nàng bao nhiêu trong lòng tôi

Yêu nàng bao nhiêu trên đôi môi

Đâu tìm Đào nguyên cho xa xôi

Đào nguyên trong lòng nàng đây thôi.

Buồn lưu cây đào xin hơi xuân

Buồn sang cây tùng thăm đông quân

Ô! Hay buồn vương cây ngô đồng

Vàng rơi! Vàng rơi! Thu mênh mông

(Tinh Huyết trang 25)

Lời thơ êm như nhung, buồn tẻ như hoàng hôn, đằm thắm phát từ những khúc đàn cổ như Lạc Mai Hoa, Hoàng Hoa, Trường Hận Ca… Thật là cả một trời yêu thương buồn da diết. Nhưng âm nhạc vốn là tiếng nói chung, nên Bích Khê lại sành cả những điệu đàn Tây Phương nữa. Bài nhạc dưới đây với những vần và ý thật mới lạ:

Ô! Nắng vàng thơm… rung rinh điệu ngọc,

Những cành hồng đơm, những cành hồng đơm

Nhẹ nhàng, nhịp nhàng thở đều trong sương;

Màu trăng không gian như gờn gợn sóng.

Từ ở phương mô nhạn mang thơ về,

Đàn thơ cơ hồ lên cung âm điệu.

Đây giây trinh bạch khóc mướt trong mơ;

Đây hồn ngọc thạch xanh xao như tờ?

Ồ côi lầu mây ánh gì kim cương,

Áo nàng thơ ngây nao nao nghê thường.

Thơ bay! Thơ bay vô bàn tay ngà,

Thơ ngà ngà say! Thơ ngà ngà say!

Nàng ơi! đừng động… có nhạc trong giây,

Nhạc gây hoa mộng, nhạc ngát trời mây,

Nhạc lên cung hường, nhạc vô đào động,

Ô nàng tiên nương! hớp nhạc đầy hương.

(Tinh Huyết, trang 28)

Tác giả cho ta nghe thấy những âm thanh trầm bổng xôn xao, lời thơ mát mẻ và hơi thơ lướt thướt như những bản đàn của Schumann, Beethoven, Liszt…

Và trong bài “Mộng cầm ca” có những câu thơ láy đi láy lại rất khéo:

Trăng gây vàng, vàng gây lên sắc trắng

Của gương hồ im lặng tợ bài thơ.

Chân nhịp nhàng, lòng nghe hương nằng nặng

Đây bài thơ không tiếng của đêm tơ.

Trăng gây vàng, vàng gây lên sắc trắng

Của hồn thu đi lạc ở trong mơ…

(Tinh Huyết trang 24)

Âm điệu phảng phất như âm điệu tiếng nhạc Valse trong bài “Harmonie du Soir” của Baudelaire:

“Voici venir les temps où vibrant sur sa tige

Chaque fleur s’évapore ainsi qu’un encensoir;

Les sons et les parfums tournent dans l’air du soir;

Valse mélancolique et langoureux vertige!

Chaque fleur s’évapore ainsi qu’un encensoir;

Le violon frémit comme un cœur qu’on afflige;

Valse mélancolique et langoureux vertige!

Le ciel est triste et beau comme un grand reposoir.”

(Les fleurs du Mal. Trang 158, phần Spleen et idéal )

Nhờ có nhạc điệu, thi sĩ đã truyền sang tâm hồn người đọc một cách dễ dàng. Cho nên Bích Khê còn là một nhạc sĩ. Bích Khê đã đi tìm cái Đẹp, cái Thực theo đúng bản thể của nó. Nên ngoài âm thanh ra, Bích Khê còn làm sáng tỏ những đối tượng bằng màu sắc hoặc trừu tượng hoặc cụ thể. Bích Khê yêu cảm sắc đẹp thắm chín của đàn bà, những âm điệu êm trong cùng những cơn mê ám kỳ dị. Bích Khê đã nói lên những cái bên trong, vĩnh cửu của tâm hồn mình. Đem những cái nhơ bẩn, những tiếng nói câm kết thành Tình, thành Nhạc, khiến cái vô hình trở nên hữu hình. Bích Khê đã làm những việc mà người khác không làm được, như Paul Valéry đã thấy: “Theo mắt tôi thấy, người ta biết thi sĩ ở những cái mà họ tôn sùng và những chỗ phóng khoáng của họ, những cái không giống với phần đông mọi người.” (Le poète, à mes yeux se connaît à ses idoles et à ses libertés, qui ne sont pas celles de la plupart.)

Bích Khê đã đem vào trong thơ những trạng thái khác thường và đặc biệt của trí não, bày tả cái cụ thể rất tầm thường nhưng ta vẫn tìm được một cảm giác mới, là nhờ tác giả đã truyền sang cho chúng ta một nguồn cảm tinh thần:

Ô cặp mắt đa tình ngời sắc kiếm!

… Một bàn chân ve vuốt một bàn chân!

Mát làm sao! mát rợn cả châu thân -

Máu ứ lại, máu dồn lên giữa ngực.

Ôi! thớ thịt có đàn lên cung bực

Hồn tôi ôm gót ngọc, lắng âm thanh…

(Bàn Chân - Tinh Huyết trang 48)

Với những màu sắc mầu nhiệm:

Ô trời hôm nay sao mà xanh!

Ngọc trăng xây vàng trên muôn cành

Nhung mây tê ngời sao kim cương,

Dạ lan tê ngời say men hương;

Lầu ai ánh gì như lưu ly?

Nụ cười ai trắng như hoa lê?

Thủy tinh ai để lòng gương hồ?

Không gian xà cừ hay san hô?

(Nghê thường - Tinh Huyết trang 37)

Thơ Bích Khê là cái hợp đề của muôn vàn sự thắc mắc, xao xuyến trong lòng, trong hồn, trong da thịt, với sắc màu đậm đà, huyền diệu, đã đem lại cho người đọc một cái gì mới mẻ, mà trong đó hồn thơ, điệu thơ, ý thơ đã gây nên bởi cái cảm giác thông minh, thành thật . Thơ siêu việt của Philippe Soupault cũng bắt đầu từ cái thật, do đó những tâm hồn khát khao nguồn Đẹp tìm thấy ở Bích Khê một sự khoái trá vô cùng.

Ta vừa ra khỏi địa hạt huyền diệu, địa hạt mà “Bích Khê muốn đi đến chỗ người ta thường cho là cao nhất trong thơ tượng trưng: Mallarmé, Valéry.”

(Hoài Thanh - Thi nhân Việt Nam - trang 33)

Bây giờ ta hãy vào thăm địa hạt trụy lạc của Bích Khê, nơi mà thi sĩ đã đụng chạm trụy lạc và thanh cao, vật dục và tinh thần, thi sĩ đã đắm chìm vào ảo mộng có khi đến phi luân lý. Nhưng vì “Dù phải bị tử hình hay trụy lạc, Thơ không thể hòa hợp với khoa học hay luân lý. Thơ không có thực tế làm đối tượng, thơ chỉ là thơ” (La poésie ne peut pas, sous peine de mort ou de déchéance, s’assimiler à la science ou à la morale. Elle n’a pas la Vérité pour objet, elle n’a qu’Elle-même. - Baudelaire-Les Fleurs du Mal, trang 23)

Đây là cơn mê của người ham khoái lạc: 

“Tôi vồ người như một miếng mồi ngon;

Miệng ngậm hờn riết chặt lấy môi son;

Mắt đổ lửa lườm qua làn sóng sắc…

Tôi giật nẩy rồi cười lên sằng sặc,

Hai tay cào đôi vú trắng như bông”.

(Xác thịt)

Sắc dục tỏa ra mãnh liệt đến điên cuồng:

“Người đã ôm một sắc đẹp trong người

Cho mơ màng cho rạo rực no tươi…

Một xác thịt trần truồng cho rởn óc

Một tình dục cho miệng sang hơi độc

Đến hả hê nên cười sặc như điên” [7].

Chưa đủ, thi sĩ còn muốn cho não cân tẩm thuốc phiện, và mạch máu ngấm đầy rượu nồng:

Còn đây! còn đây! tiếng rượu hú ma -

Tứ thuốc phiện thu nhập khí mồ hoa;

Ừ, tội chi ta không vào địa ngục

Đặng xin nốt ngọc oan ương thề thốt,

Giam chung thân mà sáng quá thiên đường;

Đặng ngủ nhờ một đêm với Xuân Hương.

Baudelaire! Người là Vua Thi Sĩ!

Cho xin chụm bao nhiêu mùi thi vị

Phà hơi lên, truyền nhiễm thấu trần ai…

(Ăn mày - Tinh Huyết trang 71)

Để rồi:

“Rạng mai có kẻ đi về đấy

Ôi! người say rượu chết nằm queo!

Ngọc sương nức nở tan thành lệ!

Hơi rượu say nồng vẫn quyện theo!”

(Người say rượu - Tinh Huyết trang 54)

Hình ảnh “người say rượu chết nằm queo” gợi nhớ đến cái chết của một Tản Đà, một Edgar Poe… Ở những bài thơ dâm cuồng này, ta thấy Bích Khê rất giống Baudelaire, là tuy dâm cuồng nhưng “gợi dục tình thì ít, mà là cho người ta ghê rợn đến gớm guốc cái cảnh trần truồng khả ố thì nhiều” (Hàn Mặc Tử - Tựa tập Tinh Huyết, trang XVII)

Và đôi lúc ta cũng gặp được cái chất trụy lạc rất thầm kín, rất Lý Bạch:

Ồ! Mộng đêm thu, mây vút xa,

Say sưa lộ sắc cạnh Đào hoa:

A ha! Lý Bạch! hồn ba lệ!

Rượu nốc vào: rung khúc đập ca…

Mộng trắng phau phau, vót cung nga:

Xuân Hương! người ngọc, máu say ngà!

Nhấn dây tơ loạn, - buồn lơi lả,

Đờn phất hương trăng, nẩy điệu ra…

(Mộng - Tinh Huyết, trang 43)

Nhưng nếu Tội Lỗi đã có trong thơ thì Đạo Đức cũng là một nguồn cảm hứng. Vì thế, Bích Khê đã biết hướng hồn mình về một yếu tố duy nhất để chuộc lỗi, yếu tố ấy đã khơi dậy ở những cái gì sáng láng, thanh cao:

Thơ Bay

Thơ bay lên trên đỉnh núi Nga my

Gạ chơi mây nước phương phi -

Lột mầu sắc tướng trong ni;

Mộng qua, bắt mộng đồ mi lờ đờ!

Thơ bay lên tới động Dương Quí Phi

Gạn xin nước mắt lưu ly -

Của không nàng tiếc làm chi!

Mắt tôi ráo lệ lấy gì xốn xang!

Thơ bay lên cho đến gã Vương Duy

Ghé xem bức tranh Quí Phi -

Tinh thần lộ cả uy nghi;

Càn khôn chụp ở hàng mi trập trùng!

Thơ bay lên cho đến chàng Phụng Kỳ

Gạn nghe thần nhạc lâm ly -

Ánh ra màu sắc tinh vi:

Rưng rưng yến sáng những gì chiêm bao!

Thơ bay về tắm mát suối âm ty

Xác tôi chết lạnh trôi đi -

Lấy ai siêu độ từ bi;

Hồn xiêu hồn đến quy y bên nàng!

(Tinh Huyết trang 74-75)

Ở điểm này ta thấy Bích Khê đã chịu ảnh hưởng của Hàn Mặc Tử.

Thơ Bích Khê đầy những hình ảnh tân kỳ: Nhạc và Lệ, Đẹp và Dâm, Cuồng và Ánh sáng và Châu họp lại thành một dòng Tinh Huyết, mà Bích Khê đã say mê đắm đuối đến điên cuồng vì thơ. Nhưng rồi, khi nghệ thuật đã đến chỗ thắm chín, thơ Bích Khê sẽ đi đến đâu?

Cũng như những thiên tài khác, sau khi đã sống, đã chán chường cõi đời ô trọc, thi sĩ cảm thấy tâm hồn mình cần phải siêu thoát nên đã nâng thần trí và hồn tính lên với Trời, hướng đến vô cùng. Nhưng như Chateaubriand tìm mãi cái vô cùng (vers l’infini) không thấy, thi sĩ mới nhận ra rằng chỉ còn một thế giới đời đời là Tôn Giáo mới làm thỏa mãn được tâm hồn mình. Trái với Hàn Mặc Tử là người của Thiên Chúa Giáo, Bích Khê hướng về Phật giáo để ca ngợi cái huyền bí tuyệt đích.

“Lúc trăng lên vừa có ngọc ra đời:

Ngọc thơm tho như là hương trinh nữ;

Ngọc cao quý ánh muôn màu cẩm tú,

Yến hào quang nẩy bật miếng phong cầm;

Ngọc đây là thâu góp vị muôn xuân

Và anh hoa của một bầu nhược thủy;

Ngọc mầu nhiệm nên pháp danh Như ý,

Kết tinh bằng tứ tượng với âm dương;

Ngọc chơn nhơn cho phật tử cúng dường

Và chiêm ngưỡng giữa kỳ hoa dị thảo;

Ngọc là chúa của kim cương thất bảo

Chan chói ra trùm suốt cả không gian,

Lĩnh hội từ hơi thở của đêm vàng

Đêm huyền diệu của một trời châu báu;

Ngọc có thân xẻ ra muôn mạch máu

Mớm cho người lạnh ớn cả hàm răng;

Ngọc chia hồn để nhập mỗi đường trăng

Cho trăng sửng, trăng rờn, trăng chuyển động.

Ngọc phép tắc trổ ra muôn sắc tướng

Chạm vào người rún rẩy cả châu thân;

Ngọc đồng trinh nên thanh bạch trăm phần;

Ngọc ra đời - Tình tôi run đến óc…”

(Ngọc - Tinh Huyết trang 72-73)

Thi sĩ cho rằng:

“Có say khướt mới đào muôn tứ ngọc;

có điên rồ mới hớp trăng sao;

có dâm cuồng mới dâng cả lên cao.

Nơi chu lưu một nguồn thơ bất tuyệt

Nơi trí người tạo ra rồi xóa hết,

Nghiễm nhiên người là chúa tể vô biên”

Và đã tự hào:

“Ta là Thơ! Phàm tục hãy quy y

Ta sáng suốt chiếu ra mầu Phật tánh”

Sau mấy năm khắc khoải với vi trùng lao, Bích Khê chết. Bích Khê để lại cho N. một tình yêu bất diệt. Và để lại cho trần gian những tác phẩm quý hiếm.

Đời Bích Khê ngắn ngủi, buồn đau, tuy rằng được mẹ và chị chiều chuộng. Nhưng dù buồn đau, Bích Khê cũng đã hướng lòng lên cao để đạt đến cái Đẹp và cái Thật. Bích Khê đã sống và chỉ sống vì Thơ. Thơ Bích Khê đi sâu vào tận đáy hồn ta và ở mãi đấy.

Phải chăng cuộc đời ngắn ngủi và tính cách thuần túy của thơ đã khiến cho chúng ta mến cảm và yêu thơ Bích Khê.

Mùa thu lại về. Ở đây tìm đâu ra vàng rơi cây ngô đồng, mà là cả muôn trùng rừng phong muôn trùng sắc lá. Và con quạ đen kia làm nhớ con quạ đậu trên nấm mồ thi sĩ Bích Khê ở Thu Xà khi tôi về thăm năm xưa nào xa lắm…

Đinh Cường

(Chỉnh lại từ bài viết cũ đã đăng trên tạp chí Văn Hóa Á Châu, số 22, 23- 24 tháng 1/1960 - Sài Gòn.

Cám ơn anh Cao Thế Dung đã tìm thấy ở Thư Viện Quốc Hội, photocopy gởi cho, Quang Dũng đánh máy lại và Nguyệt Mai edit)

Chú thích:

[1] Sau này Bích Khê gom lại thành tập “Những vần thơ cũ”, gồm 89 bài thơ Đường, Hát nói và các thể, nhưng không xuất bản.
[2] Bài này lấy làm tựa tập Tinh Huyết.
[3] Do Trọng Miên xuất bản, in trong ngày 30 tháng 12 năm 1939 tại nhà in Thụy Ký - 98 phố Hàng Gai - Hà Nội.
[4] Nhà xuất bản Gallimard 5 Novembre 1936
[5] Trong bức thư đề ngày 7-1-1941 gửi cho Hoài Thanh, Bích Khê nói thích nhất là bài này và bài Duy Tân.
[6] Tựa của Hàn Mặc Tử; Bạt của Trọng Miên - Tập thơ gồm có 4 phần:
- Nhạc và Lệ tặng Hàn Mặc Tử (trang 23 đến trang 38)
- Đẹp và Dâm tặng Trọng Miên (trang 41 đến trang 54)
- Cuồng và Ánh Sáng tặng hai anh Thoại và Hường (trang 57 đến trang 81)
- Châu (trang 85 đến trang 105)
[7] Đoạn này trong tập Tinh Huyết bị kiểm duyệt bỏ.

Thân bệnh: ngô vàng mưa lá rụng
Bút thần: sông lạnh bóng sao rơi
Sau nghìn thu nữa trên trần thế
Hồn vẫn về trong bóng nguyệt soi.

Theo http://phannguyenartist.blogspot.com/


 

 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Khúc hát Marseilles

Khúc hát Marseilles Thời đại Bạc đã mang lại cho văn học Nga nhiều tên tuổi sáng giá. Một trong những người sáng lập chủ nghĩa biểu hiện N...