Bích Khê (1916 - 1946)
Nếu như những ánh sao băng có tạt ngang bầu trời và để lại chút dấu thời gian...
Bích Khê
Tên thật: Lê Quang Lương
Bút hiệu khác: Lê Mộng Thu
(24/3/1916 Quảng Ngãi - 17/1/1946 Quảng Ngãi)
Hưởng dương 30 tuổi.
Nhà thơ
“Đề bia dựng trước mộ”
Thân bệnh: ngô vàng mưa lá rụng
Bút thần: sông lạnh bóng sao rơi
Sau nghìn thu nữa trên trần thế
Hồn vẫn về trong bóng nguyệt soi
"Ta có thể sánh văn thơ của Bích Khê như đóa hoa thần dị...
Và đem phân chất, ta sẽ thấy thơ chàng gồm có ba tính cách khác nhau: Thơ tượng
trưng, thơ huyền diệu và thơ trụy lạc... Sự điên cuồng ấy uyên nguyên ở một phần
thiên tài, và ở một phần sự "Đau khổ"...
Hàn Mặc Tử
Tỳ Bà
Tiếng hát Thái Thanh
Tỳ Bà
Thơ Bích Khê
Nhạc Phạm Duy
Tiếng hát Tấn Minh
Lời bài hát: Tỳ Bà
Bài hát: Tỳ Bà - Thái Thanh
Sáng tác: Phạm Duy; Thơ: Bích Khê
Nàng ơi! Tay đêm đang giăng mềm
Trăng đan qua cành muôn tay êm
Mây nhung pha màu thu trên trời
Sương lam phơi màu thu muôn nơi.
Vàng sao nằm im trên hoa gầy
Tương tư người xưa thôi qua đây
Ôi! Nàng năm xưa quên lời thề
Hoa vừa đưa hương gây đê mê.
Cây đàn yêu đương làm bằng thơ
Cây đàn yêu đương run trong mơ
Hồn về trên môi kêu: em ơi
Thuyền hồn không đi lên chơi vơi.
Tôi qua tìm nàng vay du dương
Tôi mang lên lầu lên cung Thương
Tôi không bao giờ thôi yêu nàng
Tình tang tôi nghe như tình lang.
Yêu nàng bao nhiêu trong lòng tôi
Yêu nàng bao nhiêu trên đôi môi
Đâu tìm Đào Nguyên cho xa xôi
Đào Nguyên trong lòng nàng đây thôi.
Thu ôm muôn hồn chơi phiêu diêu
Sao tôi không màng kêu: em yêu
Trăng nay không nàng như trăng thiu
Đêm nay không nàng như đêm hiu.
Buồn lưu cây đào tìm hơi xuân
Buồn sang cây tùng thăm đông quân
Ô! Hay buồn vương cây ngô đồng
Vàng rơi! vàng rơi: Thu mênh mông.
Bích Khê (1916-1946), tên thật là Lê Quang Lương;
là một nhà thơ nổi tiếng thời tiền chiến. Ngoài bút hiệu Bích Khê, ông còn ký
bút hiệu Lê Mộng Thu khi sáng tác thơ Đường luật.
Tiểu sử
Bích Khê sinh ngày 24 tháng 3 năm 1916 tại xã Phước Lộc,
huyện Sơn Tịnh, tỉnh Quảng Ngãi. (1)
Thuở nhỏ, Bích Khê học tiểu học ở Phước Lộc và Đồng Hới, học
trung học ở Huế, rồi ra Hà Nội học ban tú tài nhưng nửa chừng bỏ dở.
Năm 1931, 15 tuổi, ông đã biết làm thơ Đường luật, ca trù.
Năm 1934, cùng người chị ruột tên Ngọc Sương vào Phan Thiết học thêm và mở trường
dạy học tư.
Năm 1937, bị bệnh phổi, sau khi điều trị trở về lên sống trên
núi Thiên Ấn thuộc Quảng Ngãi, ông lại ngược xuôi trên một chiếc thuyền quanh
các ngả Sa Kỳ - Trà Khúc.
Năm 1938, ông lại cùng chị Ngọc Sương vào Phan Thiết mở trường
dạy học, được vài năm thì bị chính quyền Pháp ra lệnh đóng cửa.
Năm 1941, Bích Khê dạy học ỏ Huế. Năm 1942, bệnh phổi tái
phát, ông trở về Thu Xà. Ông qua đời ngày 17 tháng 1 năm 1946, tại Thu Xà, hưởng
dương 30 tuổi.
Tác phẩm
Trước khi đến với Thơ mới, một thời gian dài (1931-1936),
Bích Khê đã viết ca trù, thơ Đường luật, và đăng trên các báo Tiếng
Dân, Tiểu thuyết thứ Năm, Người mới... Sau 1937, ông chuyển hẳn sang
làm "thơ mới" do sự tác động của Hàn Mặc Tử và chịu nhiều ảnh hưởng của
nhà thơ vắn số này...
Các sáng tác của Bích Khê
(1939)
Tác phẩm duy nhất ra đời khi ông còn sống
và rất được người
yêu thơ chú ý.
Tác phẩm chưa xuất bản
Tinh Hoa
(Sáng tác từ 1938 đến 1944)
Mấy dòng thơ cũ
(Tập hợp khoảng 100 bài thơ đường luật đã đăng trên các báo từ
1931-1936) [2]
Người lưu giữ thơ Bích Khê đầy đủ nhất là thi sĩ Quách Tấn.
Năm 1971, Quách Tấn viết và cho xuất bản cuốn Đời Bích Khê. Năm 1975, ông
cho in Thơ Bích Khê (Nhà xuất bản Nghĩa Bình, 1988) và Bích khê
tuyển tập (Hà Nội, 1988)...
Thông tin liên quan
Bích Khê và Hàn Mặc Tử là hai số phận có những
nét tương đồng: cả hai đều từ thơ cũ (thơ Đường luật) chuyển sang thơ mới, đều
mắc bệnh nan y, đều tài hoa và chết trẻ.
Năm 1935, Hàn Mặc Tử ra Phan Thiết gặp Mộng Cầm, cháu Bích
Khê, nên Hàn biết người cậu trẻ này. Buổi gặp gỡ giữa hai thi sĩ diễn ra khá nhạt
nhẽo. Mãi đến năm 1937, khi Bích Khê đọc được những sáng tác của Hàn trong tập Đau
thương (bản đánh máy), ông mới thực sự cảm phục mà thư từ qua lại.
Gần cuối năm 1938, Bích Khê gửi cho Hàn Mặc Tử nhiều thơ, bị
trả lại kèm theo lời khiêu khích mỉa mai (cốt làm cho chàng tức). Ông xé
nát tập thơ đó và thề là Trong sáu tháng sẽ trở nên một thi sĩ phi thường,
bằng không sẽ chẳng bao giờ nghĩ đến chuyện làm thi sĩ nữa'. Ngờ đâu sự hằn học
của chàng đã bật nẩy thiên tài của chàng ra...chỉ trong vòng ba tháng thôi,
chàng đã viết được tập thơ bằng máu huyết, tinh tủy và châu lệ, tất cả say sưa
đắm đuối của một tâm hồn thi sĩ...Cuối năm 1939, tập thơ ra đời với bài tựa do
Hàn Mặc Tử viết, đã gây nên một làn sóng dư luận mạnh mẽ.
Sau, Mộng Cầm có chồng, thấy Hàn Mặc Tử cứ đau khổ mãi, trong
một lần ra thăm, Bích Khê tặng cho Hàn bức ảnh của ông chụp với chị Ngọc Sương
rồi giới thiệu là chị mình cũng am hiểu văn chương và rất thích thơ Hàn. Đối ảnh
sinh tình, Hàn Mặc Tử viết bài Người Ngọc. Trong bài, hai chữ Ngọc Sương
được lồng vào thơ một cách kín đáo: Ta đề chữ ngọc trên tàu lá - Sương ở
cung thiềm giỏ chẳng thôi - Tình ta khuấy mãi không thành khối - Như giận đòi
phen cắn phải môi... (khi biết chuyện, Ngọc Sương đã yêu cầu em dừng ngay trò
mai mối lại).
Ngày 11 tháng 11 năm 1940, Bích Khê như người mất hồn vì sự
ra đi của Hàn mặc Tử - người bạn thơ mà ông hết lòng mến yêu (3).
Và theo Trần Thị Huyền Trang, Hàn Mặc Tử mất (1940), Trường
thơ Loạn bắt đầu tan rã. Mặc dù Yến Lan, Chế Lan Viên và Bích Khê vẫn chơi thân
với nhau, song không còn ai tha thiết với việc duy trì hoạt động Trường thơ. Nó
còn tồn tại một thời gian nữa, rải rác trong các sáng tác và kết thúc cùng với
sự qua đời của Bích Khê vào năm 1946.
Thơ phổ nhạc
Dị khúc với Bích Khê:
CD Phát hành cuối năm 2011, gồm 10 ca khúc do nhạc sĩ Phạm
Duy phổ từ thơ Bích Khê, gồm Tỳ Bà (sáng tác năm 1969), và 9 ca khúc sáng
tác năm 2011: Nghê thường, Tranh lõa thể, Tôi chết rồi, Sầu lãng tử, Hoàng
hoa, Thi vị, Một cõi trời, Mơ tiên, Huế đa tình.
Chú thích:
1. Theo website Bích Khê [1].
2. Có một số tài liệu ghi Bích Khê còn có các tập thơ "Đẹp",
"Ngũ hành sơn". Điều ấy không đúng. Đó chỉ là những cái tên mà ông dự
định đặt cho tập thơ thứ hai, trước khi dừng lại ở cái tên chính thức:
"Tinh Hoa". Bích Khê cũng không hề viết thiên tự truyện "Lột truồng"
như có người đã nói (theo website Bích Khê [2]).
3. Hàn Mặc Tử, hương thơm và mật đắng, Nxb Hội nhà văn, 1990, tr. 56-57.
ĐÔI NÉT VỀ NHÀ THƠ BÍCH KHÊ |
BÍCH KHÊ – THÂN THẾ VÀ SỰ NGHIỆP Bích Khê tên thật là Lê Quang Lương, sinh ngày 24.3.1916 (tức
ngày 21.2. năm Bính Thìn), tại quê ngoại ở xã Phước Lộc, nay là xã Tịnh Sơn,
huyện Sơn Tịnh. Ông lớn lên và sống chủ yếu tại quê nội ở thị trấn Thu Xà,
thuộc xã Nghĩa Hòa, huyện Tư Nghĩa, tỉnh Quảng Ngãi. Đó là một thị trấn cổ,
có nhiều Hoa kiều đến sinh cơ lập nghiệp. Nhờ giao thông thuận tiện, có sông
lớn, gần cửa biển, nên Thu Xà đã từng có thời kỳ rất sầm uất, buôn bán thịnh
vượng, nhưng đã dần sa sút từ khi chiến tranh thế giới lần thứ hai nổ ra. Bích Khê xuất thân từ một gia đình Nho học có truyền thống
đấu tranh yêu nước cách mạng. Ông nội nhà thơ là cụ Lê Trọng Khanh đỗ cử nhân
năm tự Đức thứ 21 (1868), làm quan đến chức viên ngoại lang Viện cơ mật. Trước
tình hình nhà Nguyễn bất lực, hèn nhát, từng bước đầu hàng đế quốc Pháp, cụ
cáo quan về nhà, rồi không bao lâu sau đã tuẫn tiết tại quê nhà, để khỏi cộng
tác với Nguyễn Thân đánh phá phong trào Cần Vương, khi tên tay sai đắc lực của
thực dân phong kiến này ép cụ ra làm tham biện sơn phòng Nghĩa - Định (Quảng
Ngãi - Bình Định). Các thế hệ tiếp theo đều có người tham gia các phong trào
đấu tranh yêu nước, cách mạng, từ các phong trào Đông du, Duy Tân, chống sưu
cao thuế nặng, các hoạt động của Đông kinh nghĩa thục hồi đầu thế kỷ 20, như
cụ thân sinh Lê Quang Dục, đến phong trào cách mạng do Đảng cộng sản lãnh đạo
như người chị ruột rất gần gũi Lê Thị Ngọc Sương, như người em họ Lê Trọng
Lào, một trong những người cộng sản đầu tiên của Quảng Ngãi… Cũng cần nói thêm gia đình Bích Khê còn là một môi trường
văn chương rất thuận lợi cho hoạt động sáng tác của nhà thơ: các anh chị đều
là những người yêu thơ, hay làm thơ, trong đó người anh cả Lê Quang Thuần có
nhiều bài thơ được đăng báo, và đã để lại một tập thơ nhan đề: “Tùng khê thi
tập”. Thông minh và hiếu học, cậu thiếu niên Lê Quang Lương đỗ đầu
kỳ thi tiểu học Pháp - Việt tại Đồng Hới năm 1929, rồi tiếp tục học bậc trung
học ở trường dòng Pellerin tại Huế, và chỉ trong ba năm đã hoàn thành chương
trình bậc học này. Sau đó, anh ra Hà Nội học ban tú tài, song chỉ được một
năm, anh thôi học, để chia sẻ số tiền chu cấp ăn học của gia đình với một người
bạn nghèo và cùng bạn vào Phan Thiết sống trong gia đình người anh trưởng để
cùng nhau tiếp tục tự học. Năm 1934 để tự túc việc ăn học đỡ gánh nặng cho gia đình,
Bích Khê cùng người bạn mở một trường tư thục đặt tên là Hồng Đức tại Phan
Thiết. Cuối năm đó, người chị Lê Thị Ngọc Sương tham gia việc quản trị nhà
trường bị mật thám Pháp bắt giải về giam ở Quảng Ngãi, vì trước đó bà đã từng
hoạt động cách mạng ở đây. Sau một năm học, phần thì buồn vì các người thân bị
ly tán (vợ chồng người anh cả cũng vì chuyện cô em mà cũng bị tình nghi, và bị
đổi ra Mũi Né), phần thì chán nản về việc người bạn muốn chiếm độc quyền sở hữu
nhà trường, Bích Khê bỏ trường ra đi, lúc đầu lên sống trong các ngôi chùa tại
Phan Thiết, bắt đầu mối duyên nợ với đạo Phật. Cuối năm 1935, ông về Thu Xà sống với mẹ nhưng không được bao lâu thì ông mắc bệnh lao phổi, một trong tứ chứng nan y lúc bấy giờ. Ông phải đi nằm điều trị tại bệnh viện lao P. Pasquier ở Huế hơn một năm trời. Khoảng hạ bán niên 1937, bệnh thuyên giảm, ông trở về quê. Để thay đổi không khí thuận lợi cho việc điều dưỡng bệnh, và cũng để tìm nguồn cảm hứng cho sáng tác, ông sống lãng du khi thì ở trong chùa trên các núi Thiên Ấn, Phú Thọ, khi thì trú trong một túp lều trên bãi biển, khi thì lênh đênh trên thuyền trôi nổi trên các khúc sông Trà Khúc. Trở về nhà một thời gian ngắn, ông lại vào Phan Thiết dạy học
ở trường Quảng Thuận do ông Lạc Nhân Nguyễn Quý Hương, người anh rể sau này của
ông, đứng ra mở từ niên khóa 1938-1939. Chính trong hai năm này, Bích Khê
đã dồn sức để hoàn thành tập thơ đầu của mình, và “Tinh Huyết” đã ra đời vào
cuối năm 1939. Nhưng do trường có nhiều giáo viên, nhân viên có tên trong sổ
đen của mật thám, hoặc vì có tư tưởng tiến bộ biểu hiện trong thơ văn đăng
trên báo, nhất là báo “Tiếng dân” của nhà chí sĩ Huỳnh Thúc Kháng, như hiệu
trưởng Lạc Nhân, như bản thân Bích Khê, hoặc vì đã từng tham gia hoạt động
chính trị như bà Ngọc Sương-nhân viên quản trị nhà trường, nên nhà trường đã
nhiều lần bị đóng cửa, và đến cuối năm 1939 thì bị đóng cửa hẳn. Về Thu Xà được ít lâu, Bích Khê có vào Quy Nhơn thăm Hàn Mặc
Tử, trước khi người bạn thơ thân thiết này vào bệnh viện phong Quy Hòa
(20.9.1940). Sau đó ông được trường Phú Xuân ở Huế mời ra dạy. Nhưng chỉ được
bảy tháng, sức khỏe giảm sút: bệnh lao bước vào thời kỳ thứ hai, ông lại thôi
dạy trở về nhà. Giữa năm 1942, bệnh trở nặng, ông phải vào bệnh viện P.
Pasquier lần thứ hai. Được chừng tám tháng, cơ sở điều trị bệnh lao hiện đại
vào bậc nhất Đông Dương này cũng đành bó tay, khi bệnh đã bước vào thời kỳ thứ
ba. Và đây là lần trở về quê cuối cùng. Các năm sau đó Bích Khê và gia đình đánh vật với cơn bệnh
quái ác, nhưng đành chịu thất bại. Bích Khê đã lặng lẽ ra đi vào ngày
17.01.1946, lúc mới tròn 30 xuân! Bây giờ thời cuộc đang rất khẩn trương, bạn
bè không ai hay biết. Vài năm sau, khi chuẩn bị cho hội nghị thành lập Chi hội
văn nghệ Liên khu V, ban tổ chức có gửi đến Thu Xà giấy mời ông tham gia. Bà
mẹ già cầm tấm giấy và nói trong nước mắt: “Nó đã chết rồi, còn sống đâu
mà đi họp”. Những cuộc tình duyên của Bích Khê: Một trong những yếu tố có tác động mạnh mẽ đến sáng tác của
Bích Khê là phần đời tình ái của ông. Cũng như người thầy Baudelaire của
mình, trước sau Bích Khê có ba người yêu. Song tất cả đều lần lượt ra khỏi cuộc
đời ông để lại trong tâm hồn ông những hình bóng sâu đậm, những nỗi đau buồn
khôn nguôi. Trước hết là một học sinh trường Hồng Đức có bí danh là
Song Châu. Mối tình đầu có tính chất thơ ngây này diễn ra khoảng một năm, và
đã chấm dứt khi ông bỏ trường ra đi, do hoàn cảnh lúc này của ông, và cũng do
Song Châu còn quá trẻ, mới chí là “người mỹ nữ xuân mười bốn” (1). Tuy vậy
ông đã dành cho mối tình này cả một chương trong tập “Tinh Huyết” với nhan đề
“Châu”. Người thứ hai là Thanh Thủy cũng quê ở Quảng Ngãi. Tuy đã
quen biết nhau từ hai năm trước ở Mũi Né, nhưng đến năm 1937, khi tác ngộ
trên con sông Trà Khúc, tình yêu giữa hai bên mới nảy nở. Tưởng chừng một cuộc
hôn nhân sẽ xảy ra, vì Thanh Thủy yêu Bích Khê tha thiết, và gia đình cũng
khuyên ông lấy vợ, nhưng không ngờ ông lại từ chối với lý do để giữ một thứ
“tình yêu thơ mộng, tình yêu thuần khiết”! (Phải chăng bên trong có một lý do
xác thực hơn là tình trạng sức khỏe suy yếu?”). Để an ủi Thanh Thủy đang đổ bệnh
vì thất vọng, ông gửi tặng bài thơ “Ngón giai nhân” kết thúc bằng hai câu: Tình anh lụy ngón giai nhân Sống lìa nay được ấy ngần đoàn viên. Người thứ ba có biệt hiệu là Ngọc Kiều (tên thật là Nhung)
cũng là một học sinh, nhưng là một học sinh đã lớn theo học lớp buổi tối ở
trường Quảng Thuận (1938-1939). Đây là một mối tình nồng nàn, chín
chắn. Gia đình nhà thơ tiến hành dạm hỏi, nhưng gia đình Ngọc Kiều từ
chối vì chê Bích Khê nghèo. Ngọc Kiều đau khổ đến phát điên khiến gia đình hoảng
sợ buộc phải chấp nhận gả con. Nhưng một bất ngờ lớn đã xảy ra: đến lượt Bích
Khê từ chối cuộc hôn nhân, vì cảm thấy mình bị xúc phạm danh dự quá lớn. Dù
người yêu hết mực van xin, dù bà con, bạn bè hết sức khuyên nhủ, Bích Khê
kiên quyết giữ ý kiến của mình. Tuy không có cái may mắn như Song Châu chiếm
trọn một phần trong tác phẩm “Tinh Huyết”, nhưng hình ảnh của Ngọc Kiều luôn
hiển hiện hay bàng bạc trong nhiều bài thơ của Bích Khê. Có khi là cái tên thật
được lồng vào một chi tiết của thiên nhiên: “Nhung mây tê ngời sao kim cương”
(Nghê thường). Có khi là một hình ảnh huyền ảo: “Đào nguyên trong lòng nàng
đây thôi” (Tỳ bà). Ngoài ra Bích Khê còn có một mối tình đơn phương kín đáo nữa.
Đó là một quả phụ còn trẻ rất mực đoan trang, đã từng tham gia dạy học ở trường
Quảng Thuận. Mười năm sau khi Bích Khê mất, trong dịp đến thăm bà Ngọc
Sương, Minh Sim – tên của người phụ nữ ấy – mới biết được chuyện này, và
đau đớn nhận những bức thư chưa bao giờ được gửi đi, mà Bích Khê để lại trước
khi mất. Tiến trình sáng tác của Bích Khê: Tiến trình sáng tác của Bích Khê có thể chia ra ba giai đoạn: 1. Giai đoạn “thơ cũ”: Bích Khê bước vào làng thơ rất sớm,
khi còn ở tuổi thiếu niên. Từ những năm 1931-1932, ông đã có thơ đăng ở báo
“Tiếng dân”. Cho đến cuối năm 1936, nhiều bài được sáng tác theo các lối Đường
luật, từ khúc và hát nói của ông đều đặn xuất hiện trên mặt báo này, và đăng
rải rác ở một số báo khác như “Phụ nữ Tân Văn”, “tuần báo Đông Tây” dưới các
bút danh Lê Mộng Thu, Bích Khê. Tuy tuổi đời tác giả còn trẻ, nhưng nhiều bài
thơ của ông đã đạt đến trình độ già dặn, và được nhiều bậc túc nho tán thưởng.
Hấp thụ truyền thống yêu nước của gia đình, đồng thời chịu ảnh hưởng của cụ
Phan Bội Châu. “thơ cũ” của Bích Khê nằm trong xu hướng văn chương “ưu thời mẫn
thế” hồi mấy thập kỷ đầu thế kỷ 20. 2. Giai đoạn “Tinh Huyết”: Từ năm 1936, Bích Khê từ giã con
sông dù sao cũng vẫn êm ả của “thơ cũ”, để nhảy vào dòng xoáy của “thơ mới”.
Điều đó không có gì là lạ trong xu thế đổi mới tất yếu của thơ ca Việt Nam đường
thời, mà Hàn Mặc Tử cũng là một trường hợp tiêu biểu. Có lạ chăng là một khi
đã chuyển hướng, Bích Khê muốn vượt lên đi đến một cuộc “Duy tân” (tên một
bài thơ nổi tiếng của ông) thật mạnh mẽ, sâu sắc và táo bạo đối với thi ca. Để
làm việc này, Bích Khê đã tìm đến các trường phái thi ca hiện đại của Phương
Tây cuối thế kỷ 19 - đầu thế kỷ 20: chủ nghĩa lãng mạn, chủ nghĩa tượng
trưng, chủ nghĩa siêu thực. Đặc biệt ông chịu ảnh hưởng của mỹ học Baudelaire
mà ông tôn làm “Vua thi sĩ” (“Người ăn mày” - “Tinh Huyết”). Nhưng ông không
dừng ở đó, mà còn tiếp biến nhiều quan điểm nghệ thuật khác của các nhân vật
cự phách thuộc các trường phái nói trên: Rimbaud, Verlaine, Mallarmé v.v…
Đương nhiên ông không phải là người độc nhất trong số các nhà thơ đương thời
đã tiếp nhận ảnh hưởng của phương Tây, nhưng ông là người hơn ai hết muốn đi
đến tận cùng của lý thuyết các trường phái ấy. Tuy nhiên, trong khi hướng mạnh về phương Tây, Bích Khê vẫn
giữ những mối liên hệ mật thiết, bền chặt với các truyền thống văn hóa, văn học
Phương Đông và dân tộc. Lý Bạch của Trung Quốc, Hồ Xuân Hương và Tản Đà của
Việt Nam vẫn để những dấu vết sâu đậm trong thơ ông. Và nếu Hàn Mặc Tử tìm
nguồn cảm hứng trong Thiên Chúa giáo, thì Bích Khê đến với Phật giáo và Đạo
giáo. Tất cả những điều này chi phối mạnh mẽ hoạt động sáng tác của
Bích Khê, nhất là trong thời gian đầu của quá trình chuyển hướng sang thơ mới,
mà kết quả là sự ra đời của tập thơ “Tinh Huyết” vào cuối năm 1939, tập thơ
đã được Hàn Mặc Tử đón nhận như “Một bông hoa lạ nở hương” (Tựa tập thơ “Tinh
Huyết”). 3. Giai đoạn “Tinh Hoa”: Từ sau “Tinh Huyết” cho đến lúc
trút hơi thở cuối cùng, mặc dù sức khỏe ngày càng suy giảm, Bích Khê vẫn tiếp
tục sáng tác. Nhưng giờ đây người ta sẽ bắt gặp một Bích Khê khác. “Tinh Huyết”
là cả một bầu máu nóng của tuổi trẻ với những ưu điểm, nhược điểm của nó. Sự
háo hức đi tìm cái mới lạ, sự sôi nổi trong cảm hứng sáng tạo, một mặt đem lại
sức sống và tính độc đáo cho các bài thơ, nhưng mặt khác có lúc cũng dẫn đến
những gì còn sượng, chưa nhuần nhị. Có thể nói đó mới là một cuộc thử nghiệm
táo bạo. Đến “Tinh Hoa”, sự bồng bột ban đầu lắng xuống, những cái gì quá đà
được gạn lọc để hiện lên một Bích Khê chín chắn hơn, cả về tâm hồn lẫn nghệ
thuật. Một sự so sánh những bài thơ trong dạng ban đầu trong “Tinh Huyết”, với
những văn bản đã được sửa đổi của chung in trong tập “Tinh Hoa” sẽ cho ta thấy
một phần quan trọng của sự chuyển hướng ấy. Trong sự kết hợp Đông - Tây, nếu
trước kia ảnh hưởng của phương Tây có phần mạnh hơn, thì bây giờ yếu tố
“Đông” trỗi dậy để tạo ra sự hài hòa trong nội dung cũng như trong hình thức.
Nói cách khác, “Tinh Hoa” là một cuộc trở về: trở về với những lối thơ
truyền thống cùng những âm hưởng quen thuộc, nhưng cấu trúc không hoàn toàn
như cũ; trở về với cách nghĩ, điệu cảm quen thuộc nhưng với một tâm trạng của
con người thời đại mới. Tuy nhiên ông vẫn giữ một sự nhất quán về những quan
niệm nghệ thuật cơ bản của mình. Có thể khái quát tiến trình thơ của Bích Khê như sau: “Tinh
Huyết” là phủ định của “thơ cũ”, và “Tinh Hoa” là phủ định của “Tinh Huyết” vậy!(Dĩ
nhiên, đây là phủ định theo kiểu triết học biện chứng “phủ định của phủ định”) Cuộc đời của người thi sĩ tài hoa bạc mệnh quá ngắn ngủi,
nhưng ông đã kịp hoàn thành ba tập thơ: - “Những dòng thơ cũ” tập hợp các bài thơ cũ được sáng tác
trong khoảng 1931-1936 chưa xuất bản. - “Tinh Huyết” được xuất bản vào tháng 12 năm 1939 - “Tinh Hoa” (2) được xuất bản trọn vẹn vào tháng giêng năm
1997 (trước đó đã được trích đăng một số bài trên các sách, báo trước và sau
1975). Chú thích: 1. “Tinh Hoa” - “Tấm bia trước mộ thơ” 2. Có một số tài liệu ghi Bích Khê còn có các tập thơ “Đẹp”,
“Ngũ hành sơn”. Điều ấy không đúng. Đó chỉ là những cái tên mà ông dự định đặt
cho tập thơ thứ hai, trước khi dừng lại ở cái tên chính thức: “Tinh Hoa”.
Bích Khê cũng không hề viết thiên tự truyện “Lột truồng” như có người đã nói. |
|
Trang thơ Bích Khê
Đêm
xuân đến thôn Vĩ Dạ nghe đàn sáo
Cùng
người trong sách Tương Hội
Tôi
chết rồi tiếng nói như châu
(1939)
Tham khảo thêm về nhà thơ Bích Khê
Bích Khê (1916-1946)
Thụy
Khuê
Bích Khê tên thật là Lê Quang Lương, sinh ngày 24/3/1916 tại
quê ngoại, xã Phước Lộc, quận Sơn Tịnh, nhưng lớn lên tại quê nội thị xã Thu
Xà, xã Nghĩa Hòa. Hai nơi đều thuộc tỉnh Quảng Ngãi. Mất ngày 17/1/1946, tại
Thu Xà.
Là con út trong gia đình tám anh chị em (4 chị, 3 anh), cha
là Lê Mai Khê một nhà nho mất sớm và mẹ là bà Phạm Thị Đoan. Thủa nhỏ Bích Khê
học ở Thu Xà, rồi Đồng Hới và lên trung học vào trường dòng Pellerin Huế. Sau
ra Hà Nội học tú tài, ban Triết. Năm 1934, Bích Khê bỏ học, cùng người bạn vào
Phan Thiết mở trường tư, vừa dạy vừa sáng tác trong 2 năm (1934-1936). Mắc bệnh
phổi từ 1935 (19 tuổi). Phải điều trị ở bệnh viện lao Pasquier, Huế, trong hơn
một năm (1936-1937). 1938 trở lại Phan Thiết mở trường dạy học lần thứ nhì
(1938-1939) và xuất bản tập thơ đầu tiên: Tinh huyết (1939) do Hàn Mặc
Tử viết tựa.
Năm 1941 về Huế dạy học, được ít lâu, bệnh phổi tái phát, lại
phải trở vào bệnh viện Pasquier điều trị lần thứ nhì, năm 1942. Mất năm 1946, ở
tuổi ba mươi, đúng lúc cuộc kháng chiến toàn quốc bùng nổ.
Làm thơ từ 15 tuổi (1931), theo các thể cổ điển như: Đường luật,
từ khúc, hát nói, đăng trên các báo Tiếng dân (Huế), Phụ nữ tân văn (Sàigòn),
và Đông Tây (Hà Nội). Khoảng 1936, Bích Khê chuyển sang Thơ mới.
Tập Tinh huyết (1939), là tác phẩm duy nhất được in
khi Bích Khê còn sống.
Thơ ông không được nhắc đến trong một thời gian dài ở miền Bắc,
phần vì người ta không hiểu thơ Bích Khê, nhưng lý do chính là chính trị: Bích
Khê dịch cuốn Retour de L’U.R.S.S (Ở Nga về) của André Gide, viết năm
1936, kể lại nỗi thất vọng sau khi đi thăm "thiên đường cộng sản". Mặc
dù chưa in, nhưng việc dịch này, kèm thêm sự kiện Bích Khê tỏ ý bất bình khi
nghe tin Tạ Thu Thâu bị ám sát, đã khiến người ta liệt Bích Khê vào hàng ngũ phản
động Trotskit, và tên tuổi ông bị chính thức loại ra khỏi danh sách những nhà
thơ tiền chiến.
Năm 1966, tại Sàigòn, báo Văn (do Trần Phong Giao quản nhiệm)
làm số tưởng niệm Bích Khê (số 64, ra ngày 15/ 8/ 1966), với những tư liệu do
gia đình cung cấp và bạn thân viết. Nhờ những bài của bà Lê Ngọc Sương (chị ruột
nhà thơ), của Tam Ích, của Quách Tấn... mà chúng ta biết rõ thêm những chi tiết
về cuộc đời Bích Khê, và một số thơ của ông cũng đến được với độc giả.
Tập Tinh hoa xuất bản sau này, gồm hai phần: Một số
làm sau Tinh huyết và một số đã có trong Tinh huyết, được sửa lại,
hoặc cắt ngắn đi.
So sánh hai cuốn thì Tinh huyết vẫn là tác phẩm
chính. Những sáng tạo mới đều nằm trong Tinh huyết. Tinh hoa trở
lại gần với thơ truyền thống. Tinh huyết là thời kỳ sáng tạo sung
mãn, có Hàn Mặc Tử khuyến khích. Bích Khê xuất hiện sau Hàn Mặc Tử vài năm, chịu
ảnh hưởng thơ Hàn Mặc Tử. Tác phẩm của Bích Khê cũng chịu những chìm nổi, đau
thương, như tác phẩm của Hàn Mặc Tử.
Tuy nhiên, trong Tinh huyết, Bích Khê đã hình thành cấu
trúc thi ca của riêng mình, một cấu trúc hiện đại, khác hẳn các nhà thơ mới, mà
cũng không giống thi pháp của Hàn Mặc Tử.
Thi pháp Bích Khê
Thơ Bích Khê là sự giao lưu giữa thơ cổ và thơ hiện đại,
trong một kiến trúc âm nhạc và hội họa. Đặc biệt trong lối tạo hình, ông đã sử
dụng một phương pháp mới, lúc ấy chưa thịnh hành ở Việt Nam: phương pháp cắt
dán (collage).
Bài Tỳ bà của Bích Khê là một khúc ngâm mới, dựa trên tinh thần
Tỳ bà hành.
Tỳ bà hành của Bạch Cư Dị, bản dịch của Phan Huy Thực (nhiều
nơi vẫn còn ghi là của Phan Huy Vịnh, con trai Phan Huy Thực) có những lời tuyệt
bút:
Nước suối lạnh, dây mành ngừng đứt,
Ngừng đứt nên phút bặt tiếng tơ.
Ôm sầu, mang giận ngẩn ngơ,
Tiếng tơ lặng ngắt, bấy giờ càng hay.
Bình bạc vỡ tuôn đầy dòng nước
Ngựa sắt giong, xô xát tiếng đao.
Cung đàn trọn khúc thanh tao,
Tiếng buông xé lụa, lựa vào bốn dây.
Thuyền mấy lá đông tây lặng ngắt,
Một vầng trăng trong vắt lòng sông
(Tỳ bà hành diễn nôm)
Tỳ bà hành là sự giao hòa âm nhạc và cảnh sắc trong một bút
pháp thần diệu. Bích Khê mượn tinh thần Tỳ bà hành, tức là tinh thần giao hòa
âm nhạc và cảnh sắc, nhưng thay đổi toàn diện bối cảnh, kiến trúc âm nhạc và kiến
trúc hình ảnh, để tạo ra một tác phẩm hiện đại:
Vàng sao nằm im trên hoa gầy
Tương tư người xưa thôi qua đây
Ôi! nàng năm xưa quên lời thề
Hoa vừa đưa hương gây đê mê
Tôi qua tim nàng vay du dương
Tôi mang lên lầu lên cung Thương
Tôi không bao giờ thôi yêu nàng
Tình tang tôi nghe như tình lang
Yêu nàng bao nhiêu trong lòng tôi
Yêu nàng bao nhiêu trên đôi môi
Đâu tìm Đào Nguyên cho xa xôi
Đào Nguyên trong lòng nàng đây thôi
Buồn lưu cây đào xin hơi xuân
Buồn sang cây tùng thăm đông quân
Ô! Hay buồn vương cây ngô đồng
Vàng rơi! Vàng rơi: Thu mênh mông (Tỳ bà)
Phạm Duy - vẫn Phạm Duy - là người duy nhất nghe thấy tiếng
nhạc lạ trong bài Tỳ bà và ông đã tạo ra một ca khúc réo rắt, âm hưởng giao
thoa kim cổ. Phải nghe Thái thanh hát Tỳ bà mới thấm được cõi nghệ thuật linh
diệu của ba thiên tài: Bích Khê, Phạm Duy, Thái Thanh.
Kiến trúc âm nhạc trong Tỳ bà Bích Khê dựa trên âm bằng (dấu
huyền hoặc không có dấu). Toàn bài hầu như không có âm trắc (sắc, hỏi, ngã, nặng).
Lối lập âm này, trong thơ mới, có một số người đã làm (đặc biệt Phạm Huy
Thông), nhưng không mấy ai thành công như Bích Khê. Vì chỉ có âm bằng nên nhạc
thơ đổi cung bậc, không còn điệu cổ điển và cũng khác hẳn thơ mới.
Về mặt tạo hình, lần đầu tiên, trong Tỳ bà, một nghệ sĩ Việt
áp dụng thủ pháp cắt dán: các hình ảnh được "cắt dán" rồi ghép cạnh
nhau, cho nên ảnh sau không "liên hệ" gì đến ảnh trước. Ví dụ, trong
câu Vàng sao nằm im trên hoa gầy, hai hình ảnh vàng sao và hoa gầy, chẳng dính
dáng gì với nhau, nhưng được nhà thơ cho nằm im trên nhau. Sự kiện này hầu như
không có trong thơ cổ điển và thơ mới. Vì trong cấu trúc cổ điển và lãng mạn,
chữ đi đôi với nghĩa, cho nên các yếu tố chữ phải có liên hệ chặt chẽ, để tạo
thành một câu "có nghiã". Trong khi "vàng sao nằm im trên hoa gầy"
của Bích khê là một câu gần như "vô nghĩa".
Lại cần phải phân biệt một điểm nữa: việc Bích Khê đem hình ảnh
sao vàng ở trên trời xuống, cho nó nằm im trên hoa gầy (dưới đất) là một động
tác cắt dán; không giống với động tác của Hàn Mặc Tử trong những câu "Bóng
nguyệt leo song rờ rẫm gối" hay "Bỗng đêm nay trước cửa bóng trăng quỳ/
Sấp mặt xuống uốn mình theo dáng liễu" là những động tác tưởng tượng. Và
cũng không giống câu: "Bóng gương lồng bóng đồ mi chập chùng", Nguyễn
Gia Thiều dùng biện pháp ẩn dụ: bóng gương để chỉ nhà vua, bóng đồ mi, người
cung nữ.
Tóm lại, cùng mô tả một cảnh "mây mưa", mỗi nhà thơ
có một thủ pháp khác nhau, để đi tới đích.
Những phương pháp khác nhau đó, phản ánh thời đại, lối viết,
và cá tính của nhà thơ: Ôn Như Hầu dùng ẩn dụ, phong cách tạo hình trong thơ cổ
điển. Hàn Mặc Tử dùng tưởng tượng, một phong cách sáng tạo hiện đại phát triển
từ Thi sơn (Parnasse). Và Bích Khê dùng phương pháp cắt dán (collage) trong hội
hoạ hiện đại (Matisse). Nhưng việc đặt những yếu tố hoàn toàn khác nhau cạnh
nhau, còn là phương pháp của Siêu thực nữa.
Cho nên có thể nói rằng ngay từ năm 1936, Bích Khê đã áp dụng
những phương pháp rất mới của Tây phương để làm thơ, trong một tinh thần hết sức
Đông phương.
Cấu trúc gián đoạn
Hình ảnh trong thơ Bích Khê là do cắt dán lắp ghép. Hình ảnh
trong thơ Hàn Mặc Tử là do tưởng tượng. Nhìn bề ngoài có vẻ giống nhau nhưng thật
ra rất khác: Tuy Hàn Mặc Tử là "thày" của Bích Khê, nhưng thơ Bích
Khê "hiện đại" hơn thơ Hàn, vì có thêm kỹ thuật cắt dán và siêu thực,
mà Hàn chưa kịp tiếp thu, đã mất. Nhưng cùng trong hoàn cảnh bệnh hoạn, Bích
Khê không cô đơn, tuyệt vọng như Hàn, nên thơ Bích Khê không đạt được mức đớn
đau tuyệt đỉnh và tuyệt tác như thơ Hàn Mặc Tử.
Biện pháp siêu thực trong thơ Bích Khê hiện rõ ở cả chữ, lẫn
câu: Ông không chỉ để hai hình ảnh khác nhau cạnh nhau, mà còn để cả hai câu
thơ hoàn toàn khác nhau cạnh nhau, như:
Vàng sao nằm im trên hoa gầy
Tương tư người xưa thôi qua đây.
Câu trên mô tả sự khăng khít xác thịt: Vàng sao nằm im trên
hoa gầy
Câu dưới: Tương tư người xưa thôi qua đây, mô tả sự tan vỡ.
Nói đúng hơn, vừa đang yêu: tương tư, vừa tan vỡ: người xưa
thôi qua đây.
Bích Khê đã đảo lộn trật tự thời gian sống, để tạo một nghịch
cảnh, nghịch lý mới: thường thì người ta tương tư, rồi khăng khít và sau cùng mới
lìa nhau; đằng này, người ta khăng khít trước, rồi mới tương tư, rồi xa nhau.
Tóm lại câu thơ của Bích Khê không có logique, vì vậy mà Hoài
Thanh và nhiều người khác đọc không hiểu. Hoài Thanh ca tụng câu:
Vàng rơi! Vàng rơi! Thu mênh mông!
Vì đó là câu thơ hay, dễ hiểu. Sau này người ta cứ chép lại lời
Hoài Thanh như cái máy, và không cần tìm hiểu gì thêm nữa về thơ Bích Khê.
Tỳ bà là một trong những bài thơ đầu tiên của Việt Nam có cấu
trúc gián đoạn: Bích Khê dán những chữ không liên lạc gì với nhau cạnh nhau,
dán những câu không liên lạc với nhau lại gần nhau, để tạo ra những hình ảnh
tuyệt vời, hoàn toàn siêu thực: tay-đêm, giăng-mền, trăng-đan, mây-nhung, thuyền-hồn...
Nàng ơi! Tay đêm đang giăng mền
Trăng đan qua cành muôn tay êm
Mây nhung phơi màu thu trên trời
Sương lam phơi màu thu muôn nơi
Cây đàn yêu đương làm bằng thơ
Dây đàn yêu đương run trong mơ
Hồn về trên môi kêu: em ơi
Thuyền hồn không đi lên chơi vơi
Thu ôm muôn hồn chơi phiêu diêu
Sao tôi không màng kêu: em yêu
Trăng nay không nàng như trăng thiu
Đêm nay không nàng như đêm hiu. (Tỳ bà)
Mỗi câu thơ của Bích Khê là một đứt đoạn: Bích Khê là nhà thơ
tiên phong, đã đi trước thời đại, thể hiện sự đứt đoạn trong không gian và
trong thâm hồn. Sự đứt đoạn của đời sống là một trong những khám phá của nghệ
thuật hiện đại trong toàn bộ thơ, văn, nhạc, hoạ, từ đầu thế kỷ XX. Bởi mỗi ý
nghĩ của chúng ta là một đứt đoạn, mỗi hình ảnh chúng ta nhìn thấy trong đời sống
là một đứt đoạn.
Bích Khê đã nhìn thấy sự đứt đoạn đó từ những năm 1936-39. Và
bẵng đi một thời gian dài, mãi sau này, ở miền Nam mới thấy xuất hiện trong thơ
Thanh Tâm Tuyền, trong ca từ Trịnh Công Sơn, và ở miền Bắc, trong thơ Lê Đạt.
Không nên đọc thơ Bích Khê như thơ cổ điển hoặc thơ mới, vì
Bích Khê không làm thơ theo logique truyền thống, nghĩa là thơ có mạch lạc có
nghĩa. Nên đọc thơ ông như xem tranh: khi ấn tượng, khi lập thể, khi siêu thực,
khi trừu tượng... và cuộc triển lãm này có nhạc đệm.
Khó phân biệt được lúc nào Bích Khê dùng bút để viết, lúc nào
ông vung cọ để vẽ, lúc nào ông vung đũa để đánh nhạc.
Và cũng cần phân biệt nhạc trong thơ Bích Khê khác với nhạc
trong thơ Hàn Mặc Tử: Nhạc trong thơ Hàn là nhạc thầm trong mỗi chữ. Nhạc trong
thơ Bích Khê là nhạc nổi trong thanh âm lạ, âm bằng.
Ở những bài thật hay, thơ Bích Khê là sự hoà âm giữa các điệu
nhạc cổ, như điệu Hoàng hoa, điệu Mộng cầm, với những màu sắc tân kỳ của hội họa
hiện đại:
Lam nhung ô! màu lưng chừng trời;
Xanh nhung ô! màu phơi nơi nơi.
Vàng phai nằm im ôm non gầy;
Chim yên eo mình nương xương cây.
Đây mùa Hoàng hoa, mùa Hoàng hoa:
Đông nam mây đùn nơi thành xa...
Oanh già theo quyên quên tin chàng!
Đào theo phù dung: thư không sang!
Ngàn khơi, ngàn khơi, ta, ngàn khơi:
Làm trăng theo chàng qua muôn nơi;
Theo chàng ta làm con chim uyên;
Làm mây theo chàng bên nhung yên.
Chàng ơi! hồn say trong mơ màng,
- Hồn ta? hay là hồn tình lang?
Non Yên tên bay ngang muôn đầu...
Thâm khuê oan gì giam xuân sâu?
- Ai xây bờ xanh trên xương người?!
- Ai xây mồ hoa chôn đời tươi?! (Hoàng hoa)
Bài Hoàng hoa thể hiện rõ sự giao hưởng giữa thơ và họa. Nhà
thơ như một cánh chim, bay qua những khung cảnh khác nhau, vẽ lại trước mắt ta
những bức tranh khác nhau, trong cùng một khoảnh khắc: Vàng phai nằm im ôm non
gầy/ Chim yên eo mình nương xương cây/ Đây mùa Hoàng hoa, mùa Hoàng hoa/ Đông
nam mây đùn nơi thành xa...
Những bức tranh trên đây (phần nhiều là ấn tượng) chỉ khơi cảm
xúc, mà không mô tả. Ví dụ, trong bức đầu: Vàng phai nằm im ôm non gầy
Người đọc, người xem, người nghe, không thấy rõ hiện tượng
"vàng phai nằm im ôm non gầy" nó như thế nào, mà chỉ mơ hồ cảm thấy một
ấn tượng nào đó.
Những câu thơ kế tiếp cũng thế: Chim yên eo mình nương xương
cây, rồi Đông nam mây đùn nơi thành xa, toàn là những bức ấn tượng, mơ hồ như
sương phủ.
Ấn tượng mờ sương
Vì đâu có cảm tưởng mờ sương tỏa lên từ những bức tranh?
Khảo sát kỹ hơn, trong Vàng phai nằm im ôm non gầy, sự mờ
sương tỏa ra ở bốn chữ vàng phai nằm im.
- Ai nằm im?
- Một màu nằm im
- Màu gì?
- Màu vàng. Không hẳn thế, màu vàng phai.
Nhưng không ai biết và không ai có thể định nghĩa được màu
vàng phai ấy như thế nào?
Và cũng không ai có thể hình dung "vụ" vàng phai đó
nằm im trên non gầy đó, như thế nào? Ấy là chưa kể: non gầy là gì?
Các vị kiểm duyệt thơ hoặc phê bình thơ nhưng không biết thơ,
thường hay phê câu này, câu kia vô nghĩa, là vì thế.
Cho nên, nếu không phải là thi-họa sĩ, thì không thể vẽ được
những hình ảnh Vàng phai nằm im ôm non gầy, ấy.
Sự gợi hình trong thơ Bích Khê, luôn luôn bắt nguồn từ hội họa,
từ cách tạo ấn tượng trong lòng người xem trước, rồi mới nghe và đọc.
Bài Hoàng hoa, không chỉ bắc cầu giữa hội họa và âm nhạc, mà
còn là nhịp cầu kim cổ. Hoàng Hoa, vùng đất Trung Hoa, thời Chiến quốc và đời
Đường thường có "rợ" Hồ quấy nhiễu. Hoàng Hoa là bãi chiến trường.
Hoàng hoa còn là cúc vàng. Hoa cúc nở mùa thu, mùa lá vàng và
cũng là lúc các thanh niên, thời chiến quốc, đến tuổi đi lính phải nhập ngũ, đi
"quân dịch", năm sau mới về. Vì vậy Hoàng hoa vừa là cúc vàng, vừa là
bãi chiến trường, vừa là thời đi lính.
Trong Chinh phụ ngâm có câu:
Xót người lần lửa ải xa
Xót người nương chốn Hoàng hoa dậm dài
Chữ Hoàng hoa trong Chinh phụ ngâm có hai nghĩa: vừa là hoàng
hoa thú (người lính thú ở chiến trường), lại còn có thể là trại cúc vàng, nơi
người chinh phụ tựa cửa nhớ chồng ngoài quan ải.
Vì vậy, hai câu: Đây mùa hoàng hoa mùa hoàng hoa/ Đông nam
mây đùn nơi thành xa... tưởng như không có gì liên hệ với nhau, nhưng thực ra
đó chính là khúc chinh phụ ngâm mới của Bích Khê, ngẫu hứng từ những câu: Xót
người nương chốn Hoàng hoa dậm dài và Trống tràng thành lung lay bóng nguyệt
trong Chinh phụ ngâm.
Người chinh phụ ngày xưa, ngâm:
Thủa lâm hành oanh chưa bén liễu
Hỏi ngày về ước nẻo oanh ca
Nay quyên đã giục oanh già
Ý nhi lại gáy trước nhà líu lo
Thủa đăng đồ mai chưa dạn gió
Hỏi ngày về chỉ độ đào bông
Nay đào đã quyến gió đông
Phù dung lại đã bên sông bơ xờ (Chinh phụ ngâm)
Và người chinh phụ ngày nay, trong thơ Bích Khê, hát:
Oanh già theo quyên quên tin chàng!
Đào theo phù dung: thư không sang!
Ngàn khơi, ngàn khơi, ta, ngàn khơi:
Làm trăng theo chàng qua muôn nơi;
Theo chàng ta làm con chim uyên;
Làm mây theo chàng bên nhung yên
Cùng bối cảnh nhớ chồng đi chinh chiến, nhưng hai khúc ngâm,
xưa và nay, khác nhau.
Và đây, cảnh chết chóc nơi chiến trường, trong Chinh phụ
ngâm:
Non Kỳ mộ chỉ trăng treo
Bến Phì gió thổi đìu hiu mấy gò
Hồn tử sĩ gió ù ù thổi
Mặt chinh phu trăng dõi dõi soi
Chinh phu tử sĩ mấy người
Nào ai mạc mặt nào ai gọi hồn?
Trong thơ Bích Khê, sa trường là giao hưởng giữa những hồn ma
chiến trường trong cơn ác mộng của người chinh phụ:
Chàng ơi! hồn say trong mơ màng,
- Hồn ta? hay là hồn tình lang?
Non Yên tên bay ngang muôn đầu...
Thâm khuê oan gì giam xuân sâu?
- Ai xây bờ xanh trên xương người ?!
- Ai xây mồ hoa chôn đời tươi?!
Ánh sáng trong thơ Bích Khê
Thơ Bích Khê là sự gặp gỡ hai không gian cổ điển và hiện đại,
là sự hòa tan hai không gian ấy trong lòng chữ. Nhìn một lõa thể, một cảnh thu,
một vũ khúc, Bích Khê không vẽ lại những ấn tượng ấy trong hiện tại mà ông đẩy
lùi chúng về hàng trăm năm, hàng ngàn năm trước, rồi mới đem chúng vào thơ.
Ví dụ, nhìn một điệu múa, Bích Khê viết :
Ô trời hôm nay sao mà xanh!
Ngọc trăng xây vàng trên muôn cành,
Nhung mây tê ngời sao kim cương,
Dạ lan tê ngời say men hương;
Lầu ai ánh gì như lưu ly?
Nụ cười ai trắng như hoa lê?
Thủy tinh ai để lòng gương hồ?
Không gian xà cừ hay san hô? (Nghê thường)
Vũ điệu trong thơ không còn là vũ điệu trước mắt ta nữa mà đã
trở thành vũ điệu nghê thường của Đắc Kỷ, Bao Tự... trên cung Quảng.
Nhưng những khơi gợi ấy, lần này đến từ ánh sáng, thứ ánh
sáng mơ hồ huyền ảo của một đêm trăng giữa ban ngày: Ô trời hôm nay sao mà
xanh!/ Ngọc trăng xây vàng trên muôn cành/ Nhung mây tê ngời sao kim cương. Tất
cả những chữ: trời, xanh, ngọc, trăng, vàng, mây, ngời, sao, kim cương... trong
ba câu thơ, đều tỏa sáng. Trong luồng sáng huyền ảo ấy, một đóa lan đêm (dạ
lan) gây hương lạ trong câu thơ nối tiếp, chia thế giới làm hai: thế giới của
ánh sáng và thế giới của bóng tối qua một chữ dạ (nghĩa là đêm): Dạ lan tê ngời
say men hương. Rồi tiếp theo đó là một chuỗi những ánh sáng lạ khác:
Lầu ai ánh gì như lưu ly?
Nụ cười ai trắng như hoa lê?
Thủy tinh ai để lòng gương hồ?
Không gian xà cừ hay san hô?
Không thể biết những luồng sáng như ánh lưu ly, ánh hoa lê,
ánh thủy tinh, ánh gương hồ, ánh xà cừ, ánh san hô... chiếu vào người đẹp trên
lầu hay chính người đẹp trên lầu toát ra những ánh sáng huyền ảo ấy. Tất cả bí
mật ở đây nằm trong ánh sáng và thơ dựa vào ánh sáng để hiện hữu, y hệt như
trong hội họa ấn tượng. Nhà thơ chưa vẽ, chưa đả động gì đến người đẹp, nhưng
nàng đã xuất hiện: một sự xuất hiện liêu trai, mờ ảo, nghê thường, qua ánh sáng
của vật chất chung quanh.
Và đó là lối tạo chân dung bằng ánh sáng trong thơ Bích Khê.
Trong bài Hiện hình, lại một chân dung khác, vẽ theo lối hiện
thực hơn:
Tôi ráp lại xem. Ồ! sự lạ!
Một người thiếu nữ hiện trong trăng.
Khăn hồng chùi lệ ngấn đôi mắt;
Da thịt phô bày ý tuyết băng.
Nường hé môi ra. Bay điệu nhạc
Mát như xuân mà ngọt tợ hương:
Ôi sao là khúc Ba sinh lụy
Rào rạt như đầy nỗi cảm thương
Tiếng ngọc, màu trăng quấn quýt nường
Phút giây người lộ mỏng như sương
-Nường tan ra nhạc? - tan ra nhạc!
Khung trắng trời mây trắng lạ thường! (Hiện hình)
Người con gái trong bức tranh này hội tụ hai yếu tố tiếng và
màu: tiếng ngọc, màu trăng.
Không biết chân dung nàng được vẽ bằng nhạc hay nàng chính là
âm thanh?
Dường như bút lông của họa sĩ chấm vào nghiên nhạc để vẽ ra
chân dung nàng. Rồi cát bụi, nàng lại trở về với cát bụi:
- Nường tan ra nhạc? - tan ra nhạc!
Khung trắng trời mây trắng lạ thường!
Mỗi chân dung người đẹp mà Bích Khê phác lên thường có những
nét Bích câu kỳ ngộ. Bức Tranh lõa thể là Giáng Kiều khỏa thân trong óc người
con trai mới lớn đầy khát vọng nhục tình:
Nàng ở mô? Xiêm áo bỏ đâu dây?
Đến triển lãm cả tấm thân kiều diễm.
Nàng là tuyết hay da nàng tuyết điểm?
Nàng là hương hay nhan sắc lên hương?
Mắt ngời châu rung ánh sóng nghê thường;
Lệ tích lại sắp tuôn hàng đũa ngọc.
Đêm u huyền ngủ mơ trên mái tóc
Vài chút trăng say đọng ở làn môi.
Hai vú nàng! hai vú nàng! chao ôi!
Cho tôi nút một dòng sâm ngọt lộng.
Ôi lồ lộ một tòa hoa nghiêm động!
Tôi run run hãm lại cánh hồn si...
Ồ hai tay rơi chén ngọc lưu ly;
Ồ hai chân nở màu sen ẻo lả;
Cho tôi nàng! cho tôi nàng! tất cả...
Tôi miên man uống lại mộng quỳnh dao
Cho đê mê, chới với, hồn lên cao,
- Một tinh cầu sẽ tan ra biển lệ. (Tranh lõa thể)
Tranh lõa thể, một tác phẩm tuyệt vời mà âm nhạc và màu sắc
dâng lên theo nhịp rung thể xác. Chàng trai đứng trong phòng triển lãm, trước bức
tranh khỏa thân có dáng dấp của một người xưa, chàng vào mộng, trở lại hàng
ngàn năm trước, sống lại giấc mơ Tú Uyên - Giáng Kiều.
Hoặc ngược lại, chàng chính là Tú Uyên, đứng trước bức họa
Giáng Kiều vừa hoàn tất, chàng xao động bối rối, sống một giấc mơ mới mà nhịp độ
thể xác đồng tiến với đam mê, với âm nhạc, màu sắc và thời gian.
Chàng đã vượt ra trên lễ giáo cổ truyền để tiến tới tự do nghệ
sĩ, dám phô bày nhục cảm xác thịt của mình trên trang giấy: Tú Uyên đã "hiện
đại hóa tư tưởng" của mình qua thơ Bích Khê: Bích Khê nói hộ người xưa những
ẩn ức dục tình của họ bằng tiếng thơ đời nay.
Đôi mắt Bích Khê
Châu, bài thơ cuối trong tập Tinh huyết là một trường
khúc, diễn tả hành trình sáng tạo của Bích Khê, hành trình biến hóa từ chữ sang
châu. Bài thơ có ba phần:
Phần I, định nghĩa những cái đẹp: Đẹp câm trong pho tượng. Đẹp
huyền ảo của người trong mộng. Đẹp rã rượi của tiếng đàn, của đôi mắt mùa thu.
Đẹp đau thương trong đôi mắt lệ, biến thành giọt châu.
Phần II, sự chuyển hóa từ cái đẹp sang cảm xúc và rung động
trong tâm hồn nhà thơ.
Phần III, sự biến hóa những tinh lực, những rung động trong
tâm hồn nhà thơ thành những giọt châu.
Đối với Bích Khê mắt là tác nhân chính và châu là thành quả của
sáng tác.
Bích Khê coi mắt và châu như những tinh thể của thi ca.
Mắt nơi Bích Khê, tương đương với tưởng tượng nơi Hàn Mặc Tử.
Nếu Hàn Mặc Tử dùng óc tưởng tượng để sáng tạo thì Bích Khê
dùng mắt để làm thơ.
Và đó là sự khác biệt sâu xa giữa hai người: Tất cả tinh anh
nơi Bích Khê tụ vào đôi mắt. Nếu ai gần Bích Khê, chắc không thể nào tránh khỏi
bị cuốn hút bởi đôi mắt. Ngày nay, chúng ta chỉ còn lại tấm ảnh duy nhất, chân
dung một thiếu niên, có đôi mắt to đen đẹp tuyệt vời.
Bích Khê đã diễn tả hành trình sáng tạo của mình như sau: Trước
tiên nhà thơ tiếp nhận những cảm xúc của thiên nhiên và đời sống, rồi nhập đồng
trong tâm hồn:
Tôi dường nghe trong một phút mê man
Hồn thanh thiên cho đến phách dương gian
Đều vỡ lở cho rung rinh thần thức
- Một thế giới mờ đi trong sáng đục
Và im hơi cho xuất khí âm hư...
Từ vùng đồng thiếp ấy, đánh lên những âm giai và màu sắc, và
những yếu tố này đọng lại trong ánh mắt, rồi từ tinh cầu mắt đó, biến thành những
giọt châu thơ:
Sao? Màu nàng vấn vít lấy màu thơ
Với tình tiết và tên hoa vô thượng
Với đôi mắt đẹp câm trong sắc tượng
Biến ra châu nguyên vẹn cốt thiên đàng
Nên Thiên Tài đang tắm ở suối vàng
Theo trực giác bay lên nguồn ngọc lệ
Như thế, mỗi lần nhả châu trong mắt ngọc, thiên tài phải chết
đi trong đê mê huyền bí, trong giếng loạn của tâm hồn:
Cho đã khát trong đê mê huyền bí
Ánh tiên tri nức nở sóng anh linh
Đường kinh tuyến hút nhiễm chất vô hình
Dẫn địa ngục đi vào đôi giếng loạn?
Đỉnh hoang loạn thể xác và tâm hồn cũng là đỉnh thơ: muốn đạt
tới thơ, tức cõi châu, nhà thơ phải thăng hồn tới cực của đớn đau hoang loạn, tới
sự mất trí, tới sự rã rời thể xác, tới xuất huyết, tới địa ngục và thiên đàng:
Tôi chết ngay đây chẳng nói rằng
Cả mình lạnh khớp đến hàm răng
Thần gì đã xuất ra đôi mắt
Vội đẩy hồn tôi tới bóng giăng
Một bóng giăng rồi một bóng giăng
Hồn vẫn phiêu lưu rất nhẹ nhàng
Đến mút không gian là bát ngát
Một trời thơ mộng đẹp mê man
Và trong vùng ánh sáng và âm thanh thần tiên ấy, đôi mắt thần
tiên hiện ra:
Bỗng khúc dương cầm nấc tiếng thu
Bỗng đôi mắt ngọc hiện xanh mờ...
Và châu và báu và thanh khí
Nức nở tan thành vạn giọt thơ
Đạt đến cõi thơ, mọi sự lại bắt đầu trở lại.
Toàn bài thơ là hành trình của sáng tác, trong một vòng tử
sinh huyền bí:
Tối hôm nay mùa thu đang ảo não
Trong gió rên và trong lá vàng bay
Mỗi gân trắng rúng rẩy một luồng say
Mỗi hơi thở hoa hồng vang nức nở
Và mạch máu không gian dường vỡ lở
Hú ma điên... kinh động vạn hồn đau
Muôn u phiền đầy đặc ứ trong đầu
Muôn sầu hận xây mồ ngay giữa phổi
Tôi ngây ngất trong bể lòng sôi nổi
Để hồn mê trôi dạt cõi xa mơ
Mình lặng ngồi trên tảng đá trơ vơ
Tình khóc mướt trong đêm thu ấp ủ
Đôi mắt Bích Khê chính là nguồn sáng tạo, nguồn khổ đau và hạnh
phúc. Chưa ai hỏi mắt mình: Người là ai? Nhà thơ cũng không biết rõ nguồn sáng
trong đôi mắt ấy từ đâu đến và sẽ dẫn mình đến đâu? Đôi mắt là cửa sổ của linh
hồn như người ta thường nói, nhưng linh hồn Bích Khê là một cõi huyền bí xa lạ,
của một cuộc đời ngắn ngủi trên dương gian, nhưng vô tận ở cõi siêu hình:
Hỡi đôi mắt! Nơi người là ngọc thạch
Nơi giếng người phản chiếu ảnh thiên thần
Nơi suối người giữ kín tiếng châu ngân
Nơi triển lãm cả một bầu tiên động
Nơi rung rinh cả một trời thơ mộng
Người là ai? Người hỡi! Người là ai?
-Nhưng đôi mắt lờ lặng và mê say
Nhìn đắm đuối không một lời náo nức
Nhạc khiêu vũ đâu đây lan sóng múa
Tôi tưởng chừng... da thịt biến ra thơm
Những đầu lâu rã hết khí xanh dờn
Những xiêm áo bay rờn trong cảnh mộng
Cả địa ngục đi vào trăm lỗ hổng
Bắn tinh ra trộn trạo giữa nguồn hương
- Hỡi đôi mắt! hồ thủy tinh trong suốt
Soi trần gian địa ngục vạn đời ma
Hãy nói tên thần bí của muôn hoa
Hãy kể hết nhiệm mầu muôn thế giới
Những bí quyết khí nhạc lên vời vợi
Những màu thiêng khi đau khổ lên cao
Những thơm ngào phối hiệp giữa trăng sao
Những khoái trá truyền qua hai xác thịt
Bằng hơi điện - bằng hơi điên tha thiết
Người là ai? người hỡi! người là ai?
- Nhưng đôi mắt lờ lặng và mê say
Nhìn đắm đuối, không một lời náo nức
Bích Khê, ngàn đời sau vẫn còn là vì tinh tú mới, chiếu vào
cõi thơ, bằng đôi mắt ngọc của một thiên thần, biến chữ thành châu.
Thụy Khuê
Nguồn: http://thuykhue.free.fr/stt/b/BichKhe3.html
Mùa thu nhớ thi sĩ Bích Khê (1916 -1946)
Đinh Cường
Thi sĩ Bích Khê
(Ảnh gia đình BK tặng DC)
Ô! Hay buồn vương cây ngô đồng
Vàng rơi! Vàng rơi! Thu mênh mông
(Tỳ Bà - Bích
Khê)
Bích Khê tên thật là Lê Quang Lương, sinh ngày 24 tháng 3 năm
1916 tại xã Phước Lộc, huyện Sơn Tịnh, tỉnh Quảng Ngãi trong một gia đình Nho
giáo, cha là ông Lê Mai Khê, mất sớm, mẹ là bà Phạm Thị Đoan. Ông nội làm quan
dưới triều Tự Đức. Ông thân sinh là người thông uyên Hán học, có dự vào những
cuộc vận động xuất dương của cụ Phan Chu Trinh.
Gia đình gồm 8 anh chị em, Bích Khê là con út. Anh chị em
Bích Khê phần đông đều có tâm hồn văn nghệ. Gia đình không được giàu có, nhưng
vì là con út nên Bích Khê được hưởng đầy đủ sự nuông chiều. Lớn lên tại quê nội
ở thị xã Thu Xà, một làng ở gần biển cách tỉnh Quảng Ngãi 10 cây số với người
anh trưởng và hai người chị, còn người chị kế ở Sài Gòn.
Thi sĩ Bích Khê đã ra chào đời giữa hai yếu tố thiên nhiên:
núi và sông. Sông Trà Khúc xanh trong uốn mình giữa hai ngọn núi Thiên Ấn,
Thiên Bút. Mà sau này lớn lên Bích Khê đã cảm hứng làm bài thơ Đường sau đây:
Trên Núi Ấn Nhìn Sông Trà
Trà giang Thiên Ấn chuông gầm sóng
Vang tiếng ngàn năm đất Cẩm thành
Ngàn năm quả Ấn nằm trơ mốc
Một giải sông Trà chảy rậm xanh
Xót hồn cổ độ sương vài giọt
Xịch bóng tà huy nguyệt mấy canh
Nghìn dặm cổ nhân đâu có tá?
Cánh chim kêu lạnh đập trong cành.
Khi còn nhỏ, Bích Khê đã tỏ ra thông minh xuất sắc nhưng rất
biếng học. Bị thầy quở phạt luôn vì tội không thuộc bài. Có lần không chịu đi học,
Bích Khê bị mẹ bó tròn vào cột đánh. Sau đó Bích Khê mới bắt đầu lo học và ham
học. Đúng 13 tuổi, ra Đồng Hới học tiểu học. Vài tháng sau hai đầu gối bị sưng
to nên phải vào nằm nhà thương. Nơi đây Bích Khê vừa rên vừa học. Năm sau Bích
Khê đỗ đầu kỳ thi Tiểu học Pháp-Việt toàn tỉnh. Gia đình cho ra Huế theo ban
Trung học tại trường dòng Pellerin.
Học xong ban Thành chung vào năm 1932, Bích Khê lại ra Hà Nội
học tư.
Về văn chương, tài năng của Bích Khê phát triển rất sớm. Năm
12 tuổi thiên tài Bích Khê đã phát lộ trong một vài bài thơ Đường luật mà ông
thân sinh phải ngạc nhiên, nên hễ có bạn đến chơi nhà là ông đem khoe tài con
mình.
Nét mặt lúc nào cũng trầm buồn, cuộc đời Bích Khê luôn luôn
thay đổi và kéo dài những chuỗi ngày đau yếu.
Nhân dịp hè, Bích Khê rời Hà Nội, xin ở nhà tự học dư tiền
nuôi một người bạn nghèo. Tuy gia đình không bằng lòng, Bích Khê vẫn thực hiện
theo ý muốn. Tháng sau, Bích Khê cùng người bạn vào Phan Thiết sống với người
anh ruột đang làm việc tại đó. Bích Khê luôn luôn hy sinh vì bạn. Sợ cuộc sống không
được đầy đủ, Bích Khê bàn với bạn mở một trường tư. Nhờ sự vận động của người
chị và sự giúp đỡ của 2 anh, trường được mở. Bích Khê thấy cần phải sống tự lập
nên cùng chị và bạn đi ở riêng. Người chị mở cửa hàng bán dụng cụ học trò để
giúp sự sống cho trường lúc ban đầu chật vật.
Trường mở được 2 năm, Bích Khê rời Phan Thiết trở về quê sống
với mẹ. Gia đình dọn riêng cho Bích Khê một chái rộng với một giường ngủ, một
bàn viết và hai ghế ngồi. Với tính rụt rè, Bích Khê ít giao thiệp nên chẳng
quen mấy ai. Sống cạnh mẹ hiền và say đắm với nàng thơ, cửa phòng Bích Khê luôn
luôn khép kín mài miệt đến nỗi đau ngực, gia đình đưa ra Huế soi điện mới biết
là phổi yếu, nên Bích Khê phải nằm dưỡng bệnh ở đây hơn một năm. Bệnh lành Bích
Khê lại về sống bên mẹ. Lúc ấy vào năm 1936. Lần này, Bích Khê xin mẹ lên núi ở.
Chán núi Bích Khê lại xuống biển, và sau cùng lại đòi vào ở hẳn trong chùa, ăn
trường trai và tụng kinh Phật. Ở chùa lâu ngày Bích Khê cảm thấy câu kinh tiếng
mõ làm át tiếng thơ, hồn thơ không được phóng túng, nên lại rời khỏi cảnh tịch
mịch ấy, trở về với tổ ấm gia đình.
Bích Khê sống mát mẻ bên lòng mẹ, lòng chị. Nhờ hoàn cảnh tốt,
tình gia đình đậm đà nên Bích Khê ở nhà được một thời gian khá lâu. Trong thời
kỳ này ông sáng tác rất nhiều thơ Đường luật, gửi đăng ở các báo Tiếng Dân, Tiểu
Thuyết Thứ Năm, Người Mới với bút hiệu Lê Mộng Thu hoặc Bích Khê. Bích Khê đã tỏ
ra rất xuất sắc ở những bài thơ ấy và rất được hoan nghênh [1]. Cho nên thơ Đường
]cũng đã chiếm một địa vị quan trọng trong thi nghiệp Bích Khê. Sau Bích Khê
chuyển sang làm thơ mới như các thi sĩ Thế Lữ, Lưu Trọng Lư, Huy Thông, Thái
Can… và gửi đăng báo Phụ Nữ Tân Văn ở Sài Gòn.
Bích Khê bắt đầu đọc say mê Paul Valéry, Mallarmé, nghiên cứu
Baudelaire, Verlaine, Rimbaud. Năm 1938, nhân có một tâm trạng buồn, Bích Khê lại
rời gia đình vào Phan Thiết, và lại mở tư thục để kiếm sống. Trường càng ngày
càng đông học sinh, nên phải mở thêm lớp học tối để dạy các học trò lớn. Và
chính ở lớp tối này đã để lại trong cuộc đời tình ái Bích Khê một cuộc tình
duyên hết sức thơ mộng mà cũng là một kỷ niệm đầy đau thương. Trong số học sinh
lớp tối, Bích Khê để ý đến một cô học trò tên N., cô này có cử chỉ dịu dàng và
tính nết dễ thương, rồi Bích Khê yêu, yêu với lòng chân thành, si mê. Tuy là thầy
nhưng Bích Khê không lớn tuổi hơn N. lắm, và N. đã đáp lại bằng một niềm yêu
thương thầm kín. N. đẹp, có đôi mắt thật buồn—buồn như biết trước chuyện tình sẽ
tan vỡ, dù rằng mối tình trở nên khăng khít giữa hai người. Thời gian làm tăng
thêm sự thắm thiết ấy. Vì cảm thấy cần phải gần nhau hơn trong cuộc đời, nên
Bích Khê và N. định việc kết hôn. Bích Khê biên thư bày tỏ cùng gia đình. Bà
thân mẫu mừng khi hay tin con mình chịu lấy vợ. Bích Khê vẫn thường nói không
thích lấy vợ. Bà liền vào Phan Thiết để cậy người đến hỏi ý kiến gia đình N.
nhưng một sự bất ngờ mà chính Bích Khê tưởng không thể xảy ra được, là gia đình
N. từ chối, bảo rằng đã hứa với một người khác. Trước sự phản đối và ép buộc của
gia đình, N. bạo dạn bày tỏ là chỉ yêu một mình Bích Khê thôi. Gia đình vẫn
không chịu, N. buồn ốm nặng và như phát điên, thuốc thang vẫn không khỏi. Gia
đình N. thấy con càng ngày càng rối loạn thần kinh nên đành ưng thuận cho người
mời gia Bích Khê đến tính việc hôn nhân. Nhưng vì lòng tự ái quá cao, Bích Khê
từ chối. Sau đó Bích Khê và N. vẫn thường thư từ an ủi nhau và thỉnh thoảng gặp
nhau thương khóc cho mối tình. Cũng từ đó, thơ đau thương của Bích Khê tuôn ra
lai láng. Bích Khê thường liên lạc với thi sĩ Hàn Mặc Tử ở Quy Nhơn để trao thơ
mình cho Hàn xem. Chính Hàn Mặc Tử đã khích lệ Bích Khê rất nhiều. Hàn biết
Bích Khê có tài nên càng khiêu khích để Bích Khê nảy bật tài ra:
“Suốt trong năm 1938, tôi hết sức khích lệ chàng, mong mỏi ở
chàng một thi sĩ xuất sắc, cao cường. Cái hy vọng của tôi sốt sắng quá, nóng nảy
quá, đã một lần đưa tôi vào sự thất vọng chán chê và tức bực. Gần cuối năm ấy,
chàng gửi ra cho tôi nhiều thơ, mà tôi chẳng lựa được bài nào cả. Tôi gửi trả lại
chàng kèm với bức thư mà tôi đã dùng rất nhiều lời khiêu khích mỉa mai (cốt làm
cho chàng tức). Quả nhiên chàng giận run người lên và vội trả lời thề với tôi rằng:
Trong sáu tháng sẽ trở nên một thi sĩ phi thường, bằng không sẽ chẳng bao giờ
nghĩ đến làm thi sĩ nữa.
Ngờ đâu sự hằn học của chàng đã bật nảy thiên tài của chàng
ra. Không đợi đúng sáu tháng, chỉ trong vòng ba tháng thôi, chàng đã viết được
một tập thơ, viết bằng máu huyết tinh tủy và châu lệ, và tất cả say sưa, đắm đuối
của một hồn thi sĩ.” (Bích Khê, thi sĩ thần linh, bài của Hàn Mặc Tử trong tạp
chí Trong Khuê Phòng số 98 ngày 10/6/1939) [2]. Cuối năm ấy, thi phẩm Tinh
Huyết ra đời [3] Bích Khê không muốn sống nghề dạy học ở Phan Thiết nữa,
cùng chị về Quảng Ngãi rồi lại cùng bạn làm một cuộc sống gần miền Nam để sáng
tác và dịch sách.
Bích Khê gửi thư cho André Gide xin dịch quyển “Retour
de L’ U.R.S.S” [4] (Ở Nga về). Tác giả từ Algérie gửi thư sang cho phép. Dịch
xong nhưng không có tiền xuất bản, bản thảo cũng bị thất lạc sau nhiều lần gửi
gắm.
Năm 1940, Bích Khê trở về sống với người anh thứ ở Sông Cầu rồi
về Thu Xà để dự lễ cưới của chị. Cũng trong năm đó, chứng bệnh đau phổi trở lại
với Bích Khê. Bích Khê lại ra Huế. Nằm chữa bệnh tại bệnh viện lao Pasquier một
thời gian rồi về nhà tự điều trị. Thấy Bích Khê yếu nhiều, gia đình thêm lo lắng.
Người chị đã đi theo chồng nhưng vẫn về an ủi và chăm sóc em thật chu đáo.
Sau những ngày chán chê cuộc sống, yếu đi vì đau ốm, tâm hồn
Bích Khê bắt đầu thấy cô đơn. Chiều chiều Bích Khê ra sân ngồi nhìn bốn phương
trời như tìm kiếm những người bạn thơ xa xôi. Lòng ao ước gặp lại một người
quen trên dặm mòn:
Ôi chiều mùa thu sao mà buồn
Tầng khói biếc đầy… tràn về thôn
Dòng sông như đờ không muốn chảy
Có phải hôm nay chở nặng hồn?
Gió về mang cả mùi lăng tẩm
Buồn cắt lên đền những miếng đen
Người viễn khách, lòng sầu vạn cổ
Dặm mòn muốn gặp một người quen!
Thỉnh thoảng thơ Quách Tấn gửi đến, Bích Khê đọc rồi họa lại,
thấy đỡ buồn hơn. Có lần Chế Lan Viên đến thăm, Bích Khê mừng ra nước mắt.
Mặc dù thuốc thang đầy đủ, tẩm bổ rất nhiều nhưng càng ngày
Bích Khê càng xanh xao tiều tụy. Một hiện tượng lạ là cách bốn, năm năm trước,
khi nằm dưỡng bệnh lần đầu ở nhà thương Huế, Bích Khê nằm mộng thấy một nàng
tiên hiện ra giơ cao tay rải những mảng bông vải. Bông bay trắng xóa rồi rơi xuống
đất ráp lần thành chữ và thành bốn câu thơ. Bốn câu thơ ấy cho Bích Khê biết là
sẽ chết vào Lập Xuân. Vì thế nên cứ năm nào đau, Bích Khê cũng ngại mùa xuân.
Nhưng bao mùa xuân qua Bích Khê vẫn sống, nên hết tin ở cái chết vào mùa xuân của
mình.
Đến năm 1945, điều mộng ấy lại tái hiện một hôm, giữa đêm
trăng sáng, Bích Khê bảo người nhà dìu ra sân ngắm trăng. Ánh sáng xanh dịu của
trăng đã khêu lại tâm sự ngày cũ. Mối tình xưa, người xưa lại trở về sống trong
hồn thi sĩ. Sáng hôm sau Bích Khê trao cho chị bài thơ “Làng Em” và nói:
“Em mong một bóng hình trở lại, nhưng em biết không bao giờ”:
Nơi đây: làng cũ buồn thu quạnh!
Anh có khi nào trở lại chưa?
Ngày đi chậm lắm. Dòng sông biếc
Hừng sáng trong trời sợi sợi mưa.
Nơi đây: thành phố đời ngừng mạch
Mấy nàng lai khách vẫn buồn mơ
Đường lên hội quán sương khuya xuống
Đâu mấy chàng trai rõi nhớ hờ?
Anh có khi nào còn trở lại,
Chờ lúc hoàng hôn trăng đã lên
Tìm ngõ nhà em anh sẽ thấy
Khóm lan thơm nặng khí ưu phiền
Là lúc đêm về trên mái ngói
Những nhành nhãn muộn cánh dơi bay
Em đang nổi bệnh trong phòng vắng
Tình đệm theo trăng sáng sáng đầy…
(Trong tập Tinh Hoa, chưa xuất bản)
Rồi như là trăng sao mang niềm cảm nghĩ ấy đến cho N. Một
hôm, thình lình Bích Khê nhận được thư N. gửi thăm, cho biết đã có chồng và hai
con. Nàng xin phép Bích Khê cho nàng được đến thăm, vì tình xưa vẫn không chết
trong lòng nàng. Bích Khê nửa mừng nửa ngại. Cả nhà đều vui mừng sắp được tiếp
N., vì cho đó là niềm an ủi cuối cùng cho những ngày tuyệt vọng của Bích Khê.
Thư trả lời đồng ý. N. từ Sài Gòn ra Thu Xà. Hai người gặp nhau nghẹn ngào. Ở lại
Quảng Ngãi mấy hôm rồi nàng từ giã, để lại cho khóm lan bên ngõ một hồn đau, một
xác gầy. Bích Khê tiễn nàng ra cửa với một cảm giác vĩnh biệt. Cách mười hôm
sau Bích Khê nhận được một giỏ cam của N. từ xa gửi về, và cũng từ đó Bích Khê
không bao giờ trông thấy bóng nàng nữa…
Sức khỏe mỗi ngày một xuống, căn bệnh lại càng tăng lên. Bích
Khê cảm thấy thất vọng, tìm đủ cách đánh bại vi trùng, nên ai bày gì Bích Khê đều
bảo gia đình làm theo và dù thuốc cay đắng, nhờm gớm thế nào Bích Khê cũng uống
được. Bích Khê còn chịu khó theo phương pháp nằm luôn trên giường (repos
absolu) không đi đứng nữa. Chính phương pháp này đã làm cho các gân tê bại, nên
có lúc Bích Khê không đứng vững được. Bài thơ rải bông trong mộng lại nhắc nhở
cho Bích Khê chết ở Lập Xuân. Bích Khê tin là mình chết ở mùa xuân này: “Xuân
năm nay chắc quá chị ạ. Vì đã biết sức em”. Tháng sau Bích Khê trao cho chị hai
bài thơ “Nấm mộ”:
Mây, tuyết, thời gian bay tợ nhạc
Hồn tôi đã thoát để tiêu dao!
Những tờ thơ nát đầy hơi hám
Tay khách đa tình sẽ chuyển trao
Rồi những mùa thu vô hạn thương
Trở về dưới biếc chập chờn hương
Mùa thu ám ảnh nhà thi sĩ
Muốn thổi tiêu vàng giữa khói sương
Gió tiêu sẽ quạt buồn thanh tịnh
Về chốn thôn già viếng mả tôi
Dẫy cỏ xôn xao, mây lớp phủ
Trên mồ con quạ đứng im hơi. [5]
(Trong tập Tinh Hoa, chưa xuất bản)
Và “Đề bia dựng trước mộ” gồm có 4 câu:
“Thân bệnh: ngô vàng mưa lá rụng
Bút thần: sông lạnh bóng sao rơi
Sau nghìn thu nữa trên trần thế
Hồn vẫn về trong bóng nguyệt soi”
Bệnh tình Bích Khê càng đi lần vào tuyệt vọng. Gia đình vẫn
lo đầy đủ cho đến phút cuối cùng. Vì Bích Khê biết trước cái chết của mình nên
vẫn tươi tỉnh nói chuyện nhiều và vui vẻ an ủi gia đình. Bích Khê cứ luôn tụng
niệm “Di Lạc Tôn Phật” và tin tưởng ngày nhắm mắt có Phật đến rước. Nhờ sức tin
tưởng mãnh liệt ấy, nên sự chết đối với Bích Khê như Bích Khê sắp trở về quê,
cái quê hương đầy hương hoa phúc hạnh. Qua mùa đông, trời bắt đầu lập xuân.
Bích Khê sửa soạn cho mình cái chết. Bích Khê xin mẹ may một bộ đồ trắng mới và
gọi chị lại nhờ chép lời di chúc trao cho mẹ, căn dặn mẹ phải làm đúng.
Đây là những lời di chúc của Bích Khê để lại:
1. Khi chết không được khóc
2. Chết xong lịm liền chôn liền
3. Đám rất giản dị, một cái hòm vừa kín, một tấm drap đắp điếm
thi hài và khi chôn không cờ trống.
4. Những bà con, bạn bè đến phúng điếu, tiền bạc không nhận,
phải đem trả tận nhà.
5. Ngày cúng giỗ chỉ một nén hương, một bình hoa, không cúng
cơm cá.
6. Tập thơ “Tinh Hoa” chị và anh rể mang quyền xuất bản
Một tối sau khi ăn cháo xong, Bích Khê gọi mẹ lên ngồi một
bên, nói cho mẹ biết là còn ba ngày nữa, nhằm ngày rằm, Bích Khê sẽ chết. Và
nói cho người xuống chùa Phú Thọ xin phép mời một vị sư, bạn cũ của Bích Khê,
lên ở với Bích Khê 3 ngày đêm để tụng kinh cho Bích Khê nghe. Đến đêm thứ ba
thì Bích Khê trút hơi thở cuối cùng. Đúng như lời Bích Khê nói. Lúc ấy là 12 giờ
khuya ngày 15 tháng 12 năm Ất Dậu (tức ngày 17-1-1946). Cái chết đến với Bích
Khê nhẹ nhàng quá, nhưng cũng chua xót làm sao. Người ta nghĩ đến bệnh lao.
Nghĩ đến những thi sĩ, văn sĩ chung số phận: John Keats, Thạch Lam, Vũ Trọng Phụng…
Và nhất là với tuổi 30-tuổi mà những thiên tài thường về với Trời-Khi mùa xuân
tới, khi cảnh vật chung quanh hồi sinh lại thì Bích Khê qua đời. Bích Khê qua đời
giữa mùa xuân tao loạn, nên ngày chết bạn xa không ai về được. Nấm mộ được đặt
trên miếng đất của Hội Quán ở Thu Xà. Và qua mười năm khói lửa cũng chỉ một con
quạ đứng im hơi trên nấm mồ…
Bích Khê và Thơ
Tác phẩm Bích Khê gồm có:
• Tinh Huyết (thơ) xuất bản năm 1939
• Đẹp-1949-thơ chưa xuất bản
• Tinh Hoa-1938 -1944-thơ chưa xuất bản
• Ngũ Hoành Sơn (thơ) chưa xuất bản
• Lột Truồng (thiên tự thuật) chưa xuất bản
• Mấy dòng thơ cũ (1931-1936) không xuất bản
Nói đến thơ Bích Khê, tôi nghĩ ngay đến nguồn thơ tượng trưng
trong đó gồm có đủ những chất huyền diệu và trụy lạc, có đủ màu sắc trừu tượng
và cụ thể. Hàn Mặc Tử đã ví thơ Bích Khê như một đóa hoa thần dị, một thứ hương
quý trọng, thơm đủ mọi mùi phước lộc. Hoài Thanh cho rằng: “Tôi đã gặp trong
Tinh Huyết những câu thơ hay vào bực nhất trong thơ Việt Nam:
Ô! Hay buồn vương cây ngô đồng
Vàng rơi! Vàng rơi! Thu mênh mông”
(Thi nhân Việt Nam, trang 237)
Ở đây chúng tôi thấy cũng cần phải nhắc đến 2 bài thơ Pháp,
đã bắt đầu cho nguồn thơ tượng trưng và huyền diệu ấy là Charles Baudelaire
(1821-1867) tác giả “Les Fleurs du Mal” (1857) mà Arthur Rimbaud đã gọi là “Nhà
tiên tri, Vua thi sĩ, Một vì Chơn Chúa” (Le premier voyant, Roi des poètes, Un
vrai Dieu) và Paul Valéry (1871-1945) tác giả tập thơ “Charmes” (1922) mà Bích
Khê đã ít nhiều chịu ảnh hưởng, nhưng “chịu ảnh hưởng với một tài trí thông
minh, khiến người đọc chỉ biết phục thiện mà không dám chê. Vẫn biết tài bắt
chước mô phỏng, ai cũng có thể làm được, song lẽ nếu không phải một chân tài, sự
mô phỏng sẽ trở nên vụng về sống sượng”.
(Hàn Mặc Tử - Tựa tập Tinh Huyết, trang VIII)
Với Tinh Huyết [6] tập thơ làm bằng tim, óc, thịt và máu,
cùng những ý tưởng thanh cao và tội lỗi. Bích Khê yêu một thể thơ trụy lạc và
nghệ thuật đi đến chỗ thắm chín tuyệt đích. Thơ Bích Khê ví như cái cầu vồng,
đi từ mầu trắng bâng khuâng tới mầu gay gắt, ray rứt, điên cuồng, chỉ khi nào
hiểu mới thấy được những màu kia. Bích Khê đã phát ra một sự rung động mới mẻ
(un frisson nouveau), thường dùng những biểu tượng (symboles) để diễn tả -
nghĩa là dùng những hình ảnh và những ý tưởng khác lạ có đủ ma lực gợi ra hay
làm sáng tỏ đối tượng. Ta hãy nghe Bích Khê bày tỏ sự trần truồng một cách rất
thanh tao:
Dáng tầm xuân uốn trong tranh Tố nữ
Ô tiên nương! Nàng lại ngự nơi này?
Nàng ở mô? Xiêm áo bỏ đâu đây?
Đến triển lãm cả tấm thân kiều diễm.
Nàng là tuyết hay da nàng tuyết điểm?
Nàng là hương hay nhan sắc lên hương?
Mắt ngời chân rung ánh sóng nghê thường;
Lệ tích lại sắp tuôn hàng đũa ngọc.
Đêm u huyền ngủ mơ trên mái tóc
Vài chút trăng say đọng ở làn môi.
(Tranh lõa thể - Tinh Huyết trang 41)
Thi sĩ họa với tiếng, tìm góp mùi hương vào trong nhịp và chữ.
Với những hương, những sắc, thi sĩ đã dùng các biểu tượng “đũa ngọc” để ví với
hàng nước mắt, “tuyết” là da nàng; thi sĩ còn thấy nhan sắc lên hương và nhìn
mái tóc đen mướt u huyền mà tưởng chừng như đêm đang ngủ mơ. Bài thơ vì thế trở
nên huyền diệu, cám dỗ được ngũ quan ta. Ngoài hình ảnh tân kỳ, biểu tượng đặc
sắc, thơ Bích Khê còn hay về nhạc điệu. Bích Khê coi nhạc điệu là một yếu tố cần
thiết trong việc truyền cảm. Bích Khê đã dùng những vần, những tiếng có âm
thanh phù hợp với ý để tạo ra một âm điệu thần tình. Mơn man ta như một điệu
đàn ngọc, một nỗi buồn rất Đông Phương trong bài Tỳ bà:
Vàng sao nằm im trên hoa gầy
Tương tư người xưa thôi qua đây
Ôi! Nàng năm xưa quên lời thề
Hoa vừa đưa hương gây đê mê
Tôi qua tim nàng vay du dương
Tôi mang lên lầu lên cung Thương
Tôi không bao giờ thôi yêu nàng
Tình tang tôi nghe như tình lang
Yêu nàng bao nhiêu trong lòng tôi
Yêu nàng bao nhiêu trên đôi môi
Đâu tìm Đào nguyên cho xa xôi
Đào nguyên trong lòng nàng đây thôi.
Buồn lưu cây đào xin hơi xuân
Buồn sang cây tùng thăm đông quân
Ô! Hay buồn vương cây ngô đồng
Vàng rơi! Vàng rơi! Thu mênh mông
(Tinh Huyết trang 25)
Lời thơ êm như nhung, buồn tẻ như hoàng hôn, đằm thắm phát từ
những khúc đàn cổ như Lạc Mai Hoa, Hoàng Hoa, Trường Hận Ca… Thật là cả một trời
yêu thương buồn da diết. Nhưng âm nhạc vốn là tiếng nói chung, nên Bích Khê lại
sành cả những điệu đàn Tây Phương nữa. Bài nhạc dưới đây với những vần và ý thật
mới lạ:
Ô! Nắng vàng thơm… rung rinh điệu ngọc,
Những cành hồng đơm, những cành hồng đơm
Nhẹ nhàng, nhịp nhàng thở đều trong sương;
Màu trăng không gian như gờn gợn sóng.
Từ ở phương mô nhạn mang thơ về,
Đàn thơ cơ hồ lên cung âm điệu.
Đây giây trinh bạch khóc mướt trong mơ;
Đây hồn ngọc thạch xanh xao như tờ?
Ồ côi lầu mây ánh gì kim cương,
Áo nàng thơ ngây nao nao nghê thường.
Thơ bay! Thơ bay vô bàn tay ngà,
Thơ ngà ngà say! Thơ ngà ngà say!
Nàng ơi! đừng động… có nhạc trong giây,
Nhạc gây hoa mộng, nhạc ngát trời mây,
Nhạc lên cung hường, nhạc vô đào động,
Ô nàng tiên nương! hớp nhạc đầy hương.
(Tinh Huyết, trang 28)
Tác giả cho ta nghe thấy những âm thanh trầm bổng xôn xao, lời
thơ mát mẻ và hơi thơ lướt thướt như những bản đàn của Schumann, Beethoven,
Liszt…
Và trong bài “Mộng cầm ca” có những câu thơ láy đi láy lại rất
khéo:
Trăng gây vàng, vàng gây lên sắc trắng
Của gương hồ im lặng tợ bài thơ.
Chân nhịp nhàng, lòng nghe hương nằng nặng
Đây bài thơ không tiếng của đêm tơ.
Trăng gây vàng, vàng gây lên sắc trắng
Của hồn thu đi lạc ở trong mơ…
(Tinh Huyết trang 24)
Âm điệu phảng phất như âm điệu tiếng nhạc Valse trong bài
“Harmonie du Soir” của Baudelaire:
“Voici venir les temps où vibrant sur sa tige
Chaque fleur s’évapore ainsi qu’un encensoir;
Les sons et les parfums tournent dans l’air du soir;
Valse mélancolique et langoureux vertige!
Chaque fleur s’évapore ainsi qu’un encensoir;
Le violon frémit comme un cœur qu’on afflige;
Valse mélancolique et langoureux vertige!
Le ciel est triste et beau comme un grand reposoir.”
(Les fleurs du Mal. Trang 158, phần Spleen et idéal )
Nhờ có nhạc điệu, thi sĩ đã truyền sang tâm hồn người đọc một
cách dễ dàng. Cho nên Bích Khê còn là một nhạc sĩ. Bích Khê đã đi tìm cái Đẹp,
cái Thực theo đúng bản thể của nó. Nên ngoài âm thanh ra, Bích Khê còn làm sáng
tỏ những đối tượng bằng màu sắc hoặc trừu tượng hoặc cụ thể. Bích Khê yêu cảm sắc
đẹp thắm chín của đàn bà, những âm điệu êm trong cùng những cơn mê ám kỳ dị.
Bích Khê đã nói lên những cái bên trong, vĩnh cửu của tâm hồn mình. Đem những
cái nhơ bẩn, những tiếng nói câm kết thành Tình, thành Nhạc, khiến cái vô hình
trở nên hữu hình. Bích Khê đã làm những việc mà người khác không làm được, như
Paul Valéry đã thấy: “Theo mắt tôi thấy, người ta biết thi sĩ ở những cái mà họ
tôn sùng và những chỗ phóng khoáng của họ, những cái không giống với phần đông
mọi người.” (Le poète, à mes yeux se connaît à ses idoles et à ses libertés,
qui ne sont pas celles de la plupart.)
Bích Khê đã đem vào trong thơ những trạng thái khác thường và
đặc biệt của trí não, bày tả cái cụ thể rất tầm thường nhưng ta vẫn tìm được một
cảm giác mới, là nhờ tác giả đã truyền sang cho chúng ta một nguồn cảm tinh thần:
Ô cặp mắt đa tình ngời sắc kiếm!
… Một bàn chân ve vuốt một bàn chân!
Mát làm sao! mát rợn cả châu thân -
Máu ứ lại, máu dồn lên giữa ngực.
Ôi! thớ thịt có đàn lên cung bực
Hồn tôi ôm gót ngọc, lắng âm thanh…
(Bàn Chân - Tinh Huyết trang 48)
Với những màu sắc mầu nhiệm:
Ô trời hôm nay sao mà xanh!
Ngọc trăng xây vàng trên muôn cành
Nhung mây tê ngời sao kim cương,
Dạ lan tê ngời say men hương;
Lầu ai ánh gì như lưu ly?
Nụ cười ai trắng như hoa lê?
Thủy tinh ai để lòng gương hồ?
Không gian xà cừ hay san hô?
(Nghê thường - Tinh Huyết trang 37)
Thơ Bích Khê là cái hợp đề của muôn vàn sự thắc mắc, xao xuyến
trong lòng, trong hồn, trong da thịt, với sắc màu đậm đà, huyền diệu, đã đem lại
cho người đọc một cái gì mới mẻ, mà trong đó hồn thơ, điệu thơ, ý thơ đã gây
nên bởi cái cảm giác thông minh, thành thật . Thơ siêu việt của Philippe
Soupault cũng bắt đầu từ cái thật, do đó những tâm hồn khát khao nguồn Đẹp tìm
thấy ở Bích Khê một sự khoái trá vô cùng.
Ta vừa ra khỏi địa hạt huyền diệu, địa hạt mà “Bích Khê muốn
đi đến chỗ người ta thường cho là cao nhất trong thơ tượng trưng: Mallarmé,
Valéry.”
(Hoài Thanh - Thi nhân Việt Nam - trang 33)
Bây giờ ta hãy vào thăm địa hạt trụy lạc của Bích Khê, nơi mà
thi sĩ đã đụng chạm trụy lạc và thanh cao, vật dục và tinh thần, thi sĩ đã đắm
chìm vào ảo mộng có khi đến phi luân lý. Nhưng vì “Dù phải bị tử hình hay trụy
lạc, Thơ không thể hòa hợp với khoa học hay luân lý. Thơ không có thực tế làm đối
tượng, thơ chỉ là thơ” (La poésie ne peut pas, sous peine de mort ou de
déchéance, s’assimiler à la science ou à la morale. Elle n’a pas la Vérité pour
objet, elle n’a qu’Elle-même. - Baudelaire-Les Fleurs du Mal, trang 23)
Đây là cơn mê của người ham khoái lạc:
“Tôi vồ người như một miếng mồi ngon;
Miệng ngậm hờn riết chặt lấy môi son;
Mắt đổ lửa lườm qua làn sóng sắc…
Tôi giật nẩy rồi cười lên sằng sặc,
Hai tay cào đôi vú trắng như bông”.
(Xác thịt)
Sắc dục tỏa ra mãnh liệt đến điên cuồng:
“Người đã ôm một sắc đẹp trong người
Cho mơ màng cho rạo rực no tươi…
Một xác thịt trần truồng cho rởn óc
Một tình dục cho miệng sang hơi độc
Đến hả hê nên cười sặc như điên” [7].
Chưa đủ, thi sĩ còn muốn cho não cân tẩm thuốc phiện, và mạch
máu ngấm đầy rượu nồng:
Còn đây! còn đây! tiếng rượu hú ma -
Tứ thuốc phiện thu nhập khí mồ hoa;
Ừ, tội chi ta không vào địa ngục
Đặng xin nốt ngọc oan ương thề thốt,
Giam chung thân mà sáng quá thiên đường;
Đặng ngủ nhờ một đêm với Xuân Hương.
Baudelaire! Người là Vua Thi Sĩ!
Cho xin chụm bao nhiêu mùi thi vị
Phà hơi lên, truyền nhiễm thấu trần ai…
(Ăn mày - Tinh Huyết trang 71)
Để rồi:
“Rạng mai có kẻ đi về đấy
Ôi! người say rượu chết nằm queo!
Ngọc sương nức nở tan thành lệ!
Hơi rượu say nồng vẫn quyện theo!”
(Người say rượu - Tinh Huyết trang 54)
Hình ảnh “người say rượu chết nằm queo” gợi nhớ đến cái chết
của một Tản Đà, một Edgar Poe… Ở những bài thơ dâm cuồng này, ta thấy Bích Khê
rất giống Baudelaire, là tuy dâm cuồng nhưng “gợi dục tình thì ít, mà là cho
người ta ghê rợn đến gớm guốc cái cảnh trần truồng khả ố thì nhiều” (Hàn Mặc Tử
- Tựa tập Tinh Huyết, trang XVII)
Và đôi lúc ta cũng gặp được cái chất trụy lạc rất thầm kín, rất
Lý Bạch:
Ồ! Mộng đêm thu, mây vút xa,
Say sưa lộ sắc cạnh Đào hoa:
A ha! Lý Bạch! hồn ba lệ!
Rượu nốc vào: rung khúc đập ca…
Mộng trắng phau phau, vót cung nga:
Xuân Hương! người ngọc, máu say ngà!
Nhấn dây tơ loạn, - buồn lơi lả,
Đờn phất hương trăng, nẩy điệu ra…
(Mộng - Tinh Huyết, trang 43)
Nhưng nếu Tội Lỗi đã có trong thơ thì Đạo Đức cũng là một nguồn
cảm hứng. Vì thế, Bích Khê đã biết hướng hồn mình về một yếu tố duy nhất để chuộc
lỗi, yếu tố ấy đã khơi dậy ở những cái gì sáng láng, thanh cao:
Thơ Bay
Thơ bay lên trên đỉnh núi Nga my
Gạ chơi mây nước phương phi -
Lột mầu sắc tướng trong ni;
Mộng qua, bắt mộng đồ mi lờ đờ!
Thơ bay lên tới động Dương Quí Phi
Gạn xin nước mắt lưu ly -
Của không nàng tiếc làm chi!
Mắt tôi ráo lệ lấy gì xốn xang!
Thơ bay lên cho đến gã Vương Duy
Ghé xem bức tranh Quí Phi -
Tinh thần lộ cả uy nghi;
Càn khôn chụp ở hàng mi trập trùng!
Thơ bay lên cho đến chàng Phụng Kỳ
Gạn nghe thần nhạc lâm ly -
Ánh ra màu sắc tinh vi:
Rưng rưng yến sáng những gì chiêm bao!
Thơ bay về tắm mát suối âm ty
Xác tôi chết lạnh trôi đi -
Lấy ai siêu độ từ bi;
Hồn xiêu hồn đến quy y bên nàng!
(Tinh Huyết trang 74-75)
Ở điểm này ta thấy Bích Khê đã chịu ảnh hưởng của Hàn Mặc Tử.
Thơ Bích Khê đầy những hình ảnh tân kỳ: Nhạc và Lệ, Đẹp và
Dâm, Cuồng và Ánh sáng và Châu họp lại thành một dòng Tinh Huyết, mà Bích Khê
đã say mê đắm đuối đến điên cuồng vì thơ. Nhưng rồi, khi nghệ thuật đã đến chỗ
thắm chín, thơ Bích Khê sẽ đi đến đâu?
Cũng như những thiên tài khác, sau khi đã sống, đã chán chường
cõi đời ô trọc, thi sĩ cảm thấy tâm hồn mình cần phải siêu thoát nên đã nâng thần
trí và hồn tính lên với Trời, hướng đến vô cùng. Nhưng như Chateaubriand tìm
mãi cái vô cùng (vers l’infini) không thấy, thi sĩ mới nhận ra rằng chỉ còn một
thế giới đời đời là Tôn Giáo mới làm thỏa mãn được tâm hồn mình. Trái với Hàn Mặc
Tử là người của Thiên Chúa Giáo, Bích Khê hướng về Phật giáo để ca ngợi cái huyền
bí tuyệt đích.
“Lúc trăng lên vừa có ngọc ra đời:
Ngọc thơm tho như là hương trinh nữ;
Ngọc cao quý ánh muôn màu cẩm tú,
Yến hào quang nẩy bật miếng phong cầm;
Ngọc đây là thâu góp vị muôn xuân
Và anh hoa của một bầu nhược thủy;
Ngọc mầu nhiệm nên pháp danh Như ý,
Kết tinh bằng tứ tượng với âm dương;
Ngọc chơn nhơn cho phật tử cúng dường
Và chiêm ngưỡng giữa kỳ hoa dị thảo;
Ngọc là chúa của kim cương thất bảo
Chan chói ra trùm suốt cả không gian,
Lĩnh hội từ hơi thở của đêm vàng
Đêm huyền diệu của một trời châu báu;
Ngọc có thân xẻ ra muôn mạch máu
Mớm cho người lạnh ớn cả hàm răng;
Ngọc chia hồn để nhập mỗi đường trăng
Cho trăng sửng, trăng rờn, trăng chuyển động.
Ngọc phép tắc trổ ra muôn sắc tướng
Chạm vào người rún rẩy cả châu thân;
Ngọc đồng trinh nên thanh bạch trăm phần;
Ngọc ra đời - Tình tôi run đến óc…”
(Ngọc - Tinh Huyết trang 72-73)
Thi sĩ cho rằng:
“Có say khướt mới đào muôn tứ ngọc;
có điên rồ mới hớp trăng sao;
có dâm cuồng mới dâng cả lên cao.
Nơi chu lưu một nguồn thơ bất tuyệt
Nơi trí người tạo ra rồi xóa hết,
Nghiễm nhiên người là chúa tể vô biên”
Và đã tự hào:
“Ta là Thơ! Phàm tục hãy quy y
Ta sáng suốt chiếu ra mầu Phật tánh”
Sau mấy năm khắc khoải với vi trùng lao, Bích Khê chết. Bích
Khê để lại cho N. một tình yêu bất diệt. Và để lại cho trần gian những tác phẩm
quý hiếm.
Đời Bích Khê ngắn ngủi, buồn đau, tuy rằng được mẹ và chị chiều
chuộng. Nhưng dù buồn đau, Bích Khê cũng đã hướng lòng lên cao để đạt đến cái Đẹp
và cái Thật. Bích Khê đã sống và chỉ sống vì Thơ. Thơ Bích Khê đi sâu vào tận
đáy hồn ta và ở mãi đấy.
Phải chăng cuộc đời ngắn ngủi và tính cách thuần túy của thơ
đã khiến cho chúng ta mến cảm và yêu thơ Bích Khê.
Mùa thu lại về. Ở đây tìm đâu ra vàng rơi cây ngô đồng, mà là
cả muôn trùng rừng phong muôn trùng sắc lá. Và con quạ đen kia làm nhớ con quạ
đậu trên nấm mồ thi sĩ Bích Khê ở Thu Xà khi tôi về thăm năm xưa nào xa lắm…
Đinh Cường
(Chỉnh lại từ bài viết cũ đã đăng trên tạp chí Văn Hóa Á
Châu, số 22, 23- 24 tháng 1/1960 - Sài Gòn.
Cám ơn anh Cao Thế Dung đã tìm thấy ở Thư Viện Quốc Hội,
photocopy gởi cho, Quang Dũng đánh máy lại và Nguyệt Mai edit)
Chú thích:
[1] Sau này Bích Khê gom lại thành tập “Những vần thơ cũ”, gồm
89 bài thơ Đường, Hát nói và các thể, nhưng không xuất bản.
[2] Bài này lấy làm tựa tập Tinh Huyết.
[3] Do Trọng Miên xuất bản, in trong ngày 30 tháng 12 năm
1939 tại nhà in Thụy Ký - 98 phố Hàng Gai - Hà Nội.
[4] Nhà xuất bản Gallimard 5 Novembre 1936
[5] Trong bức thư đề ngày 7-1-1941 gửi cho Hoài Thanh, Bích
Khê nói thích nhất là bài này và bài Duy Tân.
[6] Tựa của Hàn Mặc Tử; Bạt của Trọng Miên - Tập thơ gồm có 4
phần:
- Nhạc và Lệ tặng Hàn Mặc Tử (trang 23 đến trang 38)
- Đẹp và Dâm tặng Trọng Miên (trang 41 đến trang 54)
- Cuồng và Ánh Sáng tặng hai anh Thoại và Hường (trang 57 đến
trang 81)
- Châu (trang 85 đến trang 105)
[7] Đoạn này trong tập Tinh Huyết bị kiểm duyệt bỏ.
Thân bệnh: ngô vàng mưa lá rụng
Bút thần: sông lạnh bóng sao rơi
Sau nghìn thu nữa trên trần thế
Hồn vẫn về trong bóng nguyệt soi.
Theo http://phannguyenartist.blogspot.com/
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét