Claudi Abbado: một đời cho âm nhạc
Nhà soạn nhạc Nga Sergei
Rachmaninov đã từng nói: “Âm nhạc đủ cho một đời nhưng một đời không đủ cho âm
nhạc” (Music is enough for a lifetime, but a lifetime is not enough for music).
Câu nói đó dường như tổng kết cả cuộc đời của nhạc trưởng Italia Claudio
Abbado, từ thành công trong sự nghiệp khi dẫn dắt những dàn nhạc hàng đầu thế
giới như Berlin Philharmonic, Vienna Philharmonic, La Scala Philharmonic… đến
chuyện riêng tư đều thấm đẫm âm nhạc. Ở tuổi 80, sau hơn 10 năm chống chọi lại
căn bệnh ung thư dạ dày, ông đã qua đời trong yên bình, giữa những người thân
yêu của mình tại quê nhà Bologna vào ngày 20-1-2014 vừa qua. Bất chấp tình
trạng sức khỏe, niềm đam mê âm nhạc của Abbado vẫn còn cho đến ngày cuối cùng
của cuộc đời, bạn bè ông kể lại. “Cho đến tận ngày thứ năm (ngày 16-1) ông ấy
vẫn còn nghiên cứu giao hưởng của Schumann”, Massimo Biscardi của dàn nhạc
Orchestra Mozart ở Bologna đã nói với kênh truyền hình RaiNews24. “Ở tuổi 80 mà
ông ấy vẫn còn nghiên cứu như mới 18”.
Claudio Abbado được coi
là một trong những nhạc trưởng vĩ đại nhất thời đại mình. Vào năm 2011, tạp chí
âm nhạc Classic Voice đã coi ông như người xuất sắc nhất trong tốp 100 nhạc
trưởng đương đại. Tổng thống Ý Enrico Letta gọi ông là “một điểm tham chiếu cho
toàn bộ đất nước và còn hơn thế nữa”. Để tưởng nhớ ông, màn trình diễn hành
khúc tang lễ của Beethoven do nhạc trưởng Daniel Barenboim, người bạn thân
thiết trong suốt 50 năm qua của Abbado, chỉ huy trong nhà hát trống vắng ở
Milan đã được truyền hình trực tiếp trên truyền hình Ý trong suốt một tuần sau
khi ông qua đời. Dàn nhạc của nhà hát vẫn thường chơi hành khúc tang lễ này
trong nhà hát trống vắng vào mỗi dịp vinh danh những cá nhân xuất sắc kể từ sau
cái chết của Arturo Toscanini, nhạc trưởng thiên tài Ý, vào năm 1957. Trên web
site của nhà hát Piazza della Scala xuất hiện dòng chữ: “Claudio Abbado đã dẫn
dắt chúng tôi. Ông vẫn sẽ ở lại với La Scala mãi mãi. Đây là nhà hát của ông:
nơi này sẽ lưu giữ một cách xác thực dấu ấn của người nhạc trưởng không biên
giới, một nghệ sỹ không định kiến, sẵn sàng chấp nhận rủi ro và một con người
vươn tầm trí tuệ ra thế giới”.
Trong ký ức của Tom
Service, nhà báo đã có dịp trò chuyện với Claudio Abbado vào năm 2009, câu
chuyện về cuộc đời và sự nghiệp của ông vẫn còn như tươi mới. Khi đó, Tom
Service đã tới tận nhà riêng của nhạc trưởng ở phía tây bắc Sardinia. Nhạc
trưởng Claudio Abbado hóa ra đã làm vườn trong khu vườn của mình trong vòng 40
năm. “Khi tôi chuyển đến đây, chỉ có mỗi một thứ là cây hoa giấy này”, ông kể
rồi chỉ vào những lùm hoa màu tía tràn đầy sức sống quanh ngôi nhà của mình.
“Và hàng năm, chúng tôi xây dựng, trồng trọt nhiều hơn”. Mảnh đất của Abbado
nằm trên một sườn dốc vươn ra biển Địa Trung Hải, và dĩ nhiên người ta phải
vượt qua hàng loạt những lối đi bằng gỗ quanh co do chính tay ông thiết kế, để
đến được bãi biển và bến tàu của ông. Bên dưới mái hiên của chiếc thuyền phao,
một biểu ngữ lớn mang dòng chữ “Venezuela”, một món quà từ những nghệ sỹ trẻ
của dàn nhạc Simon Bolívar Orchestra. Abbado đã thường xuyên tới làm việc với
các học viên của El Sistema ở Caracas, một kế hoạch kỳ diệu của José Antonio
Abreu – “một vị thánh”, Abbado nói đầy ngưỡng mộ.
Ngôi nhà ở Sardinia là
chốn ẩn náu của ông, nơi nhà soạn nhạc già 76 tuổi chuẩn bị cho các chương
trình ít ỏi mà ông chuẩn bị trình diễn hàng năm. Lịch diễn của ông đã được hạn
chế một cách tối đa kể từ khi ông bước vào cuộc chiến với bệnh ung tư dạ dày
vào năm 2000 – sự khốc liệt của bệnh tật khiến ông phải phẫu thuật một nửa dạ
dày. Ông cũng mất đi cả sự trẻ trung, mái tóc đen quyến rũ quen thuộc với những
người yêu nhạc để mang lấy một hình hài ốm yếu đến sững sờ. Abbado có một chế
độ ăn kiêng đặc biệt “Cứ cách hai tiếng tôi lại phải ăn chút gì đó, và tôi
không được ăn đồ chiên rán”, và ông chạm lên vùng bụng khi nói về căn bệnh mà
mình mắc phải, mà giờ đây, sau nhiều năm, ông đã được cải thiện và ổn định sức
khỏe ngay tại căn nhà ở Sardinia trong sự thoải mái, vui vẻ và tràn đầy năng
lượng. “Âm nhạc đã đem lại cho tôi năng lượng”, ông nói.
Khi mắc căn bệnh ung thư,
Abbado đang là nhạc trưởng chính của Berlin Philharmonic, được lựa chọn là
người kế tục Herbert von Karajan huyền thoại để chỉ huy dàn nhạc nổi tiếng nhất
thế giới từ năm 1989 (ông đảm nhiệm chức vụ này cho đến tận năm 2002, khi
Rattle tiếp tục công việc). Trước đó, ông đã giữ những vị trí quan trọng ở châu
Âu, nhưng chỉ sau khi thiết lập được dang tiếng lẫy lừng trong nhiều năm trời.
Sinh ra trong một gia đình âm nhạc và học thức tại Milan vào năm 1933 (cha ông
Michelangelo, một nghệ sỹ violin và giảng viên nhạc viện, thường xuyên chơi đàn
tại nhà cùng bạn bè; mẹ ông Maria Carmela là một nghệ sỹ piano và nhà văn thiếu
nhi), Abbado đã được truyền cảm hứng về âm nhạc từ nhỏ “Tôi lớn lên với bộ ba
nhà soạn nhạc Schubert, Brahms và Beethoven. Khi lắng nghe các bản Nocture của
Claude Debussy ở tuổi lên 7, tôi đã ngay lập tức trào lên khao khát một ngày
nào đó sẽ tự tay làm nên thứ âm nhạc tuyệt diệu này”. Abbado đã theo học sáng
tác, piano và chỉ huy tại nhạc viện mang tên nhà soạn nhạc Ý Giuseppe Verdi ở
chính Milan cùng với anh trai Marcello, người giờ đây là một nhà soạn nhạc và
nghệ sỹ piano xuất sắc; vào năm tốt nghiệp, ông đã giành được giải thưởng về
chỉ huy ở Mỹ, lần đầu tiên xuất hiện ở Vienna và La Scala. Nhưng Abbado sau đó
đã lánh xa hào quang để rèn giũa tài năng âm nhạc của mình để nghiên cứu âm
nhạc thính phòng tại Parma thêm ba năm nữa. Sau quá trình tự rèn luyện nghiêm
túc này, sự nghiệp của ông mới thực sự cất cánh và ông nhanh chóng trở thành
một trong những nghệ sỹ quan trọng nhất trên thế giới. Ông đảm nhiệm công việc
dàn nhạc các vở opera tại nhà hát La Scala, Milan trong vòng hai thập kỷ, từ
năm 1968 đến 1986; và ông điều hành London Symphony Orchestra từ năm 1979 đến
năm 1988, khi chuyển đến đó với tư cách là giám đốc âm nhạc của Vienna Staatsoper.
Sau đó là công việc tại Berlin Philharmonic.
Việc biến chuyển từ
những giai đoạn “bận rộn điên cuồng” đó tới sự êm đềm mà ông đang tận hưởng
ngày nay là những gì ông đang nếm trải. “Giờ đây tôi có nhiều thời gian để
nghiên cứu, để chuẩn bị hơn”. Nhưng ông có thể thực hiện sự biến chuyển này mà
không liên quan gì đến bệnh tật không? “Có thể là không. Nhưng tôi phải thay
đổi để tồn tại. Và nó có nghĩa là khi nghiên cứu, tôi hiểu sâu sắc hơn. Ví dụ,
bản giao hưởng số một của Mahler, dù tôi đã chỉ huy rất nhiều lần – tôi đã thấy
một phiên bản mới và tìm thấy nhiều điều mới mẻ”.
Abbado đã thực hiện điều
đó trong mảnh đất của những lối đi quanh co và tràn ngập cây lá ở Sardinia,
trong căn phòng nhỏ phía dưới ngôi nhà chính của mình. Bên cạnh những cây hoa
trà đẹp đẽ, căn phòng trần cao chỉ bao gồm chiếc giường, tủ sách và bàn làm
việc. Gần như toàn bộ tường của căn phòng được dán những bức tranh in của hoạ
sỹ Áo Egon Schiele – những hình ảnh con người mảnh mai hứng chịu đau đớn về thể
xác vốn là biểu tượng của thời gian và nơi chốn đã từng cuốn hút Abbado hơn bất
kỳ nơi nào khác: Vienna bước ngoặt của thế kỷ, thành phố của Beethoven,
Bruckner, Schoenberg, Berg và trên tất cả là của Mahler.
Abbado đã lần đầu tiên
ra mắt công chúng Viena khi dàn dựng bản giao hưởng số 2 của Mahler với Vienna
Philharmonic năm 1965, khi được đích thân Karajan mời chỉ huy dàn nhạc ở tuổi
32 trong Salzburg Festival (ông đã nhớ lại thầy giáo của ông ở Vienna, Hans
Swarowsky, một trong những nhạc sư xuất sắc thế kỷ, đã khen ngợi ông một cách
trớ trêu sau màn trình diễn này “Hãy nhìn kìa, một Toscanini mới!”). Bản giao
hưởng số 6 của Mahler đã được đưa vào chương trình khi ông thành lập dàn nhạc
European Community Youth Orchestra vào năm 1978; đỉnh cao trong thời đại của
ông và cả trong thế kỷ 20, vớiLondon Symphony Orchestra là festival
Mahler, Vienna; màn trình diễn bản giao hưởng số hai của Mahler là đỉnh điểm
trong chương trình khai trương của ông với Lucerne Festival Orchestra, dàn nhạc
được ông thành lập vào năm 2003.
Abbado đã nói về phần
kết thúc của dàn hợp xướng trong bản giao hưởng số hai – “Phục sinh”, tầm nhìn
thấu suốt về sự tái sinh tinh thần của Mahler – như một phép ẩn dụ cho những
trải nghiệm âm nhạc của riêng mình. Trong phần ghi chú của Mahler cho chính chương
này là những dòng chữ: “Những gì đã được sáng tạo, phải qua đi/Những gì đã qua
đi, phải vươn lên/Hãy ngừng run rẩy/Hãy chuẩn bị cho chính mình/Chuẩn bị cho
bản thân để sống!” Abbado coi điều đó như ý nghĩa của âm nhạc, âm nhạc bao hàm
cả tàn phá và cứu chuộc bởi chính sự hữu hạn của nó: nó tồn tại và bị hủy hoại
trong cùng một khoảnh khắc, nhưng lại hàm chứa khả năng vô tận của sự tái tạo.
Trong trường hợp Abbado hồi phục căn bệnh, không thể không thấy sự cộng hưởng
mang tính cá nhân: đó chính là sự tái sinh của chính mình mà ông đã thể hiện
trong các buổi trình diễn, trong dàn nhạc mà ông đã lựa chọn từng nghệ sỹ để
chơi ở buổi hòa nhạc đầu tiên của Lucerne Festival Orchestra.
Sáu năm đã qua, và
Abbado đã tiếp tục hoàn thành cả bộ giao hưởng của Mahler mà ông xây dựng, hàng
năm ở Lucerne. Tổng phố bản số bốn nằm trên bàn làm việc, một bản sao sờn cũ
đươc trang trí bằng những nét chì đánh dấu của ông, thứ ông vẫn dùng cho các
buổi tập. Đáng chú ý là không có đàn piano hay bất cứ nhạc cụ nào khác trong căn
phòng làm việc của ông. “Tôi không cần cây đàn nào cả”, ông nói. Thay vào đó,
Abbado nghe thấy tất cả những tác phẩm ông đã chỉ huy trong đầu mình, làm việc
thông qua những chi tiết nhỏ nhất của việc trình diễn trong trí tưởng tượng của
mình, xây dựng một tác phẩm hài hòa bằng sự hài hòa, bằng từng câu từng dòng
nhạc. Ông chỉ huy tất cả các tác phẩm ông trình diễn từ trí nhớ. Vậy làm thế
nào mà ông học thuộc được những bản giao hưởng và opera đồ sộ ấy? “Chúng đến từ
một điểm, nơi tôi biết rằng tôi đã ghi nhớ. Nhưng nó là vấn đề tâm lý thôi. Nếu
như không nhớ nổi một tác phẩm, tôi không biết thế nào là đủ cả”.
Dàn nhạc Lucerne là hiện
thân giấc mơ cuộc đời ông: sáng tạo nên môi trường lý tưởng cho biểu diễn âm
nhạc giao hưởng. Nó được bắt rễ trong những dàn nhạc mà Abbado đã kiến lập
trong suốt sự nghiệp của mình. Song song với các buổi biểu diễn với La Scala,
London Symphony, ông đã sáng lập nên những dàn nhạc trẻ và những dàn nhạc đó là
những thành tựu xuất sắc của ông, và trở thành nền tảng cho di sản của
ông. Cũng như việc thành lập dàn nhạc European Community Youth Orchestra vào
năm 1978, ông đóng vai trò quan trọng trong việc mở rộng dàn nhạc Gustav Mahler
Jugendorchester sang tận Đông Âu và Nga vào năm 1986. Ông là một trong những
người sáng lập ra Chamber Orchestra of Europe, và khi thế hệ đầu của các nghệ
sỹ của Gustav Mahler orchestra không còn trẻ nữa, Abbado đã mở ra Mahler
Chamber Orchestra. Giờ đây ông có Orchestra Mozart, một dàn nhạc thính phòng
khác bao gồm phần lớn là các nghệ sỹ trẻ, đặt trụ sở ở Bologna. Tất cả các
thành viên của dàn nhạc này có những giá trị khác biệt với một dàn nhạc thông
thường. Triết lý trung tâm của nó là lắng nghe – món quà ông cố gắng trao cho
các nghệ sỹ, khán giả và gia đình mình. “Ông tôi thường cùng tôi đi dạo trên
những ngọn núi,” Abbado hồi tưởng lại, “và ông không nói gì nhiều. Tôi học được
từ ông cách lắng nghe sự im lặng. Và với tôi, lắng nghe là điều quan trọng
nhất: lắng nghe lẫn nhau, lắng nghe người khác, lắng nghe âm nhạc”.
Ở Lucerne, 120 thành
viên từ dàn nhạc Mahler Chamber Orchestra, được bổ sung hàng chục người từ
những nghệ sỹ bè chính của những dàn nhạc giao hưởng và thính phòng lớn nhất
châu Âu – Berlin, Vienna Philharmonic, tứ tấu Alban Berg, Hagen, và các nghệ sỹ
độc tấu như nghệ sỹ kèn clarinett Sabine Meyer, cello Natalia Gutman. Những gì
người ta nghe thấy từ những buổi hòa nhạc của Lucerne orchestra là những tác
phẩm giao hưởng được chơi với sự tinh tế và tinh túy của âm nhạc thính phòng.
Trình độ điêu luyện của dàn nhạc là điều kỳ diệu: cách mà mỗi nghệ sỹ biết một
cách bản năng những gì thuộc vai trò của họ trong bản giao hưởng đồ sộ của
Mahler, khi họ là một nghệ sỹ độc tấu, khi họ cần đệm đàn cho nghệ sỹ khác, và
làm thế nào để họ có thể hòa quyện trong một hợp âm. Nghệ sỹ viola Diemut
Poppentừng làm việc với Abbado hàng năm kể từ khi thành lập European Community
Youth Orchestra, và giờ ở vị trí bè trưởng của dàn viola trong Lucerne
orchestra. “Chúng tôi biết những gì ông ấy muốn. Và ông ấy có thể, thông qua cử
chỉ của ông, để truyền cho mỗi thành viên của dàn nhạc ý nghĩa của âm nhạc. Có
nhiều nhạc trưởng làm việc cặn kẽ tới từng chi tiết trong toàn bộ thời gian
nhưng chưa bao giờ nắm bắt được gốc rễ của âm nhạc. Với dàn nhạc này, chúng tôi
đã tiến gần hơn đến ý nghĩa của âm nhạc, tới nơi chúng bắt nguồn, bởi sự nhạy
cảm đáng kinh ngạc của Claudio. Đó hầu như là một điều bí ẩn: một số năng lượng
chung được hình thành, nơi mọi người đều có trí tưởng tượng và sự tập trung như
nhau”. Clive Gillinson, cựu nghệ sỹ cello và giám đốc quản lý của LSO trong
nhiệm kỳ của Abbado, và giờ là thành viên ban giám đốc Carnegie Hall ở New
York, cho biết “ông về cơ bản không nói bất cứ điều gì trong tập luyện, và nói
rất nhẹ nhàng bởi vì ông ấy là người nhút nhát, có thể mọi người thấy buồn
chán. Nhưng không sao bởi mọi người đều biết rằng các buổi trình diễn đều xuất
sắc. Tôi chưa từng biết ai hấp dẫn hơn ông ấy. Ông ấy là một nhạc trưởng bẩm
sinh hàng đầu thế giới. Một số nhạc trưởng cần phải nói rõ những gì họ muốn
nhưng Claudio chỉ cho thấy nó, chỉ cần làm điều nó”. Bạn có bao giờ nghì về vị
trí cuối cùng mà một người nhút nhát muốn bước lên là bục chỉ huy không.
Gillinson nói “tất cả là để phụng sự âm nhạc, về sự bản tính nhún nhường của
ông ấy trước âm nhạc. Với Abbado, âm nhạc là toàn bộ cuộc đời. Ông ấy nghĩ về
âm nhạc trong mọi thời điểm, vì vậy có sự ham muốn mạnh mẽ và tầm quan trọng
với tất cả các buổi trình diễn của ông. Giống như ngôi sao bóng đá Scotland
Bill Shankly: âm nhạc là vấn dề của cuộc sống hay cái chết? À không, nó còn
quan trọng hơn cả điều đó”.
Điều đó luôn luôn tồn
tại với Abbado: khi còn nhỏ trong suốt cuộc chiến tranh ở Mila, ông đã vẽ lem
nhem lên tường nhà khẩu hiệu “Viva Bartók!” (Bartók muôn năm!); Gestapo tới nhà
và chất vấn cha mẹ ông: “Người ủng hộ Bartók ở đâu (Bartók là nhà soạn nhạc Hungary
phản đối mạnh mẽ phát xít Đức).
Nhưng Abbado cũng còn có những điều khác bên cạnh âm nhạc: gia đình, đọc sách (ông đã nối lại mối quan tâm với Dostoevsky – “người Nga sâu sắc nhất”, ông cho biết như vậy) và khu vườn của mình. Và cả một di sản khác nữa mà Abbado muốn kiến tạo ở Ý. Ông gặp gỡ José Antonio Abreu và trải nghiệm El Sistema của Venezuela lần đầu tiên khi tới Nam Mỹ lưu diễn với dàn nhạc Gustav Mahler Jugendorchester vào năm 1999. Ông như bị tràn ngập bởi quy mô của dự án này, làm việc với gần nửa triệu trẻ em nghèo, và kinh ngạc với phẩm chất tuyệt vời của dàn nhạc Simón Bolívar Youth Orchestra. Abbado sau đó đã ủng hộ hết lòng nhạc trưởng Gustavo Dudamel, và thành lập một chương trình cho phép các nghệ sỹ Cuba tới Venezuela tập luyện.
Nhưng Abbado cũng còn có những điều khác bên cạnh âm nhạc: gia đình, đọc sách (ông đã nối lại mối quan tâm với Dostoevsky – “người Nga sâu sắc nhất”, ông cho biết như vậy) và khu vườn của mình. Và cả một di sản khác nữa mà Abbado muốn kiến tạo ở Ý. Ông gặp gỡ José Antonio Abreu và trải nghiệm El Sistema của Venezuela lần đầu tiên khi tới Nam Mỹ lưu diễn với dàn nhạc Gustav Mahler Jugendorchester vào năm 1999. Ông như bị tràn ngập bởi quy mô của dự án này, làm việc với gần nửa triệu trẻ em nghèo, và kinh ngạc với phẩm chất tuyệt vời của dàn nhạc Simón Bolívar Youth Orchestra. Abbado sau đó đã ủng hộ hết lòng nhạc trưởng Gustavo Dudamel, và thành lập một chương trình cho phép các nghệ sỹ Cuba tới Venezuela tập luyện.
Abbado đã đề nghị Abreu
tới Ý vào tháng 9 năm đó, để thành lập một El Sistema ở đây – hoặc một phiên
bản của nó, chí ít là như vậy. “Tất nhiên, anh sẽ thấy rằng nó hoạt động khác
với El Sistema ở Venezuela. Nhưng tôi muốn ông ấy thực hiện tất cả điều đó ở Ý”.
Kinh phí sẽ tới từ đâu – từ chính phủ ư? “Chính phủ hả? Berlusconi không bao
giờ chi tiền cho những thứ tương tự đâu”. Abbado miêu tả tầng lớp chính trị của
Ý như một thứ “dốt nát và tinh quái” trong thái độ đối xử của mình với văn hóa.
Vậy dàn nhạc sẽ được thành lập như thế nào? “Tôi đã đề nghị tất cả những người
bạn của mình ở Naples, Turin, Palermo, Milan giúp đỡ. Tôi đã nói với họ về El
Sistema, và họ đều trả lời, thật tuyệt vời, chúng tôi sẽ hỗ trợ”. Họ phải là
những người bạn giàu có, nếu Abbado đang đề cập đến việc thành lập một chương
trình quốc gia về giáo dục âm nhạc. “Tiền không phải là vấn đề. Abreu rất mạnh
mẽ, và tôi sẽ giúp ông ấy tất cả những gì có thể. Dàn nhạc Orchestra Mozart đã
không nhận được một xu nhỏ nào từ chính phủ nhưng nó vẫn hoạt động”.
Một dàn nhạc thính phòng
là một điều bình thường, nhưng El Sistema Ý lại là một điều hoàn toàn khác.
Abbado chỉ thiết lập nó ra. Ông vẫn giữ nhiều ảnh hưởng chính trị không chính
thức ở Ý, như cậy chuyện về tương lai trở lại La Scala của ông là một minh
chứng. Thật đáng ngạc nhiên, ông đã không trình diễn ở đây trong vòng 16 năm
qua, và không chỉ huy dàn nhạc của La Scala kể từ khi từ giã vị trí của mình
vào năm 1986. Năm 2008, ông đã đưa ra tối hậu thư rằng sẽ chỉ huy ở Milan với
điều kiện thị trưởng thành phố, Letizia Moratti, hứa sẽ trồng 90.000 cây. Và bà
đã thực hiện theo yêu cầu của ông. “Tôi đã đề xuất ba loại cây mộc lan, và họ
đã trồng chúng ở trung tâm thành phố. Nhưng họ lại trồng chúng vào chậu khiến
tôi không thể chấp nhận nổi. Tôi muốn họ đào vỉa hè và trồng cây lên đó. Dẫu
sao họ cho biết muốn trồng 500.000 cây ở khắp Milan. Vì vậy tôi sẽ đến”. Tác
phẩm Abbado đã chọn cho sự hợp tác trở lại này với La Scala orchestra và các
nghệ sỹ của Orchestra Mozart là gì? Bản giao hưởng số 2 của Mahler – bài ca của
tình yêu, sự tái sinh và tinh thần vươn lên đã được Abbado hát lên trong suốt
cuộc đời mình.
Abbado: “Những gì tôi
học được từ việc lắng nghe các bản thu âm của tôi là tôi có thể làm tốt hơn rất
nhiều. Ví dụ như toàn bộ các bản giao hưởng của Beethoven với Vienna
Philharmonic, thu âm vào những năm 1980, không quá tồi vào thời điểm đó, nhưng
phiên bản của 9 bản giao hưởng mà tôi thực hiện sau đó với Berlin Philharmonic
lại xuất sắc hơn. Và sau đó là một bản thu trực tiếp các bản giao hưởng này
cũng hay hơn, thanh thoát hơn, nhưng tôi vẫn không thích một vài điểm trong các
buổi trình diễn này. Đó là vấn đề về cách những người biên tập – họ không biết
cách cắt cúp và họ biên tập theo cái cách mà tôi không đồng ý. Tương tự với toàn
bộ bản giao hưởng của Mahler. Tôi đã có tất cả điều đó với Chicago Symphony
Orchestra, Berlin Philharmonic và Vienna Philharmonic, giờ đây với the Lucerne
Festival Orchestra. Tôi nghe lại bản thu âm cũ bản số một với Chicago, và nghĩ
rằng, Chúa ơi – không hay lắm – bản với Berlin hay hơn nhiều. Và tôi nghe bản
thu âm với Lucerne và thấy rằng có nhiều điểm hay hơn nữa – nhưng không phải là
tất cả! Nhưng đó mới chính là điều bí mật của cuộc sống, tôi nghĩ vậy, kiếm tìm
những điều tốt đẹp hơn, kiếm tìm những nguồn cảm hứng mới, những say mê mới.
Không có gì là hoàn hảo, và luôn có những điều mới mẻ để khám phá”.
Nhạc trưởng, nghệ sỹ
piano Daniel Barenboim: “Chúng ta đã mất đi một trong số những nhạc trưởng vĩ
đại nhất 50 năm qua, một người hiếm hoi trong số các nghệ sỹ có khả năng kết
nối mạnh mẽ với tinh thần của âm nhạc thông qua các thể loại khác nhau của nó.
Ông là người đi tiên phong trong việc kết nối các nghệ sỹ trẻ, thử thách và ủng
hộ họ trong suốt sự nghiệp âm nhạc của mình. Với điều đó, ông đã đưa ra một
minh chứng cho thế giới này rằng các nghệ sỹ trẻ và ít kinh nghiệm cũng có thể
trình diễn âm nhạc ở trình độ cao khi họ lao động nghệ thuật với quan điểm đúng
đắn và nhiệt huyết”.
Giám đốc âm nhạc Royal
opera House, Sir Antonio Pappano: “Abbado có tinh thần và tầm nhìn xa vô song.
Ông ấy dường như có cái chạm tay của Midas khiến mọi thứ ông mang lại cho cuộc
đời đều tỏa sáng với một ánh sáng mãnh liệt… ông ấy có mọi tiêu chuẩn của một
người khổng lồ”.
Chủ tịch hãng thu âm
Deutsche Grammophon, Mark Wilkinson: “Thế giới đã mất đi một trong số những
nghệ sỹ biết truyền cảm hứng nhất của thời đại chúng ta, một con người đặt toàn
bộ con người mình vào việc phụng sự âm nhạc mà ông chỉ huy và, khi làm như vậy,
đem lại cho thính giả cảm thấy như mới nghe tác phẩm lần đầu”.
Trả lờiXóahàng không eva airline
vé máy bay khứ hồi đi mỹ giá rẻ
korean air booking
vé máy bay đi mỹ bao nhiêu tiền
vé máy bay đi canada giá rẻ
Cuoc Doi La Nhung Chuyen Di
Du Lich Tu Tuc
Tri Thuc Du Lich