Andrés Segovia (1893-1987)
Andrés Torres Segovia,
tước hiệu Salobreña, là nghệ sĩ guitar cổ điển lừng danh người Tây Ban Nha. Ông
được nhiều nhà nghiên cứu âm nhạc hiện đại xem là cha đẻ của dòng guitar cổ
điển hiện đại. Segovia tuyên bố rằng mình “đã cứu guitar ra khỏi bàn tay của những
người Gypsy chơi nhạc flamenco". Ông đã xây dựng lên một vốn tiết mục cổ
điển cho đàn guitar và đem lại cho cây đàn một vị trí trong các phòng hòa nhạc.
Vì những đóng góp cho âm nhạc và nghệ thuật, Segovia được nhà vua Tây Ban Nha
Juan Carlos phong tước quý tộc ngày 24 tháng 6 năm 1981 với tước hiệu Công tước
Salobreña.
Andres Segovia - Asturias
Andrés Segovia sinh ngày 21/2/1893 ở thành phố Linares, vùng Andalusian, Tây Ban Nha. Cha ông là một luật sư thành đạt và hi vọng Segovia về sau sẽ nối nghiệp mình. Tuy vậy với mong muốn tạo cho con một nền tảng văn hóa càng rộng lớn càng tốt, ông vẫn cho cậu con trai học nhạc từ nhỏ với các gia sư dạy piano và violin, song Segovia chẳng thể trở nên say mê với cả hai nhạc cụ này. Không phải chỉ đến khi nghe tiếng đàn guitar ở nhà một người bạn thì cảm hứng âm nhạc của ông mới bị khuấy động. Segovia bắt đầu làm quen với guitar khoảng năm 1897 khi mới lên 4 tuổi. Người chú của Segovia thường vừa hát cho cậu bé nghe những bài ca vừa giả vờ như đang gảy một đàn guitar tưởng tượng.
Khi còn niên thiếu Segovia chuyển đến sống ở thành phố Granada nơi ông
học guitar và được thấm đẫm bầu không khí như ở thế giới khác của lâu đài
Alhambra - một di tích của người Marốc có tầm nhìn bao quát thị trấn mà Segovia
lấy đó làm nơi giác ngộ tinh thần mình. Những thanh âm giàu màu sắc và tình cảm
của cây guitar đặc biệt hấp dẫn ông. Áp dụng những kiến thức về âm nhạc thu
được trước kia của mình cho những bài luyện guitar, ông đã rất sớm khám phá ra
rằng những bài tập piano hóa ra lại đặc biệt có ích trong việc luyện ngón cho
guitar. Dù có chịu ảnh hưởng từ những người đi trước như Francisco Tárrega,
Segovia vẫn có phong cách và kĩ thuật riêng không thể nhầm lẫn. Không bằng lòng
chỉ với việc sử dụng tinh thông cây guitar, Segovia khẳng định rằng chỗ đứng của
nó phải là những thính phòng hòa nhạc. Ông bắt đầu một cuộc tìm kiếm cách thức
để nâng cây đàn guitar lên vị trí ngang với piano và violin.
Đặc biệt là ông mong muốn nhạc cụ này được học và chơi ở mọi nhạc viện, mọi quốc gia trên thế giới và truyền lại niềm đam mê với guitar của mình cho các thế hệ tương lai. Những khó khăn trong dự định này không dễ khắc phục đối với những người mau nản chí. Vào lúc đó, guitar không được coi trọng trong số các nhạc cụ. Vị trí của nó là ở những khu vườn, với nhiệm vụ đệm hát hay nhảy múa. Một điều quan trọng hơn là guitar hầu như không hề có những tác phẩm đủ tầm vóc để khẳng định mình. Vào lúc đó, nhiều nhạc sĩ vẫn cho rằng kĩ thuật guitar của Segovia sẽ không được cộng đồng nhạc cổ điển chấp nhận vì họ cho rằng guitar không thể sử dụng được trong nhạc cổ điển. Tuy nhiên, kỹ thuật xuất sắc và phong cách độc đáo của Segovia sau này đã khiến công chúng kinh ngạc và do đó guitar không còn bị xem là thứ nhạc cụ hoàn toàn bình dân mà là một nhạc cụ phù hợp để chơi âm nhạc cổ điển thực thụ.
Đặc biệt là ông mong muốn nhạc cụ này được học và chơi ở mọi nhạc viện, mọi quốc gia trên thế giới và truyền lại niềm đam mê với guitar của mình cho các thế hệ tương lai. Những khó khăn trong dự định này không dễ khắc phục đối với những người mau nản chí. Vào lúc đó, guitar không được coi trọng trong số các nhạc cụ. Vị trí của nó là ở những khu vườn, với nhiệm vụ đệm hát hay nhảy múa. Một điều quan trọng hơn là guitar hầu như không hề có những tác phẩm đủ tầm vóc để khẳng định mình. Vào lúc đó, nhiều nhạc sĩ vẫn cho rằng kĩ thuật guitar của Segovia sẽ không được cộng đồng nhạc cổ điển chấp nhận vì họ cho rằng guitar không thể sử dụng được trong nhạc cổ điển. Tuy nhiên, kỹ thuật xuất sắc và phong cách độc đáo của Segovia sau này đã khiến công chúng kinh ngạc và do đó guitar không còn bị xem là thứ nhạc cụ hoàn toàn bình dân mà là một nhạc cụ phù hợp để chơi âm nhạc cổ điển thực thụ.
Không lùi bước trước những trở ngại, Segovia kiên trì học tập và hoàn
thiện kỹ thuật của mình. Khi tài năng đã thành thục, tiếng tăm bắt đầu lan rộng
và vào khoảng năm 1909 ở tuổi 15, năm 1909, ông có buổi công diễn đầu tiên tại
Granada, dưới sự hỗ trợ của Circulo Artistico, một tổ chức văn hóa địa phương.
Nhiều buổi biểu diễn nối tiếp sau đó, tại Madrid năm 1912 và Barcelona năm
1916. Ông đã chơi các tác phẩm do Francisco Tárrega chuyển soạn cho guitar và
một số tác phẩm của Johann Sebastian Bach mà chính ông chuyển soạn. Ở Madrid,
nghệ nhân Manuel Ramírez đã làm cho Segovia một cây guitar mà ông đã chơi trong
nhiều năm sau đó. Khoảng giữa những năm 1930 ông bắt đầu sử dụng một cây đàn
khác của Hermann Hauser ở Munich.
Mặc dù không được sự chấp thuận của gia đình và bị nhiều học trò của
Tárrega coi thường, Segovia vẫn tiếo tục theo đuổi các bài học guitar của mình
một cách siêng năng. Kĩ thuật của Segovia hoàn toàn khác với kỹ thuật
củaTárrega và những môn đệ của Tárregar như Emilio Pujol. Giống với Miguel
Llobet (người có thể là thầy dạy ông trong một thời gian ngắn), Segovia gảy các
dây đàn bằng cách kết hợp cả phần đầu ngón tay và móng tay, tạo ra một âm thanh
sắc nét hơn âm thanh mà những nghệ sĩ guitar cùng thời với mình tạo ra. Kĩ
thuật này cho phép thể hiện các âm sắc đa dạng hơn là khi chỉ dùng riêng đầu
ngón hay móng tay. Trong lịch sử, các nghệ sĩ guitar cổ điển đã tranh cãi xem
kỹ thuật nào trong các kỹ thuật đó là cách tiếp xúc tốt nhất. Trong khi hiện
nay phần lớn người chơi đều kết hợp cả đầu ngón tay và móng tay thì một số
người vẫn ưa thích âm thanh êm dịu hơn khi chỉ sử dụng phần thịt ở đầu ngón tay
để gảy. Một số quyết định đó dựa trên các kiểu cách biểu diễn mà các nghệ sĩ
guitar sử dụng. Những học trò của Tárrega thường có xu hướng biểu diễn trong
các thính phòng nhỏ hơn là những phòng hòa nhạc lớn như Segovia tham vọng.
The Segovia Master Class in Spain
Khi Segovia tiến bộ hơn trong sự nghiệp của mình và khi biểu diễn cho một lượng công chúng lớn hơn, ông phát hiện ra rằng những cây guiar hiện hành không đủ để biểu diễn ở các thính phòng lớn vì chúng không tạo ra âm lượng đủ lớn. Điều này thúc đẩy ông nghiên cứu những cải tiến về mặt kỹ thuật để tăng âm lượng tự nhiên của cây guitar. Làm việc cùng với nghệ nhân làm đàn Hermann Hauser Sr., Segovia đã giúp thiết kế nên cây guitar cổ điển ngày nay, mà nét đặc trưng là làm bằng loại gỗ tốt hơn và sử dụng dây nylon. Hình dáng của cây đàn cũng được thay đổi để cải thiện độ âm vang. Cây guitar mới này cho âm lượng lớn hơn những mẫu đàn guitar trước đó được sử dụng ở Tây Ban Nha và những vũng khác trên thế giới, mặc dù vẫn dựa trên thiết kế cơ bản của Antonio Torres Jurado đã có gần 50 năm trước khi Segovia ra đời.
Khi tiếng tăm đã vượt biên giới, năm 1919 Segovia đã sẵn sàng cho
những chuyến lưu diễn. Ông biểu diễn ở Nam Mỹ, và nhận được nhiều sự hoan
nghênh. Ông không trở về châu Âu cho đến năm 1923. Trong suốt quãng thời gian
này Segovia vẫn chỉ được giới không thông thạo guitar coi là một hiện tượng lạ.
Tại buổi công diễn lần đầu tại London, nhà phê bình của tạp chí Times, người đã
tiếp cận ý tưởng về hòa nhạc guitar cổ điển với thái độ còn hơn cả hoài nghi
lại trở thành một người ủng hộ. Ông viết : “Chúng tôi vẫn còn nghe thấy nốt
cuối cùng có thể vì nó là điều ngạc nhiên thú vị nhất của mùa diễn.” Thành công
sớm quan trọng nhất có lẽ là buổi công diễn ở Paris tháng tư năm 1924. Buổi
diễn này được thực hiện theo lời đề nghị của người đồng hương Pablo Casals, một
nghệ sĩ cello. Khán giả bao gồm cả giới nhạc sỹ nổi danh như Paul Dukas, Manuel
De Falla và Madam Debussy. Ông ngay lập tức trở thành hiện tượng nổi bật, dành
được những lời khen ngợi nồng nhiệt từ hầu hết những nhà phê bình vì đã bộc lộ
được vinh quang của guitar Tây Ban Nha.
Vốn tiết mục bị hạn chế vẫn còn là một khó khăn lớn trong thời kỳ đầu sự
nghiệp của Segovia. Chuyển soạn lại các tác phẩm vốn viết cho các nhạc cụ khác
là một công việc tốn nhiều thời gian và công sức. Ông chủ yếu dựa vào những tác
phẩm cho đàn lute hay vihuela Tây Ban Nha thời Phục hưng và Baroque. Tại Đức, ông
bắt đầu tìm kiếm âm nhạc thích hợp cho đàn guitar và phát hiện ra các tác phẩm
viết cho lute của Sylvius Leopold Weiss. Chúng khá là phù hợp và nói chung rất
hiệu quả cho guitar. Phát hiện đáng chú ý nhất của Segovia là một nhóm các tác
phẩm của Bach rất thích hợp cho guitar. Segovia tin rằng nhiều tác phẩm độc tấu
của Bach lúc đầu được viết cho đàn lute và sau này được chính Bach chuyển soạn
cho các nhạc cụ khác. Dù các chuyên gia ít lạc quan vào căn cứ của giả thuyết
này song họ không tìm thấy cớ gì để phàn nàn về những tác phẩm chuyển soạn của
Segovia từ tác phẩm của bậc thầy.
Sự phù hợp của âm nhạc của Bach đối với đàn guitar như Segovia giải thích đã tỏ ra là nguồn gốc của những khía cạnh đáng ngạc nhiên nhất trong nghệ thuật guitar. Năm 1935, Segovia ra mắt Chaconne của Bach, một tác phẩm khó đối với bất cứ nhạc cụ nào.
Sự phù hợp của âm nhạc của Bach đối với đàn guitar như Segovia giải thích đã tỏ ra là nguồn gốc của những khía cạnh đáng ngạc nhiên nhất trong nghệ thuật guitar. Năm 1935, Segovia ra mắt Chaconne của Bach, một tác phẩm khó đối với bất cứ nhạc cụ nào.
Tiếng tăm của Segovia cũng đem lại sự hâm mộ ngày càng cao đối với cây
guitar. Những thanh âm phong phú và sống động mà Segovia tạo ra, những cảm xúc
cùng sắc thái huyền ảo, và trên hết, sự thân tình trong cách biểu diễn đã khơi
dậy niềm say mê học đàn guitar trong chính bản thân những thính giả. Trong
quãng thời gian của sự nghiệp, Segovia đã chứng kiến cây guitar từ một thứ nhạc
cụ nằm ngoài âm nhạc chính thống trở thành một trong những nhạc cụ phổ biến
nhất và được học trên toàn thế giới. Những nhà soạn nhạc cuối cùng cũng nhận ra
khả năng của guitar và bắt đầu sáng tác cho nó. Nhưng vấn đề là không nhiều
người hiểu rõ về nó, nên thành công thường phụ thuộc vào sự trợ giúp của Segovia.
Như chính ông đã nói, rất nhiều trong số những tác phẩm hiện đại đã qua tay
ông. Trong số những người thay đổi chính kiến về cây đàn guitar có Mario
Castelnuovo - Tedesco và Alfred Casella, những người đã viết các concerto cho
guitar. Trải qua những năm từ đó, guitar đã có được một vốn tiết mục hiện đại
đáng quý nhờ các nỗ lực của những nhà soạn nhạc như Turina, Torroba, De Falla,
'I'ansman, Ponce và Villa-Lobos. Trong buổi hòa nhạc ở Paris, tháng
tư 1924, Segovia biểu diễn một tác phẩm guitar độc tấu của Albert Roussel có
tên 'Segovia'.
Theo lời khuyên của nghệ sĩ violin nổi tiếng Fritz Kreisler, ông
bầu Coppicus đã dàn xếp cho chuyến lưu diễn đầu tiên ở Mỹ của Segovia. Tháng
một năm 1928 Segovia xuất hiện ở tòa Thị chính New York. Nhân dịp đó Olin Downes
đã bình luận trên tờ New York Times: "Ông thuộc vào số rất ít các nghệ sĩ
có được sức mạnh siêu việt để tưởng tượng và tạo dựng nên nghệ thuật của chính
mình, hay đôi khi vượt qua cả chính mình. Ông vẽ nên được sắc màu của hơn 6
nhạc cụ chỉ từ một cây guitar ông chơi. Ông có sự tinh thông phi thường về sắc
thái và dường như khám phá ra mọi mức độ của thanh âm.” Cũng sau buổi biểu diễn
đầu tiên tại Mỹ này, nhà soạn nhạc Brazil Heitor Villa-Lobos đã viết bộ 12
Etude nổi tiếng (Douze études) và đề tặng cho Segovia. Đây là khởi đầu
cho một tình bạn lâu dài và sau này Villa-Lobos tiếp tục viết các tác phẩm cho
Segovia. Ông cũng tự mình chuyển soạn một số tác phẩm cổ điển và làm hồi sinh
các tác phẩm được những người như Tárrega chuyển soạn. Tuy nhiên nhiều nghệ sĩ
guitar châu Mỹ đã chơi các tác phẩm tương tự trước khi Segovia đến Mỹ. Segovia
còn diễn năm buổi nữa ở New York, tất cả đều bán sạch vé và 25 buổi diễn ở
nhiều thành phố khác. Trước cả khi chuyến lưu diễn kết thúc, những nhà phê bình
đã so sánh ông với Kreisler, Casals và Paderewski. Trong 10 năm tiếp đó,
Segovia lưu diễn thường niên ở Hoa Kỳ và nhận được nhiều ủng hộ hết mình.
Nội chiến ở Tây Ban Nha đã buộc Segovia phải rời nước năm 1936.
Sau một thời gian ở Genoa, Italy, ông chuyển đến Montevideo, Uruguay. Ở đó ông
lưu diễn thường xuyên ở Trung và Nam Mỹ. Sau năm năm vắng mặt ở Hoa Kỳ, ông
quay trở lại đấy năm 1943, dưới sự thu xếp của S. Hurok. Nhưng nhà tổ chức nhận
ra sự khó khăn khi tổ chức cho những nghệ sĩ mà tên tuổi hầu như đã bị quên lãng.
Hurok phải bắt đầu từ việc xậy dựng lại hình ảnh, bảo đảm cho danh tiếng của
Segovia. Truyền hình, phương tiện thông tin đại chúng mới xuất hiện, cũng giúp
cứu vãn danh tiếng của ông bằng việc giới thiệu ông với một lượng công chúng
đông đảo hơn là ông có thể giành được chỉ qua các chuyến lưu diễn.
Trong nhiều năm, những bản thu âm của Andrés Segovia được lưu giữ bằng
đĩa hát. Danh sách đó bao gồm nhiều buổi diễn, thuộc nhiều tác giả, qua nhiều
thời kì, từ Cổ điển đến Lãng mạn và Hiện đại. Bản thu âm cho Musicraft,
Victor's British affiliate và Decca đã được biết đến rộng rãi. Năm 1954,
Joaquin Rodrigo sáng tác Fantasía para un gentilhombre theo
yêu cầu của Segovia. Năm 1958, Segovia được trao tặng giải thưởng Grammy cho
Nghệ sĩ trình diễn cổ điển hay nhất (khác với soloist trong concerto) cho bản
thu Segovia Golden Jubilee.
Biểu diễn và thu âm nhiều, Segovia vẫn dành thời gian cho việc dạy học.
Ông dạy nhiều học trò tại Santiago de Compostela ở Tây Ban Nha và Academy Chigi
ở Siena và nhiều trường khác. Nhiều học trò của ông trở thành nghệ si guitar
nổi tiếng thế giới như John Williams, Esteban, Eliot Fisk, Oscar Ghiglia,
Charlie Byrd, Christopher Parkening, Michael Lorimer, Michael Chapdelaine,
Virginia Luque, Alirio Diaz... Ảnh hưởng của ông đã giúp cho việc thành lập
khoa guitar tại các nhạc viện ở Madrid, Barcelona, Florence và London.
Andres Segovia vẫn tiếp tục biểu diễn khi đã cao tuổi, sống một đời sống
bán hưu trí ở tuổi thất thập và bát thập tại Costa del Sol. Có hai bộ phim đáng
chú ý được xây dựng về cuộc đời và sự nghiệp của Segovia - khi ông 75 và 84
tuổi. Cả hai được phát hành trên DVD có tên "Andres Segovia - in
Portrait" (Một cái nhìn về Andres Segovia). Năm 1986, Segovia được
trao tặng giải thưởng Grammy về thành tựu suốt đời. Khi đi lại bằng hàng không
quốc tế, bậc thầy Segovia luôn mua vé ghế ngồi kế bên cho cây guitar của mình
chứ không muốn giao phó nó cho khoang hành lý.
Segovia mất ngày 3/6/1987 tại Madrid vì một cơn đau tim, thọ 94
tuổi, sau khi đã hoàn thành sứ mệnh đưa cây guitar từ một nhạc cụ đệm hát và
khiêu vũ của người gipsy đến những thính phòng hòa nhạc.
eva flight
ve may bay hang eva di my
vé máy bay korean airlines
cách mua vé máy bay đi mỹ
vé máy bay đi canada giá bao nhiêu
Nhung Chuyen Di Cuoc Doi
Ngẫu Hứng Du Lịch
Kien Thuc Du Lich