Thú thưởng thức nhạc đàn của người xưa qua Truyện Kiều - Ngày Xuân nói về âm nhạc trong Truyện Kiều |
Âm nhạc, theo sự hiểu của đại đa số quần chúng Việt Nam hiện nay,
chỉ có nghĩa là ca khúc. Và nhạc sĩ, cũng là những người viết
ca khúc. Người viết khí nhạc mà không viết ca khúc thì cũng chả ai biết là nhạc
sĩ; nghệ sĩ biểu diễn nhạc đàn dù tài giỏi như Đặng Thái Sơn cũng không thể có
những fan hâm mộ khắp đất nước như các “Sao” hát ca khúc quần chúng, ca khúc
thị trường. Ngày nay, nghe nhạc gần như đồng nghĩa với nghe ca khúc
Vậy người xưa, nhất là các bậc tài tử văn nhân (tương tự như tầng
lớp trí thức ngày nay) khi nghe nhạc, họ nghe nhạc đàn, hay nghe hát nhiều hơn?
Để trả lời câu hỏi này tôi muốn chia sẻ với các bạn một vài suy nghĩ về thú
thưởng thức nhạc đàn của người xưa qua Truyện Kiều — tác phẩm
văn học cổ điển đỉnh cao của Việt nam . Ôn cố, tri tân.
Âm nhạc có vị trí đặc biệt nổi bật trong Truyện Kiều của
Nguyễn Du (trong Kim Vân Kiềucủa Thanh Tâm Tài Nhân, tài làm thơ
của Kiều được nhấn mạnh hơn tài nhạc). Nàng Kiều đa tài, đủ cả Cầm, Kỳ, Thi,
Hoạ, Nhưng nổi bật nhất vẫn là tài đàn (“Rằng nghe nổi tiếng cầm đài”). Cái tài
này như một thứ định mệnh, gắn chặt vào mỗi bước thăng trầm của cuộc đời nàng,
đến nỗi Kiều còn tự nhủ rằng tiếng đàn là nguyên nhân của sự đoạn trường của
mình:
Nàng rằng vì chút nghề chơi
Đoạn trường tiếng ấy hại người bấy lâu.
Ai đã đọc Truyện Kiều, đều thấy rằng âm nhạc trong Truyện
Kiều là nhạc đàn, là khí nhạc. Vậy sao lại là
khí nhạc chứ không phải là thanh nhạc (hát)? Và thanh nhạc và khí nhạc khác
nhau ở chỗ nào? Và người Á Đông xưa nay đã biết thưởng thức khí nhạc rồi hay
sao?
Thanh nhạc là nhạc hát bằng giọng người. Nếu ta coi giọng người
như một “nhạc cụ” đặc biệt thì ta thấy rõ những giới hạn thể hiện của nó về âm
vực, về tốc độ diễn tấu, giới hạn về âm sắc. Người ta thường nói: khi lời nói
bất lực thì âm nhạc vang lên, điểm cuối cùng của lời nói là điểm bắt đầu của âm
nhạc (tất nhiên âm nhạc ở đây là khí nhạc). Vậy mà thanh nhạc lại thường lệ
thuộc vào lời ca, vào văn học. Chính vì sự giới hạn này, các nhạc cụ được ra
đời để tiếp tục phát triển vượt biên cái mà giọng hát con người không thể làm
được, và người ta đã sáng tạo ra nhạc đàn (khí nhạc).
Ngay trong nghệ thuật thanh nhạc cũng có nhiều thể loại chuyên
nghiệp khó viết, khó diễn, khó thưởng thức nếu không có kiến thức tương đối
chuyên sâu về âm nhạc như Opera, Hợp xướng, A cappella, Thanh xướng kịch, vv...
Trong bài viết này, chủ yếu tôi nói tới thể loại đơn giản, phổ cập nhất của
thanh nhạc hiện nay ở Việt Nam là ca khúc quần chúng (có người
gọi là ca khúc phổ thông), là sự kết hợp của ngôn từ và giai điệu
nhạc. Nếu tách riêng phần lời ca, thì nó chỉ là ca từ, chứ
chưa thể là thơ (có những bài thơ được phổ nhạc, thì thường bài thơ đã bị người
phổ thêm thắt sửa chữa, cắt cúp cho nó không còn là thơ “xịn” nữa, để cho phù
hợp với câu nhạc). Còn nếu tách riêng phần giai điệu, thì nó cũng đơn giản,
chưa được gọi là nhạc thuần tuý, tấu lên không diễn tả được gì nhiều, và ta vẫn
thường gọi là nhạc bỏ lời. Chưa kể việc hầu hết nhạc sĩ của ta chỉ
viết có mỗi dòng giai điệu, không có khả năng viết phần đệm.
Tóm lại, ca khúc quần chúng là thể loại nghệ thuật: thơ
chưa hẳn là thơ mà nhạc cũng chưa hẳn là nhạc (á thơ, á nhạc). Nhưng
vì dễ viết, dễ diễn, dễ hiểu, dễ tuyên truyền, nên sáng tác và hát ca khúc là
điều hết sức phổ biến, nhất là ở Việt Nam hiện nay.
Lý giải về việc đông đảo công chúng Việt Nam chỉ biết thưởng thức ca
khúc quần chúng, một nhà nghiên cứu âm nhạc viết:
So với nền văn chương Việt Nam, phẩm chất của
nền âm nhạc Việt Nam rất thấp. Lý do hiển nhiên là vì từ người viết văn đến độc
giả, không nhiều thì ít, ai cũng được học văn chương từ bậc tiểu học trở lên,
cho nên chúng ta có những người viết và người đọc có trình độ. Còn phần giáo
dục âm nhạc thì quả là một sa mạc khủng khiếp. Muốn thưởng thức thơ thì ít nhất
phải biết đọc chữ, muốn thưởng thức nhạc thì ít nhất phải biết đọc nhạc. Nếu
người không biết đọc chữ chỉ có thể thưởng thức bằng cách nghe thơ vè bình dân,
thì người không biết đọc nhạc cũng chỉ có thể nghe ca khúc phổ thông là cùng.
[Trích bài “Nhìn lại nền âm
nhạc Việt Nam trong thế kỷ 20”, Hoàng Ngọc-Tuấn, Australia]
Vậy cái thú thưởng thức khí nhạc nay đã bị thu hẹp dần dần ở Việt
Nam, kể cả trong tầng lớp trí thức, là một bước tiến hay là một bước lùi dài
của thẩm mỹ âm nhạc?
Ngưòi Á Đông xưa cho rằng, biết chơi đàn, nghe đàn (Cầm), là thú
vui đệ nhất trong bốn thú vui của các tài tử văn nhân. Cổ ngữ có câu: “Cầm, kỳ,
thi, hoạ” chứ không phải là “Ca, kỳ, thi, hoạ”. Tức là nghe đàn, chứ không phải
là nghe hát. Phải chăng thẩm mỹ của chúng ta đã trở nên quá dễ dãi và nhịp sống
gấp rút, không có thời gian dành cho các thú chơi tao nhã “quý tộc” như trước.
Để hiểu thêm âm nhạc trong Truyện Kiều, chúng ta thử
tìm hiểu xem Kiều chơi đàn gì. Để xác định điều này, hàng trăm năm nay, người
Việt Nam ta đã tốn bao nhiêu giấy mực. Trong nguyên tác của Thanh Tâm Tài Nhân
(theo bản dịch Kim Vân Kiều của Tô Nam - Nguyễn Đình Diệm, NXB
Hải Phòng, 1999) thì Kiều chỉ chơi duy nhất một loại đàn, đó là hồ cầm.
Cũng như câu thơ đầu tiên nói về tài đàn của Thuý Kiều, Nguyễn Du viết: “Nghề
riêng ăn đứt hồ cầm một trương”. [*]
Vậy thì tại sao sau đó Nguyễn Du lại có hai câu thơ: “Hiên
sau treo sẵn cầm trăng ” và “Ép cung cầm
nguyệt, thử bài quạt thơ”? Liệu có phải Kiều của Nguyễn Du chơi
hai thứ đàn làhồ cầm và cầm nguyệt không? Hay hai
thứ đàn đó chỉ là một loại đàn có nhiều tên gọi khác nhau ?
Đó mãi mãi vẫn là một nghi án văn chương không có câu trả lời, Tuy
vậy ta có thể khẳng định: Kiều chơi một loại đàn có bốn dây, thuộc loại nhạc cụ
gẩy trực tiếp bằng đầu ngón tay: “So lần dây Vũ dây Văn / bốn dây to
nhỏ theo vần cung thương”,”Bốn dây như khóc như than”, “Bốn
dây nhỏ máu năm đầu ngón tay”. Chữ “bốn dây” được khẳng định ba lần trongTruyện
Kiều.
Trong Truyện Kiều, có bốn lần Kiều chơi đàn tất cả,
ngoài ra còn bốn lần khác thì Nguyễn Du chỉ nói qua.
Đầu tiên là do Kim Trọng yêu cầu:
Rằng nghe nổi tiếng cầm đài
Nước non luống những lắng tai Chung Kỳ
Lần hai cho Hoạn Thư và Thúc Sinh:
Rằng Hoa nô đủ mọi tài,
Bản đàn thử dạo một bài chàng nghe
Lần thứ ba đàn cho Hồ Tôn Hiến, đây là đoạn Kiều chơi đàn xúc động
nhất , người chơi đàn đến “nhỏ máu năm đầu ngón tay”, còn người nghe đàn thì
rơi lệ:
Lọt tai Hồ cũng nhăn mày rơi châu
Hỏi rằng: này khúc ở đâu?
Nghe ra muôn oán nghìn sầu lắm thay
Hồ Tôn Hiến tuy chỉ là một quan võ, vậy mà cũng rất hiểu nhạc đàn,
đến nỗi mê luôn cả nàng Kiều:
Nghe càng đắm, ngắm càng say
Lạ cho mặt sắt cũng ngây vì tình
Và cuối cùng lại là Kim Trọng yêu cầu nàng chơi đàn trong đêm tái
hợp:
Thong dong lại hỏi ngón đàn ngày xưa
Ta để ý: tất cả các lần chơi đàn của Kiều đều do người khác yêu
cầu. Không thấy câu thơ nào nhắc đến Kiều chơi đàn một mình, kể cả những lúc
buồn nhất. Tóm lại, người chơi đàn chỉ chơi khi có kẻ “tri âm” (hiểu
âm nhạc).
Những kẻ tri âm tiếng đàn của Kiều là:
Kim Trọng nghe đàn đầy cảm xúc:
Khi tựa gối khi cúi đầu
Khi vò chín khúc khi chau đôi mày
Cho tới Hoạn Thư, Thúc Sinh:
Cùng trong một tiếng tơ đồng
Và Hồ Tôn Hiến thì khóc như đã nói ở trên. Còn vì sao Kiều không
một lần chơi đàn cho Từ Hải? Tự chúng ta có thể suy ra được.
Qua Truyện Kiều, ta thấy người xưa đã trân trọng nhạc
đàn, biết nghe, hiểu sâu sắc âm nhạc như thế nào. Điển tích Sở Bá Nha – Chung
Tử Kỳ có thể nói là một điển tích độc nhất vô nhị về sự chơi (khí) nhạc và nghe
(khí) nhạc của người Á Đông xưa.
Qua thơ của Nguyễn Du, trong Truyện Kiều và bài
thơ chữ Hán “Long thành cầm giả ca” của ông, ta thấy chỉ có khí nhạc mới có thể
diễn tả được: “Tiếng khoan như gió thoảng ngoài, tiếng mau sầm sập như
trời đổ mưa” và cảnh “... Hán Sở chiến trường, nghe ra tiếng
sắt tiếng vàng chen nhau”. Và chỉ có khí nhạc mới có thể có những giai điệu “muôn
oán nghìn sầu” khiến người nghe “tan nát lòng”.
Ca khúc (nhất là ca khúc quần chúng) với sự bó buộc của lời ca, và
sự hạn chế diễn tấu, làm sao diễn tả nổi những tình cảm như thế, vẽ nên những
bức tranh âm thanh đa tầng phức hợp như thế.
Phải chăng văn hoá, đạo đức, phong tục và thẩm mỹ của người Việt Nam
hôm nay đã suy thoái và thụt lùi so với chính cha ông chúng ta? Tôi muốn nói
tới cái tinh thần của văn hoá cũng như thú chơi tao nhã cao siêu của người xưa.
Có nhiều nguyên nhân nhưng dù biện minh kiểu nào thì thực trạng những sân khấu
ca khúc quần chúng hôm nay (dù là trên các kênh truyền hình quốc gia hay ở các
thôn xóm dân dã) cũng để lại một nỗi lo âu day dứt cho những ai còn nặng lòng
với nền văn hoá, nền âm nhạc Việt Nam.
Khí nhạc ngày nay đã được mở rộng và vô cùng phong phú với di sản
âm nhạc của toàn thế giới. Đặc biệt là của dòng nhạc cổ điển châu Âu với tên
tuổi các thiên tài đã trở thành tài sản chung của nhân loại như J.S. Bach, W.A.
Mozart, L.v. Beethoven, F. Chopin, P. Tchaikovsky cho tới C. Debussy, M. Ravel,
B. Bartok, I. Stravinsky, v.v... Cùng với những tác phẩm bất hủ của họ là những
nghệ sĩ biểu diễn lớn như Karajan, Horowitz, Oistrakh, Rostropovich, Kissin,
Barenboim...v.v. và cả Đặng Thái Sơn của Việt Nam nữa. Cả một kho tàng âm nhạc
trí tuệ vô cùng phong phú và đa dạng, dễ dàng khám phá trong thời đại bùng nổ
kỹ thuật số, mà ngày xưa chỉ tầng lớp quý tộc, trí thức mới có điều kiện tiếp
cận . Hà cớ gì mà những người Việt Nam chúng ta, nhất là giới trẻ được học hành
và tầng lớp trí thức, lại không trở thành những kẻ tri âm của
nền nghệ thuật ấy? Chính âm nhạc đã mang lại cho con người vô vàn nìềm hy vọng,
làm cho cuộc đời mỗi chúng ta sâu sắc thêm biết bao! Như L.v. Beethoven từng
nói: “Âm nhạc cao hơn mọi triết lý và mọi sự khôn ngoan”.
Chúng ta không phản đối nghệ thuật dành cho quần chúng số đông.
Nhưng chỉ có thế thôi ư? Hãy tỉnh táo hơn để nhìn sang các nước phát triển
quanh ta: Nhật bản, Hàn quốc, Trung quốc thì đã đành, ngay cả Thái Lan,
Singapore, Malaysia... Họ cũng chỉ mới đầu tư cho dòng nhạc trí tuệ này trên 20
năm thôi (Việt Nam ta đến gần 60 năm), nhưng họ đã tiến nhanh, và đã vượt chúng
ta một khoảng cách khá xa. Nhìn vào bộ mặt của một đất nước, thì đó mới là điều
để kiêu hãnh, chứ không phải là những dòng nhạc pop, ca khúc quần chúng, cho dù
nó có phát triển nhiều đến đâu đi chăng nữa. Bán được bao nhiêu tiền đi chăng
nữa!
Để kết bài viết này, tôi muốn nhắc lại điển tích nói lên sự gắn bó
biện chứng giữa Người sáng tạo và Người thưởng thức, hai mặt của một vấn đề:
Cầm thủ Sở Bá Nha đã đập đàn khi Chung Tử Kỳ — kẻ tri âm, người thấu hiểu tiếng
đàn của mình — đã chết. Sống ở đời, ai cũng muốn có tri âm. Người tài lại càng
khao khát hơn, dù chỉ là một kẻ tri âm...
__________________
Cung thương làu bậc ngũ âm,
Nghề riêng ăn đứt hồ cầm một trương.
Khúc nhà tay lựa nên chương,
Một thiên bạc mệnh lại càng não nhân.
Trả lờiXóahãng eva
vé máy bay đi mỹ khoảng bao nhiêu
korean airlines vietnam
bán vé máy bay đi mỹ giá rẻ
vé máy bay đi canada giá rẻ
Cuoc Doi La Nhung Chuyen Di
Du Lich Tu Tuc
Tri Thuc Du Lich