Thứ Năm, 31 tháng 7, 2014

Tình yêu – Sắc đẹp – Di truyền

 Tình yêu – Sắc đẹp – Di truyền

Trong bài thơ “Vì sao”, có lẽ để thuật lại tâm trạng của thi sĩ khi mới gặp một người con gái [chắc là đẹp lắm], Xuân Diệu viết:
Vì sao giáp mặt buổi đầu tiên,
Tôi đã đày thân giữa xứ phiền.
Chắc hẳn phải có môt tín hiệu huyền bí nào đó đã làm cho thi sĩ phải đày thân giữa xứ phiền ngay lần diện kiến đầu tiên; đã đem lại cho Thúy Kiều, chỉ mới gặp Kim Trọng lần đầu mà cũng Tình trong như đã, mặt ngoài còn e. Tín hiệu huyền bí nào, đến từ đâu, lại có khả năng gây nên hiện tượng tiếng xét ái tình mạnh mẽ này? Thực ra, người xưa cũng có câu Hữu duyên thiên lý năng tương ngộ, tức là người không quen biết, cách xa nhau nghìn trùng nhưng vẫn có thể kết duyên, thương yêu nhau đời đời kiếp kiếp. Thực vậy, có khi hai người khác nhau cả về văn hóa lẫn sắc dân mà vẫn kết hôn, yêu nhau thấm thiết. Đành rằng tình yêu không có biên giới dân tộc, nhưng tại sao chị X lấy anh A, mà không là anh B; hay anh C phải lòng với chị Y, mà không là một chị khác? Thế lực và cơ duyên nào đã gây nên sự “kết tóc xe duyên” một cách cực kỳ cụ thể, và trong nhiều trường hợp, có một không hai, này? Số phận? Cũng có thể lắm. Nhưng số phận là gì?
Để trả lời cho câu hỏi trên, có lẽ ta cần phải trước hết định nghĩa thế nào là “tình yêu.” Cũng như nhiều đặc tính khác, tình yêu có thể được định nghĩa theo nhiều quan điểm khác nhau, và bằng mọi thứ ngôn ngữ. Nhìn qua các từ điển của người Anh, Mỹ, tôi thấy họ định nghĩa tình yêu qua những danh từ như affection, attachment hay devotion. Theo họ, tình yêu là một trạng thái tâm thần có tính đạo đức cao độ, mà trong đó sự trìu mến và chung thủy được dành đặc biệt cho một người khác với một sự vật hay một động vật cấp thấp (tạm dịch từ “A morally powerful mental state, having strong affectionate regard to, or loyalty faithfulness, or deep affection to, a human beings, especially as distinguished from a thing or lower animal.”) Có lẽ người Anh, Mỹ vốn máy móc, nên định nghĩa về tình yêu của họ không được uyển chuyển như người Việt Nam ta. Không như anh chàng nhạc sĩ Lionel Ritchie, sau khi đã đi lục lạo hết từ điển này đến sách nọ, cuối cùng anh ta không biết dùng chữ gì khác mà phải viết “I love you” để nói đến tình yêu, các thi sĩ của Việt Nam tài tình hơn nhiều. Trong thi văn Việt Nam, suy đi nghĩ lại, tôi vẫn thấy Xuân Diệu định nghĩa tình yêu thật tuyệt vời:
Làm sao cắt nghĩa được tình yêu!
Có nghĩa gì đâu, một buổi chiều
Nó chiếm hồn ta bằng nắng nhạt,
Bằng mây nhè nhẹ, gió hiu hiu …
Tức là, phải có một môi trường chung quanh (như một buổi chiều, gió hiu hiu, mây nhè nhẹ, v.v.) tác động tới tâm lý (hồn ta) mới gây ra được một cảm giác tình yêu, chứ nói triết lý xuông qua các ngôn từ trừu tượng trong một không gian vô định nghĩa thì khó mà có thể tả được tình yêu. Định nghĩa tình yêu của Xuân Diệu còn cho ta thấy nó là một đặc tính tâm lý (behavioral trait). Mà, một phản ứng tâm lý thường được quyết định bởi hai yếu tố quan trọng là sinh học và môi trường. Mặc dù là một đặc tính tâm lý sinh học, nhưng cho đến nay, tình yêu vẫn chỉ là một đề tài của giới văn chương, nghệ thuật. Thực vậy, tình yêu là nguồn sáng tác bất tận, một chủ đề có tính cổ điển (nhưng không bao giờ lỗi thời), của thi ca, văn chương, kịch nghệ, phim ảnh, tiểu thuyết … Nhưng một điều ngạc nhiên là tình yêu ít khi trở thành chủ đề của các cuộc thảo luận khoa học, đặc biệt là sinh học, mặc dù người ta vẫn không ngừng nói về bản chất tâm lý và hóa học của tình yêu.
Đã từ lâu, tôi cho rằng tình yêu có tính di truyền. Một quan điểm hơi ngông! Nhưng đọc các bài báo khoa học được công bố gần đây tôi lại thấy quan điểm đó có thể giải thích được. Cách đây không lâu, trên một tạp chí nghiên cứu về ngôn ngữ học, có một bài viết của một nhà văn về ngôn ngữ trong tình yêu. Đọc xong bài này, tôi nảy ra ý định trả lời bài báo đó bằng một bài luận văn khác, nhìn tình yêu theo quan điểm của một người nghiên cứu về di truyền học. Bài viết này là bản dịch của một phần trong bài luận văn nói trên. Tất nhiên, so với những người viết tiểu thuyết, là một người làm việc trong khoa học, tôi không có nhiều kiến thức về tình yêu. Vả lại, là một người làm nghiên cứu, tôi có khuynh hướng quan sát tình yêu theo quan điểm khoa học và quần thể. Vì lẽ đó, có thể các bạn sẽ cảm thấy những lời bình luận của tôi tẻ nhạt, và nếu vậy thì tôi thành thật tạ lỗi cùng các bạn.
Như đề cập trên, tình yêu cần có hai yếu tố tác động: môi trường và sinh học. Tôi không bàn yếu tố nào quan trọng ở đây, vì đó không phải là đề tài của bài viết này; vả lại, ngày nay vẫn còn nhiều tranh cãi về sự tương quan cống hiến của hai yếu tố này. Mà, nói đến sinh học có lẽ ta cần phải có vài hàng về những đơn vị cơ bản được dùng để cấu tạo nên một con người. Trong một bài nhạc, ôâng Trịnh Công Sơn có ví von rằng cơ thể chúng ta được hình thành bằng “cát bụi”, và cuối cùng thì cũng trở về cát bụi:
Hạt bụi nào hóa kiếp thân tôi
Để một mai tôi về làm cát bụi
Tôi không biết lúc viết câu này ông nhạc sĩ họ Trịnh có đọc sách về sinh học phân tử (molecular biology), hay do ảnh hưởng triết lý Phật Giáo, nhưng nói chung là ông ta có lý. Ngày nay, qua tiến bộ của khoa học sinh học phân tử, người ta đã biết được rằng cái đơn vị sinh học cơ bản nhất trong một con người là tế bào (cells). Cơ thể chúng ta được cấu tạo bằng hàng tỷ tế bào. Nhiều tế bào có những nhiệm vụ khác nhau, chẳng hạn như tế bào não có nhiệm vụ giữ gìn trí nhớ và tri thức, tế bào tim làm cho tim ta đập nhịp nhàng, tế bào ruột làm ra chất nhầy (mucus), v.v. Những tế bào này có thời gian tồn tại nhất định. Chẳng hạn như tế bào tinh trùng nam chỉ sống sót khoảng vài tháng, trong khi đó tế bào trứng của phái nữ có thể tồn tại đến 50 năm. Mặc dù khác nhau về chức năng và thời gian sống sót, tất cả các tế bào đều có cấu trúc giống nhau: trong mỗi tế bào đều có một cái nhân (nucleus) nằm chính giữa. Cái nhân này có chứa những chất liệu di truyền mà ta thường gọi là DNA (viết tắc từ chữ deoxyribonucleic acid). DNA là một nucleic acid được tạo thành bởi hai chuỗi gồm những đơn vị gọi là nucleotide. Hai chuỗi này xoáng với nhau thành một hình xoán kép và nối với nhau bằng những “sợi dây” hydrogen. Mỗi nhân thường có khoảng 6 triệu DNA. Một mảng DNA tạo thành một gene (mà tôi tạm dịch là “di truyền tố”). Có thể ví mỗi DNA như một chữ; và nhiều chữ tạo thành một câu văn (tức là di truyền tố). Không ai biết được một cách chính xác trong cơ thể ta có bao nhiêu di truyền tố, nhưng các nhà khoa học ước đoán rằng trong cơ thể ta có chứa khoảng 80,000 di truyền tố. Di truyền tố có chức năng gửi các tín hiệu hóa học đi đến tất cả các nơi trong cơ thể. Những tín hiệu này có chứa đầy đủ các thông tin, các chỉ thị cụ thể cho các cơ quan trong cơ thể ta phải hoạt động ra sao.
Thành ra, có lẽ không cần phải dài dòng văn tự, tôi xin báo ngay một tin buồn rằng, nếu dựa trên quan điểm về sinh học, chúng ta (quí bạn và tôi) là những sinh vật bất lực trong tình yêu, không có chỗ nào để chúng ta cựa quậy nhút nhít gì cả. Lý do đơn giản là như đã nói trên, trong mỗi di truyền tố có những chỉ dẫn [hay nói đúng hơn là mệnh lệnh] cho các phân tử (molecules) làm việc gì và cách làm ra sao. Những mệnh lệnh này đã được soạn thảo một cách cực kỳ công phu và cẩn thận để chúng ta phải tuân lệnh chúng, thi hành những đường lối đã được vạch sẵn ngay từ lúc ta mới sinh ra, kể cả những điều mà bản thân ta sẽ phải khốn khổ về điều đó. Bởi vậy, những di truyền tố của tình yêu có một vai trò rất lớn trong tình trường trong ta, mà ta không để ý hay chưa biết. Mà, cho dù ta có biết đi nữa, những di truyền tố tình yêu này vẫn bắt buộc, theo những cách thức hoàn toàn áp đặt, ta yêu người này chứ không phải người kia, yêu vào lúc khác chứ không phải lúc này, và thậm chí lúc nào phải chia tay với tình yêu.
Nếu bạn còn nghi ngờ về diều này thì tôi xin mời bạn hãy cùng tôi xem xét vấn đề chúng ta sẽ yêu ai nhé. Do những khuyết tật về nội dòng (inbreeding), và vì quyền lợi của các di truyền tố, chúng ta không được lập gia đình với những người thân; các di truyền tố đã làm vô khối chương trình hành động để bắt buộc chúng ta phải tránh điều này. Gần đây, có một cuộc nghiên cứu thú vị trên 2796 cuộc hôn nhân của các thiếu niên sống trong các trang trại Kibbutz (trong các trang trại này, trẻ em dù không có quan hệ ruột thịt, nhưng đã chung sống từ khi lọt lòng cho đến lúc trưởng thành) với kết quả là chỉ có 13 trường hợp trong đó vợ chồng cùng sống trong một trang trại. Nhưng ngay cả 13 trường hợp này cũng chỉ là những trường hợp ngoại lệ, vì khi đến sống trong các Kibbutz các em đã 6 tuổi. Đáng ngạc nhiên hơn nữa là không hề có hiện tượng quan hệ tình dục khác giới giữa các em ở cùng một trang trại. Đây là một sự kiềm chế đáng kinh ngạc trong điều kiện gần 6000 em trai và gái sống chung với nhau trong điều kiện mà mức độ hormone ở trong thời kỳ sung mãn nhất! Đó là cái gì nếu không phải chính các di truyền tố của chúng ta đã làm nên điều kỳ diệu đó.
Các di truyền tố cũng ngăn chận không cho chúng ta yêu một ai hay một cái gì đó quá ư là khác lạ, chẳng hạn như khỉ. Từ quan sát 13 đôi kết hôn sau khi gặp nhau lúc 6 tuổi hay muộn hơn, cho các nhà nghiên cứu thấy rằng cách thức mà các di truyền tố đã bắt buộc chúng ta phải tuân theo ý muốn của chúng. Hóa ra, tuổi lên 6 là thời điểm quan trọng để đứa trẻ khắc họa hình ảnh người bạn đời tương lai trong tâm khảm. Nói một cách khác, người bạn đời của chúng ta rất giống đứa bạn khác giới mà ta chơi chung năm ta lên 6 tuổi. Di truyền tố của chúng ta chọn lứa tuổi này, vì những đứa bạn lên 6 rất hợp tính, nhưng lại không có quan hệ huyết thống, với ta. Chính điều này đã tối ưu hóa sự phù hợp di truyền (genetic fitness).
Sự tác động của “Ấn tượng năm lên 6 tuổi” đặc biệt là rõ ở những người đã sống qua một phần thời thơ ấu trong một nền văn hóa khác biệt. Tôi có quen biết một chị người Úc (da trắng) lúc nhỏ theo bố mẹ sống ở Fiji, nhưng khi lớn lên, chị rời sang học trung và đại học ở Mỹ. Sau này về lại Úc, chị luôn cảm thấy bị lôi cuốn bởi những người đàn ông có nước da ngăm đen, thay vì những chàng da trắng.
Sau khi đã quyết định cho chúng ta phải yêu ai, các di truyền tố bèn tìm cách chọn (hay cố gắng chọn) một người bạn đời hoàn toàn phù hợp với các tiêu chuẩn do chúng đặt ra. Các tiêu chuẩn mà các di truyền tố đặt ra cho đàn ông khác với các tiêu chuẩn cho đàn bà. Đối với các di truyền tố của đàn ông, người bạn đời hoàn hảo phải trẻ và đẹp. Tại sao lại có tiêu chuẩn trẻ ở đây? Bởi vì đối với chúng, người phụ nữ trẻ có thời gian dành cho sinh nở dài hơn. Và sinh sản nhiều cũng có nghĩa là chúng (di truyền tố) có cơ được tồn tại lâu hơn và bành trướng đến các thế hệ mai sau. Ông Henry Kissinger, lúc về già đã chẳng dan díu và lấy cô thư ký chỉ bằng tuổi con gái ông làm vợ là gì!
Thế nào gọi là “đẹp”? Nói một cách đơn giản, đẹp là là một sự trung bình. Tôi biết có bạn đọc tới đây và sẽ nói “vớ vẩn, đẹp là phải trên trung bình chứ,” nhưng xin quí bạn hãy kiên nhẫn và cho tôi chút thì giờ thuyết phục. Trong một công trình nghiên cứu về sắc đẹp được công bố gần đây trên tờ báo khoa học hàng đầu thế giới, Nature, đã đi đến kết luận như thế, đẹp chỉ là tập hợp của nhiều đặc tính trung bình. Trong bài báo đó, nhóm nghiên cứu chọn một cách ngẫu nhiên 20 khuôn mặt của các phụ nữ và họ đưa những ảnh này vào computer để phân tích. Họ viết một chương trình để “trung bình” hóa tất cả các đường nét trên khuôn mặt của 20 khuôn mặt. Bằng cách “hòa chảy” hai hình ảnh vào nhau, họ thu được hàng loạt hình ảnh bằng cách “lấy trung bình” giữa 2 và 9 khuôn mặt. Khi họ đưa các tấm ảnh thu được ra hỏi các đồng nghiệp của mình xem khuôn mặt nào đẹp nhất, thì thú vị thay, khuôn mặt có những đường nét “trung bình” nhất [riêng tôi thì thấy là bầu bĩnh nhất] được chọn là khuôn mặt đẹp nhất.
Thực ra, quan niệm trung bình là đẹp này chắc cũng không có gì mới lạ. Trong Truyện Kiều, cụ Nguyễn Du tả sắc đẹp của Thúy Vân như sau:
Vân xem trang trọng khác vời
Khuôn trăng đầy đặn nét ngài nở nang.
Có lẽ, khi viết “Khuôn trăng đầy đặn”, Tiên Điền tiên sinh muốn nói đến một khuôn mặt tròn trĩnh, cân đối, một đặc tính của sự trung bình.
Ngoài khuôn mặt ra, đường nét cấu trúc của cơ thể cũng là một thông số quan trọng để thẩm định sắc đẹp. Ở phương Tây ngày xưa, người ta thường hay dùng tỷ số eo/mông (waist-to-hip ratio) để đánh giá sự hấp dẫn (sexual attractiveness) của người phụ nữ. Các nghiên cứu trong vòng ba thập niên gần đây cho thấy tỷ số eo/mông này có liên quan tới hai hormone nam tính testosterone và hormone nữ tính oestrogen. Phụ nữ có tỷ số eo/mông cao thường là những người có độ testosterone cao hơn, nhưng độ oestrogen thấp hơn, những phụ nữ có tỷ số eo/mông thấp. Phụ nữ có tỷ số eo/mông thấp là những người có sức khỏe tốt hơn và sinh sản dễ dàng hơn các phụ nữ có tỷ số này cao. Trong một nghiên cứu ở Anh và Texas cho thấy phụ nữ có tỷ số eo/mông cao cũng là những người thường sinh con trai! Theo các nhà tâm lý học cổ điển Tây phương, người phụ nữ nào có cái tỷ số eo/mông vào khoảng 0.7 là một người đẹp lý tưởng (tất nhiên là về mặt thể dạng thôi, không phải tính tình).
Nhưng mới đây, một nhóm nghiên cứu ở Anh đã làm thí nghiệm và cho rằng vòng eo/mông không phải là một tỷ số chính xác về sắc đẹp. Trong một bài báo trên tờ Lancet (một tờ báo y khoa hàng đầu trên thế giới), họ kết luận rằng tỷ số chính xác hơn là mật độ trọng lượng trên một mét vuông của cơ thể (còn gọi là body mass index hay BMI). BMI được ước tính bằng cách lấy trọng lượng (kg) chia cho bình phương của chiều cao (m2). Nhóm nghiên cứu này đã phân tích mối tương quan giữa tính hấp dẫn (gọi là sexual attractiveness hay SA) và BMI của 44 phụ nữ (xem biểu đồ). Người viết bài này đã dựa vào dữ kiện của họ và đã tìm ra một phương trình liên quan giữa sắc đẹp (SA) và BMI như sau:
SA = 4.022(BMI) – 0.162(BMI)2 + 0.002(BMI)3 – 26.6
(Chú ý phương trình này chỉ thích hợp cho BMI khoảng 15 tới 35 kg/m2.) Nếu ta lấy đạo hàm phương trình này để tìm ra điểm đẹp tối đa, thì BMI vào khoảng 19 tới 20 kg/cm2,
đúng ngay vào con số trung bình. Thực ra, về mặt sức khỏe, đây cũng là độ BMI lý tưởng, vì theo định nghĩa y khoa hiện nay, người có BMI hơn 25 kg/cm2 được xem là “phì” (over-weight) và hơn 30 kg/cm2 được xem là “béo” (obese).
Đó là tiêu chuẩn người đẹp Tây phương, thế còn người Việt ta thì sao? Trong một cuộc thi “Người mẫu thời trang Hà Nội mở rộng ’99” ở Việt Nam mới đây, có 22 thí sinh tuổi từ 17 tới 22. Ban tổ chức công bố các thông số quan trọng như chiều cao, trọng lượng, vòng eo, ngực và mông của các thí sinh. Qua các thông số này, người viết bài này có làm một phân tích chớp nhoáng và thấy số trung bình BMI của các thí sinh này là 17.6 kg/m2,
vòng ngực 83.1 mm,
vòng eo 60.5 mm,
mông 90.2 mm,
tỷ số eo/ngực 0.72
và eo/mông 0.67.
Người đoạt giải nhất trong cuộc thi này là một thí sinh có tỷ số BMI 17.6 kg/m2,
eo/mông 0.66
và eo/ngực 0.72.
Người chiếm giải nhì là một thí sinh với BMI 17.9 kg/m2,
eo/mông 0.67
và eo/ngực 0.72.
Tất cả các chỉ số của hai người đẹp này nằm ngay vào con số trung bình! Như vậy, mặc dù Ta và Tây có tiêu chuẩn BMI khác nhau, nhưng trung bình vẫn là một công thức chung để tìm cái đẹp.
Cũng cần nói thêm ở đây rằng có nhiều [chứ không phài chỉ một] đặc tính trung bình làm nên cái đẹp. Do đó, có người đẹp “đáp ứng” được tiêu chuẩn trung bình về BMI, nhưng lại không có chỉ số eo/mông trung bình, hay ngược lại, ít có cơ hội được bầu làm hoa hậu hơn những người có nhiều chỉ số trung bình. Nhưng tìm được người đẹp trung bình không phải là chuyện dễ. Giả dụ như trong toàn bộ dân số, xác suất mà một người đẹp có chỉ số trung bình cho một đặêc tính nào đó (như BMI chẳng hạn) là 0.15 (hay 15%); nếu ta dùng 10 đặc tính để thẩm định sắc đẹp, thì xác suất mà ta tìm được một người đẹp (có 10 chỉ số trung bình) là 0.00000000577, tức là trong một tỷ người, ta chỉ tìm được khoảng 6 người đẹp toàn diện! Thành ra, người đẹp hay hoa hậu, mặc dù chỉ là trung bình, nhưng lại rất hiếm. Điều này cũng giải thích tại sao người ta phải dễ dãi với các tiêu chuẩn về đẹp khi tìm người bạn đời.
Nhưng tại sao các di truyền tố lại thích sự trung bình? Bởi vì trung bình là biểu tượng của sự cân đối (symmetry), và do đó, trung bình “loại bỏ” các đường nét không cân đối và các đường nét thô thiển. Sự không cân đối (asymmetry) của cơ thể là biểu hiện của các bất thường về mặt di truyền. Nghiên cứu y học trong những thập niên qua cho thấy người không có đường nét cân đối có tỷ lệ bị các hộâi chứng như Down, tâm thần phân liệt (schizophrenia) , v.v. Có thể vì lý do này mà các di truyền tố không muốn chúng ta “chung chạ” với người có mang khuyết tật di truyền. Thực ra, trung bình còn là một chỉ số tối ưu (optimal) trong hình học. Tam giác đều là tam giác có diện tích lớn nhất so với các loại tam giác khác. Hình vuông cũng là hình có diện tích lớn nhất trong các hình chữ nhật. Hình tròn cũng có diện tích lớn hơn các hình khác như ellipses. Bởi thế, sự “trung bình” trong sắc đẹp cũng có thể là một hình thể tối ưu. Nếu giả sử đẹp là một cái gì đó mà không phải là sự trung bình, thì hẳn rằng quá trình chọn lọc tự nhiên qua hàng triệu triệu năm đã kết thúc bằng một khuôn mặt người trông kỳ quái như chùm lông chim ở chốn địa đàng.
Sự thực là phần đông, nếu không muốn nói là tất cả, đàn ông thường bị hấp dẫn bởi phụ nữ có bộ ngực to, và mông nở nang, có thể chỉ đơn giản bởi vì các di truyền tố của họ muốn họ thành công trong việc duy trì nòi giống. Trong một nghiên cứu gần đây, một nhóm nghiên cứu Đức và Mỹ đã đo độ “happiness” (sung sướng, thích thú) của các cụ già (60 tuổi trở lên) trước và sau khi cho các cụ xem ảnh của những tài tử Hollywood như Dolly Parton, Demi Moore, các người đẹp trên các trang bià của tạp chí phụ nữ và tạp chí Playboy. Kết quả cho thấy sau khi xem ảnh những người đẹp này, độ sung sướng của các cụ tăng đến 25%, có cụ tăng đến 75%! Các nhà nghiên cứu này kết luận rằng sắc đẹp có thể mang lại lợi ích sống lâu cho các cụ! Điều này cũng không đáng ngạc nhiên, vì đôi bầu vú to hẳn sẽ hứa hẹn một nguồn sữa dồi dào, và mông nở nang (tỷ số eo/mông thấp) hẳn sẽ sinh nở dễ dàng. Tuy nhiên, về những điều này, các di truyền tố của đàn ông dễ bị mắc lừa lắm, vì bầu vú to có thể là do béo phì (hay do những lý do “nhân tạo” như silicon chẳng hạn) chứ chẳng liên quan gì đến việc có lắm sữa hay không. Rất có thể là các di truyền tố của đàn ông bắt đầu chọn lọc các phụ nữ có eo nhỏ như là một “giấy đảm bảo” ngầm nói rằng ngực họ to không phải do béo phì. Vậy là “an toàn” nhé!. Tuy nhiên “giấy đảm bảo” này có khi lại là cái bẫy. Mông nở nang có thể là do ứ mỡ mà thôi. Bầu vú to, mông rộng chỉ lànhững quảng cáo lừa đảo. Hình như các di truyền tố của đàn ông chưa đủ thông minh để nhận ra điều này.
Thế các di truyền tố của phụ nữ đòi hỏi gì ở người đàn ông? Nói chung, chúng không khó tính lắm khi đòi hỏi về sắc diện bề ngoài hay tuổi tác, nhưng lại rất khắt khe xét nét về chiều cao, địa vị xã hội và của cải của người đàn ông. Ba điều kiện này đặc biệt hấp dẫn các di truyền tố của phụ nữ. Trường hợp của Monica Lewinsky và Clinton là một ví dụ điển hình. Ở Sài Gòn ngày xưa, có một cô ca sĩ khả ái và có tiếng nọ từng tuyên bố “Tôi thà làm bé ông lớn, còn hơn làm lớn ông bé!” Quyền bính là cục nam châm làm cho các di truyền tố phụ nữ chui vào lưới tình.

Điều lạ lùng là các di truyền tố của phụ nữ còn xem xét đến cả tính chân thực, sự tử tế, và tính hào phóng của người đàn ông. Ích lợi của chiều cao, địa vị và của cải có thể giải thích bằng một mô hình mà các nhà tâm lý học thường đề cập tới là “Parasite model” (mô hình ký sinh). Theo mô hình này, vì chiều cao liên quan tới hormone nam testosterone; đàn ông con trai có độ testosterone cao thường có chiều cao trên trung bình và có khả năng đề kháng các vi trùng cao. Vì có khả năng đề kháng cao, họ có thể đầu tư nhiều hơn vào việc nuôi dưỡng vợ con. Thế mấy điều kiện còn lại thì sao? Đối với các di truyền tố của phụ nữ, để tối ưu hóa sự tồn tại mãi mãi của chúng, các các di truyền tố này sẽ “mồi chài” những người đàn ông có khả năng giúp phụ nữ nuôi con suốt đời. Và bởi vậy, có lẽ lòng chân thật, sự tử tế và tính hào phóng là các yếu tố quan trọng ngầm nói rằng người đàn ông sẽ có khả năng làm điều nàỵ
Nhưng tình yêu có tồn tại ở muôn loài không? Khỉ có biết yêu không? Tôi nghĩ là không, hoặc ít nhất là không theo cái cách của chúng ta. Lý do thì thật đơn giản vì con người là động vật bậc cao duy nhất tiến hóa đến mức giữa đàn ông và đàn bà có sự ràng buộc lứa đôi. Có ràng buộc lứa đôi bởi vì sự phân công lao động giữa đàn ông và đàn bà mang lại nhiều lợi ích hơn là một người làm tất cả. Đàn ông thì mang thú rừng về, còn đàn bà thì đi hái quả. Tình yêu tạo điều kiện đảm bảo cho mối quan hệ này được tiếp tục và đem lại lợi ích chung.
Cũng may mắn là các di truyền tố không thể sắp xếp hết mọi điều theo ý chúng. Thêm nữa, chúng đã phạm phải một sai lầm nghiêm trọng là tạo ra bộ não của con người. Thế là chính cái não mà các di truyền tố tạo ra lại có khả năng suy nghĩ độc lập. Bộ não có tình cảm riêng, đòi hỏi riêng và nhu cầu riêng, và những điều này không phải lúc nào cũng giống những cái mà các di truyền tố đã áp đặt cho nó. Chẳng hạn bạn có thể quyết định rằng bạn không thích lấy cái anh chàng cao lớn, giàu có và thành công nhất cái phố này mà chỉ sống một mình cả đời còn hay hơn. Hoặc giả bạn lấy ai đó nhưng không thích có con và cả hai chỉ sống như vậy cho đến lúc chia tay với cuộc đời. Cũng thật là tệ, theo quan điểm của các di truyền tố, loài người đã khám phá ra cấu tạo của chính mình và đã phát minh ra nhiều công nghệ tiên tiến. Thậm chí con người đôi khi còn quyết định rằng họ thích di truyền tố này hoặc không thích di truyền tố kia, và tìm cách loại nó ra khỏi bộ di truyền tố.
Trong truyện Kiều, cụ Nguyễn Du hỏi:
Người đâu gặp gỡ làm chi
Trăm năm biết có duyên gì hay không?
Căn cứ vào những gì người ta biết về di truyền tố và tình yêu, tôi xin trả lời cụ là “có”, và “duyên” ở đây là genes, là di truyền tố, cho dù câu trả lời có vẻ muộn màn cả 200 năm.
Và rồi, trong một ngày đẹp trời nào đó, nếu như trong một bữa tiệc, trong khi bạn đang tán gẫu với một nàng hay một chàng có ngoại hình trung bình và bất chợt người đó nói một điều gì làm lòng bạn rung động, làm cho bạn phải “đày thân giữa xứ phiền” thì bạn sẽ cảm thấy nàng hay chàng này chính là người mà số phận đã dành cho bạn. Nhưng nếu bạn là người đã có gia đình, tôi thành thật khuyên bạn hãy lập tức dùng bộ não của bạn mà nói ngay với các di truyền tố của mình rằng “Xéo ngay đi cho khuất mắt ta!” Chứ nếu không thì hậu quả sẽ là
Và tình ái là sợi dây vấn vít,
Yêu, là chết ở trong lòng một ít.
(Xuân Diệu)
bacsiletrungngan






1 nhận xét:

Những ngày xưa không thể quên

Những ngày xưa không thể quên... Nếu ai đã từng đến Nha Trang, phải công nhận với tôi rằng biển ấy thật là đẹp. Một bãi biển dài thoai tho...