Đọc bài của Chế Diễm Trâm trong mưa, buổi tối,
Ông Đoàn Phú Tứ ghé qua uống trà và tôi hỏi: bài thơ bất tử phải có một tình
yêu lớn, phải không ông? Ông trả lời là phải có một tình yêu bất thành và cao
cả. Ông nói vui vì có người viết về ông công phu và hiểu ông. Tôi mong sẽ có
dịp giới thiệu Trâm với ông. Ông mỉm cười và lững thững ra đi.
Nguyễn Hòa vcv
Màu thời gian của Đoàn Phú Tứ là một thi phẩm rất đặc
biệt. Trong Thi nhân Việt Nam (Hoài Thanh – Hoài Chân), thi
sĩ Đoàn Phú Tứ chỉ được trích đăng mỗi một bài này (trong khi tác giả có tác
phẩm được trích nhiều nhất là Xuân Diệu với mười lăm bài) nhưng nó lại là bài
thơ duy nhất có được lời BÌNH của chính tác giả Thi
nhân Việt Nam.
Bài thơ được sáng tác trong khoảng thời gian
năm 1939 – 1940, lần đầu đến với độc giả trên báo Ngày nay (số
Tết Canh Thìn 1940), sau đó tái xuất hiện trên Thi nhân Việt Nam (1942)
rồi Xuân Thu nhã tập (tháng 6/1942). Đến nay, qua bảy mươi
hai vòng xuân thu tuần hoàn, hoàn toàn có thể khẳng định Màu thời
gian đã vượt thời gian, đạt đến sự bất tử.
Màu thời gian – “một câu chuyện tâm tình”
Hình như tâm lý chung của độc giả khi tiếp cận
một bài thơ đẹp là đi tìm Nàng Thơ của tác giả và của từng bài thơ (nếu có
thể) bởi một lẽ thường, với chút máu thi sĩ thiên phú, trái tim nhà thơ không
thể không rung động trước Cái Đẹp, nhất là với Người Đẹp. Và cũng là lẽ
thường, thơ hay thường là thơ tình.
Trường hợp Màu thời gian cũng
không là ngoại lệ. Năm 1983, chiều lòng bạn bè, Đoàn Phú Tứ viết tặng kiến
trúc sư Nguyễn Ngọc Ngoạn một trang tiếng Pháp hé mở một cách rất… mơ hồ “một
câu chuyện tâm tình” (từ của Hoài Thanh) để có Màu thời gian:
COULEUR DU TEMPS – Ce petit poème est une
simple méditation sur un thème littéraire ancien: une concubine royale, - les
concubines royales favorites étaient d' ordinaire bien plus belles et plus
attachantes que les Reines en toute majesté, - à la veille de sa mort, ne se
laissait pas voir par son Auguste époux, de crainte de lui léguer un
souvernir affreux de son ancienne beauté; elle se contenta de lui faire, à
distance, la pieuse offrande d' une mèche de ses cheveux adorables, ils se
quittèrent ainsi, et l' image de la disparue resta à jamais intacte en sa
splendeur dans la mémoire du survivant.
Ici, le poète appelle sa belle disparue TẦN
PHI – Tần et Phi étant diverses appellations titrées des concubines royales,
et rappelant par leur sonorité, le concept de Poésie Pure.
MÀU THỜI GIAN – Bài thơ nhỏ này là một trầm tư
thuần phác trên một chủ đề văn chương xưa: một vương phi (các phi tần sủng ái
thường diễm lệ hơn và được vua quyến luyến hơn cả Vương hậu) khi sắp từ trần
đã không để cho đấng Quân thượng giáp mặt, sợ rằng sẽ lưu lại trong tâm trí
nhà vua một kỷ niệm dễ sợ về nhan sắc thuở nào; bằng lối cách mặt, nàng đành
lòng dâng lên vua lễ vật thành kính là một lọn tóc của mái đầu đáng ái mộ,
như thế, hình bóng rực rỡ của kẻ đã khuất sẽ tồn tại nguyên vẹn mãi mãi trong
ký ức người ở lại.
Ở đây, thi nhân gọi giai nhân quá cố của mình
là TẦN PHI, Tần và Phi là danh hiệu các cung phi; và âm thanh tên gọi gợi
nhắc khái niệm Thơ Thuần túy.(1)
Còn nhớ, tác giả Thi nhân Việt Nam đã
từng chú cho bài thơ Màu thời giankhá cặn kẽ (Màu thời gian cũng
là bài có nhiều “chú” nhất của tuyển tập – mười một lời chú), trong đó
có hai chú thích rất quan trọng sau: “Thi nhân mượn sự tích người xưa để giữ
vẻ kín đáo cho câu chuyện. Xưa có người cung phi, nàng Lý phu nhân, lúc gần
mất nhất định không cho Hán Võ Đế xem mặt, sợ trông thấy nét mặt tiều tụy vua
sẽ hết yêu. Cái tên Tần Phi thi nhân đặt ra vì một lẽ riêng”. Và “Nàng Dương
Quý Phi lúc mới vào cung, tính hay ghen bị Đường Minh Hoàng đưa giam một nơi.
Nhưng nhà vua nhớ quá sai Cao lực sĩ ra thăm. Dương Quý Phi cắt tóc gửi vào
dâng vua. Vua trông thấy tóc, thương quá, lại vời nàng vào cung. Đoàn Phú Tứ
hợp chuyện này và chuyện Lý phu nhân làm một và tưởng tượng một người cung
phi lúc gần mất không chịu để vua xem mặt chỉ cắt tóc dâng, gọi là đáp lại
trong muôn một mối tình trìu mến của đấng quân vương, ở đây không có chuyện
cắt tóc nhưng có chuyện khác cũng tương tự như vậy”(2).
“Câu chuyện khác tương tự” gắn với “giai nhân
quá cố” của thi sĩ họ Đoàn chính là ái nữ của nhà văn Nguyễn Văn Vĩnh.
Nàng chánh tên Nguyễn Thị Vân (1913 – 1938) mất năm hai lăm tuổi do bệnh nan
y về phổi. Hồi ký của Nguyễn Lương Ngọc viết: “Ngày ấy, tôi có đi học ký
xướng âm ở Nhạc viện. Tôi cùng học với một thiếu nữ con nhà quan, người mềm
mại, mặt đẹp, đặc biệt nàng có đôi mắt mở tròn, toàn lòng đen, đôi mắt bồ
câu. Tôi đã nói chuyện với anh Tứ về sự hội ngộ này. Và chúng tôi thường đạp
xe lên Hồ Tây nghe nàng dạo đàn. Được ít lâu sau, chúng tôi nghe tin nàng ốm
nặng. Anh Tứ bạo dạn xin được vào thăm. Không biết ý tứ ra sao mà nàng khước
từ. Anh Tứ liền nghĩ đến điển xưa, có một nàng cung phi đã từ chối không tiếp
“quân vương”, có lẽ không muốn để lại trong con mắt của quân vương hình ảnh
tàn tạ của mình. Điển cố này đã làm thành tứ thơ…”(3)
Hồi ký của Vũ Đình Hòe nói cụ thể hơn: “Cứ
chiều chiều, Tứ đến rủ Ngọc (Nguyễn Lương Ngọc) hoặc tôi đạp xe tới cổng
trường “Đầm non” ở Félix Faure đón hai bóng từ trường ra. Cả hai bước lên xe
tay nhà, vén gọn những tà áo lụa tím phất phơ: một dong dỏng cao, dáng quý
phái – cô Mộng Chi quê ở Huế; một mảnh mai hiền dịu, đôi mắt bồ câu đen
nhánh: cô Vân, con cụ N.V.V., chị thi sĩ trẻ Nguyễn Nhược Pháp (học Lycée
Albert Sarraut mấy lớp sau Tứ).
Chúng tôi theo hút, hướng phía Hồ Tây – Trường
Bưởi. Rồi đạp ngoắt lên đê Parreau, dựng xe, ngồi phệt xuống bờ cỏ. Dưới chân
đê là một biệt thự vườn rộng, hàng rào tầm xuân bao quanh.
Có tiếng dạo đàn. Từ cửa sổ gác biệt thự bay
ra những notes dương cầm thánh thót. Anh Tứ hồn như bị hút vào không trung…
Tôi không hiểu gì về nhạc Tây phương, lại sợ
các bạn trọ ở nhà chờ cơm nên len lén rút lui. Tứ cứ ngồi lặng đi, đê mê… Có
lẽ đến khuya mới về; cả những đêm sương giá, mưa phùn – Khổ hay sướng? anh
chàng “si”! Si giai điệu và si giai nhân.”(4
Cả bài thơ như một bản nhạc có âm hưởng bàng
bạc, man mác do phối rất nhiều thanh bằng. Trong một trăm lẻ tư (104) tiếng,
kể cả thi đề, có đến bảy mươi tư (74) tiếng mang thanh bằng (chiếm đến hơn
hai phần ba (2/3) số tiếng). Chỉ có một câu thơ có ngắt nhịp giữa câu (Ngàn
xưa không lạnh nữa – Tần Phi!), tất cả mười bảy câu còn lại đều đọc chậm
nhưng liền một hơi tạo sự dìu dặt, lan tỏa. Sự đan cài về thể thơ đầy hữu ý –
hai khổ đầu mỗi khổ ba câu thơ tự do, khổ thứ ba và khổ cuối là thơ ngũ ngôn,
kẹp giữa hai khổ ấy là bốn câu thơ thất ngôn làm cho hình thể câu thơ, khổ
thơ khá sang trọng, có phần trang trọng trong sự cổ kính. Lần theo mạch thơ
đi từ hiện tại lùi về quá vãng, rồi lại từ quá khứ dần dần trở về hiện tại,
hiện tại được viết bằng thơ tự do, quá khứ là thơ cổ (thất ngôn), còn thể thơ
ngũ ngôn là dành cho những triết cảm an định về một tình yêu tuy không đơm
hoa kết trái nhưng mãi mãi không tàn phai, “một thứ tình yêu đã qua lâu rồi
nên chỉ thấy thanh sạch, nhẹ nhàng” (Hoài Thanh).
Bài thơ có hai câu trở đi trở lại, vừa lặp lại
vừa đảo :
Màu thời gian không xanh
Màu thời gian tím ngát
Hương thời gian không nồng
Hương thời gian thanh thanh (…)
Hương thời gian thanh thanh
Màu thời gian tím ngát
Với những liên tưởng ẩn dụ hương thời gian -
hương tình yêu “thanh thanh”, màu thời gian - màu tình yêu “tím
ngát”, Đoàn Phú Tứ đã vươn tới thơ hóa - nhạc hóa một tình yêu thánh
thiện như đi trong cõi mộng. Cái màu tím kết bài thật ám ảnh – bóng áo tím
giai nhân hay màu tím hoàng hôn lặng lẽ trên Hồ Tây? Có lẽ là cả hai, mộng mơ
êm ái nhưng day dứt khó tả. Cái màu tím ấy là nỗi buồn man mác của một tình
yêu giấu kín, dang dở nên lưu luyến vĩnh cửu. Đọc câu thơ tím của Đoàn Phú Tứ
bất giác nhớ mùi hoa thạch thảo bất tử “Ôi ngát hương thời gian mùi thạch
thảo/ Em nhớ cho rằng ta vẫn chờ em… ” (thơ Guilaume Appollinaire, Phạm Duy
viết nhạc). Quả đúng là “một mối tình thanh sạch nhẹ nhàng, tuy ngang trái lỡ
làng, nhưng vĩnh viễn cùng thời gian ngát hương chung thủy” (Văn Tâm)
Màu thời gian dưới bóng Xuân Thu
Hiểu Màu thời gian gắn với
bối cảnh cảm tác chàng sinh viên nghèo mơ tưởng nàng thiếu nữ lầu quan thực
đã tốn rất nhiều tâm sức, bút mực của biết bao người yêu Màu thời
gian suốt bảy mươi hai năm qua. Song, vẫn còn lơ lửng đó một nhận
định của Hoài Thanh: “Trong thơ ta có lẽ không có bài nào khác tinh tế và kín
đáo như thế”. Và còn đó sự “không hiểu nổi” của vị tướng nổi tiếng văn võ
kiêm toàn Nguyễn Sơn: “Không hiểu nhưng cứ nhơ nhớ; nó thanh thoát, nó lâng
lâng, như khi nhìn áng mây trôi, khi ngắm dòng nước chảy. Nói gì với mình, cụ
thể? Không hiểu nổi. Nhưng nó lung linh như khúc nhạc thiều…, nó chập chờn
như một bóng liêu trai!”(5)
Quả thế, hiểu Màu thời gian gói
lại trong một tứ thơ tình yêu dường như là chưa đi hết ý nghĩa bài thơ “nửa
ngậm nửa thốt” (từ của Văn Tâm) ấy. Đâu phải ngẫu nhiên mà Hoài Thanh cho
rằng: “Không ai ngờ một cái đầu đề có tính cách triết học như thế lại dùng để
nói một câu chuyện tâm tình”. “Một câu chuyện tâm tình” thì phần nào đã sáng
tỏ nhưng không thể không quan tâm đến “tính cách triết học” của bài thơ. Trở
về với quan niệm về mối quan hệ giữa cuộc sống và sự sáng tạo nghệ thuật của
nhóm Xuân Thu, ta dường như có thể chạm đến “tính cách triết học”
của tác phẩm.
Thời gian là một phạm trù triết học. Cùng với
không gian, thời gian là hình thức tồn tại của sự vật, không có gì tồn tại
ngoài không gian và thời gian. Hình tượng nghệ thuật nào cũng được xác định
trong không – thời gian. Song, nếu thời gian khách quan bao giờ cũng có một
chiều, một hướng: quá khứ - hiện tại – tương lai thì trong nghệ thuật, người
ta có thể đổi chiều mũi tên thời gian, kéo dài hoặc rút ngắn thời gian, có
thể hãm tốc hoặc gia tốc, thậm chí chuyển động vô hướng trong thời gian… “Đặc
điểm của thời gian nghệ thuật là nó luôn luôn mang tính cảm xúc (tâm lý) và
tính quan niệm, do đó nó đầy tính chất chủ quan”(6).
Nhóm Xuân Thu trình làng một
tập sáng tác vào năm 1942 mang tên Xuân Thu nhã tập. Ngay cái tên
của nhóm và của tập sáng tác đã mang theo “hai mùa đẹp nhất trong năm, đi
với nhau theo nhịp tuần hoàn của trời đất”, “Xuân Thu. Cái đẹp của
trời đất. Cái triết lý của đời. Cái tầm văn hiến của nhân loại…” (Tình
bạn “Xuân Thu nhã tập” – Nguyễn Xuân Sanh). Tập sách gồm mấy bài thơ
của Nguyễn Xuân Sanh, Đoàn Phú Tứ, Nguyễn Văn Hạnh, một bản nhạc của Nguyễn
Xuân Khoát phổ bài thơ Màu thời gian, một tranh phụ bản của Đỗ
Cung vẽ một gốc cây đã bị đốn hết thân cành nhưng trên đó đang bừng nở những
chồi biếc khỏe khoắn, một số bài văn xuôi trước đó đã đăng trên tạp chíThanh
nghị… Vậy, Màu thời gian trịnh trọng hiện diện hai lần
trong Xuân Thu nhã tập, có thể xem là tác phẩm “đinh” cho sáng
tác của nhóm.
Trang đầu của tập sách có dòng đề tựa: “Dưới
bóng Xuân Thu sẽ thực hiện: Trí thức – Sáng tạo – Đạo lý” là tuyên ngôn
sáng tạo của cả nhóm. Trong bài viết Ý nghĩa “Xuân Thu nhã tập”
đăng trên báo Thanh nghị (số 35, ngày 16/4/1943), Đoàn Phú
Tứ cắt nghĩa mối quan hệ Trí thức - Sáng tạo - Đạo lý như sau: “TRÍ THỨC:
gốc cây Ta, đầy nhựa Thơ, hút nhận Nhạc của Đất Trời, để trổ sinh bao Điệu,
thắm tươi những bông hoa SÁNG TẠO dâng lên bàn thờ ĐẠO LÝ – lẽ sống trong
Đời.”
Cũng trong bài viết nói trên, Đoàn Phú Tứ giải
thích thêm: “Vì đâu mà năm sáu người bạn đã cùng nhau xây đắp nên quyển
sách nhỏ kia? Đó là chủ đề của mấy bài “Thanh khí” mà bất tất ta phải nhắc
lại ở đây, song ta có thể tóm lược bằng một câu: MỘT CUỘC CHÂN THÀNH ĐI TÌM
ĐẠO SỐNG.” Tác giả viết tiếp: “Sống theo cái Nhịp của Trời Đất, mà cái
biểu tượng đương nhiên và tốt đẹp nhất là hai mùa Xuân và Thu luân chuyển.
Nên lấy hai chữ XUÂN THU làm biểu hiện cho cái Nhạc của Vũ trụ.
Làm sao tới được cái Nhạc kia? – Bằng cách cảm
thông với Trời Đất, bằng cách thoát ra ngoài cái vỏ nhất thời của mình để hòa
lẫn với sức sống vô cùng tận của muôn loài, nghĩa là bằng Thơ.”
Màu thời gian là giây phút tương thông giữa con người
với con người, con người với thiên nhiên, tạo vật, vũ trụ - phút giây nhưng
đã gồm thâu vĩnh viễn. Mở đầu bài thơ là hiện tại:
Sớm nay tiếng chim thanh
Trong gió xanh
Dìu vương hương ấm thoảng xuân tình
Một tiếng chim trong trẻo, một cơn gió mát
lành, một hương xuân gợi cảm thông qua ba ẩn dụ chuyển đổi cảm giác tiếng
chim thanh, gió xanh, hương ấm; ba câu thơ ngắn dài không đều; và quan
trọng hơn hết: âm điệu rất êm ái, du dương do rất nhiều thanh bằng. Tất cả
như những dây tơ trời êm ái giăng từ trời cao rủ xuống làm lòng người thăng
hoa bay lên cùng vũ trụ, theo ý nghĩa triết học nhận thức luận phương Đông
“thiên địa vạn vật nhất thể”. Cái nhẹ nhàng, thanh sạch một buổi sớm mùa xuân
– mùa đẹp nhất trong năm, cỏ hoa nảy nở dưới mặt trời làm nảy sinh rung động
cảm thông giữa người với trời đất, sức sống dào dạt không cùng đã toàn hiện
trong một bản thể, là một nhưng là tất cả, thành Ta, “Ta đã là tất cả, và
tất cả đã hoàn toàn bừng sáng trong ta” (Thiên chức – Đoàn
Phú Tứ).
Ngàn xưa không lạnh nữa, Tần Phi
Ta lặng dâng nàng
Trời mây phảng phất nhuốm thời gian (…)
Tóc mây một món chiếc dao vàng
Nghìn trùng e lệ phụng Quân Vương
Trăm năm tình cũ lìa không hận
Thà nép mày hoa thiếp phụ chàng
Mạch thơ trôi về quá khứ, “từ quá khứ gần đến
quá khứ xa”, “càng đi xa về quá khứ câu thơ càng thiết tha, càng rực rỡ”
(Hoài Thanh). Cùng một lúc, dòng chảy thơ đồng hiện ba người đẹp bất hủ - Lý
phu nhân, nàng Dương Quý Phi, và cả nàng Thúy Kiều trong đêm tình tự với
chàng Kim “Tóc mây một món dao vàng chia đôi” (Truyện Kiều). Những
điển cố ngụ tình, ngụ ý là con đường tiên cảm và tiên phong trên con đường
trở về cội nguồn của một trong những tác giả chính của nhóm Xuân Thu.
Trong Quan niệm – tuyên ngôn chung mở đầu tập sách, Xuân
Thu nhã tập xác định hướng đi của “Sáng tạo”: “Tìm con
đường thực, nối liền nguồn gốc xưa với những ước vọng nay” để “trong
những Điệu cũ kỹ, ta còn mong bắt gặp tiếng Nhạc căn bản của lòng ta, để gây
thành những Điệu mới: trong, đẹp và thật”.
Trong khuynh hướng “ta trở về nguồn”,
văn nghệ sĩ Xuân Thu nhận ra rằng: “Từ cuối thế kỷ trước,
thơ Pháp nhờ dòng tượng trưng đã gặp thơ Á Đông ở chỗ uẩn súc, huyền ảo… Cái
mà thời nhân có thể cho là hấp thụ phương Tây, thì người Á Đông ta, có cái
trí cổ sơ, trực giác ngay tự lúc đầu, nhờ một ngôn từ đặc biệt.” (Thơ –
Đoàn Phú Tứ, Phạm Văn Hạnh, Nguyễn Xuân Sanh). Không hiếm nhà phê bình thừa
nhận sự ảnh hưởng của thơ tượng trưng lên tư duy thơ của Xuân Thu.
Ngay từ năm 1941, Hoài Thanh, trong tiểu luận Một thời đại
trong thi ca, bằng trực cảm, đã viết: “Cái kín đáo của thơ Pháp gần đây
tôi còn thấy ở Đoàn Phú Tứ”. Sau này, những câu thơ của Nguyễn Xuân Sanh càng
tiến xa trong sự huyền hồ:
Bình tàn thu,
Vai phấn nghiêng rơi
Tỳ bà sương cũ đựng rừng xa
Quỳnh hoa chiều đọng nhạc trầm mi
Hồn xanh ngát chở dấu xiêm y
Lẵng xuân bờ giũ trái xuân sa
Đáy đĩa mùa đi nhịp hải hà
Thơ Xuân Thu, trong đó có Màu
thời gian là bóng ảnh huyền ảo và nhạc điệu huyền diệu trên con
đường đi tìm đạo sống “trong trẻo, nhịp nhàng, sáng sủa” thông qua lối
thơ giàu nhạc tính và sự sáng tạo hình ảnh dựa trên sự tương thông của tất cả
các giác quan, kể cả và nhất là sự linh cảm. Vì vậy, “thơ là cái rung động
siêu việt, trong trẻo, nhịp nhàng của bản nhạc Vô Cùng. Rung động có lan trên
cánh Nhạc mới thực hiện Thơ. Và hồn thơ có lưu thông trên khí Nhạc mới bắt
kịp Đạo, cái đệ nhất nguyên lý, cái lẽ phải cuối cùng.”
Khổ thơ cuối là quá khứ trở về dần với thực
tại, quá khứ và hiện tại đã đồng nhất trong hương thời gian - màu
thời gian bất tử:
Duyên trăm năm đứt đoạn
Tình một thuở còn hương
Hương thời gian thanh thanh
Màu thời gian tím ngát
Nỗi buồn vấn vít của một tình yêu “đứt đoạn”
mà không quá day dứt, không hề bi lụy, không làm người đọc sầu não, đau đớn.
Hai mươi chữ mà đã mười bốn thanh bằng, bốn câu thơ xóa hết dấu câu là giây
phút tập trung lặng lẽ trên con đường đi tìm đạo sống – sự “tĩnh tụ”:
“Tĩnh tụ không hèn kém. Tĩnh tụ không a dua. Sẽ không thấy chung quanh,
không thấy mình; sẽ phá dần những vỏ thành kiến, những lớp văn hóa. Sẽ tới
cái “ta” của muôn đời, và cảm thông cùng vũ trụ.
Sẽ như người tập bắn, nhìn hạt đậu thấy mặt
trời. Sẽ như lòng tin chuyển núi lấp sông.
Tĩnh tụ là điều kiện của tri thức, của tiến
bộ.
Hơi khác người phương Tây, tôi muốn nhủ tôi :
“Nathanael, hãy nhập thiền.” (Tĩnh tụ - Nguyễn Lương Ngọc)
Bài thơ mang đầy khí vị Xuân Thu với
những vùng mờ nghĩa được chuyển tải trong một khái niệm triết học đậm màu sắc
tượng trưng: màu thời gian. Người Pháp thường bảo thời
gian màu xanh nhưng Đoàn Phú Tứ sáng tạo một màu thời gian rất độc đáo – màu tím
ngát. Ngay hai chữ “tím ngát” dường như hàm chứa trong đó cả
ấn tượng thị giác, khứu giác, xúc giác, linh giác… Nó xuất phát từ màu hoa
tím thi sĩ vốn yêu (chú của Hoài Thanh) nhưng cuối cùng nó đã đạt
đến sự bất tử vì “những nét mong manh” và “những cảm giác rất nhẹ nhàng”. Nó
vừa là tài năng nhưng vừa là quan niệm: “Thơ không cần lúc nào cũng rõ
nghĩa, vì nó không không chủ động trong địa hạt ý nghĩa; không phải lúc nào
cũng sáng sủa vì nó không vụ phát biểu cái phần sáng sủa của tâm linh, nó giữ
phần sâu kín” (Thơ). Nó là thơ của phút giây xuất thần và thăng
hoa trong chiêm nghiệm. “Ấy là một lối thơ rất kín đáo và tinh tế” (Hoài
Thanh)
Tiếp cận Xuân Thu nhã tập, ta rất
chú ý đến quan niệm của nhóm về mối quan hệ tác giả - độc giả. Đó là mối quan
hệ bình đẳng vì xóa nhòa ranh giới người làm thơ và người thưởng thơ: “Thi
sĩ làm xong bài thơ, có thể nói: bản đẹp chưa thành. Vì nó còn chờ tác giả
thứ hai: người đọc” (Thơ). “Đọc xong bài thơ, ta bị y nguyên
những câu, những tiếng của toàn bài chi phối… và ta không thể di dịch một âm
thanh, một hình ảnh mà không phản bội và tàn phá “cấu trúc độc nhất” ấy”.
Nhưng với “cấu trúc độc nhất” ấy, có bao nhiêu người thụ cảm thì có
bấy nhiêu bài thơ mới được “tác giả thứ hai” sáng tạo lại, tạo nên
những “khúc hợp tấu của Vô-Cùng”. Độc giả trở thành “tác giả thứ
hai” khi “tái tạo cái vũ trụ do bài thơ tạo ra”. Tính đến nay, khó
có thể thống kê cho hết số lượng “tác giả đồng sáng tạo” bài thơ Màu
thời gian và điều đó đồng nghĩa với việc càng ngày càng có nhiều
cách đọc bài thơ. Âu đó cũng là thành quả sự dụng tâm, dụng công của tác giả Màu
thời gian vậy.
Thay cho kết luận
Xưa nhà thơ Đường Trần Tử Ngang cảm trong
thiên địa (Vũ) vị thế con người tiếp biến giữa thời gian tiền - hậu (Trụ):
Tiền bất kiến cổ nhân
Hậu bất kiến lai giả
Niệm thiên địa chi du du
Độc thương nhiên nhi thế hạ.
Nguyễn Trãi nghệ sĩ từng quay ngược mũi tên
chiều thời gian:
Biên xanh nỡ phụ cười đầu bạc
Đầu bạc xưa rày có thuở xanh.
Nguyễn Công Trứ “già cưới vợ trẻ” rất
hóm hỉnh bay ngược dòng thời gian:
Ngũ thập niên tiền nhị thập tam
(Năm mươi năm trước ta hai mươi ba tuổi)
Thi hào Nguyễn Du thấy thời gian rất ngắn,
“Ngày vui ngắn chẳng tày gang”, nhưng cũng rất lê thê “Ba thu dọn lại một
ngày dài ghê”. Tản Đà cũng vậy: “Trăm năm là ngắn, một ngày dài ghê!”.
Nhà Thơ mới Xuân Diệu mang nỗi ám ảnh sự trôi
chảy của thời gian nên vội vã:
- Cái bay không đợi cái trôi
Cái tôi phút ấy sang tôi phút này
- Mau với chứ! Thời gian không đứng đợi
Hình như có một nhà thơ - nhạc sĩ khá gần với
thi sĩ - kịch tác gia Đoàn Phú Tứ về cách nhìn Thời gian ngưng đọng vĩnh viễn
qua lăng kính Tình yêu:
Rơi
như
tiếng sỏi
trong lòng giếng cạn
Riêng những câu thơ
còn xanh
Riêng những bài hát
còn xanh
Và đôi mắt em
như hai giếng nước.
(Thời gian – Văn Cao)
Dường như Văn Cao đi từ tiếng, nhịp thời gian
“rơi” khô khốc, nghiệt ngã (như tiếng sỏi trong lòng giếng cạn) để khẳng định
sự bất tử của Cái Đẹp, Sự sống và Tình yêu (câu thơ còn xanh, bài hát còn xanh,
đôi mắt em hai giếng nước không vơi) còn Đoàn Phú Tứ, ngược lại, xuất phát từ
cái đẹp của Tình yêu vượt thời gian để trở về với Sáng tạo nghệ thuật trong
triết học phương Đông – “triết học nguyên thủy” huyền ảo, tinh khiết: “Thơ
là một sự nhớ lại, một cuộc trở về, cuộc trở về của thi sĩ trong cái tôi của
mình nằm trong sự vật”, “từ cái tôi dày đặc, tăm tối biến trong khoảnh khắc
đến cái ta sáng suốt không cùng”, “cái ta đã giác ngộ, đã giải thoát, hòa lẫn
với khinh thanh, rung động nhịp nhàng với Nhạc thiên thu, theo Điệu tuyệt vời
và tuyệt đối.”(7)
TÀI LIỆU THAM KHẢO:
(1), (3), (4), (5) Theo Văn Tâm – Đoàn
Phú Tứ con người và tác phẩm – Nxb Văn học, H, 1995.
(2) Hoài Thanh, Hoài Chân – Thi nhân
Việt Nam – Nxb Thanh Hóa, 2006.
(6) Nguyễn Thị Bích Hải – Thi pháp thơ
Đường – Nxb Thuận Hóa, 2006.
(7) Trích theo Văn Giá – Một khoảng
trời văn học – Nxb Giáo dục, 2001.
|
Trả lờiXóaeva air vietnam
vé máy bay đi mỹ giá bao nhiêu
hãng máy bay hàn quốc
bán vé máy bay đi mỹ giá rẻ
Vé máy bay đi canada
Những Chuyến Đi Cuộc Đời
Ngẫu Hứng Du Lịch
Tri Thức Du Lịch