Thứ Bảy, 17 tháng 1, 2015

Đi về miền sương khói Vĩ Dạ một thời xa vắng

Đi về miền sương khói Vĩ Dạ một thời xa vắng
Trên bầu trời rực rỡ của phong trào thơ mới, Hàn Mặc Tử tự hồ như một ngôi sao chói lọi. Ông là nhà thơ đa phong cách. Bên cạnh những vần thơ điên loạn, thi sĩ nhiều khi lại sáng tạo nên những hình ảnh tuyệt mỹ và hồn nhiên, trong trẻo lạ thường. Nỗi buồn trong thơ Hàn Mặc Tử có nhiều nhưng cung bậc khác nhau, lúc thê thảm thiết tha, khi chở nặng một nỗi lòng man mác…nhưng tất cả đều dội lên một niềm khát khao sốt tột độ. Có những câu thơ, bài thơ đọc lên ta thấy day dứt, da diết, nhưng có những bài bài nhà thơ truyền cho ta cảm giác vô cùng tinh tế - “Đây thôn Vĩ Dạ” là một bài thơ như thế với cảnh vói hồn người xứ Huế đẹp, đáng yêu, nói lên nỗi niềm khát khao được hoà hợp gắn bó với người, với cảnh của nhà thơ đối vói một miền quê thơ mộng ,thân thương.
Mở đầu bài thơ là câu: “Sao anh không về chơi thôn Vĩ ?”. Câu thơ vừa như một lời chào mới thân mật, vừa như một lời trách móc nhẹ nhàng sơ sơ nghe rất đáng yêu. Câu hỏi tu từ chứa đựng bao hoài niệm bâng khuâng. Câu hỏi tu từ cũng có thể là lời nhà thơ tụ trách mình, ao ước được trở về thông Vĩ. Sáu thanh bằng liên tiếp, rồi đọng lại một thanh trắc “Vĩ”, âm điệu vần thơ lâng lâng, tình tứ.Vĩ Dạ phải là nơi để lại trong lòng Hàn Mặc Tử nhiều kỉ niệm đẹp mói thoáng hiện chút tâm tình ấy. Tác giả không dùng hai chứ “về thăm “ mà dùng “về chơi” mang sắc thai thân mật, tự nhiên, chân tình hơn. Câu hỏi như vọng lên từ một phương trời xa xôi ấy đã là duyên cớ để khơi dậy trong tâm hồn nhà thơi bao kỉ niệm sâu sắc, hình ảnh dẹp đẽ, đáng yêu của xứ Huế trước hết là Vĩ Dạ. Cảnh cũ người xưa thấp thoáng trong vần thơ đẹp mang hoài niệm. Bao kỉ niệm sống đậy trong một hồn thơ. Nó gắn liền với cảnh sắc vườn tược và con người xứ Huế mộng mơ.
“Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên,
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền”
 Cảnh được nói đến là một sáng bình minh đẹp.Những ngọn cau, thân cau thẳng dài ngời lên trong nắng mới, “nắng mới lên”.Cảnh được nhìn từ xa với bao trìu mến, vẫy gọi. Chưa đến Vĩ Dạ người ta đã nhìn thấy những hàng cau thẳng tắp cao vút. Những tàu lá cau lấp lánh ánh mặt trời buổi sáng sớm. Đây là một quan sát tinh tế của nhà thơ. “Nắng mới lên” là nắng sớm bình minh , nắng đầu tiên của một ngày. Hàn Mặc Tử đã sử dụng rất tinh tế từ “mới” để  tô cái trong trẻo tinh khiết của những tia nắg đầu tiên trong ngày. Hàng cau cao vút,thẳng tắp là hình ảnh thân thộc của Vĩ Dạ. Cau là cây cao nhất trong vườn nên sẽ đón được những tia nắg tinh khôi, nắng đầu tiên. Hình ảnh “ nắg hàng cau nắng mới lên” mang một vẻ đẹp lấp lánh, tinh khiết. Điệp từ “nắng” được lặp lại hai lần làm cho người đọc cảm nhận được từng bước dịch chuyển của nắngv ào buổi sáng mai và cũng nói lên đặc điểm của nắng miền trung : nắng choi chang, rực rỡ từ lúc bình minh
 Câu thơ “Vườn ai mướt quá xanh như ngọc”  như một lời trầm trồ, ngạc nhiên thốt lên trước vẻ đẹp lộng lẫy của cỏ cây hoa lá. “Vườn ai” không xác định, một chút ngỡ ngàng bâng khuâng.Vẫn là cảnh cũ người xưa nhưng đã lâu chưa về chơi nên ngỡ ngàng thốt lên như vậy. Câu thơ “ Vườn ai mướt quá xanh như ngọc” là cái nhìn thật gần của nhà thơ như đang đi giữa khu vườn tươi đẹp của thôn Vĩ .Có thể nói cái thần thái thông Vĩ là ở vườn cây, vườn cây bao bọc quanh nhà gắn với cấu trúc xinh xắn.Lá mảnh mỡ màng ướt đẫm sương đêm, láng mướt lên, ánh ngời lên dưới nắng hồng bình minh màu xanh ngọc bích. Từ “ mướt”chỉ sự mượt mà tràn đầy nhựa sống.  “Mướt” là màu xanh mỡ màng non tơ như loáng nước,mền mại phản ánh sự sống của khu vườn.  “Vườn ai mướt quá” như là lời ngợi ca ,là câu hỏi bâng khuâng, duyên dáng. Câu thơ như một lời trầm trồ, ngạc nhiên thốt lên trước vẻ đẹp lộng lẫy của cỏ cây sau một đêm sương. Hai tiếng “mướt quá” và hình ảnh so sánh “xanh như ngọc “ là những nét vẽ thần tình đã tô đậm cái hồn của cây lá trong “vườn ai” .Tưởng như nghe thấy tiếng nhựa đang chuyển lên cành lá xôn xao.Tất cả đều tưng bừng, rạo rực đầy sức sống. Câu thơ này, ta bắt gặp cái nhìn của tác giả đã hạ xuống thấp hơn và bao quát ở chiều rộng. Cái nhìn như chạm khẽ vào sắc màu của sự vật để rồi bật lên một sự ngạc nhiên đến thẫn thờ. Một khoảng xanh của vườn tược hiện ra, nhắm mắt lại ta cũng hình dung ra ngay cái màu xanh mượt mà , mỡ màng của vườn cây.Ta không chỉ cảm nhận ở đó màu xanh của vẻ đẹp mà nó còn tràn trề sức sống mơn mởn. Những tán là cành cây được sương đêm gột rửa thành cành lá ngọc. Không phải xanh mượt cũng không phải xanh mỡ màng mà là “xanh như ngọc” mới diễn tả được vẻ đẹp ngồn ngộn sức sống của vườn tược. Một màu xanh cao quí, lấp lánh, trong trẻo làm cho vườn cây càng sáng bóng lên.
 Hình như cả vườn cây đều tắm trong luồng không khí đang còn run rẩy sự trinh bạch nguyên sơ chưa hề nhuốn mụi , lăng kính không khí ấy làm hiện rõ hơn đường nét màu sắc của cảnh sắc mà mắt thường chúng ta bỏ qua. Cũng nói về màu xanh ngọc bích, trước đó Xuân Diệu đã từng viết : “Đổ trời xanh ngọc qua muôn lá”( thơ duyên) .Phải là người có tình yêu tha thiết với thiên nhiên,với cuộc sống,có ân tính sâu sắc, đạm đà với thôn Vĩ mới lưu giữ được trong tâm trí những hình ảnh sống động và đẹp đẽ như vậy. Nếu như ba câu thơ đầu miêu tả cảnh vật thiên nhiên nơi thôn Vĩ thì đến câu thơ thứ tư đã có sự xuất hiện của con người.
“ Lá trúc che ngang mặt chữ điền”
Câu thơ này đã có sự xuất hiện của con người khiến cảnh vật càng thêm sinh động. Có lẽ đó là chủ nhân của ngôi vườn.Tuy vậy sự xuất hiên đó thật kín đao, rất đúng với bản tính người Huế. “lá trúc che ngang”là một nét vẽ tài hoa, gợi tả thấp thoáng gương mặt người thiếu nữ. “Mặt chữ điền” gợi cho người đọc hình dung gương mặt vuông vắn phúc hậu. Một nét vẽ rất đẹp gợi tả vẻ dịu dàng, duyên dáng và tình tứ của thiếu nữ sông Hương.Lá trúc che ngang đã làm tôn thêm vẻ đẹp phúc hậu của gương mặt chữ điền. Ấn tượng nổi bật của câu thơ là sự hài hoà , gắn bó mật thiết giữa con người vói vườn tược quê hương.Hàn Mặc Tử hơn một lần nói về trúc và thiếu nữ:
“Thầm thì vói ai ngồi dưới trúc
                                               Nghe ra ý vị và thơ ngấy”
                    (Mùa xuân chín)
Tình cảm thiết tha, trân trọng của thi sĩ thể hiện ngay trong chính cái nhìn cảnh vật. Nó làm ta nhớ đến câu thơ của Bích Khê trong bài “Huế đa tình”:
“Vĩ Dạ thôn,Vĩ Dạ thôn
Biếc che cần trúc không buồn mà say”
Những câu thơ ở khổ thơ này bất chợt khiến ta nghĩ tới những câu thơ của Tố Hữu trong bài thơ “Xuân lòng”
“Nắng xuân tươi trên thân dừa xanh dịu
 Tàu cau non lấp loáng muôn gươm xanh
Ánh nhởn nhơ đùa quả non trăng chiếu
 Và chảy tan qua kẽ lá cành chanh”
 Tiếp nói mạch cảm xúc  mạch cảm xúc ở khổ đầu, dường như khổ thứ hai nhà thơ cá phần dành để đặc tả cảnh sông Hương - hình ảnh không thể tách rời với thôn Vĩ - với hầu nét tiêu biểu cho xứ Huế là êm đềm và thơ mộng. Đồng thời ẩn trong đó là biết bao cảm xúc suy tư của thi nhân:
“Gió theo lối gió, mây đường mây
    Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay
  Thuyền ai đậu bến sông trăng đó,
                                            Có chở trăng về kịp tối nay?”
Khổ thơ nói về cảnh mây trời sông nước với giọng thơ nhẹ nhàng, thoáng buồng. Nghệ thuật đối tạo nên bốn khung hài hoà cân xứng và sống động. Gió và mây đều gợi buồn vì nó trôi nổi, lang thang thì nay lại càng buồn hơn; gió đi theo lối gió, mây bay đường mây, gió và mây xa cách nhau; không thể là bạn đồng hành, không thể gặp gỡ, không phải là gió thổi may bay. Nỗi buồn về sự chia lìa, tiễn biệt đọng lại trong lòng người phảng phất và mang một nỗi niềm xao xác. Chúng ta không còn thấy giọng tươi mát, đầy sức sống ở đoạn trước nữa, chúng ta gặp lại Hàn Mặc Tử - một tâm hồn đau buồn, u uất:
“Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay”
Dòng sông Hương hiện ra mới buồn làm sao với những bông hoa bắp tẻ nhạt, ảm đạm. Ở câu thơ nh thơ đã nhân hoá con sông thành một sinh thể có tâm trạng để giãi bày tâm tư của mình. Hương giang không thể tự buồn mà bởi thi nhân đã nhìn dòng sông với con mắt đầy tâm trạng buồn. Động từ “lay” tự nó không vui không buồn nhưng trong hoàn cảnh này nó lại gợi lên sự hiu hắt, thưa vắng. Sông Hương thơ mộng giờ cũng “buông thiu”, hoa bắp lay càng tăng sự hiu hắt.Hoa bắp cũng lau nhè nhẹ trong một nỗi buồn xa vắng .Cảnh vật mang theo bao nỗi niềm. Sông Hương lững lờ trôi êm đềm, trong tâm tưởng thi nhân đã hoá thành “dòng nước buồn thiu”, càng thêm mơ hồ xa vắng. “Buồn thiu” là buồn héo hon cả gam ruột, một nỗi buồn day dứt, triền miên, cứ thấm sâu mãi vào hồn người.
Khác với khổ một, đến khổ thứ hai này không gian được miêu tả có phần như trong mộng ảo, tràn ngập ánh trăng. Nhà thơ không những chỉ tả, không những chỉ nhìn bằng mắt và điều quan trọng hơn bất kì còn “nhìn” bằng thế giới tâm hồn mình; do đó không có biên giới giữa thực và mộng.Và dường như càng về cuối, thế giới bên trong, thế giới mộng ảo càng lấn át thế giới hiện thực. Vì là mộng ảo, nên có nỗi băn khoăn rất mộng mơ
 “Thuyền ai đậu bến sông trăng đó,       
            Có chở trăng về kịp tối nay?”
“Dòng nước buồn thiu” đã biến hoá kì diệu thành “sông trăng” thơ mộng. Thuyền chở trăng đã có nhiều thi nhân nhắc đến, nhưng “sông trăng”thì có lẽ Hàn Mặc Tử là người đầu tiên. Dường như, trong những câu thơ trên có sự mong chờ, có niềm hi vọng lẫn nỗi buồn man mác của nhà thơ. Đây là hai câu thơ tuyệt bút của Hàn Mặc Tử được nhiều người ngợi ca, kết tinh rực rỡ bút pháp nghệ thuật tài hoa lãng mạng. Chữ “đó” cuối câu thơ thứ ba trong khổ thơ hai này bắt vần với chữ “có” đàu câu bốn, âm điều vần thơ cất lên như một tiếng khẽ hỏi thầm “Có chở trăng về kịp tối nay”. “Thuyền ai” phiếm chỉ, gọi lên bao ngỡ ngàng, bâng khuâng, tưởng như quen mà lạ, gần đó mà xa xôi. Con thuyền đơn côi nằm trên bến đợi “sông trăng” là một nét vẽ thơ mộng và độc đáo. Tất cả như tan loãng trong vầng trăng thân thuộc của Hàn Mặc Tử. Cảnh vật thiên nhiên tràn ngập ánh sáng, một ánh trăng vàng sáng loáng chiếu xuống dòng sông, làm cho dòng sông trở nên lung linh, huyền ảo. Cảnh nên thơ quá,thơ mộng quá! Và cũng đa tình quá! Tác giả đã gửi gắm một tình yêu khao khát, nỗi ngóng trông, mong nhớ vào con thuyền trăng, vào cả dòng sông trăng.
Vầng trăng trong hai câu thơ này là vầng trănh nguyên vẹn vcủa thi nhân. Hàn Mặc Tử rất yêu trăng nhưng vầng trăng ở các bài thơ khác không giống thế này. Một ánh trăng gay gắt,kì quái, một ánh trăng khêu  gợi, lả lơi
“Gió rít tầng cao trăng ngã ngửa
         Vỡ tan thành vũng đọng vàng khó”
Hay :
      “Trăng nằm sõng soài trên cành liễu
        Đợi gió đông về để lả lơi”
Đã có “thuyên ai đậu bến Cô Tô” hiện lên trong ánh trăng tà và tiếng quạ kêu sương trong thơ Trương Kế đời Đường. Đã có “ Sông xuân đâu chẳng sáng ngời trăng” trong “ Xuân giang hoa nguyệt dạ” của Trương Nhược Hư ,lại có cảnh “ió trăng chứa đầy một thuyền”của Nguyễn Công Trứ. Còn có “Trăng sông Trà - Như tấm gương soi dòng nước bạc” (Cao Bá Quát).Qua đó, ta thấy hình tượng “sông trăng” là mới mẻ sáng tạo. Cả hai câu thơ của Hàn Mặc Tử, câu nào cũng có trăng. Ánh trăng toả sáng dong sông, con thuyền, bến đò. Con thuyền không chở người mà chỉ “chở trăng về”. Phải về kịp tối nay vì đã cách xa và mong đợi sau nhiều năm tháng. Bến sông trăng trở nên vắng lặng vì “thuyền ai “ trở thành chiếc thuyền đơn côi ! Vầng trăng trở thành một luồng khí bao quanh mọi cảm giác, mọi suy nghĩ của Hàn Mặc Tử. Vầng trăng ở đây phải chăng là vầng trăng hạnh phúc  và con thuyền không kịp trở trăng về cho người trên bến đợi ? Từ “kịp” cùng với câu hỏi tu từ chất chứa bao niềm khắc khoải, bao sự chờ đợi mòn mỏi. Câu hỏi biểu lộ niềm lo lắng của một số phận không tương lại. Hàn Mặc Tử hiểu căn bệnh của mình nên ông khát khao sự đồng điệu đồng cảm với mình. Khổ hai bài thơ, nhịp sống dịu dàng, khoan thai của xứ Huế được diễn tả rất đạt :gió và mây nhè nhẹ trôi đi; sông Hương nước chảy buồn thiu. Hoa bắp chỉ khẽ khàng đung đưa theo chiều gió.Cách ngát nhịp  4/3, vói hai vế tiểu đôi,gợi tả một không gian gió,mây chia lìa, như một ngịch cảnh đày ám ảnh. Chữ “gió”và “mây” được điệp lại hai lần trong mỗi vế tiểu đối đã gợi lên một bầu trời thoáng đãng, mênh mông. Hàn Mặc Tử mong có một phép màu nhiệm nào đó đê “ai” “chở trăng về kịp” cho ông ở Quy Nhơn. Hình ảnh đẹp nhưng đầy mộng ảo, khát khao mãnh liệt nhưng đầy khắc khoải, tuyệt vọng. Tất cả đều từ ý thức của con người đang chạy đua với thời gian, với căn bệnh hiểm nghèo.
Ấn tượng của người đọc về cảnh thiên nhiên ở thôn Vĩ sẽ được nhà thơ tơ đạm thêm qua đoạn kết:
           “Mơ khách đường xa, khách đường xa,
Áo em trắng quá nhìn không ra
Ở đây sương khói mờ nhân ảnh,
Ai biết tình ai có đậm đà?”
Có lần Nguyễn Bính đã phải thốt lên :
“Giời mưa ở Huế sao mà buồn thế
  Cứ kéo dài ra đến mấy ngày”
               (Giời mưa ở Huế)
Xứ Huế mưa nhiều, những buổi sớm mai và chiều tà phủ mờ sương khói. Sương khói trắng và áo em cũng trắng, bởi vậy nếu nhà thơ chỉ nhìn thấy cái bóng mờ ảo của người trong ảnh cũng là điều dễ hiểu. Người thiếu nữ Huế thoáng hiện, trắng trong kín đáo và duyên dáng. “Khách đường xa”có thể là người đang sống ở Vĩ Dạ cũng có thể là chính nhà thơ. Cầu thơ sử dụng điệp ngữ “khách đường xa” nhấn mạnh sự xa côi, cách trở cho thấy tâm trạng của nhân vật trữ tình đang hướng về “khách đường xa”. Điệp ngữ “khách đường xa” ở câu đàu khổ ba như nhấn mạnh nỗi xót xa, như lời tâm sự của nhà thơ với chính mình trước lời mời của cố gái thôn Vĩ có lẽ nhà thơ là vị khách quá xa xôi. Câu thơ “trắng quá nhìn không ra”, “sương khói mờ nhân ảnh” đều chỉ là sự nhoà mờ, hư ảo, nửa thực nửa mơ”.“Áo em” bị sương khói làm mờ hay em chỉ là ảo giác của người con gái xứ Huế có lẽ là thiếu nữ thôn Vĩ , không có thật.
Hai câu giữa của khổ thơ có thể hiểu theo hai nghĩa. Hiểu theo nghĩa thực xứ Huế là nơi mưa nhiều, nắng nhiều, nên nhiều sương khói làm tăng vẻ hư ảo, mộng mơ của xứ Huế.Về nghĩa bóng, cái sương khói làm mờ bóng người ấy phải chăng tượng trưng cho bao cái huyễn hoặc của cuốc đời, của tình người với nhà thơ.
“Ai biết tình ai có đậm đà?”
Câu thơ cuối là câu hỏi tu từ và sử dụng đại từ phiếm chỉ “Ai”.Câu thơ mở ra hai ý nghĩa :nhà thơ băn khoăn tình người xứ Huế có đạm đà hay cũng mờ ảo dễ tan như sương khói kia; người thôn Vĩ có biết được tình cảm của tác giả vẫn đạm đà hay không. Dù hiểu theo nghĩa nào thì câu thơ cũng mang sự băn khoăn, trống vắng trong tâm hồn thi nhân, đó là sự chơi vơi , cô đơn của một tâm hồn tha thiết yêu con người và cuộc đời. Bài thơi hay càng ngậm ngùi, nó đã khép lại nhưng long người vẫn còn thổn thức.
 Bức tranh vườn quê thôn Vĩ được khúc xạ qua nỗi lòng nuối tiếc bâng khuâng của Hàn Mặc Tử. Cảnh đẹp nhưng buồn, tình thấm vào cảnh, cảnh nói lên tình. Mở đàu là niềm vui say, chuyển sang buồn bã, khắc khoải, cuối cùng là sự hoài nghi. Tất cả trạng thái tâm hồn đó điều xuất phát từ lòng yêu đời , niềm thiết tha với cuộc sống và tình yêu của một số phận bất hạnh bài thơ được liên kết bởi từ “ai”. Mở đầu là: “ Vườn ai mướt quá xanh như ngọc”, tiếp đến “ thuyền ai đậu bến sông trăng đó”, và cuối cùng là “Ai biết tình ai có đậm dà”.Càng làm cho “Đây thôn Vĩ Dạ” sương khói hơn, huyền bí hơn. Một chút hi vọng mong manh mà tha thiết như đang nhạt nhoà và mờ đi cùng sương khói! Các điệp ngữ “mơ khách đường xa”, “ai biết”, “ ai có” tạo nên nhạc điệu sâu lắng, dịu buồn, mênh mang.
“Đây thôn Vĩ Dạ” là bức tranh đẹp nhưng rất khó vẽ. Bởi cái thần kì ảo quá, cái tình da diết quá và có lẽ đó chính là cái làm cho bài thơ sống mãi, như sự trường tồn của một tâm hồn Hàn Mặc Tử . “Đây thôn Vĩ Dạ”là một bức tranh đẹp về cảnh và người của miền đất qua tâm hồn giàu tưởng tượng và đầy yêu thương của nhà thơ với nghệ thuật gợi liên tưởng, hoà quyện, thiên nhiên với lòng người. Hàn Mặc Tử đã cho ta một bài thơ tình thật hay. Cảnh và người, mộng và thực, say đắm và bâng khuâng, ngạc nhiên và thẫn thờ,…Cái màu xanh như ngọc của “vườn ai” như dẫn hồn ta đi về miền sương khói Vĩ Dạ một thời xa vắng.
Theo upload.koong.vn




Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Giải mã tục cúng Thần Tài vào mùng 10 tháng giêng âm lịch

Giải mã tục cúng Thần Tài vào mùng 10 tháng giêng âm lịch Khoảng hơn 10 năm trở lại đây, trên báo chí và mạng xã hội thường phản ánh chuyệ...