Từ Nguyễn Trường Tộ tới bộ ngũ:
“Vĩnh - Quỳnh - Tốn - Tố - Khôi” 1
Cụ Nguyễn Trường Tộ và “bộ ngũ” sống cách nhau tới hai thế hệ.
Trong khoảng thời gian 50 hoặc 60 năm ấy, chen vào giữa họ, là thế hệ các cụ
Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh. Không ai thật sự có quyền lực trong tay. Các cụ
được trọng vọng là do những gì tích lũy trong óc. Có uy tín là nhờ thái độ đối
với xã hội, nhân quần. Sản phẩm của mỗi người đều chỉ là những suy nghĩ, do tự
mình thể hiện trên giấy – mà không thể nhờ vả làm giúp, hoặc sai bảo ai làm
thay…
Tất cả các vị này đều sinh ra từ thế kỷ 19 – cách nay hàng trăm
năm, nhưng các vị đều là trí thức đúng
nghĩa – mặc dù đầu thế kỷ 20 mới có khái niệm “trí
thức“ để có thể phân loại “người có
học” khác trí thức ở chỗ nào. Đó là những người vừa “có học” lại vừa có tư duy
phản biện xã hội. Chính do tư duy phản biện, họ bị chế độ thực dân và phong
kiến – nói chung là những chế độ độc tài – kỳ thị, cảnh giác, kể cả lên án,
thậm chí bị lên án từ nhiều phía. Nhưng tất cả đều bất khuất và sử dụng phương
thức phù hợp để thể hiện lòng yêu nước và thực hiện hoài bão nâng cao dân trí.
Thời nay, con cháu Phan Chu Trinh và “bộ ngũ” – thế hệ thữ năm – vẫn tiếp tục sự
nghiệp cha ông.
Đại
diện ba thế hệ trí thức với hoài bão nâng dân trí (thời kỳ giữ nước và
mất nước)
|
|||
Thế
hệ
|
Tên
|
Năm
sinh
|
Biện
pháp chính
|
1
|
Nguyễn Trường Tộ
|
1830-1871
|
Canh tân đất nước. Khuyên
dùng chữ Nôm
|
2
|
Phan Bội Châu
|
1867-1940
|
Xây dựng lực lượng, kết hợp
giác ngộ người dân
|
2
|
Phan Chu Trinh
|
1872–1926
|
Nâng cao dân trí
|
3a
|
Nguyễn Văn Vĩnh
Phạm Duy Tốn
Nguyễn Văn Tố
Phạm Quỳnh
|
1882-1936
1883–1924
1889–1947
1892–1945
|
Phổ biến chữ quốc ngữ
Cải tiến ngôn ngữ Việt
Tiếp thu tinh hoa nhân loại
Nâng cao dân trí
|
3b
|
Phan Khôi
|
1887-1959
|
Phản biện xã hội, nâng cao
dân trí
|
Chuyển giao thế hệ. Dựa vào các tư liệu chính thức,
có thể nói:
– Từ khi thực dân Pháp nổ súng đánh Đà Nẵng, nền độc lập nước ta
bị đe dọa nặng nề, nhưng vẫn còn cơ may cứu được – nếu kịp canh tân theo các
kiến nghị của Nguyễn Trường Tộ. Nhiều ý kiến đồng tình với nhận định này. Thời
cơ bị lỡ, triều đình chỉ còn cách dốc toàn lực chống ngoại xâm, nhưng thất bại
có thể đoán trước. Trước sự bành trướng của chủ nghĩa tư bản, tất cả các nước
nông nghiệp lạc hậu – như nước ta (trừ Nhật, kịp canh tân) – đều rơi vào tay
thực dân. Vậy, thử hỏi: Các cuộc khởi nghĩa riêng lẻ ở nước ta – rất trơ trọi –
làm sao có thể thành công, cho dù rất anh hùng, dũng cảm?
– Khi thực dân Pháp đã đặt được nền móng cai trị vững vàng, đa bắt
đầu thực thi các chương trình khai thác và xây dựng dài hạn, dẫu Phan Bội Châu
– với tầm nhìn rộng hơn những người đi trước (Đông du, gây dựng lực lượng kết
hợp giác ngộ người dân) – vẫn không thể thành công. Mọi người nhận ra: Con
đường bạo động chỉ đưa đến thất bại. Do vậy, cùng thời với Phan Bội Châu, từ
rất sớm, Phan Chu Trinh chủ trương đấu tranh ôn hòa, với phương châm và biện
pháp: Khai dân trí,
chấn dân khí, hậu dân sinh. Đến nay, được nhiều người coi
là phù hợp.
– Thế hệ trí thức tiếp nối xứng đáng của cụ Phan Chu Trinh – ngoài
các đồng chí từ Pháp về nước – thì điển hình là “bộ tứ” (Âu học) và Phan Khôi
(Hán học âu hóa). Xếp họ thành “bộ ngũ” sợ rằng hơi bị khiên cưỡng.
Nguyễn Trường Tộ: Cách làm đúng, không gặp thời?
Từ điển mở wikipedia coi cụ Nguyễn Trường Tộ là danh sĩ, chí sĩ. Đó là sự tổng kết những gì cụ đã thực hiện –
thành công và thất bại – trong cuộc đời ngắn ngủi của mình. Có lẽ chỉ hai việc
là có kết quả thiết thực, tồn tại đến nay:
– Thiết kế và chỉ đạo xây một tu viện, do vậy được xem là “kiến
trúc sư”. Wikipedia ghi như sau: Trong quãng thời gian năm 1862–1864,
bằng sự hiểu biết của mình, ông đã thiết kế và chỉ đạo việc xây cất ở Sài Gòn
tu viện Dòng Thánh Phaolô (nay ở số 4 đường Tôn Đức Thắng). Đây là một công trình
kiến trúc theo kiểu châu Âu có quy mô và có giá trị bền
vững cho đến tận ngày nay.
Năm Tự Đức 19, Bính Dần (1866), ngũ nguyệt (tháng 5),
Bộ sai quan Tổng đốc Nghệ An là Hoàng Tá Viêm ra đào Kênh Sắt… Người viết thư cậy ông Tộ đi khám xem
hình đất, thế đất, chỉ lối cho mà đào… Kênh hoàn thành, ông Tộ có làm bài thơ
mừng Kênh Sắt .
– Còn việc dành cả đời để làm: đã thất bại. Đó là kiên trì dâng
vua mấy chục “bản điều trần” đưa ra những kế sách chấn hưng đất nước, mong giữ
được độc lập tự chủ, trong khi thực dân đã đi qua giai đoạn giao thương, thật
sự chuyển sang giai đoạn vũ trang xâm lược (1858). Vậy có còn cơ hội canh tân
hay không? Số bài viết về cụ Nguyễn dù đã rất nhiều, nhưng chuyện này vẫn phải
bàn tiếp.
Hoàn cảnh và thời thế
Nếu coi năm 1850 là trung điểm của thế kỷ 18, thì cụ Nguyễn Trường
Tộ sinh trước đó 21 năm (1829-1830) và mất sau đó 21 năm (1871). Đây cũng là
thời gian quân Pháp và Tây Ban Nha đánh Đà Nẵng nhưng không thành công (1858),
chúng kéo vào Nam Bộ, chiếm của ta ba tỉnh miền Đông (1862). Ngay sau sự kiện
này, ba bản điều trần quan trọng nhất của cụ Nguyễn đã được gửi lên vua (1863).
Tiếp đó, Pháp chiếm nốt 3 tỉnh miền Tây (1867)… Cụ từ trần 2 năm trước khi Pháp
kéo ra xâm chiếm Bắc Bộ (1873). Tóm lại, các kiến nghị canh tân của cụ được
viết khi tiếng súng xâm lược đang lan rộng cả nước. Câu hỏi là trong hoàn cảnh
như vậy, nếu triều đình thực hiện ngay tất cả mọi kiến nghị của Nguyễn Trường
Tộ, liệu nước ta có thoát được ách thực dân?
Thực tế, triều đình chỉ lo thương lượng “chuộc” lại các tỉnh đã
mất và khi nhận ra dã tâm xâm lược của thực dân, thì sự phòng thủ hoàn toàn thụ
động và bất cập. Đã có lần vua Tự Đức tiếp kiến cụ, nhưng hầu hết các kiến nghị
không được thực hiện, thậm chí không được phúc đáp. Duy có một kiến nghị tưởng
sẽ thành hiện thực là mở trường kỹ
thuật ở Huế khi cụ cùng giám mục Gauthier được triều đình
cử đi Pháp mua sắm sách vở, tài liệu và mộ giảng viên. Rút cuộc cũng thất bại.
Theo
wikipedia, ngày 10 tháng 1 năm 1867,
phái đoàn đáp tàu L’orne đi Pháp. Trong 8 tháng ở đây, họ đã mua sách vở, dụng
cụ, máy móc…để lập trường học kỹ thuật ở Huế. Ngoài ra, Giám mục Gauthier cũng
đã tới Bộ Ngoại giao Pháp, Bộ Hàng hải và Thuộc địa Pháp để xin tài trợ cho các
chương trình của mình; đồng thời tiếp xúc với một số thương gia và kỹ nghệ gia
người Pháp. Ngày 25 tháng 11 năm 1867,
phái đoàn trở về Việt Nam. Ngày 29
tháng 2 năm 1868,
phái đoàn về tới Huế. Cùng theo về còn có hai Linh mục, một giáo dân (bác sĩ
Hemaiz5) và một người thợ máy (tất cả đều là người Pháp, và đều do Giám mục
Gauthier vận động được). Sau khi xem xét các thứ mua về cho trường học và các
thứ mà Bộ Hàng hải Pháp gửi tặng, vua Tự Đức cho phép Giám mục Sohier được xây
trường học kỹ thuật trên mảnh đất đã đề nghị (nằm giữa nhà thờ Kim Long và Tòa
Giám mục Huế). Theo tờ tấu của Viện Cơ mật đề ngày 4
tháng 3 năm 1868,
thì sau đó các thành viên trong đoàn đều được nhà vua ban thưởng tiền và lụa…
Nhưng rồi trường vẫn không mở được. Tại sao? Có hai khả năng, chưa
rõ cái nào là thực: 1) triều đình thủ cựu, hủ bại; 2) gác lại vì những việc
khác khẩn cấp hơn.
Trình độ, tầm nhìn
– Từ nhỏ, học chữ Hán, tuy không đỗ đạt, không bằng cấp (có ý kiến
cho rằng cụ thuộc gia đình nhiều đời theo đạo Thiên Chúa, do vậy bị cấm dự các
khoa thi), nhưng cụ vẫn đủ trình độ dùng thứ chữ này viết rất nhiều bản Điều
Trần lên triều đình đề nghị những cải cách mà cụ cho là cần thiết để canh tân
đất nước.
– Được một giám mục dạy tiếng Pháp, được ra nước ngoài nhiều lần,
cụ đủ trình độ phiên dịch cho những cuộc tthương lượng Việt-Pháp giữa các nhân
vật cao cấp đại diện triều đình với các tướng lĩnh quân đội đại diện nước Pháp.
Cụ cũng dịch các văn bản và sách chữ Hán sang chữ Pháp. Nhưng quan trọng hơn, cụ tự nâng tầm
hiểu biết và tầm nhìn cao và rộng hơn hẳn các sĩ phu và vua quan trong nước. Điều kỳ lạ,
cụ là người duy nhất ở nước ta nhìn ra xu thế của thời đại, trong đó văn minh
công nghiệp sẽ chinh phục và thay thế nền văn minh nông nghiệp. Số bài viết về
khát vọng canh tân đất nước và sự tiếc nuối do chưa gặp thời của nhân vật này
quả là không thiếu.
Thời nay, ai cũng thấy một điều hiển nhiên; đó là… từ cách nay 150
năm, các nước tư bản chủ nghĩa đua nhau đi tìm thuộc địa với sức mạnh của công
nghiệp, thì khó mà nước nông nghiệp nào chống lại được – nếu không kịp thời
canh tân. Cuối cùng, thoát ách thực dân chỉ có Nhật. Sợi chỉ xuyên suốt là: Vứt bỏ chủ nghĩa Khổng-Mạnh (đã trở thành
phản động), mở rộng cửa, mở rộng giao thương, đón nhận nền văn minh mới, đồng
thời lấy đó làm phương tiện canh tân toàn diện đất nước. Tóm lại, chế độ phong
kiến Nhật Bản diễn biến hòa bình một cách ngoạn mục sang chế độ tư bản. Cụ thể,
đó là chế độ quân chủ có hiến pháp – mà sau này cụ Phạm Quỳnh ở nước ta theo đuổi.
Nguyễn Trường Tộ có thể so sánh với thủ tướng Okubo Toshimichi (1830-1878) – một trong ba người (tam kiệt) nhìn xa trông rộng ở
Nhật, và sinh cùng thời với Nguyễn Trường Tộ. Điều khác nhau là khi Okubo
Toshimichi đã là thủ tướng, có đủ quyền trong tay để thực hiện mọi dự định, thì
cụ Tộ còn phải hồi hộp chờ triều đình phán xét những đề nghị – với văn phong
thừa lễ độ – của mình.
Xin hãy xem, và sẽ kinh ngạc biết bao về bản “Thiên hạ phân hợp đại thế luận” năm 1863 (Luận
về các thế lớn
“hợp và chia” trong thiên hạ) – mà cụ gửi triều đình.
Trích: “Thiên–hạ phân–hợp đại–thế
luận“.
Ngày nay các nước phương Tây đã bao chiếm suốt
từ Tây Nam cho đến Đông Bắc, toàn lãnh thổ châu Phi cho tới Thiên Phương, Thiên
Trúc, Miến Điện, Xiêm La, Tô Môn Đáp Lạp, Trảo Oa, Lữ Tống, Cao Ly, Nhật Bản,
Trung Quốc và các đảo ở ngoài biển, kể cả Tây châu, không đâu là không bị chẹn
họng bám lưng.
Nước Nga thì từ Tây Bắc đến Đông Nam gồm tất cả
các nước Đại Uyển, Cốt Lợi Cán, Mông Cổ và các xứ ở Bắc Mãn Châu, không đâu là
không chiếm đất và nô dịch dân những nơi đó.
Ở trên lục địa, tất cả những chỗ nào có xe
thuyền đi đến, con người đi qua, mặt trời, mặt trăng soi chiếu, sương mù thấm
đọng… thì người Âu đều đặt chân đến, như tằm ăn, cá nuốt. Ở đâu
thuận với họ thì phúc, chỗ nào trái với họ thì họa. Ai hòa với họ thì được
yên, ai cự lại thì dùng binh lực giao tranh; trong thiên hạ không ai dám kháng
cự lại họ…
Song bản điều trần này và các bản khác đều không được phúc đáp.
Tóm tắt nội dung các bản điều trần (wikipedia)
Về chính trị:
Đầu tiên, trình bày Những thế lớn phân và hợp trong thiên hạ (“Thiên hạ phân hợp đại thế luận”, 1863) để có chiến lược tổng thể
thích hợp, đồng thời đề xuất “Kế ly gián giữa Anh và Pháp” (1866). Không hề ảo
tưởng về dã tâm của thực dân Pháp, nhưng ông rất sáng suốt chủ trương tạm hòa
hoãn với Pháp, gợi ý với nhà vua về lợi ích lớn của việc “Mở rộng quan hệ với
Pháp và các nước khác” (1871)…
Về nội chính:
Ông đề nghị triều đình tinh giản bộ máy chính quyền để đỡ hao tốn
công quỹ, xác định rõ chức năng công việc của từng loại quan lại để khỏi phải
có rất nhiều người ăn lương mà không biết làm gì. Mặt khác, nên có chính sách
đối với những nho sinh để họ không thể dựa vào chút chữ nghĩa, trốn tránh nghĩa
vụ đối với nước nhà. Ngoài ra, muốn cho đội ngũ viên chức giữ được thanh liêm thì
phải tạo điều kiện cho họ làm giàu chính đáng…
Về tài chính:
Ông đề nghị sắp đặt lại hệ thống thuế khóa cho thật công bằng hợp
lý. Muốn thế phải đo đạc lại ruộng đất, kê khai nhân khẩu, tăng thuế người giàu
và hàng xa xỉ ngoại nhập, đánh thuế thật nặng vào những tệ nạn như cờ bạc, rượu
chè,…Ngoài ra, còn phải khuyến khích nhà giàu bỏ tiền ra cho vay, và vay tiền
của nước ngoài…
Về kinh tế:
Ông đề nghị chấn hưng “nông, công, thương nghiệp” để làm cho dân
giàu nước thịnh, bằng những hành động cụ thể như: tổ chức khai hoang, bảo vệ
rừng, thành lập các đoàn tàu đem hàng nông sản đi bán, cử người thăm dò tài
nguyên, khai thác mỏ, thành lập các cơ sở sản xuất công nghệ và đào tạo thợ kỹ
thuật…Và để nền kinh tế cả nước có thể giao thông dễ dàng, thì phải chú ý đến
việc làm mới và tu bổ đường bộ và đường thủy….
Về học thuật:
Ông đề nghị cải cách “việc học, việc thi” để chọn được nhân tài
hữu ích. Không nên tiếp tục lối học “máy móc, tín điều” kiểu Trung Hoa. Đáng chú ý là việc ông đề nghị
đem các môn khoa học vào trong chương trình học, nhất quyết phải dùng quốc văn
(chữ Nôm) để dạy học và soạn sách, kể cả
trong các giấy tờ hành chính…
Về ngoại giao:
Ông chủ trương quan hệ mềm mỏng với Pháp, và không chỉ có Pháp mà
còn phải đặt ngoại giao với nhiều nước khác như Anh, Tây
Ban Nha… Phải biết lợi dụng mâu thuẫn giữa các nước này để có
lợi cho mình. Phải đào tạo được các thông dịch viên giỏi công việc và tiếng
nước ngoài…
Về võ bị:
Ông đề nghị cải tu võ bị nhằm tăng chất lượng của quân đội, như tổ
chức lại đội ngũ, cho quân lính được học tập các binh pháp mới, mua sắm tàu
thuyền và vũ khí, xây dựng phòng tuyến cả ở thành thị lẫn nông thôn, đề phòng
quân Pháp xâm lược lan ra cả nước…
Bên
cạnh đó, ông còn đề nghị cải cách về các mặt khác như văn hóa, tôn giáo, bảo
tồn di tích lịch sử, v.v…Tuy nhiên, phần lớn những đề nghị của ông đã không
được triều đình nhà Nguyễn nghe theo do tầm nhìn hạn hẹp của họ và hạn chế của
thời đại .
Thái độ người đương thời
– Người đủ quyền lực thực hiện các đề xuất của Nguyễn Trường Tộ là
vua Tự Đức và triều đình thời đó. Thực tế, họ chẳng làm gì. Sự thất bại đã được
Nguyễn Trường Tộ kết tinh trong hai câu thơ lúc cuối đời: “Nhất thất túc thành thiên cổ hận/ Tái
hồi đầu thị bách niên cơ” (Một bước lỡ, thành muôn kiếp hận/ Ngoảnh đầu nhìn lại: đã trăm năm”. Dễ hiểu tâm trạng tác giả, nhưng chưa ai biết “một bước lỡ” (nhất
thất túc) của cụ là gì, vào lúc nào, trong hoàn cảnh nào…
Vị giám mục suốt đời gắn bó với cụ còn cho rằng cụ chết vì bị đầu
độc. Tuy nhiên, ông không đưa ra được chứng cứ.
– Chủ thuyết Nho giáo chiếm địa vị thống trị khi Gia Long chọn
hoàng tử Đảm làm kế vị (vua Minh Mệnh) chính là lực cản lớn nhất để thực thi
mọi canh tân. Đây là thứ chủ nghĩa biện minh cho sự cai trị của chế độ phong
kiến; còn “canh tân” thực chất là đổi mới theo tư bản chủ nghĩa, mà khởi đầu là
mở rộng giao thương – trong nước và ngoài nước – để giai cấp tư sản ra đời. Rất
nhất quán, triều đình chủ trương “đóng cửa”. Tự Đức lại là vị vua rất uyên thâm
Nho giáo, quanh vua, các vị trọng thần chủ yếu xuất thân khoa cử. Trong khi đó
Nguyễn Trường Tộ là “vô danh”, lại là người theo công giáo, phải tự giới thiệu
bản thân với triều đình – về quá trình thu nhận kiến thức thời đại – để mong
được triều đình “lắng nghe” và hỏi han tới. Ngoài các định kiến, đây còn là lúc
tiếng súng xâm lược đã nổ ran và lan tỏa. Các cuộc nổi loạn của nông dân chưa
dẹp xong… Cùng thời gian này, vua Nhật đã giao chức cao cho các nhà cải cách;
trong khi đất nước không bị đe dọa bởi xâm lược vũ trang.
Nói nước ta chưa có điều kiện và thời cơ để canh tân, thì đúng hơn
là nói ta bỏ lỡ thời cơ, dù đã có bộ não của Nguyễn Trường Tộ.
Tình hình rối ren tới mức có những việc tưởng sẽ được thực hiện
mười mươi, như mở một trường kỹ thuật – đã tốn tiền mua đủ sách, thiết bị,
thầy, đất… kể cả ban thưởng cho những người có công – rốt cuộc, đành chịu phí
tổn lớn mà vẫn phải phế bỏ chủ trương.
– Chuyện đề xuất dùng chữ Nôm thay chữ Hán. Chữ Nôm có ưu điểm là đọc lên người Việt hiểu ngay, nhưng để “đọc được”
nó, phải tốn công học chữ Hán và tốn công “đoán” xem nên đọc thế nào. Mặc dù
thời đó chữ quốc ngữ đã rất phổ dụng trong giáo hội, nhưng Nguyễn Trường Tộ
chưa thể dại dột đề xuất dùng nó thay thế chữ Hán. Vì chắc chắn sẽ thất bại,
thậm chí còn mắc tội. Tội này liên quan tới ý thức hệ: Không thể để thứ chữ của
tà đạo thay thế chữ của “thánh hiền”. Thực tế, phải nửa thế kỷ sau, và
phải dùng quyền lực của chính phủ bảo hộ (trên quyền vua) mới phế bỏ được chữ
Hán, thay bằng quốc ngữ. Ra quyết định “thay” là một chuyện, còn phổ cập nó,
nâng cấp nó trong ngôn ngữ tiếng Việt là chuyện khác hẳn. Đó là công của “bộ
tứ” học giả, trước hết là Nguyễn Văn Vĩnh, Phạm Quỳnh.
Thái độ hậu thế với Nguyễn Trường Tộ
Nói chung là khâm phục, tiếc nuối và thương cảm.
– Khâm phục. Biết ơn một danh sĩ có công trong quá khứ không có gì
phải bàn. Tuy nhiên, vẫn có những ý kiến cực đoan. Chẳng hạn, xuất phát từ chủ
ý chống đạo Thiên Chúa (đây mà mâu thuẫn tôn giáo) người ta nhân thể hạ thấp Nguyễn Trường Tộ. Đừng tốn công tranh cãi và sa đà vào đây.
Đối lại, cũng có trường hợp đề cao quá mức cần thiết vị danh nhân
này, với ý định kết tội thật nặng vua quan nhà Nguyễn – do vậy, cũng quá mức
cần thiết.
– Tiếc nuối. Như trên đã nêu, hoàn cảnh nước ta thời Nguyễn Trường
Tộ có nhiều khác biệt quan trọng với hoàn cảnh Nhật Bản lúc đó. Căn gốc sâu xa
từ lịch sử đất nước chưa cho phép nước ta – cách nay 150 năm – tiếp nhận chủ
nghĩa tư bản, mặc dù đã xuất hiện nhân vật Nguyễn Trường Tộ, nhưng lẻ loi, đơn
độc, thiếu một cơ sở xã hội. Thời thế chưa cho phép xuất hiện anh hùng. Sự tiếc
nuối cao độ trong các bài viết hiện nay liệu có phải do bực mình với tình trạng
nhiều lần bỏ lỡ các cơ hội thời hiện đại?
– Thương cảm. Dẫu sao, khâm phục và tiếc nuối là tình cảm xuất
hiện sau khi dùng lý trí phân tích vấn đề. Còn thương cảm là điều tự nhiên có
trong trái tim con người khi thấy đống loại gặp thất bại oan ức. Ví dụ sau khi
đọc 2 câu thơ của Nguyễn Trường Tộ?. Tuy nhiên…
Những người sống ở thời nay hãy tự thương cảm
chính mình
– Ví dụ, một nửa nhân loại chịu ảnh hưởng của chủ nghĩa Marx,
trong đó có nước ta. Không thể nói chuyện may-rủi ở đây. Sau khi Marx và Engels
mất, cách mạng vô sản chia thành hai hướng phát triển: Hướng theo Lenin và
hướng theo Kaustky, Berstein. Điều có thể tiếc nuối là cả hai hướng đều có mục
tiêu XHCN, chọn hướng nào cũng là cách mạng; nhưng khác nhau là dùng bạo lực,
hay đấu tranh ôn hòa. Liệu có đáng tiếc nuối khi đa số dân ta thời xưa nghĩ rằng
muốn đuổi thực dân Pháp ắt phải dùng bạo lực? Chuyện này cần bàn vào lúc
khác.
Bài học
Vua Nhật được coi là Minh Trị mà tự mình chẳng cần làm gì nhiều,
chỉ cần một quyết định duy nhất, nhưng sáng suốt: Vứt bỏ chủ nghĩa Khổng-Mạnh;
dù nó biện minh cho ngôi báu. Các việc còn lại, đã có các nhà cải cách thực
hiện. Cách mạng duy tân ở Nhật – thực chất là cách mạng tư sản – chậm hơn cách
mạng Pháp cả trăm năm. Vậy mà nay Nhật có kém gì Pháp?
Bài học này tới nay có còn giá trị?
Nguyễn
Trường Tộ trao lại những gì?
Số
phận các bản điều trần
Nói chung, chúng không được thực hiện vì không đủ cả thời gian lẫn
điều kiện. Nhưng bao trùm lên tất cả là vua Tự Đức không thể dứt bỏ ý thức hệ
Nho Giáo, mặc dù đến lúc ấy đã trở thành phản động khi chủ nghĩa tư bản phương
Tây đang đua nhau tìm kiếm thị trường và thuộc địa.
Đưa
ra quá muộn
– Trong 11 năm cuối đời, Nguyễn Trường
Tộ (1829-1871)
dành phần lớn thời gian và suy nghĩ để soạn thảo và liên tiếp gửi lên triều
đình tới 58 bản điều trần. Số bản hiện nay còn tìm được (khoảng ba chục) cho
thấy cụ quan tâm mọi mặt (Chính trị, Nội vụ, Ngoại giao, Tài
chính, Kinh tế, Võ bị, Học thuật…) với những kiến nghị rất cụ thể.
Nhưng lúc này đã quá muộn.
– Trước đó ba-bốn chục năm, các nước tư bản liên tiếp xin được
buôn bán với Đại Nam, nhưng đều không đạt kết quả. Ảnh hưởng nặng nề của ý thức
hệ khiến triều đình coi các nước phương Tây là những “thế lực thù địch” tiềm
tàng, và gọi họ là bọn “man di”; cho nên chính sách chung là đóng cửa. “Lẽ ra”
đây chính là thời gian thích hợp nhất để Nguyễn Trường Tộ gửi bản “Luận
về các “thế lớn” trong thiên hạ” – đặng “mở mắt” cho vua Minh Mệnh,
nhưng cụ lại không gửi – chỉ vì cụ chưa ra đời. Té ra, triều Nguyễn cần tới 60
năm để thay đổi nhận thức: Trong kỳ thi Nho Học cuối cùng (1919) vua Khải Định
ra đầu đề: Bàn về văn minh (từ các nước phương Tây lan ra thế giới).
Phải đợi đến khi cháu nội của vua Minh Mệnh – tức là vua Tự Đức –
lên ngôi và ở ngôi được 15 năm, triều đình mới nhận được bản điều trần nói
trên. Lúc này, đã hết giai đoạn thương thuyết buôn bán, thực dân đã thấy rõ
nước ta quá lạc hậu, chi rẽ (cấm đạo, nông dân nổi loạn liên miên) nên “tiện nhất”
là chiếm lấy nước ta bằng vũ lực – mở màn là trận tấn công Đà Nẵng (1858). Khi
bản điều trần cuối cùng đến tay vua, Pháp đã vững chân ở Nam Bộ, chuẩn bị đánh
ra Bắc Bộ.
–
Mặt khác, chuyện cách tân không thể “một sáng, một chiều” mà xong. Ví dụ,
chỉ một việc không lớn lắm là mở trường kỹ thuật – nằm trong kiến nghị cách tân
về Giáo dục – dù đã được triều đình cấp đủ tiền để phái đoàn (do đích thân
Nguyễn Trường Tộ tham gia) đáp tàu sang Pháp mua sắm sách vở, trang thiết bị,
mời thầy; rồi đất xây trường đã được cấp… nhưng rốt cuộc vẫn không có trường vì
bị những việc khẩn cấp hơn chen ngang vào.
Trong hoàn cảnh thực dân quyết tâm chiếm nước ta, việc mất nước có
những nguyên nhân sâu xa từ trước đó rất lâu, dẫn đến tình hình suy
thoái nặng
nề ở nửa sau thế kỷ XIX. Đây cũng chính là thời gian đủ để chủ nghĩa thực dân
đã phân chia xong các thuộc địa trên toàn cầu, có nước ta trong đó. Việc phê
phán triều Nguyễn phải đặt trong bối cảnh này để đứng quá khắt khe.
Lực
cản quá lớn
Ý chí, thời gian và nguồn lực đều hạn chế, do vậy các bản điều
trần không thể thực hiện. Tuy nhiên, nếu tổng hợp lại, thực chất nội dung cần
cách tân chính là chấp nhận chủ nghĩa tư bản: Học tập và thực hiện những thành
quả cụ thể của nó. Ví dụ (theo một bản điều trần về giáo dục) cần đưa vào
chương trình các môn khoa học, phế bỏ những nội dung “vô bổ” (hiểu là bỏ tứ
thư, ngũ kinh); cần thay đổi cách thi cử để tuyển chọn được nhân tài “hữu ích”,
sử dụng chữ Nôm thay cho chữ Hán… Nếu làm theo, nghĩa là bước đầu phế bỏ Nho
giáo – khốn nỗi đây lại là thứ ý thức hệ biện minh cho sự mặc nhiên tồn tại của
ngôi vua. Nho giáo có địa vị chính thống ở nước ta từ ngàn năm trước. Không
những vua Tự Đức, mà ngay các vị trọng thần tiến bộ nhất, như Đặng Huy Trứ, Phạm Phú Thứ, Phan Thanh Giản, Trần Tiễn Thành,Trương Đăng Quế…) đều chưa thể dứt bỏ Nho Giáo, dù nhiều người
đã ra nước ngoài, đã thấy sức mạnh của công nghiệp, dù bản thân đã có một số tư
duy mới mẻ và việc làm mạnh bạo… Nhưng đó chỉ là suy nghĩ và hành vi của những
cá nhân chưa thoát khỏi cái bóng của Khổng Tử. Tuy vậy, thời nay, vẫn cần khẳng
định rằng vua Tự Đức và các vị nói trên đều sống rất đạo đức, đều là những
người rất mực yêu nước. Sau khi vua Tự Đức mất, phe chủ chiến vẫn chiếm ưu thế
trong triều; hịch Cần Vương của vua Hàm Nghi vẫn được hưởng ứng mạnh mẽ. Ngay
nhà canh tân Nguyễn Lộ Trạch cũng khuyên triều đình dời bỏ kinh đô (Huế) lập
căn cứ kháng chiến ở Thanh Hóa.
Các bản điều trần còn để lại những
giá trị gi?
–
Giá trị như một công cụ tác động tư tưởng (!?).
Cần làm cho mọi người tiếc “đứt ruột” (!) vì những viễn kiến sáng
suốt nhường ấy mà cái triều đình hủ bại kia lại không chịu thực hiện, khiến
“nước mất, nhà tan”, nhân dân “làm thân trâu ngựa”. Điều này đã được sử học sau
1945 triệt để khai thác, kể cả dùng thứ văn phong tố khổ rất đặc trưng. Đích
phải đạt tới là đưa vào sách giáo khoa một bản án nặng nề cho vua tôi nhà
Nguyễn.
–
Vậy thì, chúng chỉ còn giá trị tư liệu lịch sử?
Nghĩa là chúng giúp hậu thể biết rằng cách nay 150 năm nước ta có
một bậc thức giả, sinh ra không gặp thời?. Nhưng thời nào? Thời Tự Đức (dài 36
năm), hay là thời chế độ phong kiến châu Á đã lê thê từ ngàn năm đến nay?
Với nước ta khi đó, có hai điều cần nói:
1- Dẫu cụ Nguyễn Trường Tộ sinh sớm
30 năm hay sinh muộn 30 năm, vẫn không có vị vua nào đủ thức thời để nghe theo
cụ. Nếu sinh muộn 30 năm, cụ sẽ mất vào năm 1901; mà đến năm 1919 triều đình
mới bỏ các ký thi Nho Giáo.
2- Thật ra, sở học của vị học giả
này chưa bắt kịp trình độ thời đại, tuy đã vượt xa, rất xa, các tiến sĩ nho học
trong nước. Những điều mà cụ kiến nghị đều xuất phát từ những gì cụ thấy ở nước
ngoài; nhưng “thấy” là một chuyện (ví dụ, cụ thấy cái bóng đèn lộn ngược mà vẫn
sáng), còn “hiểu” là chuyện khác; rồi từ hiểu thấu đáo tới mức “làm” được, lại
là một bước nữa. Chẳng hạn, khi mang số tiền lớn sang Pháp mua sắm trang thiết
bị cho trường kỹ thuật, cụ và vị giám mục đi cùng đã mua nhiều thứ vô dụng,
lãng phí so với yêu cầu giảng dạy ở một trường kỹ thuật. Do vậy, thực chất, nếu
đặt đúng chỗ trong lịch sử, những kiến nghị của Nguyễn Trường Tộ chỉ là sự khát
khao của một cá nhân muốn một đất nước quá lạc hậu nhích một bước vào thế giới
công nghiệp đã đi trước chúng ta nhiều trăm năm. Do vậy, “viết ra khao khát”
không khó bằng thực hiện những gì đã viết ra.
–
Nội dung các bản điều trân thể hiện lòng yêu nước?
Đúng, nhưng cần nói cụ thể hơn. Nguyễn Trường Tộ yêu nước không
phải bằng nội dung của các bản điều trần do cụ soạn thảo. Nội dung có thể tăng,
giảm, thêm, bớt, hoặc thay đổi, thậm chí đúng-sai… Nhưng mục đích điều trần thì
duy nhất. Ngay từ đầu, cụ Nguyễn đã bàn luận về các “thế lớn” trong thiên hạ.
Và đi đến kết luận: Muốn giữ nước phải hòa nhập vào xu thế chung. Cưỡng lại bằng
cách đóng cửa, khư khư ôm lấy Nho Giáo và trông cậy vào nhà Thanh là hỏng. Các
nội dung canh tân chỉ là phương tiện để nước ta mạnh lên, từ đó, dám đặt ra mục
đích hòa nhập. Nó cũng là phương tiện để cụ Nguyễn nói cho người nắm quyền lực
dễ nghe. Thời đó mà xui vua phế bỏ ý thức hệ Nho Giáo thì chết như… bỡn! Nhưng
nếu nói cần canh tân những gì cụ thể, khiến vua nhận ra được sự cấp bách, sẽ dễ
lọt tai đức vua hơn. Nếu được vậy, sớm muộn gì sẽ làm bộc lộ sự lạc hậu của ý
thức hệ khiến tín đồ của nó dám từ bỏ nó. Nhưng không đủ thời gian để thực hiện.
–
Nội dung canh tân có tác dụng chống xâm lược?
Cần nhìn với nhãn quan khác: Chính quân xâm lược muốn giành lấy
vai trò canh tân đất nước này. Lý do? Vì chúng là tư bản và thực dân.
Khi nước ta chưa mất, canh tân có tác dụng chấn hưng đất nước; từ
đó chúng ta dám “mở cửa” và sức mạnh nội tại của ta sẽ làm nhụt ý chí quân xâm
lược. Nhưng khi nước đã mất, chính thực dân sẽ thực hiện – và thực hiện nhiều
hơn, nhanh hơn, mạnh mẽ hơn – các nội dung mà cụ Nguyễn đã đề xuất. Nói khác,
những gì cụ Nguyễn đề xuất là quá ít và quá thấp so với dự kiến của thực dân
Pháp. Cứ cho là cụ Nguyễn sống thêm 30 năm nữa, cụ cũng không dám kiến nghị
triều đình bắc chiếc cầu sắt kếch sù đến vậy qua sông Hồng. Nhưng ngay khi chưa
bình định xong các cuộc khởi nghĩa chống đối (ví dụ, của Hoàng Hoa Thám ở Yên
Thế), Pháp đã xây xong cầu Long Biên. Lý do? Rất đơn giản, nếu chúng ta hiểu
“thực dân” là gì. Thực dân “thứ thiệt” có mục đích lập nghiệp vĩnh viễn ở thuộc
địa, chứ không phải đó là lũ chỉ biết ăn xổi.
Trí thức thời sau không nhìn học giả Nguyễn Trường Tộ như một vị
học giả, mà cụ còn là một trí thức lớn của thời trước, với đầy đủ các tiêu
chuẩn.
1- Có trình độ, và kiếm sống (hành nghề) bằng cái vốn đó.
2- Vị này đã thực
hiện chức năng xã hội khi đứng ở vị trí trung gian giữa giới cai trị và giới bị
trị.
a- Với giới
cai trị, cần chỉ ra những bất cập xã hội và kiến nghị biện pháp
khắc phục – vì đây là trách nhiệm của giới nắm quyền;
b- Với giới bị trị,
cần nâng cao dân trí để dân tự mưu cầu hạnh phúc, đồng thời dám áp lực để giới
cầm quyền thực thi các kiến nghị mà trí thức đã nêu lên.
Các suy nghĩ thể hiện trên giấy là sản phẩm của học giả (ví dụ,
một bài thơ, một áng văn, một bàn luận…), nhưng nếu đó là thông điệp nhằm gửi
tới giới cầm quyền, thì đó là sản phẩm của trí thức.
Các bản điều trần của cụ Nguyễn khi gửi lên vua chính là sản phẩm
của trí thức, nhưng muốn thực hiện phải có quyền và lực. Triều Nguyễn có quyền,
nhưng thiếu lực. Thế thì chế độ thực dân sẽ thực hiện chúng, chứ sao?. Tình thế
trở nên khôi hài: Người cha, chủ gia đình không thực hiện được trách nhiệm, thì
để người hàng xóm làm thay? Hoàn cảnh oái oăm này Nguyễn Trường Tộ không bao
giờ mong muốn. Tuy nhiên, xã hội không bao giờ vắng bóng trí thức, kể cả dưới
chế độ thực dân. Do vậy, giới trí thức hậu duệ chính là người tiếp thu, phê
phán và kế tục những gì giới trí thức tiền nhân để lại.
Trao lại cái gì cho giới trí thức?
Trước hết, là trao lại sứ mệnh
–
Tổ tiên trao lại cho dân Việt sứ mệnh chiến đấu giữ nước
Khi thực dân chiếm nước ta bằng vũ lực, phản ứng đương nhiên – do
ý thức dân tộc di truyền từ trong máu thịt – dân ta cũng phải dùng vũ lực chống
lại. Rất nhiều học giả, trí thức đã tham gia, thậm chí lãnh đạo các cuộc kháng
chiến – với tư cách người dân mất nước. Chính các nhà cải cách, như Nguyễn
Trường Tộ, Nguyễn Lộ Trạch cũng có nhiều đóng góp theo cách của mình. Thực
chất, đây là cuộc so đọ giữa sức mạnh công nghiệp với sức mạnh nông nghiệp. Sau
hai thế hệ thử sức (dài nửa thế kỷ), dân ta nhận ra không thể giành lại độc lập
bằng cách đối kháng quyết liệt: Dùng bạo lực chống bạo lực. Phải tìm cách khác,
và phải chờ cơ hội.
–
Nguyễn Trường Tộ và thế hệ trí thức tiền bối trao lại sứ mệnh.
Sứ mệnh mặc nhiên của trí thức, như trên đã nói, là phản biện xã
hội và nâng cao dân trí. Các bản điều trần của cụ Nguyễn chính là như vậy. Nội
dung phản biện xã hội rất dễ thấy trong từng bản điều trần. Còn nâng cao dân
trí thể hiện rất rõ trong kiến nghị về giáo dục và học thuật (học những gì
thiết thực, bỏ lối học “máy móc, tín điều” kiểu Trung Hoa; học chữ nôm, cải cách thi cử…).
– Trường hợp Nguyễn Lộ Trạch (1853-1895)
Đây là nhà cải cách có 18 năm sống cùng thời với Nguyễn Trường Tộ.
Khi cụ lớn lên, nguy cơ mất nước đã hiển hiện, do vậy các kiến nghị của cụ
thiên về cảnh báo âm mưu kẻ thù, nâng cao sức mạnh quân sự và năng lực hậu cần
cho cuộc chiến đấu chống giặc đang và sẽ diễn ra.
Nhân đầu đề ở kỳ thi hội năm 1892, vua hỏi về “đại thế toàn cầu”,
ông tự viết ra và công bố rộng rãi bài “Thiên hại đại thế luận” (bàn
về các thế lớn trong thiên hạ) trong đó nói rõ: Đại thế ngày nay đã
khác. Pháp quyết chiếm lấy nước ta; không thể đối phó bằng nhượng bộ và cầu
hòa. Muốn giữ nước, phải 1) sửa sang chính trị và giáo dục, nhất là học tập
những nước tiên tiến (Đức, Anh – kẻ thù của Pháp); 2) bỏ hẳn tệ quan liêu, tham
nhũng, hư danh…
Chịu ảnh hưởng rất lớn của luận văn này (đọc, truyền tay) là thế
hệ trí thức đàn em: Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh, Nguyễn Thượng Hiền, Trần Quý Cáp, Huỳnh Thúc Kháng, Vũ Phạm Hàm, Trương Gia Mô, v.v… Tất
cả các vị này, đều có giai đoạn sống cùng thời với Nguyễn Lộ Trạch và rất khâm
phục cụ.
Về tình hình chung, giới “có học” nói trên lớn lên khi nước vừa
mới mất (hòa ước 1883), các cuộc chống đối lần lượt nổi dậy và lần lượt bị đàn
áp. Câu hỏi là tiếp tục nổi dậy hay tìm cách khác? Về giáo dục, nền cựu học
đang suy tàn, nhưng tân học còn sơ sinh. Do vậy, trong họ có nhiểu quan điểm:
chủ chiến hay chủ hòa; khai thác những văn minh công nghiệp (mà thực dân mang
tới), hay chống lại mọi thứ ngoại lai… Điển hình của chủ chiến là Phan Bội
Châu, ngược lại là Phan Chu Trinh. Đó là thái độ đổi với thực dân Pháp, nhưng
cả hai vị này đều thống nhất: Cần nâng cao dân trí.
Thế hệ sau họ, chính là bộ ngũ: Nguyễn Văn Vĩnh, Phạm Quỳnh, Phạm
Duy Tốn, Nguyễn Văn Tố và Phan Khôi. Họ sinh ra và lớn lên khi nước đã mất hẳn.
Nguyễn Trường Tộ và Fukuzawa Yukichi
Wikipedia đã nêu rất đủ về Nguyễn Trường Tộ và Fukuzawa Yukichi (xin gọi tắt là cụ Nguyễn và cụ Fuku). Để so
sánh, ai cũng nhận ra: Cả hai cụ sinh cùng thời, cùng đề xướng cải cách, nhưng
một cụ thất bại, cụ kia thành công. Chỉ cần gõ hai cụm từ “nguyễn trường tộ” và
“fuku yukichi” ta sẽ được google cung cấp hàng ngàn kết quả, trong đó không
thiếu những so sánh cụ thể, chi tiết, để tìm ra nguyên nhân thất bại và thành
công.
Chung quy, đó là sự khác nhau về: 1- Tình hình xã hội Việt và Nhật
thời đó; và 2- Phẩm chất cá nhân không giống nhau.
Bài này, vẫn… so sánh.
Hoàn
cảnh xã hội ở Việt Nam
Nhiều ý kiến quy lỗi cho triều Nguyễn – nhất là vua Tự Đức; đồng
thời ca ngợi vua Minh Trị. Một bên, không chấp nhận những đề xuất canh tân của
cụ Nguyễn; bên kia hoan nghênh và thực hiện các đề xướng của cụ Fuku. Thực ra,
hai ông vua này nhất thiết phải sinh ra – cùng với hoàn cảnh xã hội thời đó –
vì đó là di sản tất nhiên của hàng trăm năm lịch sử trước đó.
Ở Việt Nam, đó là thời chia cắt đất nước (Trịnh-Nguyễn phân
tranh), ở phía bắc là tình trạng “vua Lê – chúa Trịnh” với ý thức hệ Nho giáo
ngày càng lạc hậu và trì trệ, nhưng rất kiên định. Suốt 200 năm, vua Lê giữ
đúng thân phận với vua Tàu, khi gặp nguy nan vua Lê Chiêu Thống lại sang cầu
cứu Tàu: Đó là sự kiên định ý thức hệ. Còn ở phía Nam (dưới quyền các chúa
Nguyễn) việc học phát triển chậm chạp, đã vậy nội dung học càng lạc hậu hơn.
Sau đó là nội chiến Tây Sơn – Nguyễn Ánh với 50 năm loạn lạc.
Chú thích.
Tác giả Vương Trí Nhàn khi đọc sách Việt Nam và
Nhật Bản giao lưu văn hoá của GS Vĩnh Sính (đại học
Alberta, Canada) đã trích một đoạn như sau (nói lên sự lạc hậu của phía Nam). Chu Thuấn Thuỷ (1600-1682) là một trí thức Trung quốc sống ở
thời nhà Minh bị Mãn Thanh xâm chiếm. Trong quá trình vận động phản Thanh phục
Minh, có mấy lần Chu đã lưu lạc sang Việt Nam. Chính quyền đương thời tức các
chúa Nguyễn ở Đàng Trong đã có lúc tính chuyện dung nạp ông, nhưng việc không
thành, về sau Chu sang ở hẳn Nhật, trở thành một trí thức có công giúp đỡ cho
việc đưa nước này vào một giai đoạn hưng thịnh. Trước tác của Chu Thuấn Thuỷ có
nhiều, và chắc phần chủ yếu là về nước Nhật. Tuy nhiên Chu cũng đã kịp ghi chép
những ngày làm việc với người Việt, qua tập sách mỏng An Nam cung dịch kỷ sự (Ký sự về việc phục dịch ở An Nam 1657).
Dưới con mắt
Chu, xã hội Việt Nam hiện ra với những nhược điểm cố hữu và rất khó sửa chữa.
Đó là một xã hội ít tiếp xúc với các xã hội bên ngoài. Ngay với thế giới Trung
Hoa tưởng là quá quen thì chúng ta cũng không hiểu gì. Vừa gặp Chu, các nha lại
địa phương đã giở trò hống hách, bắt người ta lạy, hỏi người ta bằng cấp gì, và
nếu bảo rằng không có bằng cấp thì lập tức coi thường. Đúng là cái bệnh quá quê
mùa và hay chấp nhặt mà ngày nay chúng ta còn bảo lưu khá đầy đủ! Đến như những
câu chuyện mà các bậc gọi là thức giả bấy giờ quây vào hỏi Chu Thuấn Thuỷ thì
phần lớn cũng là chuyện tầm thường. Sự non kém trong đời sống tinh thần của xã
hội bộc lộ ở nhiều mức độ. Thứ nhất là lối học chỉ hớt lấy những cái lạ mà
thiếu cơ sở học thuật, một sự ngây thơ trong tư duy khiến đương sự phải cười
thầm “Người quý quốc đọc những truyện như Tam quốc diễn
nghĩa hoặc Phong thần mà cả tin là thật, cứ đến đây hỏi tôi hết
chuyện này sang chuyện khác mãi không thôi. [Trong khi ấy thì lại bỏ qua không
nghiên cứu những sách kinh điển như Ngũ Kinh, Tam sử]. Tựa như bỏ vàng
ngọc mà chọn gạch đá, nhổ lúa xanh mà trồng cỏ tranh, không hiểu cái gì phải
lấy, cái gì phải bỏ ” (tr.393). Thứ hai là mê muội vì những trò mà nói theo thuật ngữ
hiện đại là văn hoá tâm linh. “Nhưng tại sao chư quân tử từ trên xuống dưới lại
cứ đến đòi xem tướng số. Hỏi thật không nhằm chỗ, đến cuối cùng không biết là
đã làm nhục Du (Tức CTT). Người coi tướng, người xem sao đông biết bao nhiêu mà
đếm cho hết. Trong tứ dân (tức sĩ nông công thương) và chín học phái
(tức cửu lưu: Nho gia, đạo gia, âm dương gia vv), họ là hạng người thấp
hèn nhất. So họ với nhà nho có đức nghĩa, khác xa một trời một vực, như đen với
trắng, như nước với lửa, hoàn toàn tương phản” (tr 392).
Dù đã kín đáo và lo phòng thân, cuối cùng người khách lạ cũng phải ghi trên mặt
giấy cái nhận xét chung mà chúng ta ngày nay đọc lại có thể rất khó chịu, song
phải nhận là không thể nói khác: “Tuy là nước nhỏ, nhưng khí kiêu ngạo, học vấn
nông cạn, kiến thức có giới hạn, tuy có thể tuyển chọn được người tài năng
trong nước Dạ Lang của mình, nhưng không tránh được vẻ ếch ngồi đáy giếng” (tr.401). Theo ghi
chú của Vĩnh Sính, “nước Dạ Lang” nói ở đây là một ẩn dụ, bắt đầu từ câu chuyện
có thật về một nước nhỏ thời Hán, trong giao thiệp với thiên hạ mắc bệnh hoang
tưởng, từng tranh luận với các sứ giả quanh chủ đề “nước Dạ Lang so với Trung
Quốc bên nào lớn bên nào nhỏ”. Dạ Lang tự đại đã thành một thành ngữ
có ghi cả trong các từ điển phổ thông như Tân Hoa, Tứ giác, chuyên để chỉ
những cộng đồng quen sống biệt lập nên không có ý thức đúng đắn về vị trí của
mình trên thế giới.
Bên Nhật, đất nước thống nhất, nhưng với tình trạng “Thiên hoàng – Mạc phủ“ về hình thức cũng giống như “vua Lê – chúa
Trịnh” ở miền bắc nước ta. Nhưng sự tương tự này chỉ là trên đại thể, còn những khác biệt lại rất cơ bản, khiến đến giữa thế kỷ 18, ở nước ta chỉ có thể xuất hiện vua Tự Đức, còn ở Nhật lại có thể xuất hiện vua Minh Trị.
Bám
lấy, tôn thờ Nho Giáo; lại chọn thứ lạc hậu nhất
Nho giáo ở Nhật đã được “bản địa hóa” khi kết hợp với Thần Đạo,
Phật Đạo và Võ Sĩ Đạo. Người Nhật dứt bỏ nó khá dễ khi tiếp cận với trào lưu tư
tưởng tiến bộ của phương tây. Nước ta không thế. Ta tôn thờ “thanh nho” rất lạc
hậu.
Khi thống nhất đất nước, vua Gia Long chỉ có thể chọn đạo Nho làm
quốc giáo, mặc dù ông vua này đã ít nhiều tiếp xúc với kỹ thuật Tây phương.
Tiếc rằng Hoảng tử Nguyễn Phúc Cảnh sớm chịu ảnh hưởng văn hóa Pháp lại mất
sớm, không có số làm vua. Khi vua Gia Long đã lên ngôi (1802), nước Pháp
vẫn cứ đề cập đến cái Hiệp Định cũ kỹ, hết giá trị, mà giám mục Bá Đa Lộc đã
thay mặt ông ký với triều đình Pháp – trong đó nước Pháp sẽ giúp quân sự để đổi
lấy đảo Côn Lôn. Mặc dù phía Pháp không hề thi hành nghĩa vụ mà nay cứ muốn có
quyền lợi, đủ khiến Gia Long cảnh giác với tham vọng. Tuy Gia Long trọng đãi
vật chất một số cá nhân sĩ quan Pháp (do giám mục Bá Đa Lộc tự tuyển mộ) nhưng
vua không cho họ dự triều chính; cụ thể mỗi cá nhân được phong tước rất cao,
bổng lộc rất lớn (cho 50 người hầu hạ), nhưng không bổ nhiệm chức vụ. Ngược
lại, vua lại tin tưởng – đặt vào vị trí trọng yếu – các nhà nho uyên thâm từ
bên Tàu sang ta (tỵ nạn nhà Thanh) và họ cũng một lòng giúp vua cai trị đất
nước và mở mang việc học. Chính do vậy, hoàn cảnh Việt Nam từ sau đó chỉ có thể
sinh ra lớp vua quan thấm nhuần đạo này. Vua Tự Đức, rất thông minh, ham học,
do vậy càng tiếp thu sâu sắc Nho Giáo. Thông minh, yêu nước, thấy rõ thế nước
lâm nguy, đức vua đã nhiều lần kêu gọi các vị cận thần và giới sĩ phu hiến kế, kể
cả khi ra đề thi (năm 1862). Vua cũng đọc kỹ các bản điều trần của cụ Nguyễn,
có bút phê nhiều chỗ và đã nhiều lần thảo luận hoặc hỏi ý kiến các vị trọng
thần trong Viện Cơ Mật… Như vậy, không thể nói rằng vua và triều đình thờ ơ
trước sự nguy nan của đất nước. Nhưng những đóng góp mà vua nhận được đều từ
cái nền Nho Giáo, dù nhiều vị quan đã từng ra nước ngoài, từng muốn đất nước
thay đổi. Bản chất sự canh tân dưới triều Minh Trị (bên Nhật) là cuộc cách mạng
tư sản thì ở nước ta còn quá xa lạ.
Chú
thích.
1-
Năm 1862, sau khi qua được kỳ thi Hội, một số thí sinh được dự thi Đình (để có
danh hiệu tiến sĩ), đề bài do đích thân vua ra. Năm đó, vua yêu cầu các thí
sinh hiến kế chống giặc Pháp, với câu hỏi như sau: “…Nam kỳ thì giặc Tây lấn cướp. Bắc kỳ thì bọn phỉ lăng loàn. Đánh dẹp
chưa ngớt, khuya sớm không yên. Tuy rằng trong triều còn có người lão thành
nhưng mà sức chẳng theo lòng. Ngoài quận còn có quan lại giỏi mà chưa thật xứng
đáng, làm cho quân mệt của thiếu, năm tháng chồng thêm. Trong, không thể sửa
sang. Ngoài, không thể đánh dẹp. Chỉ có lo lắng làm cho già nua. Đã bao lần hạ
chiếu cầu hiền, mở rộng đường nói. Khốn nỗi tài thực chưa thấy, chước hay chưa
nghe. Như qua sông lớn, ai người chèo lái? Vỗ đùi than thở, chốc lát khôn quên.
Vả chăng, đời nào chẳng sinh người tài, trong ấp mười nhà ắt có người trung
tín. Cho nên trẫm mời rộng các vị sĩ phu, khiêm tốn nghe lời kỳ dị… Cùng với ba
chước ngự nhung, chẳng qua là giữ, đánh, hòa, ba phương pháp ấy mà thôi. Nhưng
có lúc lợi cho chỗ này mà không lợi cho chỗ khác. Có việc hợp với đời xưa mà
không hợp với đời nay. Thế thì cái cơ trị loạn đều do người làm nên mà xét
trong kinh sử lại có nhiều chỗ khác nhau, giống nhau… Cho nên, trẫm mong được
nghe lời phải ngay, may ra giải được cơ nguy hiểm… Hãy vì trẫm mà trình bày hết
cái lẽ trị loạn qua các triều đại, cái lý do vì sao chính sự khi sai khi đúng
và các điều quan yếu hiện nay về các mặt tiêu tai, giẹp loạn, trị binh, chọn
tướng, tiến hiền, yên dân, chống giặc… cốt sao cho sát với sự cơ, có thể bổ ích
cho thực dụng. Để rồi, trên nhờ mệnh trời dài lâu, dưới thỏa tâm tình quần
chúng, nước nhà được trị yên dài lâu…”(3).
Đọc
các câu trả lời thí sinh (và sĩ phu nói chung), ta thấy các lời bàn rất phân tán, khiến
nhà vua lúng túng khi quyết định. Từ đó, ngày nay chúng ta càng thấy được giá
trị của các bản Điều Trần của cụ Nguyễn. Ít nhất có ba nguyên nhân khiến các đề
xuất của cụ không được thực hiện:
1) Thực chất, nội dung các bản Điều Trần là phải thay đổi chế độ, tức thay đổi ý thức hệ Nho Giáo;
2) Đã qua thời kỳ giao thương, thực dân chính thức thực hiện kế hoạch chiếm nước ta;
3) Dưới triều Tự Đức có tới 400 cuộc nổi loạn của nông dân, khiến sự tiêu hao nguồn lực rất lớn, không thể có ngân sách thực hiện “đến đầu. đến đũa” vài ba canh tân nhỏ.
1) Thực chất, nội dung các bản Điều Trần là phải thay đổi chế độ, tức thay đổi ý thức hệ Nho Giáo;
2) Đã qua thời kỳ giao thương, thực dân chính thức thực hiện kế hoạch chiếm nước ta;
3) Dưới triều Tự Đức có tới 400 cuộc nổi loạn của nông dân, khiến sự tiêu hao nguồn lực rất lớn, không thể có ngân sách thực hiện “đến đầu. đến đũa” vài ba canh tân nhỏ.
Phẩm
chất Nguyễn Trường Tộ
– Khỏi cần nói về sự hiểu biết thế giới và tấm lòng yêu nước
(đương nhiên rồi), vẫn có ý kiến cho rằng cụ Nguyễn chỉ là “trí thức
cận thần” tức là chỉ muốn lập công với vua – bằng cách tới tấp gửi vô số
“bản điều trần” trong đó lễ phép van nài vua thực hiện những gì mình mong muốn.
Trái lại, cụ Fuku là “trí thức độc lập” (có người dùng “trí thức dấn thân”), cứ
tự mình thực hiện ý đồ của mình, bắt đầu bằng giác ngộ và giáo dục dân chúng:
Mở trường, dạy khoa học; viết sách, viết báo…
– Lại có ý kiến phản bác răng nếu cụ Fuku sống ở nước Việt, cụ
cũng thất bại – vì luật lệ độc tài ở Việt Nam sẽ xử tù (hoặc xử tử) cụ ngay lập
tức – nếu cụ mở trường mà không dạy Nho Giáo, lại dạy các môn “tà đạo”. Thời
ấy, triều Nguyễn coi văn minh Tây phương là “di” (mọi rợ). Thời ấy, nước ta làm
gì có quyền tự xuất bản sách? Làm gì có báo chí để mà đăng bài?
–
Trái lại, nếu cụ Nguyễn sống ở Nhật, liệu cụ có thành công? Chưa chắc. Vì qua các Bản Điều Trần, ta thấy
những hạn chế vĩ mô trong tầm nhìn của cụ Nguyễn. Chủ yếu, cụ kiến nghị các
biện pháp – dù rất hệ thống, toàn diện – để đuổi kịp phương Tây về kỹ thuật. Kể
cả việc cải cách giáo dục cũng chỉ nhằm mục đích này. Trong khi đó, cụ Fuku
thấy rằng “kỹ thuật” và “khoa học” phương tây chỉ là biểu hiện cụ thể của một
nền văn minh mới, cao hơn hẳn và sẽ phủ định nền văn minh đang thống trị cả
chấu Á. Ngày nay, chúng ta hiểu đó là Văn minh công nghiệp (với chế độ dân chủ)
so với Văn minh nông nghiệp (với chế độ quân chủ). Tự Truyện của cụ Fuku cho
hậu thế thấy được điều này.
Hoàn
cảnh nước Nhật
Do chiến công dẹp nội loạn, một vị tướng được vua Nhật phong là Chinh di đại tướng
quân (chinh di: dẹp bọn mọi rợ) được quyền cai trị cả nước (lập ra Mạc Phủ làm tổng hành dinh,
từ năm 1192-1867), chỉ dưới vua. Từ đó, giới quân sự có địa vị cao nhất, với
tấng lớp samurai (võ
sĩ) rất đông đảo ủng hộ hết lòng. Và cha truyền con nối, không khác triều đình.
Chế độ Mạc Phủ trải 3 thời kỳ (3 dòng họ), trong đó thời kỳ cuối (gọi là Edo:
1603-1668) dài tới 265 năm. Thực chất, thời kỳ Edo – do dòng họ Tokugawa trị vì – là thời kỳ phong kiến tập quyền, chuẩn bị điều
kiện chuyển sang chế độ tư bản.
– Khi Trung Quốc (nghĩa: nước trung tâm) có địa vị trung tâm, tự
xưng là “thiên triều”, các nước xung quanh có trình độ thấp hơn, trong đó 3
nước có biển (Nhật, Triều, Việt) là khá nhất. Đây là 3 nước dùng chữ viết của
Trung Quốc, do vậy du nhập cả đạo Nho và lập ra chế độ phong kiến theo đúng
hình mẫu Trung Hoa.
Riêng Nhật, nhiều núi, ít đất nông nghiệp, bốn bề là biển… do vậy
người dân sớm dám vượt trùng khơi tìm đến các xứ lạ và có đầu óc quan sát, học
tập. Khi chủ nghĩa tư bản đi tìm thị trường, Nhật sớm tiếp xúc với Bồ Đào Nha
và Hà Lan. Đó là hai nước tư bản nhỏ bé, mạnh về thương thuyền, không mạnh về
quân sự, nên đem lại lợi ích kinh tế mà không đe dọa dùng vũ lực (so với sự
tiếp xúc của Pháp với Việt Nam). Sự say sưa học tập Hà Lan khiến nước Nhật có
một môn, gọi là “Lan Học”, rất được hâm mộ. Cuối thời Edo, Nhật đã chế tạo được
đồng hồ, có trường cho nữ sinh, có sách y học (Giải Phẫu) có Luật và có báo
chí… Đồng thời, Nhật cũng tự đóng được những con thuyền buồm (lớn nhất: 500
tấn, chở sứ bộ sang tận Âu, Mỹ), đi thám hiểm khắp các nước châu Á. Dân Nhật đã
lập nghiệp tại Hội An. Nhưng rồi tới lúc Nhật nhận ra trình độ phát triển của
mình (nước nông nghiệp) chưa đủ cao trước mối đe dọa kỹ thuật và tôn giáo của
tư bản, nhất là khi Mỹ, Pháp, Anh cũng tìm đến. Nhật bắt đầu đóng cửa. Và Mỹ đã
dùng vũ lực để ký những hiệp ước bất bình đẳng. Mâu thuẫn nội bộ khiến chế độ
Mạc Phủ bị lật đổ, triều đình lấy lại quyền lực, lực lượng tiến bộ đưa một
hoảng tử 14 tuổi lên ngôi. Đây là ông vua ủng họ duy tân, tự đặt niên hiệu là
Minh Trị.
Chú thích.
Năm 1612,
Mạc Phủ bắt thuộc hạ “thề bỏ Công Giáo” (nếu đã trót theo), năm 1616 cấm tàu
buôn nước ngoài; năm 1622 xử tử 120 người truyền giáo và người dân Nhật theo
Công Giáo; năm 1624 trục xuất người Tây Ban Nha và năm 1629 xử tử hàng ngàn
người Công giáo. Cuối cùng, chiếu chỉ Tỏa Quốc được
ban bố cấm bất kỳ người Nhật nào ra khỏi nước Nhật (đã đi thoát, bị cấm quay
về… Năm 1650,
người Cơ Đốc giáo về cơ bản đã bị thủ tiêu, và ảnh hưởng kinh tế, chính trị và
tôn giáo với Nhật Bản đã trở nên khá mờ nhạt. Chỉ có Trung Quốc,
và Công ty Đông Ấn Hà Lan, và một giai đoạn ngắn là
người Anh, có quyền đến Nhật Bản trong thời kỳ này, nhưng chỉ với mục đích
thương mại. Còn những người châu Âu khác
khi đặt chân lên bờ biển Nhật Bản đều bị giết chết mà không cần xét xử. Tóm
lại, Nhật “đóng cửa” và “diệt đạo” sớm và mạnh hơn ở nước ta. Nhưng mầm mống tư
bản đã hình thành, khác với Việt Nam.
Nước
Nhật tạo ra Fukuzawa Yukichi và chính cụ
sinh ra nước Nhật
Fuku sớm bỏ môn Lan Học, mà quay sang học Mỹ và các nước tư bản
lớn. Điều kiện xã hội cho phép cụ dịch sách khoa học và các tác phẩm chính trị
tiến bộ, viết báo, mở trường và viết sách… Sách bán rất chạy chứng tỏ trình độ
dân trí không thấp (ở Việt Nam thời đó, tới 99% dân mù chữ). Tất nhiên, khó
khăn cần vượt là không nhỏ, nhưng Fuku không cần gửi Điều Trần cho Mạc Phủ. Làm
sao bọn này “nuốt” nổi? Khi Nhật Hoàng chủ trương duy tân, triều đình nhận ra
chính Fuku đã đặt sẵn những nền móng đầu tiên… Và trọng đãi ông. Hạnh phúc cho
dân Nhật là Fuku sống lâu hơn Nguyễn Trường Tộ tới gần 30 nặm
Rốt
lại
Cụ Nguyễn bỏ Việt Nam sang Nhật chắc đâu đã làm được như Fuku, vì
cụ học không hệ thống, không thể dịch được sách giáo khoa và càng không thể
trực tiếp dạy các môn khoa học…
– Nói ngoài bài
Đó là nói về những Nguyễn Trường Tộ hiện đại. Các cụ Nguyễn Trung,
Nguyên Ngọc, Tương Lai, Nguyễn Huệ Chi, Tô Văn Trường, Hà Sĩ Phu, Nguyễn Đình
Cống (gồm cả 72 hiền sĩ kiến nghị bản Hiến Pháp tự soạn), cùng hàng trăm vị
khác… thực chất là những Nguyễn Trường Tộ hiện đại. Khó khăn mà họ đang gặp –
về đại thể – giống hệt tiền bối. Họ cũng được phép gửi Điều Trần suốt đời…
Trí thức nước ta và việc chọn ý thức hệ
Năm 1906 lần đầu tiên trên tiêu đề của một bài báo (ở Pháp) xuất
hiện từ mới toanh, trước đó chưa hề có: “trí thức”. Từ này dành cho nhà văn
Zola vì hành động cao cả và dũng cảm của ông. Cụ thể, ông đã lên tiếng phản
đối, và phản đối tới cùng, một bản án bất công do giới quyền lực áp đặt cho một
nghi can là người Do Thái. Trớ trêu, dư luận xã hội – do kỳ thị chủng tộc – đã
nhiệt liệt ủng hộ bản án phi nghĩa này. Nhà văn rất ý thức về sự nguy hiểm cho
bản thân, nhưng ông trọng công lý và sự thật hơn lợi ích riêng. Sau mấy năm
chịu đựng sự đàn áp, Zola đã thắng và trở thành một biểu tượng của trí thức. Thế
là, khái niệm trí thức ra
đời. Tuy nhiên, dẫu trước năm 1906 kho từ vựng chưa có từ “trí thức”, nhưng đã
có sẵn rất nhiều danh từ để chỉ “người có học” (ví dụ, nhà bác học, nhà khoa
học, học giả, nhà văn, nghệ sĩ, tiến sĩ…). Dù sao, họ chưa phải là trí thức.
Nhưng nếu một người “có học” – ngoài chuyện hành nghề theo chuyên môn – còn
vạch ra những bất cập và bất công của xã hội, đề xuất các biện pháp giải quyết
(nay gọi là phản biện), ông ta trở thành trí thức (trí tuệ và thức tỉnh). Hoạt
động xã hội của trí thức, đều – gián tiếp hay trực tiếp – có tác dụng nâng cao
dân trí. Đúng ra, trước 1906 đã có nhiều nhân vật mà phẩm chất cao đẹp không
kém Zola. Có điều, thời xưa chưa có từ ngữ thích hợp để gọi họ mà thôi.
Một điều rút ra: Muốn hiểu nghĩa gốc của từ “trí thức” nhất thiết
phải trở về hành vi
chống bất công, bảo vệ công lý của
nhà văn Zola. Nếu không, rất dễ vô tình (tùy tiện) hoặc cố ý làm sai lạc nghĩa
ban đầu của từ ngữ. Quả vậy, gần đây, nghĩa của “trí thức” đã được đưa ra thảo luận, vì có trường hợp bị
hiểu sai, thậm chí bị lạm dụng, bóp méo, kể cả trong các văn bản chính thống. Một sai lầm là đặt trí thức vào “đội ngũ”,
phải chăng xuất phát từ ý đồ muốn họ mặc đồng phục, xếp hàng nghiêm và sẵn sàng
nghe những khẩu lệnh?.
Xã
hội ta có trí thức từ khi nào? Chu
Văn An có phải trí thức? Các vị trọng thần dưới triều Tự Đức khi có dịp ra nước
ngoài (Pháp, Hồng Công…) đều khuyên vua thực hiện canh tân để tiến kịp thời
đại. Ví dụ, Phan Thanh Giản, Bùi Viện, Đặng Huy Trứ… Họ đã là trí thức chưa?
Thất
thủ Kỳ Hòa
– Năm 1861, đại đồn Kỳ Hòa thất thủ. Không thiếu tư liệu tham
khảo; trong đó một nguyên nhân khiến quân ta thua trận là do vũ khí quá cổ lỗ,
mà lòng dũng cảm không thể bù đắp được. Và nếu cứ thua trận liên tiếp, lòng
dũng cảm cũng chẳng còn. Trận này, quân ta nhiều gấp 8 lần quân Pháp, cầm cự
được 40 giờ. Sau 12 năm (1873) khi Pháp đánh Hà Nội, quân giữ thành nhiều gấp
20 lần quân Pháp mà chỉ sau 1 giờ đã mất thành.
Triều đình Tự Đức rất ý thức trận Kỳ Hòa là cuộc đọ sức mang tính
thắng-bại cho toàn cục trong tương lai; do vậy đã huy động tối đa mọi nguồn
lực: Số quân tham gia; số danh tướng được cắt cử, số nhân công phục vụ và số
tiền bạc đã bỏ ra… Đồn lũy Kỳ Hòa có từ lâu, nay được mở rộng, gia cố suốt 2
năm trời, được bảo vệ bằng 21 ngàn quân chính quy và 10 ngàn quân địa phương.
Điều ngược đời là – dù phải đánh công kiên – nhưng phía Pháp chỉ cần 4 ngàn
quân là đủ thắng. Càng ngược đời, dù có thành cao hào sâu bảo vệ mà quân ta vẫn
thương vong nhiều gấp 3 lần quân địch. Hơn nữa, số quân đông hơn, lại có lợi
thế về địa hình, mà chỉ cầm cự được 40 giờ là vỡ trận. Vũ khí quân ta tin tưởng
và hy vọng là voi chiến, nay nghe mà nực cười.
Từ sau trận này, Pháp hết lưỡng lự, chỉ tìm mọi cớ để chiếm thêm
đất, còn chuyện thương lượng – nếu có – chỉ là để tạm thời hòa hoãn.
– Quả vậy, ngay năm sau (1862), Pháp chiếm 3 tỉnh Nam Bộ. Hai bên
thương lượng đi tới một hòa ước,
với các điều khoản hoàn toàn bất bình đẳng.
– Năm sau nữa (1863) Nguyễn Trường Tộ gửi vua các bản điều trần
đầu tiên, nhưng chưa được chú ý.
– Trong khi đó, (cũng 1863), vua lại cử cụ Phan Thanh Giản sang
Pháp xin “chuộc” lại 3 tỉnh nói trên. Qua đó, ta thấy triều đình chưa nhận ra ý
đồ dứt khoát của Pháp: Chúng sẽ đánh rộng ra, và nếu thương lượng, phía Đại Nam
chịu thiệt, cho tới khi bị thôn tính. Khi ba tỉnh phía đông đã mất, tự nhiên ba
tỉnh phía tây thành cô lập. Quả nhiên, bốn năm sau mất nốt.
Chính hoàn cảnh lúng túng về đường lối – phân vân giữa chủ chiến
và chủ hòa – đã cho phép xuất hiện một số nhân vật có viễn kiến, dám kiên nhẫn
đề xuất và vận động nhiều người khác ủng hộ. Với thời đó, đáng gọi là trí thức.
Ba
cụ trong sứ bộ Phan Thanh Giản có phải “trí thức”?
Năm 1863, khi đã 67 tuổi, cụ Phan đưa sứ bộ sang Pháp (trợ giúp,
có phó sứ Phạm Phú Thứ, bồi sứ Ngụy Khắc Đản – đều đã vượt tuổi “tri thiên
mệnh”) để xin “chuộc” lại ba tỉnh Nam Bộ. Ba cụ đã tận mắt thấy kỹ thuật mọi
ngành (bách ban) của Pháp đã tinh xảo ở mức “tề thiên địa” (ngang Trời-Đất).
Nếu vậy, quyền của Tạo Hóa chỉ còn duy nhất là quyết định sự sống-chết của con
người mà thôi. Câu thơ trong lá sớ dâng vua đủ nói lên sự choáng ngợp của tác
giả:
Bách
ban tinh xảo: Tề thiên địa
Duy hữu tử sinh: Tạo hóa quyền
Cụ năn nỉ đồng bang (người cùng một nước) hãy thức tỉnh, tiến cho
kịp thời đại, nhưng chẳng ai tin lời cụ.
Từ
ngày đi sứ đến Tây kinh,
Thấy việc Âu Châu phải giựt mình.
Kêu tỉnh đồng bang: “mau kịp bước”,
Hết lời năn nỉ chẳng ai tin…
Như vậy, các cụ đủ tiêu chuẩn 1 của trí thức (là người “có học”:
tiến sĩ). Tiếp, khi nhận ra sự bất cập xã hội các cụ đã “năn nỉ” vua và mọi
người “mau kịp bước”. Không ai thèm nghe, thì các cụ… đau khổ. Chỉ có thế. Do
vậy, phải có thêm nhiều “giá mà”… (không tưởng) để các cụ đủ tiêu chuẩn trí thức.
Ví dụ, giá mà các cụ kiên nhẫn vận động “tới cùng” để vua và các quan khác đồng
lòng với kiến nghị của mình. Giá mà các cụ dám từ chức. Bởi vì, nếu vẫn cứ là
viên chức (dù rất cao: thượng thư = bộ trưởng) làm sao dám phản biện cấp trên?.
Giá mà các cụ trẻ lại… Trong khi đó, dù bị nghi kỵ (công giáo) cụ Nguyễn Trường
Tộ đã kiên nhẫn vận động các vị trọng thần và liên tục gửi điều trần lên vua,
kỳ tới khi vua cho gặp và cháp nhận những cải cách dễ nhất (mở trường kỹ thuật)…
Chủ
chiến có sẵn trong tâm thức. Còn chủ hòa là từ suy xét, lý trí
–
Chủ chiến. Giặc từ phương Tây xa lắc, tự tìm đến nước ta, gây sự, chiếm đất
của ta. Bọn này được sự tiếp tay của đám thầy tu đang lén lút truyền đạo. Làm
sao triều đình có thể chấp nhận cái thứ “đạo” trái với Nho Giáo (ví dụ, tín đồ
không được thờ cúng tổ tiên)? Do vậy, đương nhiên, ta phải chống lại cả hai. Tư
tưởng chủ chiến xuất phát từ tâm thức, được hình thành từ lịch sử ngàn năm
chống xâm lược. Do vậy, dễ hiểu khi phe chủ chiến chiếm ưu thế – và ưu thế
trong thời gian rất dài. Đã đành, phải chiến đấu khi chưa mất nước. Nhưng mất
nước rồi vẫn hưởng ứng lệnh Cần Vương mà chiến đấu tiếp. Kể từ trận Kỳ Hòa cho
tới khi triều đình phải ký hòa ước “mất nước” là 23 năm. Từ phong trào Cần
Vương cho tới thất bại của cụ Phan Bội Châu là 38 năm. Cộng là 61 năm. Trong
khi đó, thời gian bị thực dân đô hộ cũng 61 năm. Không thể sưng sưng nói rằng
vua quan nhà Nguyễn sẵn sàng bán nước.
Kể cũng hơi lâu, khi cụ Phan hoàn toàn thất bại giới có học nước
ta mới nhận ra: Không thể giành độc lập bằng cách đem sức mạnh (bạo lực) của
văn minh nông nghiệp chống lại sức mạnh của văn minh công nghiệp. Khoảng cách
giữa hai nền văn minh này ít nhất là 500 năm nếu cứ tự tiến hóa. Nhưng nếu học
hỏi, sẽ ngắn hơn nhiều – mà sự canh tân ở Nhật là một tấm gương: chỉ cần 50
năm. Tiếc thay, trước khi mất nước, ta chưa đủ điều kiện để làm theo Nhật. Nay
đã mất nước, ta phải tự tìm ra con đường thích hợp mà đi.
Chú thích.
Sau trận Kỳ Hòa, không còn trận nào quy mô lớn như vậy nữa, nhưng kết quả chung
thì vẫn vậy. Quân ta đông hơn, tuy cố thủ, nhưng vẫn thương vong nhiều hơn, vẫn
mất thành, mất đất. Ví dụ, khi đánh Bắc Kỳ lần 1 (1873) chỉ huy cao nhất của phía Pháp chỉ là cấp đại úy, trong tay
chưa tới 1000 lính; vậy mà chỉ cần huy động 100 tên, chỉ tốn một giờ, viên đại
úy đã chiếm được thành Hà Nội – có 2000 quân ta cố thủ – bắt sống chủ tướng
Nguyễn Tri Phương. Tiếp đó, Pháp cũng chỉ cần vài giờ là chiếm xong Hải Dương
và chỉ cần để lại 15 lính và một thiếu úy trấn giữ thành này. Thành Nam Định
tuy đã được 10 – 20 ngàn dân phu sửa sang, củng cố, lực lượng cố thủ gồm 6500 lính,
chưa kể sau đó còn có thêm viện binh; nhưng quân Pháp đã chiếm thành nhanh,
gọn, mà cả thảy chỉ có … 4 tên lính bị thương (!). Bên ta, thiệt hại 200 người,
có cả chỉ huy cao cấp.
Cũng
có trận ta chủ động đánh Pháp nhưng thiệt hại càng lớn. Trong trận tấn công
tòa Khâm sứ và đồn Mang Cá (Huế) Pháp chỉ chết 16, bị thương 80, nhưng phía ta
chết đến 1.200-1.500 (không đếm xuể). Quân Pháp phản kích chiếm được trong kho
số vũ khí gồm 812 súng thần công, 16.000 súng hỏa mai; 2,6 tấn vàng, 30
tấn bạc…
Cũng
có trận ta thắng, nếu phục kích. Nhưng chủ yếu thắng về ý nghĩa, hơn là gây
thiệt hại đáng kể cho Pháp. Đó là trận Cầu Giấy, lần 1 và 2 (cách nhau 10 năm).
Trong trận Cầu Giấy 1 (1873), 1000 quân Cờ Đen phục kích (nấp kín,
đợi sẵn) nhờ bất ngờ mới thắng được 200 lính Pháp đi lùng sục, giết được vài
chục lính và viên đại úy chỉ huy. Trận Cầu Giấy 2 (sau đó 10 năm) 3000 quân Cờ Đen phục kích 550 quân Pháp,
giết được 30 lính và viên đại tá chỉ huy. Điều bất thường là bên phục kích lại
tử vong nhiều hơn. Tuy hai trận không lớn, vẫn mãi mãi ghi vào lịch sử. Điều
thú vị là sử sách nước ta rất sẵn những thành ngữ, chỉ việc lắp vào câu văn để
nói về vai trò tích cực của nhân dân hưởng ứng quan điểm chủ chiến.
–
Chủ hòa. Ngay
khi cuộc chiến giữ nước mới bắt đầu, chưa ai đoán được những thiệt hại sẽ rất
lớn về sinh lực, vật lực, tài lực, nhưng đã có người – sau khi thấy được “các
thế lớn trong thiên hạ” – nhận định rằng với
lực lượng đang có, ta
chưa thể thắng giặc. Cần hòa hoãn, kể cả chịu thiệt, chịu nhục, để
có thời gian bảo toàn và phát triển lực lượng. Như vậy, chủ hòa ở đây khác với
chủ hàng và chủ bại. Dù đã quá muộn, nhưng đây là vẫn là những viễn kiến sáng
suốt. Trong khi phe chủ chiến rất thành kiến và kỳ thị với đồng bào công giáo –
coi họ như thù địch, nhưng phe chủ hòa có thái độ khác vì thấy được nguyên
nhân. Nếu cứ theo đuổi chủ trương này, những nhân vật như Phan Chu Trinh,
Nguyễn Văn Vĩnh, Phạm Quỳnh… sẽ xuất hiện sớm hơn và đông đảo hơn.
Ý
thức hệ
Di sản ngàn năm để lại, từ Nguyễn Trường Tộ (chủ hòa) tới Phan Bội
Châu (chủ chiến) đều mang ý thức hệ “tôn quân”.
– Cụ Nguyễn, dù coi cách học cũ là vô tích sự, cần thay đổi triệt
để; nhưng cụ vẫn viết (trong bản Điều Trần số 13):
Ngôi
vua là quý; chức quan là trọng – để vua quan tự thấy có trách nhiệm
chủ trì duy tân. Nhưng làm sao vua quan thời đó bỏ được Nho Giáo? Thực tế, phải
50 năm sau (1919) nền học cũ (cựu học) mới bị chấm dứt hẳn – mà lại do Pháp chủ
trương. Thật nực cười.
– Còn cụ Phan? Cụ đã tiếp cận tân học, đã đọc Đại Thế Luận của
Nguyễn Lộ Trạch, đã từng đàm đạo với Lương Khải Siêu, Tôn Trung Sơn… nhưng cụ
lại tôn một vị hoàng thân làm minh chủ (vua dự trữ – vua chống Pháp) để sau này
thay “vua cũ” – vua theo Pháp. Đây là đại biểu cuối cùng của phe chủ chiến, nên
cụ rất đơn độc. Sau cụ, tuy vẫn còn vài cuộc nổi dậy, nhưng chủ yếu là bột phát
– như cuộc binh biến ở Thái Nguyên, Đô Lương… Chúng rất khác với các cuộc khởi
nghĩa trước đó (có chuẩn bị, có kế hoạch, có xây dựng căn cứ địa và có gây cơ
sở trong dân…).
Đại diện cuôi cùng
và đầu tiên của 2 chủ trương, 2 ý thức hệ
Sống cùng thời, cùng là trí thức (viết hàng ngàn trang), cùng khâm
phục và kế thừa tư tưởng Nguyễn Trường Tộ, Nguyễn Lộ Trạch, cùng đọc “tân
thư”, cùng sang Nhật, và nhiều lần hai cụ đã đàm đạo với nhau, nhưng cụ
Phan Chu Trinh lại khác hẳn cụ Phan Bội Châu, cả về chủ trương (chủ hòa, thậm
chí hợp tác và học hỏi với Pháp) và cả về ý thức hệ (triệt để xóa bỏ nền quân
chủ (quân trị) để kiến lập nền “dân trị”. Đây là đại biểu tiên phong của phải chủ
hòa có ý thức hệ phù hợp với thời đại mới. Nối cụ, chính là nhóm trí thức Âu
học (Quỳnh-Vĩnh-Tố-Tốn) và vị trí thức nho học đã “âu hóa”: Phan Khôi.
Bảng
trên
– Cụ Nguyễn Trường Tộ chủ hòa để xây dựng lực lượng, khi đủ, mới
chủ chiến. Trong các bản Điều Trần, cụ từng đưa ra những kế hoạch đánh Pháp để
lấy lại các tỉnh đã mất ở Nam Kỳ. Nói khác, khi cần cụ vẫn chủ chiến. Do vậy,
trong những người kế tiếp (lúc này đã mất nước) có cả chủ chiến và chủ hòa. Ví
dụ, Cụ Nguyễn Lộ Trạch chủ trương bỏ kinh đô Huế, lập vùng kháng chiến ở Nghệ
An. Cụ Trạch là cầu nối thế hệ 1 và 2, vì sống cùng thời với cả hai thế hệ này.
Chú thích.
Trước Nguyễn Trường Tộ, chưa thể có trí thức ở nước ta. Dưới chế độ phong kiến,
mục đích học hành là để làm quan. Còn thi cử là để chọn người làm quan (phải
nhất nhất làm theo lệnh vua). Dũng cảm nhất của quan, chỉ là dám can vua và dám
từ quan. Ngay thời nay, đã là quan chức thì quá khó để kiêm trí thức. Nếu trong
quan chức có cái “mầm” trí thức, trong trường hợp can đảm nhất, có thể nó dám
mọc khi đã về hưu.
– Thế hệ 2 là giao thời giữa hai đường lối và hai ý thức hệ. Từ
giành độc lập bằng bạo động chuyển sang bằng đấu tranh ôn hòa; từ chấp nhận
quân chủ sang đấu tranh cho dân chủ. Tiêu biểu là các cụ Phan Bội Châu và Phan
Chu Trinh. Thuộc thế hệ này còn nhiều cụ khác, đều xuất thân Nho Học, nhưng
chịu ảnh hưởng sâu sắc của “tân thư”: Trần Quý Cáp, Ngô Đức Kế, Nguyễn Thượng
Hiền, Huỳnh Thúc Kháng, Nguyễn Hải Thần… Như đã nói, cụ Phan Bội Châu là đại
biểu cuối cùng của chủ trương bạo động và tôn vua. Do vậy, hầu hết các trí thức
xuất thân nho học theo đường lối của cụ Phan Chu Trinh.
– Thế hệ 3 gồm 2 loại: những vị đấu tranh trong nước và những vị
đấu tranh ở nước ngoài. Về sau, sớm hay muộn, các vị cũng về nước (muộn nhất là
Nguyễn Tất Thành). Rõ ràng, các vị nhận ra chỉ có ở trong nước mới có thể đấu
tranh thiết thực và hiệu quả, nhất là sứ mệnh nâng cao dân trí và giác ngộ quần
chúng.
Nhóm trong nước gồm các trí thức “âu học”, ngay từ đầu
đã được hưởng nền giáo dục mới. Tiêu biểu là các cụ Vĩnh-Quỳnh-Tốn-Tố và nhiều
vị khác. Ngoài ra, còn các vị có thời gian theo đuổi nho học, về sau chuyển
sang âu học bằng tự học. Điển hình là cụ Phan Khôi (tú tài nho học).
Nhóm ngoài nước,
đấu tranh với thực dân ở ngay chính quốc (Pháp), đứng đầu là cụ Phan Văn Trường
(tiến sĩ luật khoa) và các cụ khác trẻ hơn: Nguyễn Tất Thành, Nguyễn Thế
Truyền, Nguyễn An Ninh… Về sau các cụ cũng về nước đấu tranh với chính quyền
thuộc địa.
Có 2 trường hợp riêng:
1) Cụ Phan Chu Trinh, thuộc thế hệ 2, sau khi
thoát án tử hình, bị chính quyền thuộc địa đưa sang Pháp, cùng hoạt động với
thế hệ 3 và do vậy đã xảy ra “mâu thuẫn thế hệ” (với Nguyễn Tất Thành – quá cấp
tiến). Cuối đời, cụ mới về nước tiếp tục đấu tranh theo chủ trương nhất quán
của mình.
2) Cụ Nguyễn Tất Thành, thuộc thế hệ 3 (theo tuổi) nhưng trong quá
trình đấu tranh có sự thay đổi ý thức hệ, tuy chưa triệt để. Chính đây là
nguyên nhân đưa đến mâu thuẫn với thế hệ 4, đại diện là cụ Trần Phú, cấp tiến
(triệt để theo chủ nghĩa Mac-Lenin).
– Thế hệ 4. Chủ yếu sinh ở thế kỷ 20. Nhóm Nguyễn Thái Học theo
chủ nghĩa Tam Dân và nhóm Trần Phú theo chủ nghĩa Mac-Lenin (thực chất là chủ
nghĩa Stalin).
Trí thức thế hệ 2: Vẫn câu hỏi ĐỘC LẬP và CANH TÂN – cái gì
trước?
Ảnh hưởng quyết định của Tân Thư
“Tân Thư” (sách mới) thực ra là những sách có từ lâu bên châu Âu,
nhưng lại rất mới với châu Á và Việt Nam. Sách chủ yếu trong tân thư là các tác
phẩm của Montesquieu (Mạnh Đức Tư Cưu, 1689-1775) và J. Rousseau (Lư Thoa, 1712-1778); rồi các sách ra
đời muộn hơn của Khang Hữu Vy, Lương Khải Siêu và một số tác giả Nhật.
Chính là nhờ đã đọc “tân thư”, mà lớp trí thức thế hệ 2 ở nước ta như
chợt bừng tỉnh, như từ trong bóng tối bước ra ánh sáng. Thay đổi lớn nhất là
các cụ nhận ra sự lạc hậu của Nho Giáo, phải rũ sạch nó để để tiếp thu một ý
thức hệ khác hẳn mà Tân Thư giới thiệu. Nói khác, chính tân thư đã biến nho sĩ
thành trí thức. Cảm giác chung của các cụ là… càng đọc, càng ham, vì đọc đến
đâu cứ thấy “sáng” ra đến đấy.
Cụ PCT đọc nhiều (có lần chê cụ PBC đọc ít), lại từng sang Nhật,
sang Pháp (mở rộng tầm nhìn và tự trải nghiệm), cho nên cụ “sáng” ở mức cao
nhất. Đó là cụ thấy rõ sự chênh lệch về trình độ kỹ thuật và sức mạnh quân sự
chỉ là phần ngọn. Còn sự khác nhau cơ bản giữa Ta và Tây (hay Á và Âu) là trình
độ văn minh.
Nhờ vậy, cụ thấy được nguyên nhân gốc của những thất bại ở giai
đoạn chống xâm lược(khiến
ta mất nước) và tiếp đó là thất bại trong giai đoạn chống thực dân – đưa đến hết hy vọng giành độc
lập bằng vũ trang.
Chú thích.
Hiện nay, khái niệm văn minh rất rộng, nó trùm lên cả những gì tổng quát nhất
của chủ nghĩa Mác. Đến nay, loài người (sau khi bước qua thời kỳ mông muội) đã
trải qua nền Văn Minh Nông Nghiệp, với lao động chân tay và chế độ phong kiến.
Thời điểm phát minh ra máy hơi nước đánh dấu sự ra đời của nền Văn Minh Công
Nghiệp, với lao động qua máy móc và chế độ dân chủ. Đã có đầy đủ dấu hiệu cho
thấy nền Văn Minh Tri Thức đang hình thành.
Cần
có bài viết riêng về Lịch Sử Văn Minh.
Việt
Nam đứng ở đâu? Chúng chưa thoát khỏi Văn Minh Nông Nghiệp (2/3 dân sống nhờ
đất đai, nhưng đang mất quyền sở hữu).
Ngày nay chẳng có gì khó hiểu về sự khác nhau giữa ý thức hệ phong
kiến (Nho giáo) với ý thức hệ tư sản. Đó là sự khác nhau giữa hai thời đại (suy
tàn và đang lên), giữa hai nền văn minh (nông nghiệp và công nghiệp). Có thời,
ở phe XHCN mọi khái niệm tốt đẹp nếu bị gắn thêm hai chữ “tư sản” đều trở thành
xấu. Ví dụ, tự do “kiểu tư sản”; dân chủ “kiểu tư sản”… Liệu có thể coi đây là
một trong những thành công của chính sách ngu dân?
Mức
độ thấm nhuần tân thư
Tuy nhiên, mức độ thấm nhuần tân thư của mỗi người không như nhau.
Có người đọc nhiều, có người đọc ít; có người may mắn được chiêm nghiệm lý
thuyết từ thực tiễn; nhất là khi sống ở nước ngoài; thậm chí được gặp gỡ, trao
đổi với các học giả… Ví dụ, cụ Phan Chu Trinh từng có quan hệ tốt với các nhân
vật tiến bộ ở Paris, kể cả Clémenceau – người sáng tạo từ “trí thức”. Dù các
cụ đều thống nhất phải từ bỏ Nho Giáo, nhưng mức độ thấm nhuần tân thư khác
nhau, khiến các trí thức thế hệ 2 ở nước ta có biện pháp khác nhau khi hoạt
động cứu nước. Thực tế, các cụ chia thành hai phái, với đại diện là cụ Phan Bội
Châu và cụ Phan Chu Trinh (từ nay xin viết tắt là PBC, PCT).
Do vậy, đều là yêu nước, thương nòi, nhưng cái “đạo yêu nước”
không thể giống nhau ở mọi thời. Có lần, cụ PCT nhận định về cụ PBC như sau:
Ông ấy có lòng yêu nước nhưng không biết cái
đạo yêu nước (Hữu ái quốc chi tâm, nhi bất tri sở dĩ ái quốc
chi đạo)…
Cũng do vậy, chuyện “canh tân” ở thế kỷ 20 (do cụ PCT đề xuất)
cũng rất khác với “canh tân” ở thế kỷ 19 (do cụ Nguyễn Trường Tộ đề xuất).
Vẫn
chỉ là Độc lập trước hay Canh tân trước…
Ít nhiều chịu ảnh hưởng của văn minh tư bản, Trí thức thế hệ 1 có điều kiện ra đời ở nước ta, nhưng
tất nhiên vừa mỏng manh (đốt đuốc đi tìm chỉ được hai vị tạm đủ tiêu chuẩn:
Nguyễn Trường Tộ và Nguyễn Lộ Trạch) lại vừa đơn độc (rát họng năn nỉ canh tân,
chẳng mấy ai nghe), nên bất lực khi đứng trước hai vấn đề nan giải – liên quan
với nhau:
1) Có giữ được độc
lập, mới có điều kiện và thời gian kịp canh tân đất nước;
2) Có canh
tân thành công
mới có đủ sức mạnh để giữ gìn độc lập.
Thật là một nan đề đầy mâu thuẫn của thế kỷ 19 – không những cho
nước ta, mà cho cả mênh mông châu Á. Rốt cuộc, chỉ có Nhật (5% diện tích châu
Á) thoát được khỏi cái vòng luẩn quẩn nói trên.
–
Thế kỷ 20, trí thức thế hệ 2 của ta vẫn tranh cãi khi giải quyết nan đề
này. Dẫu lúc này nước đã mất (và đã mất hẳn); nhưng vấn đề vẫn là: giành lại
độc lập (rồi sẽ canh tân) hay thực hiện canh tân (để đủ sức giành độc lập).
Bằng
trực giác và từ tâm thức, lẽ ra giới trí thức phải đồng ý với cụ
Phan Bội Châu (PBC) mà cho rằng, mất nước thì trước hết là phải giành lại nước
(đánh đuổi quân xâm lược). Có độc lập, tha hồ canh tân. Cụ giải thích sự thất
bại liên tiếp của mọi cuộc võ trang chống Pháp trước kia là do chưa tuyên
truyền và gây cơ sở sâu rộng trong dân, đồng thời chưa biết tranh thủ các nước
mạnh ở châu Á (cũng từng là nạn nhân của “bọn da trắng”)… Cụ không tán thành
chuyện “hợp quần” và “vận động dân chủ” của cụ PCT, vì làm như vậy người dân sẽ
chỉ chú ý “học Pháp”, “phục Pháp” mà sao lãng tinh thần chống Pháp. Cụ viết thư
cho cụ PCT, có câu: “Than ôi! Mấy mươi năm ngụp lặn trong
ao tù nô lệ lý thuyết phong kiến, có biết đâu tới những chuyện Lư Thoa, Mạnh
Đức… Tình trạng như thế, việc hợp quần khó lắm đại huynh ạ! … Ôi dân chủ, ‘dân’
không còn nữa thì ‘chủ’ vào đâu? Lúc bấy giờ nếu đại huynh có bầu nhiệt huyết
cũng không còn chỗ thi thố nữa”. Tóm lại, theo cụ, cứ tạm gác
chuyện “dân chủ” lại.
Nhưng
bằng lý trí và cân nhắc, dưới sự hướng dẫn của ý thức hệ mới, và
hiểu được tình hình thế giới, hiểu rõ chủ nghĩa thực dân, cụ Phan Chu Trinh
(PCT) lại quan tâm canh tân. Cụ khẳng định: Võ trang, bạo động, cách gì cũng sẽ
thất bại. Trông chờ vào sự cứu giúp của nước ngoài là “ngu”. Người chủ xướng bạo
động có thể dám chết, nhưng không có quyền lôi kéo quần chúng cùng chết (vô
ích) với mình. Khi hai cụ đang thăm Nhật (1906), cụ PCT nói: “Trình
độ quốc dân Nhật Bản như thế này, mà trình độ quốc dân ta như thế kia… thì
không làm nô lệ sao được? Dân trí đã thấp, dẫu có độc lập, người
dân vẫn chỉ là đám nô lệ cho giới cai trị bản xứ – không khác chế độ phong
kiến. Cụ PCT từng viết: “Nếu chưa có tư cách quốc dân độc lập,
dẫu có nhờ cậy ở nước ngoài (để có độc lập) vẫn là
chỉ diễn cái trò “đổi chủ để làm đầy tớ lần thứ hai mà thôi”, không ích gì …”. Do vậy, cụ chủ trương canh tân.
Lời
khuyên của Lương Khải Siêu
Trong cuộc bút đàm “đẫm lệ” (1905) giữa cụ PBC và cụ Lương Khải Siêu, cụ
Phan “đẫm lệ” nói về khát vọng mưu độc lập cho đất nước. Qua sự trình bày,
nhiệt huyết có thừa, nhưng rất thiếu am hiểu tình hình thế giới; do vậy đã được
cụ Lương nói cho biết. Khi cụ Phan bộc lộ ý định nhờ Nhật giúp, cụ Lương vội
khuyên: Mưu ấy sợ
không tốt. Quân Nhật đã một lần vào nước, quyết không lý gì đuổi nó ra được. Theo cụ Lương, người Việt cũng như
người Trung Quốc, cần nâng cao dân trí (để khỏi ngu muội) và dân khí (để hết
nhu nhược) mới tạo thực lực quốc dân. “Quý
quốc chớ lo không có ngày độc lập, mà chỉ nên lo quốc dân không có đủ tư cách
độc lập. Thực lực của quý quốc là dân trí, dân khí và nhân tài”.
Qua đó, chúng ta thấy Phan Chu Trinh thật sự vĩ đại và cụ PCT chính là Lương Khải Siêu
mang quốc tịch Việt vậy! Còn cụ PBC? Phải 20 năm sau, khi cụ bị
giam suốt đời ở Huế, cụ mới nhận ra sai lầm của mình.
Tấm
gương về sự… cố chấp?
Hai cụ Phan đã ba lần gặp nhau (1903, 1904, và 1906). Hai cụ không
khác nhau về lòng yêu nước, thương nòi. Về nhiệt huyết, cụ PBC sôi sục và cảm
tính bao nhiêu, cụ PCT kiên định và lý trí từng ấy. Nhưng về cách thực hiện,
ngay lần đầu gặp nhau hai cụ đã bất đồng, vì khác nhau về cái “đạo yêu nước”.
Và càng bất đồng khi gặp nhau lần cuối (1906).
Đây là dịp gặp nhau dài nhất, sống với nhau hàng tháng trời, lúc
đầu ở Quảng Đông, rồi cùng sang Nhật, cùng đàm đạo về con đường cứu nước. Cụ
Phan Bội Châu (bị cụ PCT nhận xét là đọc ít) khi tiếp xúc với xã hội Nhật chỉ
nhìn ra sức mạnh vật chất đang nằm trong tay giới cầm quyền (năm 1905, họ thắng
nước Nga “da trắng”), do vậy cụ hi vọng cường quốc “cùng da vàng như ta” sẽ
giúp ta. Cụ viết nhiều, nhưng ít lập luận, ít phân tích tình hình, mà chủ yếu
là thiết tha kêu gọi và kích động lòng căm phẫn bọn giặc (nay đã là thực dân).
Còn cụ Phan Chu Trinh lại thấy nước Nhật mạnh là nhờ dân trí cao; đồng thời
thấy giới cai trị Nhật rất tham lam, tàn bạo – sắp thôn tính Triều Tiên (cũng
da vàng). Họ chẳng khác gì quân xâm lược Pháp đã thôn tính Việt Nam. Không thể
trông cậy.
Bất đồng càng sâu sắc khi cụ được xem kế hoạch hành động của Hội
Duy Tân mà cụ Phan Bội Châu đang thành lập. Thực chất, đây là một hội kín (ám
xã), chủ trương bạo động. Dẫu được can ngăn, cụ vẫn khăng khăng thực hiện.
Phong
trào Duy Tân và Hội Duy Tân
Nghe cái tên đã có thể phân biệt sự khác nhau. Từ Điển mở
(Wikipedia) nói rất đủ.
Phong trào Duy Tân do cụ PCT khởi xướng, nhằm nâng cao dân trí, bài trừ hủ tục, học
làm ăn, áp dụng khoa học và tự bảo vệ các quyền lợi hợp pháp. Tổng hợp lại,
phong trào muốn tạo ra một giai cấp mới: giai cấp tư sản. Cách thức thực hiện:
Ôn hòa, hợp pháp và công khai (do vậy, gọi là minh
xã).
Còn Hội Duy
Tân là
một tổ chức, bí mật (do vậy gọi là ám
xã), chủ trương gây dựng lực lượng để chống Pháp bằng bạo động.
Cả hai (Phong trào và Hội) cùng hoạt động song song. Cũng thời
gian đó, dân các tỉnh miền Trung do chịu sưu thuế cao, đã đấu tranh ngày càng
quyết liệt, xu hướng bạo động ngày càng rõ. Dễ hiểu, các vị lãnh đạo phong trào
Duy Tân không tán thành cách đấu tranh như vậy, nhưng các vị ở Hội Duy Tân (đang
ở nước ngoài) thì rất khích lệ. Khi Pháp đàn áp “vụ chống thuế”, các vị ở Phong
Trào Duy Tân bị vạ lây, còn các vị ở Hội thì an toàn. Cụ Trần Quý Cáp và nhiều
người khác bị xử theo luật Gia Long (tử hình, chém ngang lưng). Cụ Phan Chu
Trinh đang ở Hà Nội (tham gia Đông Kinh Nghĩa Thục) cũng bị triều đình gán tội
(án tử hình). Thoát án, cụ càng không tán thành cách đấu tranh bạo động, vì
chắc chắn sẽ thất bại, mà còn đưa đến cái chết vô ích cho rất nhiều người.
Phân
biệt “quân xâm lược” với “bọn thực dân”
Thời hai cụ Phan hoạt động, tư bản Pháp đã hết đóng vai “quân xâm
lược”. Đó là chuyện từ nửa thế kỷ trước. Sau khi củng cố xong bộ máy cai trị ở
nước ta, tư bản Pháp đóng vai trò thực dân (colonialist), còn nước ta thành
thuộc địa (colony). Người duy nhất phân biệt được xâm lược với thực dân, chính
là cụ PCT.
Chú
thích. Trong môn Vi Khuẩn Học (Bacteriology) khi cấy một giống vi khuẩn
(bản chất là “cây”) từ môi trường này sang môi trường khác, nó sẽ sinh sôi
thành một “cụm” – gọi là khuẩn lạc (colony). “Lạc” có nhiều nghĩa, ở đây nó
cùng nghĩa lạc trong “bộ lạc”.
Áp dụng vào nông nghiệp, khi đưa một giống cây từ xứ này sang xứ
khác, người ta dùng từ “di thực” (di và thực). Như vậy, “thực” (có nhiều nghĩa,
chữ Hán viết khác nhau); còn ở đây, nó có nghĩa là trồng, cấy sang môi trường
mới.
Vận dụng vào chính trị, thực dân (Pháp) là những người (Pháp) được
“cấy” (cho mọc, sinh sôi) ở nước ta. Nói khác, đó là những người đang và sẽ
sinh cơ lập nghiệp (nhiều đời) ở vùng đất mới. Họ vẫn có quan hệ với chính
quốc, chịu sự chi phối của chính quốc, vẫn thực hiện mọi thể chế và pháp luật
của chính quốc. Để có cuộc sống không kém bên chính quốc (mà họ đã quen hưởng)
họ thực tâm xây dựng một xã hội phù hợp ở thuộc địa, trước hết dành cho chính
họ. Thực dân da trắng ở Nam Phi, hoặc thực dân Anh ở Úc, trong thời gian không
dài lắm đã phát triển đất nước này không kém chính quốc (nước Anh). Mandela –
dù sinh sau cụ PCT tới nửa thế kỷ, đã hành động giống như cụ PCT của ta. Chỉ có
điều Madela thành công, còn cụ Phan thất bại. Ở Việt Nam dưới thời thuộc Pháp
có hai thể chế: Triều đình (luật Gia Long, rất lạc hậu và tàn bạo) và thể chế
của nước Pháp áp dụng cho giới thực dân. Cụ PCT chủ trương triệt để xóa bỏ thể
chế lạc hậu, đòi thi hành thể chế của nước Pháp cho toàn dân. Muốn vậy, phải
nâng cao dân trí để dân “hợp quần” đòi hỏi dân chủ.
Nói ngoài bài. Ngay năm nay (2015) nếu ta thay Hiến Pháp XHCN bằng
HP của của nước Pháp thời cụ PCT thì sao? Có ai để tâm suy nghĩ chuyện này
không?
Có thể nói, qua chủ trương “Khai dân trí, chấn dân khí, hậu dân
sinh”, “Ỷ Pháp cầu tiến bộ” (dựa vào Pháp, mong tiến bộ) và “Chi bằng học”
(không gì bằng học”… cụ Phan Chu Trinh (PCT) là vĩ nhân duy nhất ở nước ta đã
nhìn ra “thực dân” khác với “quân xâm lược”. Bản thân hai cụ PCT và PBC đều
thoát chết là nhờ luật pháp thực dân. Chả là, chiếu theo Luật Gia Long, triều
đình ghép hai cụ vào tội “chống Vua”, phản loạn. Nói theo ngôn ngữ thời nay, đó
là “chống Nhà Nước”. Đây là tội “chắc chết”, vì chỉ càn mắc tội “khi quân” (dối
vua) đã đủ chết đứ đừ rồi. Nhưng may, về sau các cụ được xử theo “luật thực
dân” (luật của nước Pháp) và tòa án có vị trí độc lập, nên hai cụ thoát án tử.
Ý
kiến của cụ PCT về giác ngộ dân quyền
Khi cụ PCT từ Nhật chuẩn bị về nước (1906), cụ tha thiết dặn lại
cụ PBC: 1) Nên ở lại Nhật (đừng về nước thực hiện chủ trương “bài Pháp”; 2)
Tính dưỡng, giữ sức khỏe; 3) Chú tâm vào việc viết sách giác ngộ dân chớ không
“hô hào bài Pháp”. Và cuối cùng là “Chỉ nên đề xướng dân quyền, dân mà đã
biết có quyền tức mọi việc khác có thể lo tính dần dần”.
Như vậy, một cách nâng cao dân trí là làm cho dân biết mình có
những quyền gì.
Té ra, chẳng có gì khó hiểu. Nhiều viên chức trong bộ máy cai trị
của Pháp lẽ ra có trách nhiệm thực hiện những quy định về “quyền dân”, nhưng vì
lợi ích riêng, họ cứ lờ đi. Thời nay, ngay các vị đảng viên CS dù đã leo lẻo
tuyên thệ trước cờ, nhưng vì lợi ích riêng vẫn cứ vi phạm các quyền hợp pháp
của dân. Trách gì các viên chức 150 năm trước?
Những “nhóm lợi ích” trong bộ máy cai trị thời đó còn đủ khả năng
gây áp lực để các vị quan Toàn Quyền (do chính phủ Pháp cử sang) – nếu là người
tiến bộ (cản trở nhóm lợi ích lộng hành) – bị triệu hồi về nước.
Bên Pháp, có nhiều tổ chức (đảng phái) tiến bộ. Các nhân vật thuộc
các tổ chức này sẵn sàng lên tiếng nếu nhận được các tố cáo về những hành động
vi phạm. Những chính khách thuộc các tổ chức này, nếu được cử sang đứng đầu bộ
máy cai trị ở Đông Dương, đều thực thi các chính sách tiến bộ. Nhiều người muốn
để lại những thành tích và tiếng khen. Nhưng sử học Marxist cứ nhất loạt lên
án. Cụ Phan Chu Trinh phân biệt rất rõ “xâm lược” và “thực dân” nên đề xuất mộ
đường lối rất phù hợp. Trước hết là nâng cao dân
trí, trong đó cần cho dân biết mình có những quyền gì.
Có một vài bài viết của người thời nay, bàn về khái niệm dân trí và cách nâng cao dân trí,
chẳng qua là dựa vào ý kiến của cụ PCT từ 1906 mà thôi
Thứ
“sử học” lệch lạc, cực đoan
Chê gì, chê hết lời. Khen gì, khen lấy khen để. Và công khai thừa
nhận: Sử học
phục vụ chính trị. Do vậy, khi nói về thời kỳ thuộc Pháp, thứ “sử
học” này chỉ một mực lên án.
Các chủ trương hợp thời và tiến bộ của cụ PCT đã bị thứ “sử học”
này gọi là “chủ nghĩa cải lương” thì còn trông mong gì chuyện đánh giá cụ cho
công bằng?. Vậy “chủ nghĩa cải lương” là gì? Không thiếu tài liệu. Dưới con mắt
của các nhà sử học Marxist, chủ nghĩa này cực xấu, đáng nguyền rủa. Kautsky,
Bertein là những lãnh đạo kỳ cựu của Quốc Tế CS II, rất thân thiết với Engels,
và hơn Lenin hàng chục tuổi. Khi hai vị này chủ trương đấu tranh hợp pháp, hòa
bình, trong xã hội tư bản để cải thiện quyền lợi cho công nhân, đã bị Lenin coi
là theo “chủ nghĩa cải lương”. Một vị bị Lenin gọi là “tên phản bội”, cụ kia bị
gọi là “tên xét lại”. Sách báo của đảng ta cũng có (nhiều) bài về hai “tên”
này. “Chúng” cùng một duộc với cụ PCT.
Nếu
chúng ta chỉ rảnh rỗi 60 phút…
Thời
nay, nên đọc gì để tạm đủ hiểu các cụ PBC và PCT?
Bài 5 này, dù có “tóm” cách nào cũng không tránh được dài dòng, mà
vẫn thiếu. Nếu trong bài, tư liệu đã không mới, lại chẳng có nhận định gì mới,
lại càng vô duyên. Nhưng nếu chúng ta chỉ có thể dành ra 60 phút, với yêu cầu
“tạm đủ để hiểu tổ tiên” thì có lẽ – ngoài wikipedia – có hai bài đáng
đọc (và sẽ thấy
cần biết ơn tác giả của hai bài này).
–
Một bài giúp ta thấy được sự khác nhau giữa hai cách thức cứu
nước, trong đó cách của cụ PCT là phù hợp, lẽ ra cần áp dụng cho thời
đó. Và điều sửng sốt là nó vẫn hiệu quả tối đa nếu áp dụng cho ngay thời nay
(thế kỷ 21).
Đó là bài:
Ý nghĩa tác phẩm TÂN VIỆT NAM của Phan Châu Trinh
GS Vĩnh Sính (tháng 11, 2006; nhân 100 năm Phong Trào Duy Tân
1906-2006)
http://www.diendan.org/
– Một
bài khác, cho
thấy cụ PCT có cả một cương
lĩnh. Điều kinh ngạc là cương lĩnh này vẫn còn phù hợp và
tiên tiến ngay ở thời đại chúng ta. Nói khác, nó phù hợp và tiên tiến hơn tất
thảy những “cương lĩnh” đã và đang có mặt ở nước ta.
Đó là bài: Cương lĩnh chính trị của Phan Châu Trinh,
tác giả: Mai Thái Lĩnh.
http://www.chungta.com/
Hai cụ Phan để lại những gì
Về vai trò lịch
sử của hai cụ Phan Bội Châu và Phan Chu Trinh (xin viết tắt là PBC và
PCT) và quan hệ giữa hai cụ với nhau… đã có nhiều bài rất
giá trị và trung thực. Nếu ít thời gian, muốn đọc ngắn để hiểu tương đối đầy đủ
và gần sự thật nhất (so với sách Giáo Khoa), thiết tưởng, có 2 tài liệu đáng
đọc:
1) Thử nhìn lại
vị trí của Phan Bội Châu và Phan Châu Trinh trong hành trình dân tộc vào
đầu thế kỷ XX
2) Phan Bội Châu và
Phan Chu Trinh
Còn bài này, cố điểm qua những di sản tinh thần mà hai cụ để lại.
– Trước hết, các cụ để lại nhiều
cách yêu nước.
– Tiếp, là những bài học lịch sử.
– Sau nữa, là một sứ mệnh trao lại;
– và cuối cùng, là nỗi trăn trở (sự
nghiệp dở dang, hoặc thất bại).
ĐỂ LẠI NHIỀU CÁCH YÊU NƯỚC
Dù bạo động hay ôn hòa: Vẫn là yêu nước
– Hai cụ sống
cùng thời. Giống nhau rất nhiều: Cùng xuất thân nho
giáo, cùng có 20 năm tranh đấu, cùng mang trên đầu bản án tử hình. Rất hiểu chủ
trương của nhau, tranh luận nhưng vẫn thân thiện và tôn trọng nhau. Khác
nhau chỉ là cách tranh đấu: Bạo lực và ôn hòa; nhưng đây là sự khác
nhau giữa Lửa và Nước. Tranh luận giữa hai cụ có ảnh hưởng rất lớn tới sự chọn
con đường, chọn cách hành động của giới trí thức yêu nước đương thời. Dần dần,
họ chia thành hai phái.
– Dù vậy, hai cụ
đều tuyệt đối yêu nước.
Cụ Phan Bội Châu từ đầu cho rằng “hễ còn một tên xâm lược trên đất
nước ta, ta phải chiến đấu quét sạch chúng đi”. Đây là suy nghĩ rất thông
thường không những của giới sĩ phu – mà cả của dân thưởng – sống ở một nước
nhược tiểu, ngàn năm nơm nớp lo bị xâm chiếm. Nhưng thực tế, diễn biến lịch sử
đã vượt tầm nhìn của cụ Phan Sào Nam.
Còn cụ Phan Chu Trinh? Cụ hành động theo cách chưa từng ai nghĩ,
chưa từng có. Nhưng xuất phát từ viễn kiến: Cụ coi nước ta bị áp đặt một chế độ
tiến bộ hơn chế độ phong kiến, thực tế là ta không thể dùng sức mạnh chống lại
(sau 30 năm đã “thử chống”). Dù mục đích của thực dân là khai thác thuộc địa, nhưng cụ còn thấy nó có cả tác dụng khai
hóa nữa.
– Điều tất nhiên là giới trí thức yêu nước thời đó
(thế hệ 2) cũng ngả theo quan điểm – này hoặc kia – của hai cụ mà chọn cách đấu
tranh. Hoặc là hoạt động bí mật (nếu định dùng bạo động), hoặc là công khai (ôn
hòa). Dù vậy – theo gương hai vị đứng đầu – họ vẫn gần gũi, đoàn kết. Nhiều
người thực thi cả hai cách, tùy hoàn cảnh. Nhiều vị trong Hội Duy Tân (ám xã)
vẫn tham gia một số hoạt động của minh xã Duy Tân. Ví dụ, cụ Nguyễn Hàm là nhân
vật số 2 trong Hội Duy Tân vẫn giúp tiền bạc cho Phong Trào Duy Tân thực hiện
“hậu dân sinh”. Cụ Lương Văn Can sáng lập Đông Kinh Nghĩa Thục (ôn hòa), nhưng
lại cho con (Lương Ngọc Quyến) sang Nhật và Tàu học quân sự, sau trở thành
người khởi xướng cuộc bạo động ở Thái Nguyên. Nhiều người lúc đầu theo đường
lối bạo động, sau chuyển sang ôn hòa. Và ngược lại, cụ Nguyễn Thượng Hiền
chuyển từ ôn hòa sang bạo động. Tình hình ở Nam Bộ cũng tương tự, góp 50% nhân
sự cho phong trào Đông Du. Không bao giờ các vị trong hai phái mâu thuẫn tới
mức để thực dân có thể lợi dụng.
Chú thích
Có
thể nói hai cụ Phan là tác nhân tạo ra hai dòng chủ lưu trong phong trào yêu
nước của trí thức đầu thế kỷ 20: Bạo lực và ôn hòa; liên quan tới hai nhiệm vụ
cách mạng độc lập dân tộc và tiến bộ xã hội. Hai dòng này lúc đầu còn hòa quyện
nhau, sau cứ dần dần tách xa nhau. Dòng của cụ PBC cuồn cuộn đầy sóng dữ, có
sức phá hoại mãnh liệt, nhưng thực dân – với sức mạnh vượt trội – đã xây dựng
được cơ sở vưng chắc cho chế độ cai trị, có đủ sức chế ngự dòng chảy này. Sau
khi va đập nhiều lần, năng lượng của dòng này cạn dần… Năm 1918, cụ Phan chuyển
sang đấu tranh ôn hòa. Thay thế cụ, chỉ có một người xứng đáng: Nguyễn Ái Quốc.
Cụ này, tuy chủ trương bạo lực nhưng vẫn tiếp thu nhiều biện pháp ôn hòa. Trớ
trêu là cụ Ái Quốc tạo ra thế hệ 4 cực kỳ bạo lực, khiến số phận cụ cũng rơi
vào tình cảnh trớ trêu…
– Nhưng điều bất ngờ là chỉ sang thế hệ 3, sự khác
nhau về đường lối (bạo động và ôn hòa) đã đưa đến mâu thuẫn nặng nề, chia rẽ;
tới mức chỉ trích, lên án và kỳ thị nhau (Lê Dư, Nguyễn Bá Trác… bị coi là
“phản bội”, Phan Bá Ngọc bị ám sát). Bất ngờ lớn nhất, là tới thế hệ 4 và 5 mâu
thuẫn càng cực đoan. Khi giành được chính quyền, phe bạo động đã đối xử tàn bạo
với phe ôn hòa. Ví dụ, cụ Bùi Quang Chiêu, Dương Văn Giáo… bị giết ngay khi ta
cướp chính quyền ở Nam Bộ (1945). Nội bộ phái bạo động lại càng khó dung hòa
nhau; ví dụ vụ Tạ Thu Thâu, Phan Văn Hùm… Trớ trêu là cùng yêu nước, nhưng
không thể chấp nhận nhau. Cụ Hồ từng nhận định: Ngô Đình Diệm, Tạ Thu Thâu đều
yêu nước (!).
Chú thích: Các tên tuổi nêu trong bài có thể tra cứu ở Wikipedia.
– Sách “Tự phán” và sự trớ trêu lịch sử. Cuối đời, cụ Phan Bội Châu tự phê phán đường lối bạo động của
mình là sai lầm, là có tội (phung phí xương máu). Cụ không còn dịp nào xin
người bạn chiến đấu của mình tha thứ, vì ngay sau khi cụ bị thực dân giam giữ,
cụ PCT cũng từ trần. Dịp ấy, cụ PBC tỏ lòng thương tiếc, có câu “ông có thứ
(lỗi) cho tôi không”?… Nói khác, nếu được làm lại từ đầu, cụ sẽ cự tuyệt chủ
trương bạo động. Trớ trêu là vẫn có nhiều trí thức yêu nước tiếp tục con đường
này. Trớ trêu nữa là… họ thành công. Lý luận đấu tranh giai cấp là nguồn cổ vũ
rất lớn. Sự trớ trêu tiếp theo là lời cảnh báo của cụ Phan Chu Trinh té ra
không thừa: Nếu dân trí vẫn thấp thì độc lập chỉ là thay ông chủ.
Chú thích.
Trong tác phẩm Tự Phán, cụ PBC viết:
“Than ôi! Việc đời quá chừng trắc trở, cơ trời
quá khó đo lường, hy sinh oan đồng bào mà không có kết quả gì, thiệt là đại tội
cực ác của tôi, mà tôi phải muôn vàn thừa nhận.
“Vứt đầu sọ chí sĩ, hao huyết tủy nghĩa dân
không biết bao nhiêu mà kể, mà những điều sở kỷ vẫn chẳng mảy may gì như ý! Nếu
bảo tôi, lần này trở về nước Nam, chỉ có tội nặng mà không có công gì, tôi cũng
hết lời chối cãi!
Vứt thủ cấp chí sĩ, hao tủy huyết nghĩa dân: Đó là cụ nghĩ tới
sinh mạng đống chí và nghĩa quân hy sinh (theo cụ là vô ích) trong các cuộc ám
sát và bạo động do Hội Quang Phục chỉ đạo.
Con
đường bạo động của cụ PBC thất bại. Tuy nhiên, nếu cộng tất cả những thất bại
của cụ (Hội Duy Tân và Hội Quang Phục) vẫn thua xa các thất bại của Xô-viết
Nghệ-Tĩnh và Khởi nghĩa Nam Kỳ. Nếu đem so những lời tự phán ở trên với những lời
tự nhận định, tự đánh giá (rút kinh nghiệm) sau thất bại của Xô-viết Nghệ-Tĩnh
và Khởi nghĩa Nam Kỳ, thì có sự khác nhau khá rõ.
– Bài học các cụ để lại là hãy thừa nhận có nhiều cách yêu nước.
Bài học đơn giản, dễ hiểu, nhưng không dễ học. Phe bạo lực coi thực dân là kẻ
thù không đội trời chung, chỉ có thể đối xử duy nhất bằng bạo lực. Họ phải hoạt
động bí mật, dễ bị khủng bố, do vậy rất dễ nảy ra tâm lý kỳ thị, tức giận phe
ôn hòa, coi họ là nhu nhược, “cầu xin” kẻ thù, không triệt để cách mạng, mà còn
dễ trở thành cộng tác với kẻ thù. Ngay khi chưa thành công, phe bạo lực đã nghi
ngờ, rồi kỳ thị và căm ghét phe ôn hòa. Bởi vậy khi thành công họ cũng dùng bạo
lực với với phe này. Dễ hiểu, con đường bạo lực thường cực đoan, kém khoan
dung.
Chú thích.
– Khi có quyền
viết Lịch Sử, các trí thức yêu nước thế hệ 3, 4 và 5 theo con đường bạo lực
(của cụ PBC) chưa bao giờ nêu những gì mà cụ đã “tự phán”. Sách giáo khoa lại
càng như vậy. Ngược lại, họ phê phán nặng nề chủ trương ôn hòa – kể cả trong
hoàn cảnh “bạo động tắc tử”. Cụ Hà Huy Tập mạt sát nặng nề chủ nghĩa cải lương
(đấu tranh ôn hòa, dẫn đến lẫn lộn bạn-thù). Thực ra, tháng 8-1945 Việt Minh
giết hại các nhân vật Bùi Quang Chiêu, Dương Văn Giáo, Tạ Thu Thâu… mới là lẫn
lộn bạn-thù; vì không thừa nhận cách đấu tranh (hợp pháp, ôn hòa) của các nhân
vật này cũng là yêu nước. GS Trần Văn Giàu khi viết lịch sử còn chê bai cụ PBC
(đại ý) “có lúc ngả sang chủ trương cải lương“… Còn đánh giá toàn bộ hoạt
động của cụ Phan, vị GS này kết luận:thực chất là tư tưởng tư sản chứ
không phải cái gì khác.
– Câu hỏi là tại sao không một ai thuộc phe chủ
trương bạo lực dám nặng lời phê phán cụ Phan Chu Trinh (như cái cách cụ Hà Huy Tập phê
phán cụ Nguyễn Ái Quốc)?.
Ít nhất vì hai điều:
1) Khi cụ Phan bắt đầu cuộc đời đấu tranh, kẻ thù đã tặng ngay cho Cụ bản án tử hình. Đố ai dám bào cụ không yêu nước.
2) Khi cụ mất, cả nước thương tiếc, với đám tang lớn chưa từng thấy. Do vậy, ai ngu gì mà dám nặng lời phê phán cụ?
Oai như GS Trần Văn Giàu nhưng vẫn viết rất chừng mực về cụ. Nhưng sau này, những đồ đệ của cụ PCT thì không còn được phe bạo động kiêng nể gì nữa.
1) Khi cụ Phan bắt đầu cuộc đời đấu tranh, kẻ thù đã tặng ngay cho Cụ bản án tử hình. Đố ai dám bào cụ không yêu nước.
2) Khi cụ mất, cả nước thương tiếc, với đám tang lớn chưa từng thấy. Do vậy, ai ngu gì mà dám nặng lời phê phán cụ?
Oai như GS Trần Văn Giàu nhưng vẫn viết rất chừng mực về cụ. Nhưng sau này, những đồ đệ của cụ PCT thì không còn được phe bạo động kiêng nể gì nữa.
–
Cũng dễ hiểu, khi các cụ Mác và Anghen đề xuất đường lối đấu tranh giai cấp,
phe yêu nước bằng cách bạo động thấy ngay đây là vũ khi tư tưởng mà họ cần.
Cuối đời, Mac và Anghen đã tự nhận nhiều sai lầm quá tả, nhưng các đồ đệ ở Việt
Nam lờ tịt sự “tự phán” này. Cũng dễ hiểu như trên, lý luận bạo lực của cụ
Lenin càng được họ hoan nghênh.
ĐỂ LẠI NHỮNG BÀI HỌC
Bài học lớn nhất?
Không thể tham vọng nêu hết các bài học người xưa để lại. Điều đó
quá sức. Bài học chấp nhận có nhiều cách yêu nước đã nêu ở trên. Có lẽ bài học
lớn nhất từ 150 năm nay vẫn là giải quyết câu hỏi về tương quan giữa Độc
Lập và Canh Tân – như đã được đặt ta từ thời cụ Nguyễn Trưởng Tộ.
– Cuối thế kỷ 19, nền độc lập bị đe dọa. Như đã phân tích từ các
bài trước, chỉ có canh tân mới giữ được độc lập, nhưng các điều kiện xã hội –
để tiếp nhận và thực hiện canh tân – ở nước ta chưa có. Muộn mất rồi. Dẫu nước
ta có cụ Fukuzawa Yukichi, cụ cũng bó tay. Muộn rồi. Việt Nam đành chung số phận với các nước
châu Á khác: Đó là bị thôn tính. Tỷ lệ dân và đất đai ở châu Á thoát bị chiếm
đóng chỉ là 5%. Đừng nên tỏ ra “tiếc đứt ruột” để quy kết toàn bộ tội lỗi cho
triều Nguyễn.
– Sang thế kỷ 20, nước đã mất. Suốt 30 năm, mọi cuộc vũ trang
giành lại độc lập đều thất bại. Cụ PBC tiếp tục theo đuổi bạo lực thêm 20 năm
nữa, khiến bài học càng đắt giá. Chỉ còn cách canh tân, nhưng canh tân cũng
phải khác hẳn trước. Canh tân để mưu đồ độc lập lúc này phải nhằm vào dân trí,
dân khí, dân sinh…
Bài học lớn đã được của cụ PCT dạy: Dẫu giành được Độc lập nếu dân
trí vẫn thấp hèn, dân khí vẫn nhu nhược, thì nguy cơ là giới cầm quyền sẽ thành
ông chủ mới. Số phận người dân vẫn phụ thuộc vào thiện chí của giới cầm quyền.
Chú thích
– Hai khái niệm được cụ Phan Chu Trinh phân
biệt: Thầy-Trò và Thầy-Tớ. Cụ nói:
Nếu ta coi người Pháp là “thầy”, họ sẽ coi ta là “trò”. Thầy sẽ dạy, trò sẽ học
để tiến ngang thầy – xứng đáng hưởng độc lập. Ngược lại, nếu có độc lập mà dân
trí, dân khí không tương xứng để hưởng độc lập… thì nguy cơ là giới cầm quyền
sẽ xưng “Thầy”, rồi không ngớt kể công với “Tớ”.
– Hai sự kiện. Năm 1945-1946 Hồ Chí Minh coi “dốt” là giặc, chủ trương diệt
giặc dốt (trong 1-2 năm phải thanh toán nạn mù chữ cho toàn dân, Hoàng Xuân Hãn
soạn chương trình mới “biết đọc, biết viết sau 30 ngày học tập”). Thư gửi học
sinh cả nước có câu: Nước ta có sánh vai được với các cường quốc ở năm châu hay
không, phần lớn là nhờ công học tập của các cháu”.
–
Hai câu hỏi.
a) Sau 70 năm, những người chứng kiến hai sự kiện trên đến nay đã chết… gần 100%. Dân trí Việt Nam hiện nay thế nào?
b) Vì sao các quyền dân ghi trong Hiến Pháp hầu hết là “hư quyền” hoặc vẫn nằm trên giấy? Dân khí người Việt hiện nay thế nào?
a) Sau 70 năm, những người chứng kiến hai sự kiện trên đến nay đã chết… gần 100%. Dân trí Việt Nam hiện nay thế nào?
b) Vì sao các quyền dân ghi trong Hiến Pháp hầu hết là “hư quyền” hoặc vẫn nằm trên giấy? Dân khí người Việt hiện nay thế nào?
– Sang thế kỷ 21. Liệu cách mạng Việt Nam có gì khác, ngoài 9 chữ
“khai dân trí, chấn dân khí, hậu dân sinh” – khi người dân vẫn thờ ơ hoặc ấm ức
với các quyền của mình chính thức ghi trong Hiến Pháp?.
Liệu đây có phải là bài học lớn nhất từ 150 năm trước để lại?.
Những bài học cụ thể
– Thứ nhất, khi độc lập đã mất
Bài học thời hai cụ Phan là… nếu chế độ chính trị của “bọn cướp
nước” cũng chỉ ngang như chế độ của ta, ta phải chống lại, chống lại đến kỳ
cùng; không những chống từ khi chưa mất nước mà cả khi đã mất nước. Đó là bài
học từ thời Lê Lợi. Bởi lẽ, một chế độ của chúng chỉ ngang với chế độ của ta
thì mục đích xâm chiếm chỉ là khai thác, đồng hóa, kể cả diệt chủng; mà không
thể trông mong gì chuyện khai hóa, mở mang cho ta. Các cuộc chống Tống, Nguyên,
Minh là vậy. Khi Pháp xâm lược, cụ Phan Chu Trinh thấy chế độ của Pháp tiến bộ
hơn chế độ của ta, cụ chủ trương “ỷ Pháp cầu tiến bộ”. Còn cụ Phan Bội Châu gọi
Pháp là “man di”, do vậy càng phải chống lại quyết liệt.
Bước vào thế kỷ 20, ngoài chế độ tư bản, còn xuất hiện chế độ
XHCN. Thế giới chia thành 2 phe, phe này chê phe kia đủ điều. Nhưng thật sự phe
nào tiến bộ hơn? Thực tế cho thấy, cần có thời gian chiêm nghiệm. Bởi vì, trái
với lý thuyết ban đầu, khiến ta phân vân: phe XHCN sau 70 năm tồn tại đã sụp
đổ. Liệu có phải chế độ này tiến bộ hơn chế độ tư bản?.
Dẫu sao, dường như bài học thời hai cụ Phan vẫn nguyên giá trị. Và
cách xử sự theo bài học vẫn dẫn tới thành công. Vấn đề là đánh giá chế độ chính
trị của nước xâm lược. Hai minh chứng:
1) Sau năm 1945, khi Pháp – và sau đó là Mỹ – đem quân vào nước
ta, ta coi họ thuộc về chế độ “lỗi thời” và “lạc hậu” (gọi tắt là “lỗi lạc”),
do vậy ta đã chống lại. Và thành công.
2) Năm 1979, Trung Quốc xâm lược ta, chế độ chính trị của họ tuy
tiến bộ hơn chế độ tư bản, nhưng vẫn chẳng hơn gì ta – thế thì… ta phải chống
lại. Và cũng đuổi được giặc.
Sau
1979, chế độ ưu việt của ta tiếp tục phát triển – đã trên 3 thập niên – đến nay
xếp hạng nào?
– Ngày nay, sau trăm năm, chúng ta thừa “khôn hậu” để thấy rằng…
ngay khi triều đình còn huy động được hàng vạn quân cho một trận đánh; vậy mà
ta vẫn cứ thua, mặc dù trong mỗi trận số quân của địch chỉ bằng 1/5 hoặc 1/10
số quân ta. Ta thua cả khi phòng ngự lẫn khi tấn công.
– Trận giữ đồn Kỳ Hòa, ta cố thủ, có thành lũy che chắn mà thương
vong vẫn gấp 10 lần quân địch. Còn tấn công? Trận đánh đồn Mang Cá, ta chết gấp
trăm lần kẻ thù… Huống hồ các cuộc khởi nghĩa sau này: Tất cả sảy ra ở địa bàn
nhỏ hẹp, lực lượng mỏng manh, vũ khi thô sơ, làm sao chống được kẻ địch khi
chúng đã vững chân trên đất nước ta? Do vậy, lẽ ra phải từ bỏ con đường bạo
động sau khi phong trào Cần Vương đã thất bại hắn.
Chú thích
– Khi thấy các cuộc khởi nghĩa đều thất bại, cụ Phan Bội Châu cũng tự rút ra nhiều bài học:
1) Phải lập hội (đảng) bí mật, phát triển lực lượng đủ mạnh mới
khởi nghĩa (cụ lập 2 Hội, cố gắng phát triển nhiều cơ sở, gửi người ra nước
ngoài học quân sự, tìm cách liên kết với cụ Đề Thám ở Yên Thế…);
2) Phải tuyên truyền rộng rãi chủ trương, đồng thời kích động lòng
yêu nước và căm thù thực dân. Cụ viết hàng ngàn trang kêu gọi đầy nhiệt huyết,
khích lệ lòng căm thù; nay đọc lại vẫn xúc động;
3) Phải có tầm nhìn rộng. Cụ có đọc Tân Thư, có ra nước ngoài – dù
chỉ trong châu Á – tiếp xúc nhiều nhà cách mạng; do vậy có tầm nhìn rộng hơn
các lãnh tụ khởi nghĩa. Dưới con mắt cụ, tình hình thế giới khi đó là “họa da
trắng” mà nạn nhân là “da vàng”. Do vậy, cụ chủ trương cầu viện Nhật – là nước
thoát họa xâm lăng, lại còn đánh thắng Nga (da trắng).
4) Chủ trương bạo động thất bại, có thời gian cụ bị giằng co giữa
đấu tranh ôn hòa và bạo lực; nhưng đến cuối đời cụ cũng rút được bài học giá
trị nhất cho chính mình.
– Cầu qua sông Hồng khánh thành năm 1902, mặc dù khởi nghĩa Yên Thế tới tận năm
1913 mới tắt hẳn. Cụ PBC lập Hội Duy Tân, chủ trương bạo lực. Có ý kiến nói: Cứ
cho rằng đúng lúc Hội của cụ mạnh nhất, cả Hội mang cuốc thuổng, gậy gộc, gươm
giáo, súng cá nhân… hè nhau đến phá cái cầu này suốt 24 giờ (không ai ngăn
cản). Liệu có phá nổi?
– Thứ hai, chuyện Canh Tân mỗi thời mỗi khác…
Thời hai cụ Phan, canh tân khác với thời cụ
Nguyễn Trường Tộ. Chẳng cần ai “điều trần”,
“năn nỉ”, chính bộ máy cai trị của thực dân Pháp đã thực hiện nhiều và nhanh –
gấp 5 hoặc gấp 10 – những gì cụ Nguyễn Trường Tộ mơ ước.
Điều đó nói lên: 1) giới thực dân không còn phải lo lắng gì về các
cuộc chống đối của người Việt nữa. Phong trào Yên Thế chưa tắt hẳn, nhưng người
Pháp vẫn làm lễ khánh thành Nhà Hát Lớn, cầu Doumer, trường Y-Dược Đông Dương,
Nhà Đấu Xảo… 2) việc canh tân lúc này càng củng cố thêm chế độ thực dân.
– Trong hoàn cảnh này, các cụ Phan cũng có hai
cách nhìn.
Phe bạo lực cho rằng không được để Pháp có thời gian và điều kiện củng cố chế
độ cai trị. Do vậy, về tuyên truyền: Nhất thiết không thừa nhận bất cứ “công
ơn” nào của thực dân; chúng làm gì cũng là “tội ác”. Nhưng về sau, khi thấy dân
thật sự được hưởng những tiến bộ kinh tế và chính trị, các cụ chuyển sang nói:
Chẳng qua, chúng mị dân, bằng thực hiện những tiến bộ “giỏ giọt”… Cứ xem các
bài viết của cụ Phan Bội Châu và các cụ chủ chiến khác… đủ thấy.
Chú Thích
Trần Văn Giàu viết: “Hồi chiến tranh đang diễn ra ác liệt, để làm tiền, bòn lúa, bắt
lính, bắt phu, viên toàn quyền Đông Dương Albert Sarraut hứa hươu, hứa vượn,
trong đó có hứa một Hiến pháp cho Đông Dương, lại có hình ảnh son phấn của một
xứ “Đông Dương – nước Pháp Viễn Đông”. Bùi Quang Chiêu, Phạm Phú Khai, Nguyễn
Phan Long… bám vào chữ Hiến pháp đó để lập ra Đảng lập hiến Đông Dương…”14.
Thực
ra, toàn quyền Đông Dương Albert Sarraut là hội viên của Hội Tam Điểm – một hội
kết nạp những người thông thái, có tư tưởng bác ái, chủ trương tự do, bình đẳng
cho mọi người. Nguyễn Ái Quốc, Phan Văn Trường cũng vào hội này.
Phe ôn hòa cho rằng cần chấm dứt bạo động, mà nên lợi dụng sự tiến bộ của chế độ chính trị bên nước Pháp
(mà thực dân phải áp dụng ở thuộc địa) đấu tranh đòi họ thực hiện càng nhiều
càng tốt cho dân ta. Cách này, đòi hỏi kiên nhẫn, rất lâu mới đem lại kết quả;
do vậy ít được hưởng ứng, nhất là lúc ban đầu. Chính cụ Phan Chu Trinh đã tự
nhận định như vậy.
Chú thích
Vài ví dụ các chính
sách tiến bộ về báo chí chính phủ Pháp áp dụng cho Đông Dương; mà bộ máy cai trị ở đây phái thi hành (tất nhiên, nếu bất lợi
thì thực dân sẽ chần chừ hoặc không thực hiện, trừ khi có sự đấu tranh mạnh
trên cơ sở dân trí được nâng lên và dân khí bớt nhu nhược). Nói khác: Có cơ sở
để dựa vào mà đấu tranh.
Sắc
lệnh ký ngày 25-5-1881 của Tổng thống Pháp G. Grêvilơ, ghi rõ: Người Việt Nam
ở Nam Kỳ được hưởng mọi quyền công dân như người Pháp trên đất Pháp. Luật về tự do báo chí của Quốc hội Pháp (thông qua ngày 29-9-1881), cũng được ban hành cho Nam Kỳ theo
Nghị định của Toàn quyền Đông Dương ngày 12-9-1881. Sau đó, Bắc Kỳ cũng được
hưởng nhiều quyền tự do báo chí. Năm 1909 Nguyễn Văn Vĩnh ra báo Đông Cổ (yêu
nước). Năm 1936, đảng CS ấn hành công khai nhiều tờ báo cách mạng…
MỘT SỨ MỆNH TRAO LẠI
Sách, bài viết để lại của hai cụ Phan là hàng
ngàn trang.
Dưới đây, tạm kê ra một số di sản.
Tác phẩm của
cụ Phan Bội Châu
|
Tác phẩm của
cụ PCT
|
Việt Nam Quốc
sử khảo
Ngục Trung Thư
Lưu Cầu Huyết
Lệ Tân Thư
Việt Nam vong
quốc sử
Việt Nam Quốc sử bình diễn ca
Cao Đẳng Quốc Dân Di Cảo
Chủng diêt dự ngôn
Tân Việt Nam
Thiên Hồ Đế Hồ
Khuyến quốc dân du học ca
Hải ngoại
huyết thư
Dĩ cửu niên lai sở trì chủ nghĩa
(Tạm kê ra như trên)
|
Đầu
Pháp chính phủ thư (1906)
Hợp quần doanh sinh thuyết quốc am tự (1907)
Tỉnh quốc hồn ca I & II (1907)
Trưng nữ Vương (tuồng) soạn chung với Hùynh
thúc Kháng, Phan thúc Duyện (1910)
Trung kỳ dân biến thỉ mạt kư (1911)
Giai nhân kỳ ngộ (1913-1915)
Tây Hồ và Santé thi tập ! (1914-1915)
Khải Định Hoàng Đế thư (1922)
Bức thư trả lời cho người học trò tên Đông
(1925)
Đông Dương Chính trị luận (1925)
(Tạm kê ra như trên)
|
Các cụ viết toàn bằng chữ Hán
Thời nay, tên tác phẩm đã chuyển thành chữ quốc ngữ, ai cũng đọc
được. Cụ thể là ai cũng đọc được, đọc thật to, tên các tác phẩm được kê ra
(chưa đủ) ở bảng trên. Nhưng đọc lên (xướng âm) là một chuyện, còn hiểu lại là
chuyện khác. Ví dụ, thời nay liệu có bao nhiêu vị cử nhân hiểu nghĩa cái tên
tác phẩm Thiên Hồ, Đế Hồ của cụ Phan Bội Châu?. Huống hồ đầu thế kỷ 20 (cách
nay trăm năm) tới 95 hoặc 99% dân ta mù chữ – cả chữ Hán và Quốc ngữ.
Cuối đời, bị giam giữ 15 năm, cụ Phan Bội Châu mới hì hục dịch một
tác phẩm của mình sang chữ nôm, mà lại dùng thể thơ song thất lục bát. Tại sao
cụ lại làm cái việc hơi bị trái ngược (dịch văn suôi sang thơ) này? Té ra, vẫn
rất ít (và ngày càng ít) người dân biết chữ nôm, mà ngay chữ quốc ngữ cũng tới
95% dân ta bị “mù”. Cụ hy vọng, thể hiện tác phẩm của mình bằng thơ, mọi người
sẽ dễ nhớ, dễ thuộc.
Một sứ mệnh lịch sử trao lại: Phổ biến chữ quốc
ngữ
Gọi là sứ mệnh lịch sử thì không phải các bậc tiền bối (đã mất) vỗ
vai thế hệ sau (còn sống), dặn dò, chỉ bảo… Mà thế hệ sau có nghĩa vụ tìm hiểu,
thực hiện nếu muốn xứng đáng kế tục con đường yêu nước của thế hệ trước.
Dù đấu tranh bạo động hay ôn hòa, đều phải kêu gọi dân hưởng ứng.
Vậy, sứ mệnh đầu tiên, số 1 và cấp thiết mà cả hai cụ Phan thống nhất trao lại:
Chính là phổ biến chữ quốc ngữ – thứ chữ dễ học gấp trăm học chữ nho. Tiếp đó
là nâng cao cách diễn ngôn… để mọi người thấy thứ chữ này cũng vạn năng, đáng
yêu, đáng sử dụng.
Nhóm kế tục tiêu biểu nhất
Đó là bộ ngũ: Vĩnh-Quỳnh-Tốn-Tố-Khôi. Họ xứng đáng tiêu biểu, đại
diện cả một thế hệ trí thức, vì họ có công nhất. Họ thuộc phái ôn hòa. Khi họ
bước vào đời, chế độ thực dân đã vững chân ở Đông Dương, chuyện cộng tác với
giới cầm quyền là không tránh khỏi, miễn là không cộng tác trên các lĩnh vực
phương hại đến lợi ích lâu dài của dân tộc.
Họ thuộc thế hệ 3; tiếp tục con đường yêu nước cách ôn hòa. Như đã
nói, những trí thức (cũng yêu nước) – nhưng theo con đường bạo lực – không ưa
họ. Tuy nhiên, sự nghiệp của thế hệ này thật là đồ sộ, lớn lao. Cứ so sánh văn
phong của hai cụ Phan (không viết báo) với văn phong quốc ngữ ở báo chí trước
1945; đủ rõ. Muốn đánh giá họ một cách công bằng, cứ tìm hiểu và phân tích
những gì cho chính họ đã viết ra.
Nhãn quan thế hệ 6
Lợi thế của thế hệ này (nếu không bị nhét vào đầu xu thế ủng hộ
chủ trương bạo động) thoát khỏi cái vòng kim cô của những thành kiến chính trị.
Như mọi cuộc thám hiểm địa lý, họ chỉ duy nhất dựa vào văn bản, câu chữ.
Tạm đưa ra một bài của trí thức thế hệ 6: Ảo tưởng Phạm
Quỳnh
Xin nhớ: Bài này, cũng như mọi bài khác, kể cả bài của Marx,
Berstein… hay bất cứ ai, đều có thể thảo luận – chỉ dựa vào nội dung, câu chữ
và hoàn cảnh ra đời.
ĐỂ LẠI NỖI TRĂN TRỞ
Cuối đời, cụ Phan Chu Trinh không có gì phải áy
náy về con đường đã chọn. Nếu tiếc, có lẽ cụ chỉ tiếc rằng không thọ
thêm để đi xa hơn, nhanh hơn trên con đường này. Nhiều người thời nay cũng tiếc
như vậy. Nếu cụ cũng thọ như cụ Phan Bội Châu, có lẽ Hiến Pháp nước ta không
ghi cái câu:
Ở nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các quyền
con người về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hoá và xã hội được tôn
trọng, thể hiện ở các quyền công dân và được quy định trong
Hiến pháp và luật (Điều 50; Hiến pháp 1992)
Ô hô! Quốc hội nước XHCN vẫn lẫn lộn quyền con người với quyền
công dân! Phải 21 năm sau (sang thế kỷ 21) mới phân biệt được ở Hiến Pháp
2013.
Còn cụ Phan Bội Châu thì khác
Sau những thất bại đau thương do bạo động, cụ tự phán:
“Than ôi! Việc đời quá
chừng trắc trở, cơ trời quá khó đo lường, hy sinh oan đồng bào mà không có kết
quả gì, thiệt là đại tội cực ác của tôi, mà tôi phải thiên vàn thừa nhận.
“Vứt đầu sọ chí sĩ, hao huyết tủy nghĩa dân
không biết bao nhiêu, mà những điều sở kỷ chẳng mảy may gì như ý! Nếu bảo tôi
Nam hồi lần này chỉ có tội nặng mà không công gì, tôi cũng hết lời chối cãi!
“Mục đích của tôi là thừa cơ hội đảng cách mạng
Tàu thành công, mượn tay người Tàu xoay chuyển một cuộc mới khác. Tuy nhiên sau
việc mà nghĩ lại thì kế họach này cũng ngông quá. Vì ở trong không có một
tổ chức thực lực gì, chỉ trông chờ ngọai lực, điều gì cũng cậy vào lưng người.
Xưa nay Đông Tây các nước, không một đảng cách mạng nào chỉ là đoàn ăn mày các
nước mà làm nên công được.”
(Tự Phán).
Đối với người
bạn chiến đấu, cụ viết (khi được tin bạn mất):
“Than ôi! Ông có thứ cho tôi chăng?
Lúc ông [từ Nhật Bản] về nước [1906], tôi tiễn chân ông đến Hương
Cảng, ông cầm tay tôi dặn mấy lời sau hết: ‘Từ thế kỉ 19 về sau, các nước tranh
nhau ngày càng dữ dội, cái tính mạng một nước, gửi trong tay một số người đông,
chứ không thấy nước nào không có dân quyền mà khỏi mất nước bao giờ. Thế mà nay
Bác lại còn dựng cờ quân chủ lên hay sao?’ Ông nói thế, lúc bấy giờ tôi chưa có
câu gì đáp lại, nay đã hơn 20 năm rồi, lời ôn càng lâu, càng nghiệm.
Tôi mới biết cái óc suy nghĩ cùng cái mắt xem xét của tôi thiệt
không bằng ông!
Phỏng ngày nay ông còn sống thì cầm cờ hướng đạo cho chúng ta, hẳn
phải nhờ tay ông mới được.
Than ôi! Ngày nay những kẻ cúng vái ông, kính mến ông, có phải là
chỉ ngắm tượng ông, đọc văn ông góp nhặt năm ba câu làm bộ ái quốc, ái quần đầu
miệng mà thôi ư? Phải biết rằng ông Hi Mã mà được danh tiếng lưu truyền với sử
xanh là vì ông có chủ trương thiệt, tinh thần thiệt”.
Nguyễn Ngọc Lanh
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét