Thứ Tư, 21 tháng 9, 2016

Từ Nguyễn Trường Tộ tới bộ ngũ: “Vĩnh - Quỳnh - Tốn - Tố - Khôi” 1

Từ Nguyễn Trường Tộ tới bộ ngũ: 

“Vĩnh - Quỳnh - Tốn - Tố - Khôi” 1

Nguyễn Trường Tộ
Ba thế hệ trí thức với hoài bão nâng cao dân trí
Cụ Nguyễn Trường Tộ và “bộ ngũ” sống cách nhau tới hai thế hệ. Trong khoảng thời gian 50 hoặc 60 năm ấy, chen vào giữa họ, là thế hệ các cụ Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh. Không ai thật sự có quyền lực trong tay. Các cụ được trọng vọng là do những gì tích lũy trong óc. Có uy tín là nhờ thái độ đối với xã hội, nhân quần. Sản phẩm của mỗi người đều chỉ là những suy nghĩ, do tự mình thể hiện trên giấy – mà không thể nhờ vả làm giúp, hoặc sai bảo ai làm thay…
Tất cả các vị này đều sinh ra từ thế kỷ 19 – cách nay hàng trăm năm, nhưng các vị đều là trí thức đúng nghĩa – mặc dù đầu thế kỷ 20 mới có khái niệm “trí thức để có thể phân loại “người có học” khác trí thức ở chỗ nào. Đó là những người vừa “có học” lại vừa có tư duy phản biện xã hội. Chính do tư duy phản biện, họ bị chế độ thực dân và phong kiến – nói chung là những chế độ độc tài – kỳ thị, cảnh giác, kể cả lên án, thậm chí bị lên án từ nhiều phía. Nhưng tất cả đều bất khuất và sử dụng phương thức phù hợp để thể hiện lòng yêu nước và thực hiện hoài bão nâng cao dân trí. Thời nay, con cháu Phan Chu Trinh và “bộ ngũ” – thế hệ thữ năm – vẫn tiếp tục sự nghiệp cha ông.
Đại diện ba thế hệ trí thức với hoài bão nâng dân trí (thời kỳ giữ nước và mất nước)
Thế hệ
Tên
Năm sinh
Biện pháp chính
1
Nguyễn Trường Tộ
1830-1871
Canh tân đất nước. Khuyên dùng chữ Nôm
2
Phan Bội Châu
1867-1940
Xây dựng lực lượng, kết hợp giác ngộ người dân
2
Phan Chu Trinh
18721926
Nâng cao dân trí
3a
Nguyễn Văn Vĩnh
Phạm Duy Tốn
Nguyễn Văn Tố 
Phạm Quỳnh
1882-1936
18831924
18891947
18921945
Phổ biến chữ quốc ngữ
Cải tiến ngôn ngữ Việt
Tiếp thu tinh hoa nhân loại
Nâng cao dân trí
3b
Phan Khôi
1887-1959
Phản biện xã hội, nâng cao dân trí
Chuyển giao thế hệ. Dựa vào các tư liệu chính thức, có thể nói:
– Từ khi thực dân Pháp nổ súng đánh Đà Nẵng, nền độc lập nước ta bị đe dọa nặng nề, nhưng vẫn còn cơ may cứu được – nếu kịp canh tân theo các kiến nghị của Nguyễn Trường Tộ. Nhiều ý kiến đồng tình với nhận định này. Thời cơ bị lỡ, triều đình chỉ còn cách dốc toàn lực chống ngoại xâm, nhưng thất bại có thể đoán trước. Trước sự bành trướng của chủ nghĩa tư bản, tất cả các nước nông nghiệp lạc hậu – như nước ta (trừ Nhật, kịp canh tân) – đều rơi vào tay thực dân. Vậy, thử hỏi: Các cuộc khởi nghĩa riêng lẻ ở nước ta – rất trơ trọi – làm sao có thể thành công, cho dù rất anh hùng, dũng cảm?
– Khi thực dân Pháp đã đặt được nền móng cai trị vững vàng, đa bắt đầu thực thi các chương trình khai thác và xây dựng dài hạn, dẫu Phan Bội Châu – với tầm nhìn rộng hơn những người đi trước (Đông du, gây dựng lực lượng kết hợp giác ngộ người dân) – vẫn không thể thành công. Mọi người nhận ra: Con đường bạo động chỉ đưa đến thất bại. Do vậy, cùng thời với Phan Bội Châu, từ rất sớm, Phan Chu Trinh chủ trương đấu tranh ôn hòa, với phương châm và biện pháp: Khai dân trí, chấn dân khí, hậu dân sinh. Đến nay, được nhiều người coi là phù hợp.
– Thế hệ trí thức tiếp nối xứng đáng của cụ Phan Chu Trinh – ngoài các đồng chí từ Pháp về nước – thì điển hình là “bộ tứ” (Âu học) và Phan Khôi (Hán học âu hóa). Xếp họ thành “bộ ngũ” sợ rằng hơi bị khiên cưỡng.
Nguyễn Trường Tộ: Cách làm đúng, không gặp thời?
Từ điển mở wikipedia coi cụ Nguyễn Trường Tộ là danh sĩ, chí sĩ. Đó là sự tổng kết những gì cụ đã thực hiện – thành công và thất bại – trong cuộc đời ngắn ngủi của mình. Có lẽ chỉ hai việc là có kết quả thiết thực, tồn tại đến nay:
– Thiết kế và chỉ đạo xây một tu viện, do vậy được xem là “kiến trúc sư”. Wikipedia ghi như sau: Trong quãng thời gian năm 18621864, bằng sự hiểu biết của mình, ông đã thiết kế và chỉ đạo việc xây cất ở Sài Gòn tu viện Dòng Thánh Phaolô (nay ở số 4 đường Tôn Đức Thắng). Đây là một công trình kiến trúc theo kiểu châu Âu có quy mô và có giá trị bền vững cho đến tận ngày nay.
– Giúp việc đào kênh. Truyện “Sự tích ông Nguyễn Trường Tộ” kể:
Năm Tự Đức 19, Bính Dần (1866), ngũ nguyệt (tháng 5), Bộ sai quan Tổng đốc Nghệ An là Hoàng Tá Viêm ra đào Kênh Sắt… Người viết thư cậy ông Tộ đi khám xem hình đất, thế đất, chỉ lối cho mà đào… Kênh hoàn thành, ông Tộ có làm bài thơ mừng Kênh Sắt .
– Còn việc dành cả đời để làm: đã thất bại. Đó là kiên trì dâng vua mấy chục “bản điều trần” đưa ra những kế sách chấn hưng đất nước, mong giữ được độc lập tự chủ, trong khi thực dân đã đi qua giai đoạn giao thương, thật sự chuyển sang giai đoạn vũ trang xâm lược (1858). Vậy có còn cơ hội canh tân hay không? Số bài viết về cụ Nguyễn dù đã rất nhiều, nhưng chuyện này vẫn phải bàn tiếp.  
Hoàn cảnh và thời thế
Nếu coi năm 1850 là trung điểm của thế kỷ 18, thì cụ Nguyễn Trường Tộ sinh trước đó 21 năm (1829-1830) và mất sau đó 21 năm (1871). Đây cũng là thời gian quân Pháp và Tây Ban Nha đánh Đà Nẵng nhưng không thành công (1858), chúng kéo vào Nam Bộ, chiếm của ta ba tỉnh miền Đông (1862). Ngay sau sự kiện này, ba bản điều trần quan trọng nhất của cụ Nguyễn đã được gửi lên vua (1863). Tiếp đó, Pháp chiếm nốt 3 tỉnh miền Tây (1867)… Cụ từ trần 2 năm trước khi Pháp kéo ra xâm chiếm Bắc Bộ (1873). Tóm lại, các kiến nghị canh tân của cụ được viết khi tiếng súng xâm lược đang lan rộng cả nước. Câu hỏi là trong hoàn cảnh như vậy, nếu triều đình thực hiện ngay tất cả mọi kiến nghị của Nguyễn Trường Tộ, liệu nước ta có thoát được ách thực dân?
Thực tế, triều đình chỉ lo thương lượng “chuộc” lại các tỉnh đã mất và khi nhận ra dã tâm xâm lược của thực dân, thì sự phòng thủ hoàn toàn thụ động và bất cập. Đã có lần vua Tự Đức tiếp kiến cụ, nhưng hầu hết các kiến nghị không được thực hiện, thậm chí không được phúc đáp. Duy có một kiến nghị tưởng sẽ thành hiện thực là mở trường kỹ thuật ở Huế khi cụ cùng giám mục Gauthier được triều đình cử đi Pháp mua sắm sách vở, tài liệu và mộ giảng viên. Rút cuộc cũng thất bại.  
Theo wikipedia, ngày 10 tháng 1 năm 1867, phái đoàn đáp tàu L’orne đi Pháp. Trong 8 tháng ở đây, họ đã mua sách vở, dụng cụ, máy móc…để lập trường học kỹ thuật ở Huế. Ngoài ra, Giám mục Gauthier cũng đã tới Bộ Ngoại giao Pháp, Bộ Hàng hải và Thuộc địa Pháp để xin tài trợ cho các chương trình của mình; đồng thời tiếp xúc với một số thương gia và kỹ nghệ gia người Pháp. Ngày 25 tháng 11 năm 1867, phái đoàn trở về Việt Nam. Ngày 29 tháng 2 năm 1868, phái đoàn về tới Huế. Cùng theo về còn có hai Linh mục, một giáo dân (bác sĩ Hemaiz5) và một người thợ máy (tất cả đều là người Pháp, và đều do Giám mục Gauthier vận động được). Sau khi xem xét các thứ mua về cho trường học và các thứ mà Bộ Hàng hải Pháp gửi tặng, vua Tự Đức cho phép Giám mục Sohier được xây trường học kỹ thuật trên mảnh đất đã đề nghị (nằm giữa nhà thờ Kim Long và Tòa Giám mục Huế). Theo tờ tấu của Viện Cơ mật đề ngày 4 tháng 3 năm 1868, thì sau đó các thành viên trong đoàn đều được nhà vua ban thưởng tiền và lụa…
Nhưng rồi trường vẫn không mở được. Tại sao? Có hai khả năng, chưa rõ cái nào là thực: 1) triều đình thủ cựu, hủ bại; 2) gác lại vì những việc khác khẩn cấp hơn.
Trình độ, tầm nhìn
– Từ nhỏ, học chữ Hán, tuy không đỗ đạt, không bằng cấp (có ý kiến cho rằng cụ thuộc gia đình nhiều đời theo đạo Thiên Chúa, do vậy bị cấm dự các khoa thi), nhưng cụ vẫn đủ trình độ dùng thứ chữ này viết rất nhiều bản Điều Trần lên triều đình đề nghị những cải cách mà cụ cho là cần thiết để canh tân đất nước.
– Được một giám mục dạy tiếng Pháp, được ra nước ngoài nhiều lần, cụ đủ trình độ phiên dịch cho những cuộc tthương lượng Việt-Pháp giữa các nhân vật cao cấp đại diện triều đình với các tướng lĩnh quân đội đại diện nước Pháp. Cụ cũng dịch các văn bản và sách chữ Hán sang chữ Pháp. Nhưng quan trọng hơn, cụ tự nâng tầm hiểu biết và tầm nhìn cao và rộng hơn hẳn các sĩ phu và vua quan trong nước. Điều kỳ lạ, cụ là người duy nhất ở nước ta nhìn ra xu thế của thời đại, trong đó văn minh công nghiệp sẽ chinh phục và thay thế nền văn minh nông nghiệp. Số bài viết về khát vọng canh tân đất nước và sự tiếc nuối do chưa gặp thời của nhân vật này quả là không thiếu.
Thời nay, ai cũng thấy một điều hiển nhiên; đó là… từ cách nay 150 năm, các nước tư bản chủ nghĩa đua nhau đi tìm thuộc địa với sức mạnh của công nghiệp, thì khó mà nước nông nghiệp nào chống lại được – nếu không kịp thời canh tân. Cuối cùng, thoát ách thực dân chỉ có NhậtSợi chỉ xuyên suốt là: Vứt bỏ chủ nghĩa Khổng-Mạnh (đã trở thành phản động), mở rộng cửa, mở rộng giao thương, đón nhận nền văn minh mới, đồng thời lấy đó làm phương tiện canh tân toàn diện đất nước. Tóm lại, chế độ phong kiến Nhật Bản diễn biến hòa bình một cách ngoạn mục sang chế độ tư bản. Cụ thể, đó là chế độ quân chủ có hiến pháp – mà sau này cụ Phạm Quỳnh ở nước ta theo đuổi.
Nguyễn Trường Tộ có thể so sánh với thủ tướng Okubo Toshimichi (1830-1878) – một trong ba người (tam kiệt) nhìn xa trông rộng ở Nhật, và sinh cùng thời với Nguyễn Trường Tộ. Điều khác nhau là khi Okubo Toshimichi đã là thủ tướng, có đủ quyền trong tay để thực hiện mọi dự định, thì cụ Tộ còn phải hồi hộp chờ triều đình phán xét những đề nghị – với văn phong thừa lễ độ – của mình.
Xin hãy xem, và sẽ kinh ngạc biết bao về bản “Thiên hạ phân hợp đại thế luận” năm 1863 (Luận về các thế lớn “hợp và chia” trong thiên hạ) – mà cụ gửi triều đình.
Trích: Thiên–hạ phân–hợp đại–thế luận“.
Ngày nay các nước phương Tây đã bao chiếm suốt từ Tây Nam cho đến Đông Bắc, toàn lãnh thổ châu Phi cho tới Thiên Phương, Thiên Trúc, Miến Điện, Xiêm La, Tô Môn Đáp Lạp, Trảo Oa, Lữ Tống, Cao Ly, Nhật Bản, Trung Quốc và các đảo ở ngoài biển, kể cả Tây châu, không đâu là không bị chẹn họng bám lưng.
Nước Nga thì từ Tây Bắc đến Đông Nam gồm tất cả các nước Đại Uyển, Cốt Lợi Cán, Mông Cổ và các xứ ở Bắc Mãn Châu, không đâu là không chiếm đất và nô dịch dân những nơi đó.
Ở trên lục địa, tất cả những chỗ nào có xe thuyền đi đến, con người đi qua, mặt trời, mặt trăng soi chiếu, sương mù thấm đọng… thì người Âu đều đặt chân đến, như tằm ăn, cá nuốt. Ở đâu thuận với họ thì phúc, chỗ nào trái với họ thì họa. Ai hòa với họ thì được yên, ai cự lại thì dùng binh lực giao tranh; trong thiên hạ không ai dám kháng cự lại họ…
Song bản điều trần này và các bản khác đều không được phúc đáp.
Tóm tắt nội dung các bản điều trần (wikipedia)
Về chính trị:
Đầu tiên, trình bày Những thế lớn phân và hợp trong thiên hạ (“Thiên hạ phân hợp đại thế luận”, 1863) để có chiến lược tổng thể thích hợp, đồng thời đề xuất “Kế ly gián giữa Anh và Pháp” (1866). Không hề ảo tưởng về dã tâm của thực dân Pháp, nhưng ông rất sáng suốt chủ trương tạm hòa hoãn với Pháp, gợi ý với nhà vua về lợi ích lớn của việc “Mở rộng quan hệ với Pháp và các nước khác” (1871)…
Về nội chính:
Ông đề nghị triều đình tinh giản bộ máy chính quyền để đỡ hao tốn công quỹ, xác định rõ chức năng công việc của từng loại quan lại để khỏi phải có rất nhiều người ăn lương mà không biết làm gì. Mặt khác, nên có chính sách đối với những nho sinh để họ không thể dựa vào chút chữ nghĩa, trốn tránh nghĩa vụ đối với nước nhà. Ngoài ra, muốn cho đội ngũ viên chức giữ được thanh liêm thì phải tạo điều kiện cho họ làm giàu chính đáng…
Về tài chính:
Ông đề nghị sắp đặt lại hệ thống thuế khóa cho thật công bằng hợp lý. Muốn thế phải đo đạc lại ruộng đất, kê khai nhân khẩu, tăng thuế người giàu và hàng xa xỉ ngoại nhập, đánh thuế thật nặng vào những tệ nạn như cờ bạc, rượu chè,…Ngoài ra, còn phải khuyến khích nhà giàu bỏ tiền ra cho vay, và vay tiền của nước ngoài…
Về kinh tế:
Ông đề nghị chấn hưng “nông, công, thương nghiệp” để làm cho dân giàu nước thịnh, bằng những hành động cụ thể như: tổ chức khai hoang, bảo vệ rừng, thành lập các đoàn tàu đem hàng nông sản đi bán, cử người thăm dò tài nguyên, khai thác mỏ, thành lập các cơ sở sản xuất công nghệ và đào tạo thợ kỹ thuật…Và để nền kinh tế cả nước có thể giao thông dễ dàng, thì phải chú ý đến việc làm mới và tu bổ đường bộ và đường thủy….
Về học thuật:
Ông đề nghị cải cách “việc học, việc thi” để chọn được nhân tài hữu ích. Không nên tiếp tục lối học “máy móc, tín điều” kiểu Trung Hoa. Đáng chú ý là việc ông đề nghị đem các môn khoa học vào trong chương trình học, nhất quyết phải dùng quốc văn (chữ Nôm) để dạy học và soạn sách, kể cả trong các giấy tờ hành chính…
Về ngoại giao:
Ông chủ trương quan hệ mềm mỏng với Pháp, và không chỉ có Pháp mà còn phải đặt ngoại giao với nhiều nước khác như AnhTây Ban Nha… Phải biết lợi dụng mâu thuẫn giữa các nước này để có lợi cho mình. Phải đào tạo được các thông dịch viên giỏi công việc và tiếng nước ngoài…
Về võ bị:
Ông đề nghị cải tu võ bị nhằm tăng chất lượng của quân đội, như tổ chức lại đội ngũ, cho quân lính được học tập các binh pháp mới, mua sắm tàu thuyền và vũ khí, xây dựng phòng tuyến cả ở thành thị lẫn nông thôn, đề phòng quân Pháp xâm lược lan ra cả nước…
Bên cạnh đó, ông còn đề nghị cải cách về các mặt khác như văn hóa, tôn giáo, bảo tồn di tích lịch sử, v.v…Tuy nhiên, phần lớn những đề nghị của ông đã không được triều đình nhà Nguyễn nghe theo do tầm nhìn hạn hẹp của họ và hạn chế của thời đại .
Thái độ người đương thời
– Người đủ quyền lực thực hiện các đề xuất của Nguyễn Trường Tộ là vua Tự Đức và triều đình thời đó. Thực tế, họ chẳng làm gì. Sự thất bại đã được Nguyễn Trường Tộ kết tinh trong hai câu thơ lúc cuối đời: “Nhất thất túc thành thiên cổ hận/ Tái hồi đầu thị bách niên cơ” (Một bước lỡ, thành muôn kiếp hận/ Ngoảnh đầu nhìn lại: đã trăm năm”. Dễ hiểu tâm trạng tác giả, nhưng chưa ai biết “một bước lỡ” (nhất thất túc) của cụ là gì, vào lúc nào, trong hoàn cảnh nào…
Vị giám mục suốt đời gắn bó với cụ còn cho rằng cụ chết vì bị đầu độc. Tuy nhiên, ông không đưa ra được chứng cứ.
– Chủ thuyết Nho giáo chiếm địa vị thống trị khi Gia Long chọn hoàng tử Đảm làm kế vị (vua Minh Mệnh) chính là lực cản lớn nhất để thực thi mọi canh tân. Đây là thứ chủ nghĩa biện minh cho sự cai trị của chế độ phong kiến; còn “canh tân” thực chất là đổi mới theo tư bản chủ nghĩa, mà khởi đầu là mở rộng giao thương – trong nước và ngoài nước – để giai cấp tư sản ra đời. Rất nhất quán, triều đình chủ trương “đóng cửa”. Tự Đức lại là vị vua rất uyên thâm Nho giáo, quanh vua, các vị trọng thần chủ yếu xuất thân khoa cử. Trong khi đó Nguyễn Trường Tộ là “vô danh”, lại là người theo công giáo, phải tự giới thiệu bản thân với triều đình – về quá trình thu nhận kiến thức thời đại – để mong được triều đình “lắng nghe” và hỏi han tới. Ngoài các định kiến, đây còn là lúc tiếng súng xâm lược đã nổ ran và lan tỏa. Các cuộc nổi loạn của nông dân chưa dẹp xong… Cùng thời gian này, vua Nhật đã giao chức cao cho các nhà cải cách; trong khi đất nước không bị đe dọa bởi xâm lược vũ trang.
Nói nước ta chưa có điều kiện và thời cơ để canh tân, thì đúng hơn là nói ta bỏ lỡ thời cơ, dù đã có bộ não của Nguyễn Trường Tộ.
Tình hình rối ren tới mức có những việc tưởng sẽ được thực hiện mười mươi, như mở một trường kỹ thuật – đã tốn tiền mua đủ sách, thiết bị, thầy, đất… kể cả ban thưởng cho những người có công – rốt cuộc, đành chịu phí tổn lớn mà vẫn phải phế bỏ chủ trương.
– Chuyện đề xuất dùng chữ Nôm thay chữ Hán. Chữ Nôm có ưu điểm là đọc lên người Việt hiểu ngay, nhưng để “đọc được” nó, phải tốn công học chữ Hán và tốn công “đoán” xem nên đọc thế nào. Mặc dù thời đó chữ quốc ngữ đã rất phổ dụng trong giáo hội, nhưng Nguyễn Trường Tộ chưa thể dại dột đề xuất dùng nó thay thế chữ Hán. Vì chắc chắn sẽ thất bại, thậm chí còn mắc tội. Tội này liên quan tới ý thức hệ: Không thể để thứ chữ của tà đạo thay thế chữ của “thánh hiền”. Thực tế, phải nửa thế kỷ  sau, và phải dùng quyền lực của chính phủ bảo hộ (trên quyền vua) mới phế bỏ được chữ Hán, thay bằng quốc ngữ. Ra quyết định “thay” là một chuyện, còn phổ cập nó, nâng cấp nó trong ngôn ngữ tiếng Việt là chuyện khác hẳn. Đó là công của “bộ tứ” học giả, trước hết là Nguyễn Văn Vĩnh, Phạm Quỳnh.  
Thái độ hậu thế với Nguyễn Trường Tộ
Nói chung là khâm phục, tiếc nuối và thương cảm.
– Khâm phục. Biết ơn một danh sĩ có công trong quá khứ không có gì phải bàn. Tuy nhiên, vẫn có những ý kiến cực đoan. Chẳng hạn, xuất phát từ chủ ý chống đạo Thiên Chúa (đây mà mâu thuẫn tôn giáo) người ta nhân thể hạ thấp Nguyễn Trường TộĐừng tốn công tranh cãi và sa đà vào đây.
Đối lại, cũng có trường hợp đề cao quá mức cần thiết vị danh nhân này, với ý định kết tội thật nặng vua quan nhà Nguyễn – do vậy, cũng quá mức cần thiết.
– Tiếc nuối. Như trên đã nêu, hoàn cảnh nước ta thời Nguyễn Trường Tộ có nhiều khác biệt quan trọng với hoàn cảnh Nhật Bản lúc đó. Căn gốc sâu xa từ lịch sử đất nước chưa cho phép nước ta – cách nay 150 năm – tiếp nhận chủ nghĩa tư bản, mặc dù đã xuất hiện nhân vật Nguyễn Trường Tộ, nhưng lẻ loi, đơn độc, thiếu một cơ sở xã hội. Thời thế chưa cho phép xuất hiện anh hùng. Sự tiếc nuối cao độ trong các bài viết hiện nay liệu có phải do bực mình với tình trạng nhiều lần bỏ lỡ các cơ hội thời hiện đại?
– Thương cảm. Dẫu sao, khâm phục và tiếc nuối là tình cảm xuất hiện sau khi dùng lý trí phân tích vấn đề. Còn thương cảm là điều tự nhiên có trong trái tim con người khi thấy đống loại gặp thất bại oan ức. Ví dụ sau khi đọc 2 câu thơ của Nguyễn Trường Tộ?. Tuy nhiên…
Những người sống ở thời nay hãy tự thương cảm chính mình
– Ví dụ, một nửa nhân loại chịu ảnh hưởng của chủ nghĩa Marx, trong đó có nước ta. Không thể nói chuyện may-rủi ở đây. Sau khi Marx và Engels mất, cách mạng vô sản chia thành hai hướng phát triển: Hướng theo Lenin và hướng theo Kaustky, Berstein. Điều có thể tiếc nuối là cả hai hướng đều có mục tiêu XHCN, chọn hướng nào cũng là cách mạng; nhưng khác nhau là dùng bạo lực, hay đấu tranh ôn hòa. Liệu có đáng tiếc nuối khi đa số dân ta thời xưa nghĩ rằng muốn đuổi thực dân Pháp ắt phải dùng bạo lực? Chuyện này cần bàn vào lúc khác. 
Bài học
Vua Nhật được coi là Minh Trị mà tự mình chẳng cần làm gì nhiều, chỉ cần một quyết định duy nhất, nhưng sáng suốt: Vứt bỏ chủ nghĩa Khổng-Mạnh; dù nó biện minh cho ngôi báu. Các việc còn lại, đã có các nhà cải cách thực hiện. Cách mạng duy tân ở Nhật – thực chất là cách mạng tư sản – chậm hơn cách mạng Pháp cả trăm năm. Vậy mà nay Nhật có kém gì Pháp?
Bài học này tới nay có còn giá trị?
Nguyễn Trường Tộ trao lại những gì?
Số phận các bản điều trần
Nói chung, chúng không được thực hiện vì không đủ cả thời gian lẫn điều kiện. Nhưng bao trùm lên tất cả là vua Tự Đức không thể dứt bỏ ý thức hệ Nho Giáo, mặc dù đến lúc ấy đã trở thành phản động khi chủ nghĩa tư bản phương Tây đang đua nhau tìm kiếm thị trường và thuộc địa.
Đưa ra quá muộn
– Trong 11 năm cuối đời, Nguyễn Trường Tộ (1829-1871) dành phần lớn thời gian và suy nghĩ để soạn thảo và liên tiếp gửi lên triều đình tới 58 bản điều trần. Số bản hiện nay còn tìm được (khoảng ba chục) cho thấy cụ quan tâm mọi mặt (Chính trị, Nội vụ, Ngoại giao, Tài chính, Kinh tế, Võ bị, Học thuật…) với những kiến nghị rất cụ thể. Nhưng lúc này đã quá muộn.
– Trước đó ba-bốn chục năm, các nước tư bản liên tiếp xin được buôn bán với Đại Nam, nhưng đều không đạt kết quả. Ảnh hưởng nặng nề của ý thức hệ khiến triều đình coi các nước phương Tây là những “thế lực thù địch” tiềm tàng, và gọi họ là bọn “man di”; cho nên chính sách chung là đóng cửa. “Lẽ ra” đây chính là thời gian thích hợp nhất để Nguyễn Trường Tộ gửi bản “Luận về các “thế lớn” trong thiên hạ” – đặng “mở mắt” cho vua Minh Mệnh, nhưng cụ lại không gửi – chỉ vì cụ chưa ra đời. Té ra, triều Nguyễn cần tới 60 năm để thay đổi nhận thức: Trong kỳ thi Nho Học cuối cùng (1919) vua Khải Định ra đầu đề: Bàn về văn minh (từ các nước phương Tây lan ra thế giới).
Phải đợi đến khi cháu nội của vua Minh Mệnh – tức là vua Tự Đức – lên ngôi và ở ngôi được 15 năm, triều đình mới nhận được bản điều trần nói trên. Lúc này, đã hết giai đoạn thương thuyết buôn bán, thực dân đã thấy rõ nước ta quá lạc hậu, chi rẽ (cấm đạo, nông dân nổi loạn liên miên) nên “tiện nhất” là chiếm lấy nước ta bằng vũ lực – mở màn là trận tấn công Đà Nẵng (1858). Khi bản điều trần cuối cùng đến tay vua, Pháp đã vững chân ở Nam Bộ, chuẩn bị đánh ra Bắc Bộ.
– Mặt khác, chuyện cách tân không thể “một sáng, một chiều” mà xong. Ví dụ, chỉ một việc không lớn lắm là mở trường kỹ thuật – nằm trong kiến nghị cách tân về Giáo dục – dù đã được triều đình cấp đủ tiền để phái đoàn (do đích thân Nguyễn Trường Tộ tham gia) đáp tàu sang Pháp mua sắm sách vở, trang thiết bị, mời thầy; rồi đất xây trường đã được cấp… nhưng rốt cuộc vẫn không có trường vì bị những việc khẩn cấp hơn chen ngang vào.
Trong hoàn cảnh thực dân quyết tâm chiếm nước ta, việc mất nước có những nguyên nhân sâu xa từ trước đó rất lâu, dẫn đến tình hình suy thoái nặng nề ở nửa sau thế kỷ XIX. Đây cũng chính là thời gian đủ để chủ nghĩa thực dân đã phân chia xong các thuộc địa trên toàn cầu, có nước ta trong đó. Việc phê phán triều Nguyễn phải đặt trong bối cảnh này để đứng quá khắt khe.
Lực cản quá lớn
Ý chí, thời gian và nguồn lực đều hạn chế, do vậy các bản điều trần không thể thực hiện. Tuy nhiên, nếu tổng hợp lại, thực chất nội dung cần cách tân chính là chấp nhận chủ nghĩa tư bản: Học tập và thực hiện những thành quả cụ thể của nó. Ví dụ (theo một bản điều trần về giáo dục) cần đưa vào chương trình các môn khoa học, phế bỏ những nội dung “vô bổ” (hiểu là bỏ tứ thư, ngũ kinh); cần thay đổi cách thi cử để tuyển chọn được nhân tài “hữu ích”, sử dụng chữ Nôm thay cho chữ Hán… Nếu làm theo, nghĩa là bước đầu phế bỏ Nho giáo – khốn nỗi đây lại là thứ ý thức hệ biện minh cho sự mặc nhiên tồn tại của ngôi vua. Nho giáo có địa vị chính thống ở nước ta từ ngàn năm trước. Không những vua Tự Đức, mà ngay các vị trọng thần tiến bộ nhất, như Đặng Huy Trứ, Phạm Phú Thứ, Phan Thanh Giản, Trần Tiễn Thành,Trương Đăng Quế) đều chưa thể dứt bỏ Nho Giáo, dù nhiều người đã ra nước ngoài, đã thấy sức mạnh của công nghiệp, dù bản thân đã có một số tư duy mới mẻ và việc làm mạnh bạo… Nhưng đó chỉ là suy nghĩ và hành vi của những cá nhân chưa thoát khỏi cái bóng của Khổng Tử. Tuy vậy, thời nay, vẫn cần khẳng định rằng vua Tự Đức và các vị nói trên đều sống rất đạo đức, đều là những người rất mực yêu nước. Sau khi vua Tự Đức mất, phe chủ chiến vẫn chiếm ưu thế trong triều; hịch Cần Vương của vua Hàm Nghi vẫn được hưởng ứng mạnh mẽ. Ngay nhà canh tân Nguyễn Lộ Trạch cũng khuyên triều đình dời bỏ kinh đô (Huế) lập căn cứ kháng chiến ở Thanh Hóa.   
Các bản điều trần còn để lại những giá trị gi?
– Giá trị như một công cụ tác động tư tưởng (!?).
Cần làm cho mọi người tiếc “đứt ruột” (!) vì những viễn kiến sáng suốt nhường ấy mà cái triều đình hủ bại kia lại không chịu thực hiện, khiến “nước mất, nhà tan”, nhân dân “làm thân trâu ngựa”. Điều này đã được sử học sau 1945 triệt để khai thác, kể cả dùng thứ văn phong tố khổ rất đặc trưng. Đích phải đạt tới là đưa vào sách giáo khoa một bản án nặng nề cho vua tôi nhà Nguyễn.   
– Vậy thì, chúng chỉ còn giá trị tư liệu lịch sử?
Nghĩa là chúng giúp hậu thể biết rằng cách nay 150 năm nước ta có một bậc thức giả, sinh ra không gặp thời?. Nhưng thời nào? Thời Tự Đức (dài 36 năm), hay là thời chế độ phong kiến châu Á đã lê thê từ ngàn năm đến nay?
Với nước ta khi đó, có hai điều cần nói:
      1- Dẫu cụ Nguyễn Trường Tộ sinh sớm 30 năm hay sinh muộn 30 năm, vẫn không có vị vua nào đủ thức thời để nghe theo cụ. Nếu sinh muộn 30 năm, cụ sẽ mất vào năm 1901; mà đến năm 1919 triều đình mới bỏ các ký thi Nho Giáo.
      2- Thật ra, sở học của vị học giả này chưa bắt kịp trình độ thời đại, tuy đã vượt xa, rất xa, các tiến sĩ nho học trong nước. Những điều mà cụ kiến nghị đều xuất phát từ những gì cụ thấy ở nước ngoài; nhưng “thấy” là một chuyện (ví dụ, cụ thấy cái bóng đèn lộn ngược mà vẫn sáng), còn “hiểu” là chuyện khác; rồi từ hiểu thấu đáo tới mức “làm” được, lại là một bước nữa. Chẳng hạn, khi mang số tiền lớn sang Pháp mua sắm trang thiết bị cho trường kỹ thuật, cụ và vị giám mục đi cùng đã mua nhiều thứ vô dụng, lãng phí so với yêu cầu giảng dạy ở một trường kỹ thuật. Do vậy, thực chất, nếu đặt đúng chỗ trong lịch sử, những kiến nghị của Nguyễn Trường Tộ chỉ là sự khát khao của một cá nhân muốn một đất nước quá lạc hậu nhích một bước vào thế giới công nghiệp đã đi trước chúng ta nhiều trăm năm. Do vậy, “viết ra khao khát” không khó bằng thực hiện những gì đã viết ra.  
– Nội dung các bản điều trân thể hiện lòng yêu nước?
Đúng, nhưng cần nói cụ thể hơn. Nguyễn Trường Tộ yêu nước không phải bằng nội dung của các bản điều trần do cụ soạn thảo. Nội dung có thể tăng, giảm, thêm, bớt, hoặc thay đổi, thậm chí đúng-sai… Nhưng mục đích điều trần thì duy nhất. Ngay từ đầu, cụ Nguyễn đã bàn luận về các “thế lớn” trong thiên hạ. Và đi đến kết luận: Muốn giữ nước phải hòa nhập vào xu thế chung. Cưỡng lại bằng cách đóng cửa, khư khư ôm lấy Nho Giáo và trông cậy vào nhà Thanh là hỏng. Các nội dung canh tân chỉ là phương tiện để nước ta mạnh lên, từ đó, dám đặt ra mục đích hòa nhập. Nó cũng là phương tiện để cụ Nguyễn nói cho người nắm quyền lực dễ nghe. Thời đó mà xui vua phế bỏ ý thức hệ Nho Giáo thì chết như… bỡn! Nhưng nếu nói cần canh tân những gì cụ thể, khiến vua nhận ra được sự cấp bách, sẽ dễ lọt tai đức vua hơn. Nếu được vậy, sớm muộn gì sẽ làm bộc lộ sự lạc hậu của ý thức hệ khiến tín đồ của nó dám từ bỏ nó. Nhưng không đủ thời gian để thực hiện.
– Nội dung canh tân có tác dụng chống xâm lược?
Cần nhìn với nhãn quan khác: Chính quân xâm lược muốn giành lấy vai trò canh tân đất nước này. Lý do? Vì chúng là tư bản và thực dân.
Khi nước ta chưa mất, canh tân có tác dụng chấn hưng đất nước; từ đó chúng ta dám “mở cửa” và sức mạnh nội tại của ta sẽ làm nhụt ý chí quân xâm lược. Nhưng khi nước đã mất, chính thực dân sẽ thực hiện – và thực hiện nhiều hơn, nhanh hơn, mạnh mẽ hơn – các nội dung mà cụ Nguyễn đã đề xuất. Nói khác, những gì cụ Nguyễn đề xuất là quá ít và quá thấp so với dự kiến của thực dân Pháp. Cứ cho là cụ Nguyễn sống thêm 30 năm nữa, cụ cũng không dám kiến nghị triều đình bắc chiếc cầu sắt kếch sù đến vậy qua sông Hồng. Nhưng ngay khi chưa bình định xong các cuộc khởi nghĩa chống đối (ví dụ, của Hoàng Hoa Thám ở Yên Thế), Pháp đã xây xong cầu Long Biên. Lý do? Rất đơn giản, nếu chúng ta hiểu “thực dân” là gì. Thực dân “thứ thiệt” có mục đích lập nghiệp vĩnh viễn ở thuộc địa, chứ không phải đó là lũ chỉ biết ăn xổi.
Trao lại cho ai?
Trí thức thời sau không nhìn học giả Nguyễn Trường Tộ như một vị học giả, mà cụ còn là một trí thức lớn của thời trước, với đầy đủ các tiêu chuẩn. 
1- Có trình độ, và kiếm sống (hành nghề) bằng cái vốn đó. 
2- Vị này đã thực hiện chức năng xã hội khi đứng ở vị trí trung gian giữa giới cai trị và giới bị trị. 
a- Với giới cai trị, cần chỉ ra những bất cập xã hội và kiến nghị biện pháp khắc phục – vì đây là trách nhiệm của giới nắm quyền; 
b- Với giới bị trị, cần nâng cao dân trí để dân tự mưu cầu hạnh phúc, đồng thời dám áp lực để giới cầm quyền thực thi các kiến nghị mà trí thức đã nêu lên.
Các suy nghĩ thể hiện trên giấy là sản phẩm của học giả (ví dụ, một bài thơ, một áng văn, một bàn luận…), nhưng nếu đó là thông điệp nhằm gửi tới giới cầm quyền, thì đó là sản phẩm của trí thức.
Các bản điều trần của cụ Nguyễn khi gửi lên vua chính là sản phẩm của trí thức, nhưng muốn thực hiện phải có quyền và lực. Triều Nguyễn có quyền, nhưng thiếu lực. Thế thì chế độ thực dân sẽ thực hiện chúng, chứ sao?. Tình thế trở nên khôi hài: Người cha, chủ gia đình không thực hiện được trách nhiệm, thì để người hàng xóm làm thay? Hoàn cảnh oái oăm này Nguyễn Trường Tộ không bao giờ mong muốn. Tuy nhiên, xã hội không bao giờ vắng bóng trí thức, kể cả dưới chế độ thực dân. Do vậy, giới trí thức hậu duệ chính là người tiếp thu, phê phán và kế tục những gì giới trí thức tiền nhân để lại. 
Trao lại cái gì cho giới trí thức? Trước hết, là trao lại sứ mệnh
– Tổ tiên trao lại cho dân Việt sứ mệnh chiến đấu giữ nước
Khi thực dân chiếm nước ta bằng vũ lực, phản ứng đương nhiên – do ý thức dân tộc di truyền từ trong máu thịt – dân ta cũng phải dùng vũ lực chống lại. Rất nhiều học giả, trí thức đã tham gia, thậm chí lãnh đạo các cuộc kháng chiến – với tư cách người dân mất nước. Chính các nhà cải cách, như Nguyễn Trường Tộ, Nguyễn Lộ Trạch cũng có nhiều đóng góp theo cách của mình. Thực chất, đây là cuộc so đọ giữa sức mạnh công nghiệp với sức mạnh nông nghiệp. Sau hai thế hệ thử sức (dài nửa thế kỷ), dân ta nhận ra không thể giành lại độc lập bằng cách đối kháng quyết liệt: Dùng bạo lực chống bạo lực. Phải tìm cách khác, và phải chờ cơ hội.
– Nguyễn Trường Tộ và thế hệ trí thức tiền bối trao lại sứ mệnh.
Sứ mệnh mặc nhiên của trí thức, như trên đã nói, là phản biện xã hội và nâng cao dân trí. Các bản điều trần của cụ Nguyễn chính là như vậy. Nội dung phản biện xã hội rất dễ thấy trong từng bản điều trần. Còn nâng cao dân trí thể hiện rất rõ trong kiến nghị về giáo dục và học thuật (học những gì thiết thực, bỏ lối học “máy móc, tín điều” kiểu Trung Hoa; học chữ nôm, cải cách thi cử…).
– Trường hợp Nguyễn Lộ Trạch (1853-1895)
Đây là nhà cải cách có 18 năm sống cùng thời với Nguyễn Trường Tộ. Khi cụ lớn lên, nguy cơ mất nước đã hiển hiện, do vậy các kiến nghị của cụ thiên về cảnh báo âm mưu kẻ thù, nâng cao sức mạnh quân sự và năng lực hậu cần cho cuộc chiến đấu chống giặc đang và sẽ diễn ra.
Nhân đầu đề ở kỳ thi hội năm 1892, vua hỏi về “đại thế toàn cầu”, ông tự viết ra và công bố rộng rãi bài “Thiên hại đại thế luận” (bàn về các thế lớn trong thiên hạ) trong đó nói rõ: Đại thế ngày nay đã khác. Pháp quyết chiếm lấy nước ta; không thể đối phó bằng nhượng bộ và cầu hòa. Muốn giữ nước, phải 1) sửa sang chính trị và giáo dục, nhất là học tập những nước tiên tiến (Đức, Anh – kẻ thù của Pháp); 2) bỏ hẳn tệ quan liêu, tham nhũng, hư danh…
Chịu ảnh hưởng rất lớn của luận văn này (đọc, truyền tay) là thế hệ trí thức đàn em: Phan Bội ChâuPhan Chu Trinh, Nguyễn Thượng HiềnTrần Quý CápHuỳnh Thúc KhángVũ Phạm HàmTrương Gia Mô, v.v… Tất cả các vị này, đều có giai đoạn sống cùng thời với Nguyễn Lộ Trạch và rất khâm phục cụ.
Về tình hình chung, giới “có học” nói trên lớn lên khi nước vừa mới mất (hòa ước 1883), các cuộc chống đối lần lượt nổi dậy và lần lượt bị đàn áp. Câu hỏi là tiếp tục nổi dậy hay tìm cách khác? Về giáo dục, nền cựu học đang suy tàn, nhưng tân học còn sơ sinh. Do vậy, trong họ có nhiểu quan điểm: chủ chiến hay chủ hòa; khai thác những văn minh công nghiệp (mà thực dân mang tới), hay chống lại mọi thứ ngoại lai… Điển hình của chủ chiến là Phan Bội Châu, ngược lại là Phan Chu Trinh. Đó là thái độ đổi với thực dân Pháp, nhưng cả hai vị này đều thống nhất: Cần nâng cao dân trí.
Thế hệ sau họ, chính là bộ ngũ: Nguyễn Văn Vĩnh, Phạm Quỳnh, Phạm Duy Tốn, Nguyễn Văn Tố và Phan Khôi. Họ sinh ra và lớn lên khi nước đã mất hẳn. 

Nguyễn Trường Tộ và Fukuzawa Yukichi

Wikipedia đã nêu rất đủ về Nguyễn Trường Tộ  Fukuzawa Yukichi (xin gọi tắt là cụ Nguyễn và cụ Fuku). Để so sánh, ai cũng nhận ra: Cả hai cụ sinh cùng thời, cùng đề xướng cải cách, nhưng một cụ thất bại, cụ kia thành công. Chỉ cần gõ hai cụm từ “nguyễn trường tộ” và “fuku yukichi” ta sẽ được google cung cấp hàng ngàn kết quả, trong đó không thiếu những so sánh cụ thể, chi tiết, để tìm ra nguyên nhân thất bại và thành công.
Chung quy, đó là sự khác nhau về: 1- Tình hình xã hội Việt và Nhật thời đó; và 2- Phẩm chất cá nhân không giống nhau.
Bài này, vẫn… so sánh.
Hoàn cảnh xã hội ở Việt Nam
Nhiều ý kiến quy lỗi cho triều Nguyễn – nhất là vua Tự Đức; đồng thời ca ngợi vua Minh Trị. Một bên, không chấp nhận những đề xuất canh tân của cụ Nguyễn; bên kia hoan nghênh và thực hiện các đề xướng của cụ Fuku. Thực ra, hai ông vua này nhất thiết phải sinh ra – cùng với hoàn cảnh xã hội thời đó – vì đó là di sản tất nhiên của hàng trăm năm lịch sử trước đó.
Ở Việt Nam, đó là thời chia cắt đất nước (Trịnh-Nguyễn phân tranh), ở phía bắc là tình trạng “vua Lê – chúa Trịnh” với ý thức hệ Nho giáo ngày càng lạc hậu và trì trệ, nhưng rất kiên định. Suốt 200 năm, vua Lê giữ đúng thân phận với vua Tàu, khi gặp nguy nan vua Lê Chiêu Thống lại sang cầu cứu Tàu: Đó là sự kiên định ý thức hệ. Còn ở phía Nam (dưới quyền các chúa Nguyễn) việc học phát triển chậm chạp, đã vậy nội dung học càng lạc hậu hơn. Sau đó là nội chiến Tây Sơn – Nguyễn Ánh với 50 năm loạn lạc.
Chú thích. Tác giả Vương Trí Nhàn khi đọc sách Việt Nam và Nhật Bản giao lưu văn hoá của GS Vĩnh Sính (đại học Alberta, Canada) đã trích một đoạn như sau (nói lên sự lạc hậu của phía Nam). Chu Thuấn Thuỷ (1600-1682) là một trí thức Trung quốc sống ở thời nhà Minh bị Mãn Thanh xâm chiếm. Trong quá trình vận động phản Thanh phục Minh, có mấy lần Chu đã lưu lạc sang Việt Nam. Chính quyền đương thời tức các chúa Nguyễn ở Đàng Trong đã có lúc tính chuyện dung nạp ông, nhưng việc không thành, về sau Chu sang ở hẳn Nhật, trở thành một trí thức có công giúp đỡ cho việc đưa nước này vào một giai đoạn hưng thịnh. Trước tác của Chu Thuấn Thuỷ có nhiều, và chắc phần chủ yếu là về nước Nhật. Tuy nhiên Chu cũng đã kịp ghi chép những ngày làm việc với người Việt, qua tập sách mỏng An Nam cung dịch kỷ sự (Ký sự về việc phục dịch ở An Nam 1657).
Dưới con mắt Chu, xã hội Việt Nam hiện ra với những nhược điểm cố hữu và rất khó sửa chữa. Đó là một xã hội ít tiếp xúc với các xã hội bên ngoài. Ngay với thế giới Trung Hoa tưởng là quá quen thì chúng ta cũng không hiểu gì. Vừa gặp Chu, các nha lại địa phương đã giở trò hống hách, bắt người ta lạy, hỏi người ta bằng cấp gì, và nếu bảo rằng không có bằng cấp thì lập tức coi thường. Đúng là cái bệnh quá quê mùa và hay chấp nhặt mà ngày nay chúng ta còn bảo lưu khá đầy đủ! Đến như những câu chuyện mà các bậc gọi là thức giả bấy giờ quây vào hỏi Chu Thuấn Thuỷ thì phần lớn cũng là chuyện tầm thường. Sự non kém trong đời sống tinh thần của xã hội bộc lộ ở nhiều mức độ. Thứ nhất là lối học chỉ hớt lấy những cái lạ mà thiếu cơ sở học thuật, một sự ngây thơ trong tư duy khiến đương sự phải cười thầm “Người quý quốc đọc những truyện như Tam quốc diễn nghĩa hoặc Phong thần mà cả tin là thật, cứ đến đây hỏi tôi hết chuyện này sang chuyện khác mãi không thôi. [Trong khi ấy thì lại bỏ qua không nghiên cứu những sách kinh điển như Ngũ Kinh, Tam sử]. Tựa như bỏ vàng ngọc mà chọn gạch đá, nhổ lúa xanh mà trồng cỏ tranh, không hiểu cái gì phải lấy, cái gì phải bỏ ” (tr.393). Thứ hai là mê muội vì những trò mà nói theo thuật ngữ hiện đại là văn hoá tâm linh. “Nhưng tại sao chư quân tử từ trên xuống dưới lại cứ đến đòi xem tướng số. Hỏi thật không nhằm chỗ, đến cuối cùng không biết là đã làm nhục Du (Tức CTT). Người coi tướng, người xem sao đông biết bao nhiêu mà đếm cho hết. Trong tứ dân (tức sĩ nông công thương) và chín học phái (tức cửu lưu: Nho gia, đạo gia, âm dương gia vv), họ là hạng người thấp hèn nhất. So họ với nhà nho có đức nghĩa, khác xa một trời một vực, như đen với trắng, như nước với lửa, hoàn toàn tương phản” (tr 392).
   Dù đã kín đáo và lo phòng thân, cuối cùng người khách lạ cũng phải ghi trên mặt giấy cái nhận xét chung mà chúng ta ngày nay đọc lại có thể rất khó chịu, song phải nhận là không thể nói khác: “Tuy là nước nhỏ, nhưng khí kiêu ngạo, học vấn nông cạn, kiến thức có giới hạn, tuy có thể tuyển chọn được người tài năng trong nước Dạ Lang của mình, nhưng không tránh được vẻ ếch ngồi đáy giếng” (tr.401). Theo ghi chú của Vĩnh Sính, “nước Dạ Lang” nói ở đây là một ẩn dụ, bắt đầu từ câu chuyện có thật về một nước nhỏ thời Hán, trong giao thiệp với thiên hạ mắc bệnh hoang tưởng, từng tranh luận với các sứ giả quanh chủ đề “nước Dạ Lang so với Trung Quốc bên nào lớn bên nào nhỏ”. Dạ Lang tự đại đã thành một thành ngữ có ghi cả trong các từ điển phổ thông như Tân Hoa, Tứ giác, chuyên để chỉ những cộng đồng quen sống biệt lập nên không có ý thức đúng đắn về vị trí của mình trên thế giới.
Bên Nhật, đất nước thống nhất, nhưng với tình trạng Thiên hoàng – Mạc phủ về hình thức cũng giống như “vua Lê – chúa Trịnh” ở miền bắc nước ta. Nhưng sự tương tự này chỉ là trên đại thể, còn những khác biệt lại rất cơ bản, khiến đến giữa thế kỷ 18, ở nước ta chỉ có thể xuất hiện vua Tự Đức, còn ở Nhật lại có thể xuất hiện vua Minh Trị.
Bám lấy, tôn thờ Nho Giáo; lại chọn thứ lạc hậu nhất
Nho giáo ở Nhật đã được “bản địa hóa” khi kết hợp với Thần Đạo, Phật Đạo và Võ Sĩ Đạo. Người Nhật dứt bỏ nó khá dễ khi tiếp cận với trào lưu tư tưởng tiến bộ của phương tây. Nước ta không thế. Ta tôn thờ “thanh nho” rất lạc hậu.
Khi thống nhất đất nước, vua Gia Long chỉ có thể chọn đạo Nho làm quốc giáo, mặc dù ông vua này đã ít nhiều tiếp xúc với kỹ thuật Tây phương. Tiếc rằng Hoảng tử Nguyễn Phúc Cảnh sớm chịu ảnh hưởng văn hóa Pháp lại mất sớm, không có số làm vua. Khi  vua Gia Long đã lên ngôi (1802), nước Pháp vẫn cứ đề cập đến cái Hiệp Định cũ kỹ, hết giá trị, mà giám mục Bá Đa Lộc đã thay mặt ông ký với triều đình Pháp – trong đó nước Pháp sẽ giúp quân sự để đổi lấy đảo Côn Lôn. Mặc dù phía Pháp không hề thi hành nghĩa vụ mà nay cứ muốn có quyền lợi, đủ khiến Gia Long cảnh giác với tham vọng. Tuy Gia Long trọng đãi vật chất một số cá nhân sĩ quan Pháp (do giám mục Bá Đa Lộc tự tuyển mộ) nhưng vua không cho họ dự triều chính; cụ thể mỗi cá nhân được phong tước rất cao, bổng lộc rất lớn (cho 50 người hầu hạ), nhưng không bổ nhiệm chức vụ. Ngược lại, vua lại tin tưởng – đặt vào vị trí trọng yếu – các nhà nho uyên thâm từ bên Tàu sang ta (tỵ nạn nhà Thanh) và họ cũng một lòng giúp vua cai trị đất nước và mở mang việc học. Chính do vậy, hoàn cảnh Việt Nam từ sau đó chỉ có thể sinh ra lớp vua quan thấm nhuần đạo này. Vua Tự Đức, rất thông minh, ham học, do vậy càng tiếp thu sâu sắc Nho Giáo. Thông minh, yêu nước, thấy rõ thế nước lâm nguy, đức vua đã nhiều lần kêu gọi các vị cận thần và giới sĩ phu hiến kế, kể cả khi ra đề thi (năm 1862). Vua cũng đọc kỹ các bản điều trần của cụ Nguyễn, có bút phê nhiều chỗ và đã nhiều lần thảo luận hoặc hỏi ý kiến các vị trọng thần trong Viện Cơ Mật… Như vậy, không thể nói rằng vua và triều đình thờ ơ trước sự nguy nan của đất nước. Nhưng những đóng góp mà vua nhận được đều từ cái nền Nho Giáo, dù nhiều vị quan đã từng ra nước ngoài, từng muốn đất nước thay đổi. Bản chất sự canh tân dưới triều Minh Trị (bên Nhật) là cuộc cách mạng tư sản thì ở nước ta còn quá xa lạ.
Chú thích.
1- Năm 1862, sau khi qua được kỳ thi Hội, một số thí sinh được dự thi Đình (để có danh hiệu tiến sĩ), đề bài do đích thân vua ra. Năm đó, vua yêu cầu các thí sinh hiến kế chống giặc Pháp, với câu hỏi như sau: “…Nam kỳ thì giặc Tây lấn cướp. Bắc kỳ thì bọn phỉ lăng loàn. Đánh dẹp chưa ngớt, khuya sớm không yên. Tuy rằng trong triều còn có người lão thành nhưng mà sức chẳng theo lòng. Ngoài quận còn có quan lại giỏi mà chưa thật xứng đáng, làm cho quân mệt của thiếu, năm tháng chồng thêm. Trong, không thể sửa sang. Ngoài, không thể đánh dẹp. Chỉ có lo lắng làm cho già nua. Đã bao lần hạ chiếu cầu hiền, mở rộng đường nói. Khốn nỗi tài thực chưa thấy, chước hay chưa nghe. Như qua sông lớn, ai người chèo lái? Vỗ đùi than thở, chốc lát khôn quên. Vả chăng, đời nào chẳng sinh người tài, trong ấp mười nhà ắt có người trung tín. Cho nên trẫm mời rộng các vị sĩ phu, khiêm tốn nghe lời kỳ dị… Cùng với ba chước ngự nhung, chẳng qua là giữ, đánh, hòa, ba phương pháp ấy mà thôi. Nhưng có lúc lợi cho chỗ này mà không lợi cho chỗ khác. Có việc hợp với đời xưa mà không hợp với đời nay. Thế thì cái cơ trị loạn đều do người làm nên mà xét trong kinh sử lại có nhiều chỗ khác nhau, giống nhau… Cho nên, trẫm mong được nghe lời phải ngay, may ra giải được cơ nguy hiểm… Hãy vì trẫm mà trình bày hết cái lẽ trị loạn qua các triều đại, cái lý do vì sao chính sự khi sai khi đúng và các điều quan yếu hiện nay về các mặt tiêu tai, giẹp loạn, trị binh, chọn tướng, tiến hiền, yên dân, chống giặc… cốt sao cho sát với sự cơ, có thể bổ ích cho thực dụng. Để rồi, trên nhờ mệnh trời dài lâu, dưới thỏa tâm tình quần chúng, nước nhà được trị yên dài lâu…(3).
Đọc các câu trả lời thí sinh (và sĩ phu nói chung), ta thấy các lời bàn rất phân tánkhiến nhà vua lúng túng khi quyết định. Từ đó, ngày nay chúng ta càng thấy được giá trị của các bản Điều Trần của cụ Nguyễn. Ít nhất có ba nguyên nhân khiến các đề xuất của cụ không được thực hiện: 
1) Thực chất, nội dung các bản Điều Trần là phải thay đổi chế độ, tức thay đổi ý thức hệ Nho Giáo; 
2) Đã qua thời kỳ giao thương, thực dân chính thức thực hiện kế hoạch chiếm nước ta; 
3) Dưới triều Tự Đức có tới 400 cuộc nổi loạn của nông dân, khiến sự tiêu hao nguồn lực rất lớn, không thể có ngân sách thực hiện “đến đầu. đến đũa” vài ba canh tân nhỏ.   
Phẩm chất Nguyễn Trường Tộ
– Khỏi cần nói về sự hiểu biết thế giới và tấm lòng yêu nước (đương nhiên rồi), vẫn có ý kiến cho rằng cụ Nguyễn chỉ là “trí thức cận thần” tức là chỉ muốn lập công với vua – bằng cách tới tấp gửi vô số “bản điều trần” trong đó lễ phép van nài vua thực hiện những gì mình mong muốn. Trái lại, cụ Fuku là “trí thức độc lập” (có người dùng “trí thức dấn thân”), cứ tự mình thực hiện ý đồ của mình, bắt đầu bằng giác ngộ và giáo dục dân chúng: Mở trường, dạy khoa học; viết sách, viết báo…
– Lại có ý kiến phản bác răng nếu cụ Fuku sống ở nước Việt, cụ cũng thất bại – vì luật lệ độc tài ở Việt Nam sẽ xử tù (hoặc xử tử) cụ ngay lập tức – nếu cụ mở trường mà không dạy Nho Giáo, lại dạy các môn “tà đạo”. Thời ấy, triều Nguyễn coi văn minh Tây phương là “di” (mọi rợ). Thời ấy, nước ta làm gì có quyền tự xuất bản sách? Làm gì có báo chí để mà đăng bài?
– Trái lại, nếu cụ Nguyễn sống ở Nhật, liệu cụ có thành công? Chưa chắc. Vì qua các Bản Điều Trần, ta thấy những hạn chế vĩ mô trong tầm nhìn của cụ Nguyễn. Chủ yếu, cụ kiến nghị các biện pháp – dù rất hệ thống, toàn diện – để đuổi kịp phương Tây về kỹ thuật. Kể cả việc cải cách giáo dục cũng chỉ nhằm mục đích này. Trong khi đó, cụ Fuku thấy rằng “kỹ thuật” và “khoa học” phương tây chỉ là biểu hiện cụ thể của một nền văn minh mới, cao hơn hẳn và sẽ phủ định nền văn minh đang thống trị cả chấu Á. Ngày nay, chúng ta hiểu đó là Văn minh công nghiệp (với chế độ dân chủ) so với Văn minh nông nghiệp (với chế độ quân chủ). Tự Truyện của cụ Fuku cho hậu thế thấy được điều này. 
Hoàn cảnh nước Nhật
Do chiến công dẹp nội loạn, một vị tướng được vua Nhật phong là Chinh di đại tướng quân (chinh di: dẹp bọn mọi rợ) được quyền cai trị cả nước (lập ra Mạc Phủ làm tổng hành dinh, từ năm 1192-1867), chỉ dưới vua. Từ đó, giới quân sự có địa vị cao nhất, với tấng lớp samurai (võ sĩ) rất đông đảo ủng hộ hết lòng. Và cha truyền con nối, không khác triều đình. Chế độ Mạc Phủ trải 3 thời kỳ (3 dòng họ), trong đó thời kỳ cuối (gọi là Edo: 1603-1668) dài tới 265 năm. Thực chất, thời kỳ Edo – do dòng họ Tokugawa trị vì  là thời kỳ phong kiến tập quyền, chuẩn bị điều kiện chuyển sang chế độ tư bản.
– Khi Trung Quốc (nghĩa: nước trung tâm) có địa vị trung tâm, tự xưng là “thiên triều”, các nước xung quanh có trình độ thấp hơn, trong đó 3 nước có biển (Nhật, Triều, Việt) là khá nhất. Đây là 3 nước dùng chữ viết của Trung Quốc, do vậy du nhập cả đạo Nho và lập ra chế độ phong kiến theo đúng hình mẫu Trung Hoa.
Riêng Nhật, nhiều núi, ít đất nông nghiệp, bốn bề là biển… do vậy người dân sớm dám vượt trùng khơi tìm đến các xứ lạ và có đầu óc quan sát, học tập. Khi chủ nghĩa tư bản đi tìm thị trường, Nhật sớm tiếp xúc với Bồ Đào Nha và Hà Lan. Đó là hai nước tư bản nhỏ bé, mạnh về thương thuyền, không mạnh về quân sự, nên đem lại lợi ích kinh tế mà không đe dọa dùng vũ lực (so với sự tiếp xúc của Pháp với Việt Nam). Sự say sưa học tập Hà Lan khiến nước Nhật có một môn, gọi là “Lan Học”, rất được hâm mộ. Cuối thời Edo, Nhật đã chế tạo được đồng hồ, có trường cho nữ sinh, có sách y học (Giải Phẫu) có Luật và có báo chí… Đồng thời, Nhật cũng tự đóng được những con thuyền buồm (lớn nhất: 500 tấn, chở sứ bộ sang tận Âu, Mỹ), đi thám hiểm khắp các nước châu Á. Dân Nhật đã lập nghiệp tại Hội An. Nhưng rồi tới lúc Nhật nhận ra trình độ phát triển của mình (nước nông nghiệp) chưa đủ cao trước mối đe dọa kỹ thuật và tôn giáo của tư bản, nhất là khi Mỹ, Pháp, Anh cũng tìm đến. Nhật bắt đầu đóng cửa. Và Mỹ đã dùng vũ lực để ký những hiệp ước bất bình đẳng. Mâu thuẫn nội bộ khiến chế độ Mạc Phủ bị lật đổ, triều đình lấy lại quyền lực, lực lượng tiến bộ đưa một hoảng tử 14 tuổi lên ngôi. Đây là ông vua ủng họ duy tân, tự đặt niên hiệu là Minh Trị. 
Chú thích. Năm 1612, Mạc Phủ bắt thuộc hạ “thề bỏ Công Giáo” (nếu đã trót theo), năm 1616 cấm tàu buôn nước ngoài; năm 1622 xử tử 120 người truyền giáo và người dân Nhật theo Công Giáo; năm 1624 trục xuất người Tây Ban Nha và năm 1629 xử tử hàng ngàn người Công giáo. Cuối cùng, chiếu chỉ Tỏa Quốc được ban bố cấm bất kỳ người Nhật nào ra khỏi nước Nhật (đã đi thoát, bị cấm quay về… Năm 1650, người Cơ Đốc giáo về cơ bản đã bị thủ tiêu, và ảnh hưởng kinh tế, chính trị và tôn giáo với Nhật Bản đã trở nên khá mờ nhạt. Chỉ có Trung Quốc, và Công ty Đông Ấn Hà Lan, và một giai đoạn ngắn là người Anh, có quyền đến Nhật Bản trong thời kỳ này, nhưng chỉ với mục đích thương mại. Còn những người châu Âu khác khi đặt chân lên bờ biển Nhật Bản đều bị giết chết mà không cần xét xử. Tóm lại, Nhật “đóng cửa” và “diệt đạo” sớm và mạnh hơn ở nước ta. Nhưng mầm mống tư bản đã hình thành, khác với Việt Nam.
Nước Nhật tạo ra Fukuzawa Yukichi và chính cụ sinh ra nước Nhật
Fuku sớm bỏ môn Lan Học, mà quay sang học Mỹ và các nước tư bản lớn. Điều kiện xã hội cho phép cụ dịch sách khoa học và các tác phẩm chính trị tiến bộ, viết báo, mở trường và viết sách… Sách bán rất chạy chứng tỏ trình độ dân trí không thấp (ở Việt Nam thời đó, tới 99% dân mù chữ). Tất nhiên, khó khăn cần vượt là không nhỏ, nhưng Fuku không cần gửi Điều Trần cho Mạc Phủ. Làm sao bọn này “nuốt” nổi? Khi Nhật Hoàng chủ trương duy tân, triều đình nhận ra chính Fuku đã đặt sẵn những nền móng đầu tiên… Và trọng đãi ông. Hạnh phúc cho dân Nhật là Fuku sống lâu hơn Nguyễn Trường Tộ tới gần 30 nặm
Rốt lại
Việt Nam có Nguyễn Trường Tộ là tặng phẩm quá đặc biệt Trời cho, quá diễm phúc (nhưng không có số hưởng phúc). Fuku nếu sinh ở Việt Nam chắc đâu đã làm được như Nguyến Trưởng Tộ, trong điều kiện Nho Giáo còn quá thâm căn, cố đế?
Cụ Nguyễn bỏ Việt Nam sang Nhật chắc đâu đã làm được như Fuku, vì cụ học không hệ thống, không thể dịch được sách giáo khoa và càng không thể trực tiếp dạy các môn khoa học…
  Nói ngoài bài
Đó là nói về những Nguyễn Trường Tộ hiện đại. Các cụ Nguyễn Trung, Nguyên Ngọc, Tương Lai, Nguyễn Huệ Chi, Tô Văn Trường, Hà Sĩ Phu, Nguyễn Đình Cống (gồm cả 72 hiền sĩ kiến nghị bản Hiến Pháp tự soạn), cùng hàng trăm vị khác… thực chất là những Nguyễn Trường Tộ hiện đại. Khó khăn mà họ đang gặp – về đại thể – giống hệt tiền bối. Họ cũng được phép gửi Điều Trần suốt đời…

Trí thức nước ta và việc chọn ý thức hệ

Năm 1906 lần đầu tiên trên tiêu đề của một bài báo (ở Pháp) xuất hiện từ mới toanh, trước đó chưa hề có: “trí thức”. Từ này dành cho nhà văn Zola vì hành động cao cả và dũng cảm của ông. Cụ thể, ông đã lên tiếng phản đối, và phản đối tới cùng, một bản án bất công do giới quyền lực áp đặt cho một nghi can là người Do Thái. Trớ trêu, dư luận xã hội – do kỳ thị chủng tộc – đã nhiệt liệt ủng hộ bản án phi nghĩa này. Nhà văn rất ý thức về sự nguy hiểm cho bản thân, nhưng ông trọng công lý và sự thật hơn lợi ích riêng. Sau mấy năm chịu đựng sự đàn áp, Zola đã thắng và trở thành một biểu tượng của trí thức. Thế là, khái niệm trí thức ra đời. Tuy nhiên, dẫu trước năm 1906 kho từ vựng chưa có từ “trí thức”, nhưng đã có sẵn rất nhiều danh từ để chỉ “người có học” (ví dụ, nhà bác học, nhà khoa học, học giả, nhà văn, nghệ sĩ, tiến sĩ…). Dù sao, họ chưa phải là trí thức. Nhưng nếu một người “có học” – ngoài chuyện hành nghề theo chuyên môn – còn vạch ra những bất cập và bất công của xã hội, đề xuất các biện pháp giải quyết (nay gọi là phản biện), ông ta trở thành trí thức (trí tuệ và thức tỉnh). Hoạt động xã hội của trí thức, đều – gián tiếp hay trực tiếp – có tác dụng nâng cao dân trí. Đúng ra, trước 1906 đã có nhiều nhân vật mà phẩm chất cao đẹp không kém Zola. Có điều, thời xưa chưa có từ ngữ thích hợp để gọi họ mà thôi.
Một điều rút ra: Muốn hiểu nghĩa gốc của từ “trí thức” nhất thiết phải trở về hành vi chống bất công, bảo vệ công lý của nhà văn Zola. Nếu không, rất dễ vô tình (tùy tiện) hoặc cố ý làm sai lạc nghĩa ban đầu của từ ngữ. Quả vậy, gần đây, nghĩa của “trí thức” đã được đưa ra thảo luận, vì có trường hợp bị hiểu sai,  thậm chí bị lạm dụng, bóp méo, kể cả trong các văn bản chính thống. Một sai lầm là đặt trí thức vào “đội ngũ”, phải chăng xuất phát từ ý đồ muốn họ mặc đồng phục, xếp hàng nghiêm và sẵn sàng nghe những khẩu lệnh?.
Xã hội ta có trí thức từ khi nào? Chu Văn An có phải trí thức? Các vị trọng thần dưới triều Tự Đức khi có dịp ra nước ngoài (Pháp, Hồng Công…) đều khuyên vua thực hiện canh tân để tiến kịp thời đại. Ví dụ, Phan Thanh Giản, Bùi Viện, Đặng Huy Trứ… Họ đã là trí thức chưa?
Thất thủ Kỳ Hòa
– Năm 1861, đại đồn Kỳ Hòa thất thủ. Không thiếu tư liệu tham khảo; trong đó một nguyên nhân khiến quân ta thua trận là do vũ khí quá cổ lỗ, mà lòng dũng cảm không thể bù đắp được. Và nếu cứ thua trận liên tiếp, lòng dũng cảm cũng chẳng còn. Trận này, quân ta nhiều gấp 8 lần quân Pháp, cầm cự được 40 giờ. Sau 12 năm (1873) khi Pháp đánh Hà Nội, quân giữ thành nhiều gấp 20 lần quân Pháp mà chỉ sau 1 giờ đã mất thành.
Triều đình Tự Đức rất ý thức trận Kỳ Hòa là cuộc đọ sức mang tính thắng-bại cho toàn cục trong tương lai; do vậy đã huy động tối đa mọi nguồn lực: Số quân tham gia; số danh tướng được cắt cử, số nhân công phục vụ và số tiền bạc đã bỏ ra… Đồn lũy Kỳ Hòa có từ lâu, nay được mở rộng, gia cố suốt 2 năm trời, được bảo vệ bằng 21 ngàn quân chính quy và 10 ngàn quân địa phương. Điều ngược đời là – dù phải đánh công kiên – nhưng phía Pháp chỉ cần 4 ngàn quân là đủ thắng. Càng ngược đời, dù có thành cao hào sâu bảo vệ mà quân ta vẫn thương vong nhiều gấp 3 lần quân địch. Hơn nữa, số quân đông hơn, lại có lợi thế về địa hình, mà chỉ cầm cự được 40 giờ là vỡ trận. Vũ khí quân ta tin tưởng và hy vọng là voi chiến, nay nghe mà nực cười.
Từ sau trận này, Pháp hết lưỡng lự, chỉ tìm mọi cớ để chiếm thêm đất, còn chuyện thương lượng – nếu có – chỉ là để tạm thời hòa hoãn.  
– Quả vậy, ngay năm sau (1862), Pháp chiếm 3 tỉnh Nam Bộ. Hai bên thương lượng đi tới một hòa ước, với các điều khoản hoàn toàn bất bình đẳng.
– Năm sau nữa (1863) Nguyễn Trường Tộ gửi vua các bản điều trần đầu tiên, nhưng chưa được chú ý.
– Trong khi đó, (cũng 1863), vua lại cử cụ Phan Thanh Giản sang Pháp xin “chuộc” lại 3 tỉnh nói trên. Qua đó, ta thấy triều đình chưa nhận ra ý đồ dứt khoát của Pháp: Chúng sẽ đánh rộng ra, và nếu thương lượng, phía Đại Nam chịu thiệt, cho tới khi bị thôn tính. Khi ba tỉnh phía đông đã mất, tự nhiên ba tỉnh phía tây thành cô lập. Quả nhiên, bốn năm sau mất nốt.
Chính hoàn cảnh lúng túng về đường lối – phân vân giữa chủ chiến và chủ hòa – đã cho phép xuất hiện một số nhân vật có viễn kiến, dám kiên nhẫn đề xuất và vận động nhiều người khác ủng hộ. Với thời đó, đáng gọi là trí thức.
Ba cụ trong sứ bộ Phan Thanh Giản có phải “trí thức”?
Năm 1863, khi đã 67 tuổi, cụ Phan đưa sứ bộ sang Pháp (trợ giúp, có phó sứ Phạm Phú Thứ, bồi sứ Ngụy Khắc Đản – đều đã vượt tuổi “tri thiên mệnh”) để xin “chuộc” lại ba tỉnh Nam Bộ. Ba cụ đã tận mắt thấy kỹ thuật mọi ngành (bách ban) của Pháp đã tinh xảo ở mức “tề thiên địa” (ngang Trời-Đất). Nếu vậy, quyền của Tạo Hóa chỉ còn duy nhất là quyết định sự sống-chết của con người mà thôi. Câu thơ trong lá sớ dâng vua đủ nói lên sự choáng ngợp của tác giả:

Bách ban tinh xảo: Tề thiên địa

Duy hữu tử sinh: Tạo hóa quyền
Cụ năn nỉ đồng bang (người cùng một nước) hãy thức tỉnh, tiến cho kịp thời đại, nhưng chẳng ai tin lời cụ.  

Từ ngày đi sứ đến Tây kinh,

Thấy việc Âu Châu phải giựt mình.
Kêu tỉnh đồng bang: “mau kịp bước”,
Hết lời năn nỉ chẳng ai tin
Như vậy, các cụ đủ tiêu chuẩn 1 của trí thức (là người “có học”: tiến sĩ). Tiếp, khi nhận ra sự bất cập xã hội các cụ đã “năn nỉ” vua và mọi người “mau kịp bước”. Không ai thèm nghe, thì các cụ… đau khổ. Chỉ có thế. Do vậy, phải có thêm nhiều “giá mà”… (không tưởng) để các cụ đủ tiêu chuẩn trí thức. Ví dụ, giá mà các cụ kiên nhẫn vận động “tới cùng” để vua và các quan khác đồng lòng với kiến nghị của mình. Giá mà các cụ dám từ chức. Bởi vì, nếu vẫn cứ là viên chức (dù rất cao: thượng thư = bộ trưởng) làm sao dám phản biện cấp trên?. Giá mà các cụ trẻ lại… Trong khi đó, dù bị nghi kỵ (công giáo) cụ Nguyễn Trường Tộ đã kiên nhẫn vận động các vị trọng thần và liên tục gửi điều trần lên vua, kỳ tới khi vua cho gặp và cháp nhận những cải cách dễ nhất (mở trường kỹ thuật)…
Chủ chiến có sẵn trong tâm thức. Còn chủ hòa là từ suy xét, lý trí
– Chủ chiến. Giặc từ phương Tây xa lắc, tự tìm đến nước ta, gây sự, chiếm đất của ta. Bọn này được sự tiếp tay của đám thầy tu đang lén lút truyền đạo. Làm sao triều đình có thể chấp nhận cái thứ “đạo” trái với Nho Giáo (ví dụ, tín đồ không được thờ cúng tổ tiên)? Do vậy, đương nhiên, ta phải chống lại cả hai. Tư tưởng chủ chiến xuất phát từ tâm thức, được hình thành từ lịch sử ngàn năm chống xâm lược. Do vậy, dễ hiểu khi phe chủ chiến chiếm ưu thế – và ưu thế trong thời gian rất dài. Đã đành, phải chiến đấu khi chưa mất nước. Nhưng mất nước rồi vẫn hưởng ứng lệnh Cần Vương mà chiến đấu tiếp. Kể từ trận Kỳ Hòa cho tới khi triều đình phải ký hòa ước “mất nước” là 23 năm. Từ phong trào Cần Vương cho tới thất bại của cụ Phan Bội Châu là 38 năm. Cộng là 61 năm. Trong khi đó, thời gian bị thực dân đô hộ cũng 61 năm. Không thể sưng sưng nói rằng vua quan nhà Nguyễn sẵn sàng bán nước.
Kể cũng hơi lâu, khi cụ Phan hoàn toàn thất bại giới có học nước ta mới nhận ra: Không thể giành độc lập bằng cách đem sức mạnh (bạo lực) của văn minh nông nghiệp chống lại sức mạnh của văn minh công nghiệp. Khoảng cách giữa hai nền văn minh này ít nhất là 500 năm nếu cứ tự tiến hóa. Nhưng nếu học hỏi, sẽ ngắn hơn nhiều – mà sự canh tân ở Nhật là một tấm gương: chỉ cần 50 năm. Tiếc thay, trước khi mất nước, ta chưa đủ điều kiện để làm theo Nhật. Nay đã mất nước, ta phải tự tìm ra con đường thích hợp mà đi.
Chú thích. Sau trận Kỳ Hòa, không còn trận nào quy mô lớn như vậy nữa, nhưng kết quả chung thì vẫn vậy. Quân ta đông hơn, tuy cố thủ, nhưng vẫn thương vong nhiều hơn, vẫn mất thành, mất đất. Ví dụ, khi đánh Bắc Kỳ lần 1 (1873) chỉ huy cao nhất của phía Pháp chỉ là cấp đại úy, trong tay chưa tới 1000 lính; vậy mà chỉ cần huy động 100 tên, chỉ tốn một giờ, viên đại úy đã chiếm được thành Hà Nội – có 2000 quân ta cố thủ – bắt sống chủ tướng Nguyễn Tri Phương. Tiếp đó, Pháp cũng chỉ cần vài giờ là chiếm xong Hải Dương và chỉ cần để lại 15 lính và một thiếu úy trấn giữ thành này. Thành Nam Định tuy đã được 10 – 20 ngàn dân phu sửa sang, củng cố, lực lượng cố thủ gồm 6500 lính, chưa kể sau đó còn có thêm viện binh; nhưng quân Pháp đã chiếm thành nhanh, gọn, mà cả thảy chỉ có … 4 tên lính bị thương (!). Bên ta, thiệt hại 200 người, có cả chỉ huy cao cấp.
Cũng có trận ta chủ động đánh Pháp nhưng thiệt hại càng lớn. Trong trận tấn công tòa Khâm sứ và đồn Mang Cá (Huế) Pháp chỉ chết 16, bị thương 80, nhưng phía ta chết đến 1.200-1.500 (không đếm xuể). Quân Pháp phản kích chiếm được trong kho số vũ khí gồm  812 súng thần công, 16.000 súng hỏa mai; 2,6 tấn vàng, 30 tấn bạc…
Cũng có trận ta thắng, nếu phục kích. Nhưng chủ yếu thắng về ý nghĩa, hơn là gây thiệt hại đáng kể cho Pháp. Đó là trận Cầu Giấy, lần 1 và 2 (cách nhau 10 năm). Trong trận Cầu Giấy 1 (1873), 1000 quân Cờ Đen phục kích (nấp kín, đợi sẵn) nhờ bất ngờ mới thắng được 200 lính Pháp đi lùng sục, giết được vài chục lính và viên đại úy chỉ huy. Trận Cầu Giấy 2 (sau đó 10 năm) 3000 quân Cờ Đen phục  kích 550 quân Pháp, giết được 30 lính và viên đại tá chỉ huy. Điều bất thường là bên phục kích lại tử vong nhiều hơn. Tuy hai trận không lớn, vẫn mãi mãi ghi vào lịch sử. Điều thú vị là sử sách nước ta rất sẵn những thành ngữ, chỉ việc lắp vào câu văn để nói về vai trò tích cực của nhân dân hưởng ứng quan điểm chủ chiến. 
– Chủ hòa. Ngay khi cuộc chiến giữ nước mới bắt đầu, chưa ai đoán được những thiệt hại sẽ rất lớn về sinh lực, vật lực, tài lực, nhưng đã có người – sau khi thấy được “các thế lớn trong thiên hạ” – nhận định rằng với lực lượng đang có, ta chưa thể thắng giặc. Cần hòa hoãn, kể cả chịu thiệt, chịu nhục, để có thời gian bảo toàn và phát triển lực lượng. Như vậy, chủ hòa ở đây khác với chủ hàng và chủ bại. Dù đã quá muộn, nhưng đây là vẫn là những viễn kiến sáng suốt. Trong khi phe chủ chiến rất thành kiến và kỳ thị với đồng bào công giáo – coi họ như thù địch, nhưng phe chủ hòa có thái độ khác vì thấy được nguyên nhân. Nếu cứ theo đuổi chủ trương này, những nhân vật như Phan Chu Trinh, Nguyễn Văn Vĩnh, Phạm Quỳnh… sẽ xuất hiện sớm hơn và đông đảo hơn.
Ý thức hệ
Di sản ngàn năm để lại, từ Nguyễn Trường Tộ (chủ hòa) tới Phan Bội Châu (chủ chiến) đều mang ý thức hệ “tôn quân”.
– Cụ Nguyễn, dù coi cách học cũ là vô tích sự, cần thay đổi triệt để; nhưng cụ vẫn viết (trong bản Điều Trần số 13)
Ngôi vua là quýchức quan là trọng – để vua quan tự thấy có trách nhiệm chủ trì duy tân. Nhưng làm sao vua quan thời đó bỏ được Nho Giáo? Thực tế, phải 50 năm sau (1919) nền học cũ (cựu học) mới bị chấm dứt hẳn – mà lại do Pháp chủ trương. Thật nực cười.
– Còn cụ Phan? Cụ đã tiếp cận tân học, đã đọc Đại Thế Luận của Nguyễn Lộ Trạch, đã từng đàm đạo với Lương Khải Siêu, Tôn Trung Sơn… nhưng cụ lại tôn một vị hoàng thân làm minh chủ (vua dự trữ – vua chống Pháp) để sau này thay “vua cũ” – vua theo Pháp. Đây là đại biểu cuối cùng của phe chủ chiến, nên cụ rất đơn độc. Sau cụ, tuy vẫn còn vài cuộc nổi dậy, nhưng chủ yếu là bột phát – như cuộc binh biến ở Thái Nguyên, Đô Lương… Chúng rất khác với các cuộc khởi nghĩa trước đó (có chuẩn bị, có kế hoạch, có xây dựng căn cứ địa và có gây cơ sở trong dân…).
Đại diện cuôi cùng và đầu tiên của 2 chủ trương, 2 ý thức hệ
Sống cùng thời, cùng là trí thức (viết hàng ngàn trang), cùng khâm phục và kế thừa  tư tưởng Nguyễn Trường Tộ, Nguyễn Lộ Trạch, cùng đọc “tân thư”, cùng  sang Nhật, và nhiều lần hai cụ đã đàm đạo với nhau, nhưng cụ Phan Chu Trinh lại khác hẳn cụ Phan Bội Châu, cả về chủ trương (chủ hòa, thậm chí hợp tác và học hỏi với Pháp) và cả về ý thức hệ (triệt để xóa bỏ nền quân chủ (quân trị) để kiến lập nền “dân trị”. Đây là đại biểu tiên phong của phải chủ hòa có ý thức hệ phù hợp với thời đại mới. Nối cụ, chính là nhóm trí thức Âu học (Quỳnh-Vĩnh-Tố-Tốn) và vị trí thức nho học đã “âu hóa”: Phan Khôi.
Bảng trên
– Cụ Nguyễn Trường Tộ chủ hòa để xây dựng lực lượng, khi đủ, mới chủ chiến. Trong các bản Điều Trần, cụ từng đưa ra những kế hoạch đánh Pháp để lấy lại các tỉnh đã mất ở Nam Kỳ. Nói khác, khi cần cụ vẫn chủ chiến. Do vậy, trong những người kế tiếp (lúc này đã mất nước) có cả chủ chiến và chủ hòa. Ví dụ, Cụ Nguyễn Lộ Trạch chủ trương bỏ kinh đô Huế, lập vùng kháng chiến ở Nghệ An. Cụ Trạch là cầu nối thế hệ 1 và 2, vì sống cùng thời với cả hai thế hệ này.
Chú thích. Trước Nguyễn Trường Tộ, chưa thể có trí thức ở nước ta. Dưới chế độ phong kiến, mục đích học hành là để làm quan. Còn thi cử là để chọn người làm quan (phải nhất nhất làm theo lệnh vua). Dũng cảm nhất của quan, chỉ là dám can vua và dám từ quan. Ngay thời nay, đã là quan chức thì quá khó để kiêm trí thức. Nếu trong quan chức có cái “mầm” trí thức, trong trường hợp can đảm nhất, có thể nó dám mọc khi đã về hưu.
– Thế hệ 2 là giao thời giữa hai đường lối và hai ý thức hệ. Từ giành độc lập bằng bạo động chuyển sang bằng đấu tranh ôn hòa; từ chấp nhận quân chủ sang đấu tranh cho dân chủ. Tiêu biểu là các cụ Phan Bội Châu và Phan Chu Trinh. Thuộc thế hệ này còn nhiều cụ khác, đều xuất thân Nho Học, nhưng chịu ảnh hưởng sâu sắc của “tân thư”: Trần Quý Cáp, Ngô Đức Kế, Nguyễn Thượng Hiền, Huỳnh Thúc Kháng, Nguyễn Hải Thần… Như đã nói, cụ Phan Bội Châu là đại biểu cuối cùng của chủ trương bạo động và tôn vua. Do vậy, hầu hết các trí thức xuất thân nho học theo đường lối của cụ Phan Chu Trinh.
– Thế hệ 3 gồm 2 loại: những vị đấu tranh trong nước và những vị đấu tranh ở nước ngoài. Về sau, sớm hay muộn, các vị cũng về nước (muộn nhất là Nguyễn Tất Thành). Rõ ràng, các vị nhận ra chỉ có ở trong nước mới có thể đấu tranh thiết thực và hiệu quả, nhất là sứ mệnh nâng cao dân trí và giác ngộ quần chúng.   
Nhóm trong nước gồm các trí thức “âu học”, ngay từ đầu đã được hưởng nền giáo dục mới. Tiêu biểu là các cụ Vĩnh-Quỳnh-Tốn-Tố và nhiều vị khác. Ngoài ra, còn các vị có thời gian theo đuổi nho học, về sau chuyển sang âu học bằng tự học. Điển hình là cụ Phan Khôi (tú tài nho học).
Nhóm ngoài nước, đấu tranh với thực dân ở ngay chính quốc (Pháp), đứng đầu là cụ Phan Văn Trường (tiến sĩ luật khoa) và các cụ khác trẻ hơn: Nguyễn Tất Thành, Nguyễn Thế Truyền, Nguyễn An Ninh… Về sau các cụ cũng về nước đấu tranh với chính quyền thuộc địa.
Có 2 trường hợp riêng: 
1) Cụ Phan Chu Trinh, thuộc thế hệ 2, sau khi thoát án tử hình, bị chính quyền thuộc địa đưa sang Pháp, cùng hoạt động với thế hệ 3 và do vậy đã xảy ra “mâu thuẫn thế hệ” (với Nguyễn Tất Thành – quá cấp tiến). Cuối đời, cụ mới về nước tiếp tục đấu tranh theo chủ trương nhất quán của mình. 
2) Cụ Nguyễn Tất Thành, thuộc thế hệ 3 (theo tuổi) nhưng trong quá trình đấu tranh có sự thay đổi ý thức hệ, tuy chưa triệt để. Chính đây là nguyên nhân đưa đến mâu thuẫn với thế hệ 4, đại diện là cụ Trần Phú, cấp tiến (triệt để theo chủ nghĩa Mac-Lenin).
– Thế hệ 4. Chủ yếu sinh ở thế kỷ 20. Nhóm Nguyễn Thái Học theo chủ nghĩa Tam Dân và nhóm Trần Phú theo chủ nghĩa Mac-Lenin (thực chất là chủ nghĩa Stalin).   
Trí thức thế hệ 2: Vẫn câu hỏi ĐỘC LẬP và CANH TÂN – cái gì trước?
Ảnh hưởng quyết định của Tân Thư
“Tân Thư” (sách mới) thực ra là những sách có từ lâu bên châu Âu, nhưng lại rất mới với châu Á và Việt Nam. Sách chủ yếu trong tân thư là các tác phẩm của Montesquieu (Mạnh Đức Tư Cưu, 1689-1775) và J. Rousseau (Lư Thoa, 1712-1778); rồi các sách ra đời muộn hơn của Khang Hữu Vy, Lương Khải Siêu và một số tác giả Nhật.
Chính là nhờ đã đọc “tân thư”, mà lớp trí thức thế hệ 2 ở nước ta như chợt bừng tỉnh, như từ trong bóng tối bước ra ánh sáng. Thay đổi lớn nhất là các cụ nhận ra sự lạc hậu của Nho Giáo, phải rũ sạch nó để để tiếp thu một ý thức hệ khác hẳn mà Tân Thư giới thiệu. Nói khác, chính tân thư đã biến nho sĩ thành trí thức. Cảm giác chung của các cụ là… càng đọc, càng ham, vì đọc đến đâu cứ thấy “sáng” ra đến đấy.
Cụ PCT đọc nhiều (có lần chê cụ PBC đọc ít), lại từng sang Nhật, sang Pháp (mở rộng tầm nhìn và tự trải nghiệm), cho nên cụ “sáng” ở mức cao nhất. Đó là cụ thấy rõ sự chênh lệch về trình độ kỹ thuật và sức mạnh quân sự chỉ là phần ngọn. Còn sự khác nhau cơ bản giữa Ta và Tây (hay Á và Âu) là trình độ văn minh.
Nhờ vậy, cụ thấy được nguyên nhân gốc của những thất bại ở giai đoạn chống xâm lược(khiến ta mất nước) và tiếp đó là thất bại trong giai đoạn chống thực dân – đưa đến hết hy vọng giành độc lập bằng vũ trang.
Chú thích. Hiện nay, khái niệm văn minh rất rộng, nó trùm lên cả những gì tổng quát nhất của chủ nghĩa Mác. Đến nay, loài người (sau khi bước qua thời kỳ mông muội) đã trải qua nền Văn Minh Nông Nghiệp, với lao động chân tay và chế độ phong kiến. Thời điểm phát minh ra máy hơi nước đánh dấu sự ra đời của nền Văn Minh Công Nghiệp, với lao động qua máy móc và chế độ dân chủ. Đã có đầy đủ dấu hiệu cho thấy nền Văn Minh Tri Thức đang hình thành.
Cần có bài viết riêng về Lịch Sử Văn Minh.
Việt Nam đứng ở đâu? Chúng chưa thoát khỏi Văn Minh Nông Nghiệp (2/3 dân sống nhờ đất đai, nhưng đang mất quyền sở hữu). 
Ngày nay chẳng có gì khó hiểu về sự khác nhau giữa ý thức hệ phong kiến (Nho giáo) với ý thức hệ tư sản. Đó là sự khác nhau giữa hai thời đại (suy tàn và đang lên), giữa hai nền văn minh (nông nghiệp và công nghiệp). Có thời, ở phe XHCN mọi khái niệm tốt đẹp nếu bị gắn thêm hai chữ “tư sản” đều trở thành xấu. Ví dụ, tự do “kiểu tư sản”; dân chủ “kiểu tư sản”… Liệu có thể coi đây là một trong những thành công của chính sách ngu dân?  
Mức độ thấm nhuần tân thư
Tuy nhiên, mức độ thấm nhuần tân thư của mỗi người không như nhau. Có người đọc nhiều, có người đọc ít; có người may mắn được chiêm nghiệm lý thuyết từ thực tiễn; nhất là khi sống ở nước ngoài; thậm chí được gặp gỡ, trao đổi với các học giả… Ví dụ, cụ Phan Chu Trinh từng có quan hệ tốt với các nhân vật tiến bộ ở Paris, kể cả Clémenceau – người sáng tạo từ “trí thức”. Dù các cụ đều thống nhất phải từ bỏ Nho Giáo, nhưng mức độ thấm nhuần tân thư khác nhau, khiến các trí thức thế hệ 2 ở nước ta có biện pháp khác nhau khi hoạt động cứu nước. Thực tế, các cụ chia thành hai phái, với đại diện là cụ Phan Bội Châu và cụ Phan Chu Trinh (từ nay xin viết tắt là PBC, PCT).
Do vậy, đều là yêu nước, thương nòi, nhưng cái “đạo yêu nước” không thể giống nhau ở mọi thời. Có lần, cụ PCT nhận định về cụ PBC như sau: Ông ấy có lòng yêu nước nhưng không biết cái đạo yêu nước (Hữu ái quốc chi tâm, nhi bất tri sở dĩ ái quốc chi đạo)… 
Cũng do vậy, chuyện “canh tân” ở thế kỷ 20 (do cụ PCT đề xuất) cũng rất khác với “canh tân” ở thế kỷ 19 (do cụ Nguyễn Trường Tộ đề xuất). 
Vẫn chỉ là Độc lập trước hay Canh tân trước…
– Thế kỷ 19, khi Âu Mỹ đã bước vào nền văn minh mới – thể hiện bằng xã hội công nghiệp và chế độ dân chủ; nay đua nhau lùng sục khắp thế gian tìm kiếm thị trường, trong khi đó, châu Á vẫn chìm đắm trong văn minh nông nghiệp – với đặc trưng xã hội tiểu nông và chế độ phong kiến chuyên chế.
Ít nhiều chịu ảnh hưởng của văn minh tư bản, Trí thức thế hệ 1 có điều kiện ra đời ở nước ta, nhưng tất nhiên vừa mỏng manh (đốt đuốc đi tìm chỉ được hai vị tạm đủ tiêu chuẩn: Nguyễn Trường Tộ và Nguyễn Lộ Trạch) lại vừa đơn độc (rát họng năn nỉ canh tân, chẳng mấy ai nghe), nên bất lực khi đứng trước hai vấn đề nan giải – liên quan với nhau:
1) Có giữ được độc lập, mới có điều kiện và thời gian kịp canh tân đất nước;
2) Có canh tân thành công mới có đủ sức mạnh để giữ gìn độc lập.
Thật là một nan đề đầy mâu thuẫn của thế kỷ 19 – không những cho nước ta, mà cho cả mênh mông châu Á. Rốt cuộc, chỉ có Nhật (5% diện tích châu Á) thoát được khỏi cái vòng luẩn quẩn nói trên.
– Thế kỷ 20, trí thức thế hệ 2 của ta vẫn tranh cãi khi giải quyết nan đề này. Dẫu lúc này nước đã mất (và đã mất hẳn); nhưng vấn đề vẫn là: giành lại độc lập (rồi sẽ canh tân) hay thực hiện canh tân (để đủ sức giành độc lập).  
Bằng trực giác và từ tâm thức, lẽ ra giới trí thức phải đồng ý với cụ Phan Bội Châu (PBC) mà cho rằng, mất nước thì trước hết là phải giành lại nước (đánh đuổi quân xâm lược). Có độc lập, tha hồ canh tân. Cụ giải thích sự thất bại liên tiếp của mọi cuộc võ trang chống Pháp trước kia là do chưa tuyên truyền và gây cơ sở sâu rộng trong dân, đồng thời chưa biết tranh thủ các nước mạnh ở châu Á (cũng từng là nạn nhân của “bọn da trắng”)… Cụ không tán thành chuyện “hợp quần” và “vận động dân chủ” của cụ PCT, vì làm như vậy người dân sẽ chỉ chú ý “học Pháp”, “phục Pháp” mà sao lãng tinh thần chống Pháp. Cụ viết thư cho cụ PCT, có câu: “Than ôi! Mấy mươi năm ngụp lặn trong ao tù nô lệ lý thuyết phong kiến, có biết đâu tới những chuyện Lư Thoa, Mạnh Đức… Tình trạng như thế, việc hợp quần khó lắm đại huynh ạ! … Ôi dân chủ, ‘dân’ không còn nữa thì ‘chủ’ vào đâu? Lúc bấy giờ nếu đại huynh có bầu nhiệt huyết cũng không còn chỗ thi thố nữa”. Tóm lại, theo cụ, cứ tạm gác chuyện “dân chủ” lại.
Nhưng bằng lý trí và cân nhắc, dưới sự hướng dẫn của ý thức hệ mới, và hiểu được tình hình thế giới, hiểu rõ chủ nghĩa thực dân, cụ Phan Chu Trinh (PCT) lại quan tâm canh tân. Cụ khẳng định: Võ trang, bạo động, cách gì cũng sẽ thất bại. Trông chờ vào sự cứu giúp của nước ngoài là “ngu”. Người chủ xướng bạo động có thể dám chết, nhưng không có quyền lôi kéo quần chúng cùng chết (vô ích) với mình. Khi hai cụ đang thăm Nhật (1906), cụ PCT nói: “Trình độ quốc dân Nhật Bản như thế này, mà trình độ quốc dân ta như thế kia… thì không làm nô lệ sao được? Dân trí đã thấp, dẫu có độc lập, người dân vẫn chỉ là đám nô lệ cho giới cai trị bản xứ – không khác chế độ phong kiến. Cụ PCT từng viết: “Nếu chưa có tư cách quốc dân độc lập, dẫu có nhờ cậy ở nước ngoài (để có độc lập) vẫn là chỉ diễn cái trò “đổi chủ để làm đầy tớ lần thứ hai mà thôi”, không ích gì …”. Do vậy, cụ chủ trương canh tân. 
Lời khuyên của Lương Khải Siêu
Trong cuộc bút đàm “đẫm lệ” (1905) giữa cụ PBC và cụ Lương Khải Siêu, cụ Phan “đẫm lệ” nói về khát vọng mưu độc lập cho đất nước. Qua sự trình bày, nhiệt huyết có thừa, nhưng rất thiếu am hiểu tình hình thế giới; do vậy đã được cụ Lương nói cho biết. Khi cụ Phan bộc lộ ý định nhờ Nhật giúp, cụ Lương vội khuyên: Mưu ấy sợ không tốt. Quân Nhật đã một lần vào nước, quyết không lý gì đuổi nó ra được. Theo cụ Lương, người Việt cũng như người Trung Quốc, cần nâng cao dân trí (để khỏi ngu muội) và dân khí (để hết nhu nhược) mới tạo thực lực quốc dân. “Quý quốc chớ lo không có ngày độc lập, mà chỉ nên lo quốc dân không có đủ tư cách độc lập. Thực lực của quý quốc là dân trí, dân khí và nhân tài”. Qua đó, chúng ta thấy Phan Chu Trinh thật sự vĩ đại và cụ PCT chính là Lương Khải Siêu mang quốc tịch Việt vậy! Còn cụ PBC? Phải 20 năm sau, khi cụ bị giam suốt đời ở Huế, cụ mới nhận ra sai lầm của mình.
Tấm gương về sự… cố chấp?
Hai cụ Phan đã ba lần gặp nhau (1903, 1904, và 1906). Hai cụ không khác nhau về lòng yêu nước, thương nòi. Về nhiệt huyết, cụ PBC sôi sục và cảm tính bao nhiêu, cụ PCT kiên định và lý trí từng ấy. Nhưng về cách thực hiện, ngay lần đầu gặp nhau hai cụ đã bất đồng, vì khác nhau về cái “đạo yêu nước”. Và càng bất đồng khi gặp nhau lần cuối (1906).
Đây là dịp gặp nhau dài nhất, sống với nhau hàng tháng trời, lúc đầu ở Quảng Đông, rồi cùng sang Nhật, cùng đàm đạo về con đường cứu nước. Cụ Phan Bội Châu (bị cụ PCT nhận xét là đọc ít) khi tiếp xúc với xã hội Nhật chỉ nhìn ra sức mạnh vật chất đang nằm trong tay giới cầm quyền (năm 1905, họ thắng nước Nga “da trắng”), do vậy cụ hi vọng cường quốc “cùng da vàng như ta” sẽ giúp ta. Cụ viết nhiều, nhưng ít lập luận, ít phân tích tình hình, mà chủ yếu là thiết tha kêu gọi và kích động lòng căm phẫn bọn giặc (nay đã là thực dân). Còn cụ Phan Chu Trinh lại thấy nước Nhật mạnh là nhờ dân trí cao; đồng thời thấy giới cai trị Nhật rất tham lam, tàn bạo – sắp thôn tính Triều Tiên (cũng da vàng). Họ chẳng khác gì quân xâm lược Pháp đã thôn tính Việt Nam. Không thể trông cậy.
Bất đồng càng sâu sắc khi cụ được xem kế hoạch hành động của Hội Duy Tân mà cụ Phan Bội Châu đang thành lập. Thực chất, đây là một hội kín (ám xã), chủ trương bạo động. Dẫu được can ngăn, cụ vẫn khăng khăng thực hiện. 
Phong trào Duy Tân và Hội Duy Tân
Nghe cái tên đã có thể phân biệt sự khác nhau. Từ Điển mở (Wikipedia) nói rất đủ.
Phong trào Duy Tân do cụ PCT khởi xướng, nhằm nâng cao dân trí, bài trừ hủ tục, học làm ăn, áp dụng khoa học và tự bảo vệ các quyền lợi hợp pháp. Tổng hợp lại, phong trào muốn tạo ra một giai cấp mới: giai cấp tư sản. Cách thức thực hiện: Ôn hòa, hợp pháp và công khai (do vậy, gọi là minh xã).
Còn Hội Duy Tân là một tổ chức, bí mật (do vậy gọi là ám xã), chủ trương gây dựng lực lượng để chống Pháp bằng bạo động.
Cả hai (Phong trào và Hội) cùng hoạt động song song. Cũng thời gian đó, dân các tỉnh miền Trung do chịu sưu thuế cao, đã đấu tranh ngày càng quyết liệt, xu hướng bạo động ngày càng rõ. Dễ hiểu, các vị lãnh đạo phong trào Duy Tân không tán thành cách đấu tranh như vậy, nhưng các vị ở Hội Duy Tân (đang ở nước ngoài) thì rất khích lệ. Khi Pháp đàn áp “vụ chống thuế”, các vị ở Phong Trào Duy Tân bị vạ lây, còn các vị ở Hội thì an toàn. Cụ Trần Quý Cáp và nhiều người khác bị xử theo luật Gia Long (tử hình, chém ngang lưng). Cụ Phan Chu Trinh đang ở Hà Nội (tham gia Đông Kinh Nghĩa Thục) cũng bị triều đình gán tội (án tử hình). Thoát án, cụ càng không tán thành cách đấu tranh bạo động, vì chắc chắn sẽ thất bại, mà còn đưa đến cái chết vô ích cho rất nhiều người.  
Phân biệt “quân xâm lược” với “bọn thực dân”
Thời hai cụ Phan hoạt động, tư bản Pháp đã hết đóng vai “quân xâm lược”. Đó là chuyện từ nửa thế kỷ trước. Sau khi củng cố xong bộ máy cai trị ở nước ta, tư bản Pháp đóng vai trò thực dân (colonialist), còn nước ta thành thuộc địa (colony). Người duy nhất phân biệt được xâm lược với thực dân, chính là cụ PCT.
Chú thích. Trong môn Vi Khuẩn Học (Bacteriology) khi cấy một giống vi khuẩn (bản chất là “cây”) từ môi trường này sang môi trường khác, nó sẽ sinh sôi thành một “cụm” – gọi là khuẩn lạc (colony). “Lạc” có nhiều nghĩa, ở đây nó cùng nghĩa lạc trong “bộ lạc”.
Áp dụng vào nông nghiệp, khi đưa một giống cây từ xứ này sang xứ khác, người ta dùng từ “di thực” (di và thực). Như vậy, “thực” (có nhiều nghĩa, chữ Hán viết khác nhau); còn ở đây, nó có nghĩa là trồng, cấy sang môi trường mới.
Vận dụng vào chính trị, thực dân (Pháp) là những người (Pháp) được “cấy” (cho mọc, sinh sôi) ở nước ta. Nói khác, đó là những người đang và sẽ sinh cơ lập nghiệp (nhiều đời) ở vùng đất mới. Họ vẫn có quan hệ với chính quốc, chịu sự chi phối của chính quốc, vẫn thực hiện mọi thể chế và pháp luật của chính quốc. Để có cuộc sống không kém bên chính quốc (mà họ đã quen hưởng) họ thực tâm xây dựng một xã hội phù hợp ở thuộc địa, trước hết dành cho chính họ. Thực dân da trắng ở Nam Phi, hoặc thực dân Anh ở Úc, trong thời gian không dài lắm đã phát triển đất nước này không kém chính quốc (nước Anh). Mandela – dù sinh sau cụ PCT tới nửa thế kỷ, đã hành động giống như cụ PCT của ta. Chỉ có điều Madela thành công, còn cụ Phan thất bại. Ở Việt Nam dưới thời thuộc Pháp có hai thể chế: Triều đình (luật Gia Long, rất lạc hậu và tàn bạo) và thể chế của nước Pháp áp dụng cho giới thực dân. Cụ PCT chủ trương triệt để xóa bỏ thể chế lạc hậu, đòi thi hành thể chế của nước Pháp cho toàn dân. Muốn vậy, phải nâng cao dân trí để dân “hợp quần” đòi hỏi dân chủ.
Nói ngoài bài. Ngay năm nay (2015) nếu ta thay Hiến Pháp XHCN bằng HP của của nước Pháp thời cụ PCT thì sao? Có ai để tâm suy nghĩ chuyện này không?
Có thể nói, qua chủ trương “Khai dân trí, chấn dân khí, hậu dân sinh”, “Ỷ Pháp cầu tiến bộ” (dựa vào Pháp, mong tiến bộ) và “Chi bằng học” (không gì bằng học”… cụ Phan Chu Trinh (PCT) là vĩ nhân duy nhất ở nước ta đã nhìn ra “thực dân” khác với “quân xâm lược”. Bản thân hai cụ PCT và PBC đều thoát chết là nhờ luật pháp thực dân. Chả là, chiếu theo Luật Gia Long, triều đình ghép hai cụ vào tội “chống Vua”, phản loạn. Nói theo ngôn ngữ thời nay, đó là “chống Nhà Nước”. Đây là tội “chắc chết”, vì chỉ càn mắc tội “khi quân” (dối vua) đã đủ chết đứ đừ rồi. Nhưng may, về sau các cụ được xử theo “luật thực dân” (luật của nước Pháp) và tòa án có vị trí độc lập, nên hai cụ thoát án tử. 
Ý kiến của cụ PCT về giác ngộ dân quyền
Khi cụ PCT từ Nhật chuẩn bị về nước (1906), cụ tha thiết dặn lại cụ PBC: 1) Nên ở lại Nhật (đừng về nước thực hiện chủ trương “bài Pháp”; 2) Tính dưỡng, giữ sức khỏe; 3) Chú tâm vào việc viết sách giác ngộ dân chớ không “hô hào bài Pháp”. Và cuối cùng là “Chỉ nên đề xướng dân quyền, dân mà đã biết có quyền tức mọi việc khác có thể lo tính dần dần”.
Như vậy, một cách nâng cao dân trí là làm cho dân biết mình có những quyền gì.
Té ra, chẳng có gì khó hiểu. Nhiều viên chức trong bộ máy cai trị của Pháp lẽ ra có trách nhiệm thực hiện những quy định về “quyền dân”, nhưng vì lợi ích riêng, họ cứ lờ đi. Thời nay, ngay các vị đảng viên CS dù đã leo lẻo tuyên thệ trước cờ, nhưng vì lợi ích riêng vẫn cứ vi phạm các quyền hợp pháp của dân. Trách gì các viên chức 150 năm trước?
Những “nhóm lợi ích” trong bộ máy cai trị thời đó còn đủ khả năng gây áp lực để các vị quan Toàn Quyền (do chính phủ Pháp cử sang) – nếu là người tiến bộ (cản trở nhóm lợi ích lộng hành) – bị triệu hồi về nước.
Bên Pháp, có nhiều tổ chức (đảng phái) tiến bộ. Các nhân vật thuộc các tổ chức này sẵn sàng lên tiếng nếu nhận được các tố cáo về những hành động vi phạm. Những chính khách thuộc các tổ chức này, nếu được cử sang đứng đầu bộ máy cai trị ở Đông Dương, đều thực thi các chính sách tiến bộ. Nhiều người muốn để lại những thành tích và tiếng khen. Nhưng sử học Marxist cứ nhất loạt lên án. Cụ Phan Chu Trinh phân biệt rất rõ “xâm lược” và “thực dân” nên đề xuất mộ đường lối rất phù hợp. Trước hết là nâng cao dân trí, trong đó cần cho dân biết mình có những quyền gì.
Có một vài bài viết của người thời nay, bàn về khái niệm dân trí  cách nâng cao dân trí, chẳng qua là dựa vào ý kiến của cụ PCT từ 1906 mà thôi
Thứ “sử học” lệch lạc, cực đoan
Chê gì, chê hết lời. Khen gì, khen lấy khen để. Và công khai thừa nhận: Sử học phục vụ chính trị. Do vậy, khi nói về thời kỳ thuộc Pháp, thứ “sử học” này chỉ một mực lên án.
Các chủ trương hợp thời và tiến bộ của cụ PCT đã bị thứ “sử học” này gọi là “chủ nghĩa cải lương” thì còn trông mong gì chuyện đánh giá cụ cho công bằng?. Vậy “chủ nghĩa cải lương” là gì? Không thiếu tài liệu. Dưới con mắt của các nhà sử học Marxist, chủ nghĩa này cực xấu, đáng nguyền rủa. Kautsky, Bertein là những lãnh đạo kỳ cựu của Quốc Tế CS II, rất thân thiết với Engels, và hơn Lenin hàng chục tuổi. Khi hai vị này chủ trương đấu tranh hợp pháp, hòa bình, trong xã hội tư bản để cải thiện quyền lợi cho công nhân, đã bị Lenin coi là theo “chủ nghĩa cải lương”. Một vị bị Lenin gọi là “tên phản bội”, cụ kia bị gọi là “tên xét lại”. Sách báo của đảng ta cũng có (nhiều) bài về hai “tên” này. “Chúng” cùng một duộc với cụ PCT.    
Nếu chúng ta chỉ rảnh rỗi 60 phút…
Thời nay, nên đọc gì để tạm đủ hiểu các cụ PBC và PCT?
Số tư liệu viết về các cụ Phan Bội Châu và Phan Chu Trinh có thể đo bằng đơn vị “ngàn trang”, “ngàn trang” và “ngàn trang”…, lại rất dễ kiếm. Chọn đọc loại nào và đọc ngần nào… là tùy theo mục đích riêng mỗi người.
Bài 5 này, dù có “tóm” cách nào cũng không tránh được dài dòng, mà vẫn thiếu. Nếu trong bài, tư liệu đã không mới, lại chẳng có nhận định gì mới, lại càng vô duyên. Nhưng nếu chúng ta chỉ có thể dành ra 60 phút, với yêu cầu “tạm đủ để hiểu tổ tiên” thì có lẽ – ngoài wikipedia – có hai bài đáng đọc (và sẽ thấy cần biết ơn tác giả của hai bài này).
– Một bài giúp ta thấy được sự khác nhau giữa hai cách thức cứu nước, trong đó cách của cụ PCT là phù hợp, lẽ ra cần áp dụng cho thời đó. Và điều sửng sốt là nó vẫn hiệu quả tối đa nếu áp dụng cho ngay thời nay (thế kỷ 21).
Đó là bài:
Ý nghĩa tác phẩm TÂN VIỆT NAM của Phan Châu Trinh
GS Vĩnh Sính (tháng 11, 2006; nhân 100 năm Phong Trào Duy Tân 1906-2006)
http://www.diendan.org/
 Một bài khác, cho thấy cụ PCT có cả một cương lĩnh. Điều kinh ngạc là cương lĩnh này vẫn còn phù hợp và tiên tiến ngay ở thời đại chúng ta. Nói khác, nó phù hợp và tiên tiến hơn tất thảy những “cương lĩnh” đã và đang có mặt ở nước ta.
Đó là bài: Cương lĩnh chính trị của Phan Châu Trinh, tác giả: Mai Thái Lĩnh.
http://www.chungta.com/

Hai cụ Phan để lại những gì

Về vai trò lịch sử của hai cụ Phan Bội Châu và Phan Chu Trinh (xin viết tắt là PBC và PCT) và quan hệ giữa hai cụ với nhau… đã có nhiều bài rất giá trị và trung thực. Nếu ít thời gian, muốn đọc ngắn để hiểu tương đối đầy đủ và gần sự thật nhất (so với sách Giáo Khoa), thiết tưởng, có 2 tài liệu đáng đọc:
1) Thử nhìn lại vị trí của Phan Bội Châu và Phan Châu Trinh trong hành trình dân tộc vào đầu thế kỷ XX
2) Phan Bội Châu và Phan Chu Trinh
Còn bài này, cố điểm qua những di sản tinh thần mà hai cụ để lại.
– Trước hếtcác cụ để lại nhiều cách yêu nước.
– Tiếp, là những bài học lịch sử.
– Sau nữa, là một sứ mệnh trao lại;
–  cuối cùng, là nỗi trăn trở (sự nghiệp dở dang, hoặc thất bại). 
ĐỂ LẠI NHIỀU CÁCH YÊU NƯỚC
Dù bạo động hay ôn hòa: Vẫn là yêu nước
 Hai cụ sống cùng thời. Giống nhau rất nhiều: Cùng xuất thân nho giáo, cùng có 20 năm tranh đấu, cùng mang trên đầu bản án tử hình. Rất hiểu chủ trương của nhau, tranh luận nhưng vẫn thân thiện và tôn trọng nhau. Khác nhau chỉ là cách tranh đấu: Bạo lực và ôn hòa; nhưng đây là sự khác nhau giữa Lửa và Nước. Tranh luận giữa hai cụ có ảnh hưởng rất lớn tới sự chọn con đường, chọn cách hành động của giới trí thức yêu nước đương thời. Dần dần, họ chia thành hai phái.
 Dù vậy, hai cụ đều tuyệt đối yêu nước.
Cụ Phan Bội Châu từ đầu cho rằng “hễ còn một tên xâm lược trên đất nước ta, ta phải chiến đấu quét sạch chúng đi”. Đây là suy nghĩ rất thông thường không những của giới sĩ phu – mà cả của dân thưởng – sống ở một nước nhược tiểu, ngàn năm nơm nớp lo bị xâm chiếm. Nhưng thực tế, diễn biến lịch sử đã vượt tầm nhìn của cụ Phan Sào Nam.
Còn cụ Phan Chu Trinh? Cụ hành động theo cách chưa từng ai nghĩ, chưa từng có. Nhưng xuất phát từ viễn kiến: Cụ coi nước ta bị áp đặt một chế độ tiến bộ hơn chế độ phong kiến, thực tế là ta không thể dùng sức mạnh chống lại (sau 30 năm đã “thử chống”). Dù mục đích của thực dân là khai thác thuộc địa, nhưng cụ còn thấy nó có cả tác dụng khai hóa nữa.    
– Điều tất nhiên là giới trí thức yêu nước thời đó (thế hệ 2) cũng ngả theo quan điểm – này hoặc kia – của hai cụ mà chọn cách đấu tranh. Hoặc là hoạt động bí mật (nếu định dùng bạo động), hoặc là công khai (ôn hòa). Dù vậy – theo gương hai vị đứng đầu – họ vẫn gần gũi, đoàn kết. Nhiều người thực thi cả hai cách, tùy hoàn cảnh. Nhiều vị trong Hội Duy Tân (ám xã) vẫn tham gia một số hoạt động của minh xã Duy Tân. Ví dụ, cụ Nguyễn Hàm là nhân vật số 2 trong Hội Duy Tân vẫn giúp tiền bạc cho Phong Trào Duy Tân thực hiện “hậu dân sinh”. Cụ Lương Văn Can sáng lập Đông Kinh Nghĩa Thục (ôn hòa), nhưng lại cho con (Lương Ngọc Quyến) sang Nhật và Tàu học quân sự, sau trở thành người khởi xướng cuộc bạo động ở Thái Nguyên. Nhiều người lúc đầu theo đường lối bạo động, sau chuyển sang ôn hòa. Và ngược lại, cụ Nguyễn Thượng Hiền chuyển từ ôn hòa sang bạo động. Tình hình ở Nam Bộ cũng tương tự, góp 50% nhân sự cho phong trào Đông Du. Không bao giờ các vị trong hai phái mâu thuẫn tới mức để thực dân có thể lợi dụng.
Chú thích
Có thể nói hai cụ Phan là tác nhân tạo ra hai dòng chủ lưu trong phong trào yêu nước của trí thức đầu thế kỷ 20: Bạo lực và ôn hòa; liên quan tới hai nhiệm vụ cách mạng độc lập dân tộc và tiến bộ xã hội. Hai dòng này lúc đầu còn hòa quyện nhau, sau cứ dần dần tách xa nhau. Dòng của cụ PBC cuồn cuộn đầy sóng dữ, có sức phá hoại mãnh liệt, nhưng thực dân – với sức mạnh vượt trội – đã xây dựng được cơ sở vưng chắc cho chế độ cai trị, có đủ sức chế ngự dòng chảy này. Sau khi va đập nhiều lần, năng lượng của dòng này cạn dần… Năm 1918, cụ Phan chuyển sang đấu tranh ôn hòa. Thay thế cụ, chỉ có một người xứng đáng: Nguyễn Ái Quốc. Cụ này, tuy chủ trương bạo lực nhưng vẫn tiếp thu nhiều biện pháp ôn hòa. Trớ trêu là cụ Ái Quốc tạo ra thế hệ 4 cực kỳ bạo lực, khiến số phận cụ cũng rơi vào tình cảnh trớ trêu…
– Nhưng điều bất ngờ là chỉ sang thế hệ 3, sự khác nhau về đường lối (bạo động và ôn hòa) đã đưa đến mâu thuẫn nặng nề, chia rẽ; tới mức chỉ trích, lên án và kỳ thị nhau (Lê Dư, Nguyễn Bá Trác… bị coi là “phản bội”, Phan Bá Ngọc bị ám sát). Bất ngờ lớn nhất, là tới thế hệ 4 và 5 mâu thuẫn càng cực đoan. Khi giành được chính quyền, phe bạo động đã đối xử tàn bạo với phe ôn hòa. Ví dụ, cụ Bùi Quang Chiêu, Dương Văn Giáo… bị giết ngay khi ta cướp chính quyền ở Nam Bộ (1945). Nội bộ phái bạo động lại càng khó dung hòa nhau; ví dụ vụ Tạ Thu Thâu, Phan Văn Hùm… Trớ trêu là cùng yêu nước, nhưng không thể chấp nhận nhau. Cụ Hồ từng nhận định: Ngô Đình Diệm, Tạ Thu Thâu đều yêu nước (!).
Chú thích: Các tên tuổi nêu trong bài có thể tra cứu ở Wikipedia.
– Sách “Tự phán” và sự trớ trêu lịch sử. Cuối đời, cụ Phan Bội Châu tự phê phán đường lối bạo động của mình là sai lầm, là có tội (phung phí xương máu). Cụ không còn dịp nào xin người bạn chiến đấu của mình tha thứ, vì ngay sau khi cụ bị thực dân giam giữ, cụ PCT cũng từ trần. Dịp ấy, cụ PBC tỏ lòng thương tiếc, có câu “ông có thứ (lỗi) cho tôi không”?… Nói khác, nếu được làm lại từ đầu, cụ sẽ cự tuyệt chủ trương bạo động. Trớ trêu là vẫn có nhiều trí thức yêu nước tiếp tục con đường này. Trớ trêu nữa là… họ thành công. Lý luận đấu tranh giai cấp là nguồn cổ vũ rất lớn. Sự trớ trêu tiếp theo là lời cảnh báo của cụ Phan Chu Trinh té ra không thừa: Nếu dân trí vẫn thấp thì độc lập chỉ là thay ông chủ.
Chú thích.
Trong tác phẩm Tự Phán, cụ PBC viết:
“Than ôi! Việc đời quá chừng trắc trở, cơ trời quá khó đo lường, hy sinh oan đồng bào mà không có kết quả gì, thiệt là đại tội cực ác của tôi, mà tôi phải muôn vàn thừa nhận.
“Vứt đầu sọ chí sĩ, hao huyết tủy nghĩa dân không biết bao nhiêu mà kể, mà những điều sở kỷ vẫn chẳng mảy may gì như ý! Nếu bảo tôi, lần này trở về nước Nam, chỉ có tội nặng mà không có công gì, tôi cũng hết lời chối cãi!
Vứt thủ cấp chí sĩ, hao tủy huyết nghĩa dân: Đó là cụ nghĩ tới sinh mạng đống chí và nghĩa quân hy sinh (theo cụ là vô ích) trong các cuộc ám sát và bạo động do Hội Quang Phục chỉ đạo.
Con đường bạo động của cụ PBC thất bại. Tuy nhiên, nếu cộng tất cả những thất bại của cụ (Hội Duy Tân và Hội Quang Phục) vẫn thua xa các thất bại của Xô-viết Nghệ-Tĩnh và Khởi nghĩa Nam Kỳ. Nếu đem so những lời tự phán ở trên với những lời tự nhận định, tự đánh giá (rút kinh nghiệm) sau thất bại của Xô-viết Nghệ-Tĩnh và Khởi nghĩa Nam Kỳ, thì có sự khác nhau khá rõ.
– Bài học các cụ để lại là hãy thừa nhận có nhiều cách yêu nước. Bài học đơn giản, dễ hiểu, nhưng không dễ học. Phe bạo lực coi thực dân là kẻ thù không đội trời chung, chỉ có thể đối xử duy nhất bằng bạo lực. Họ phải hoạt động bí mật, dễ bị khủng bố, do vậy rất dễ nảy ra tâm lý kỳ thị, tức giận phe ôn hòa, coi họ là nhu nhược, “cầu xin” kẻ thù, không triệt để cách mạng, mà còn dễ trở thành cộng tác với kẻ thù. Ngay khi chưa thành công, phe bạo lực đã nghi ngờ, rồi kỳ thị và căm ghét phe ôn hòa. Bởi vậy khi thành công họ cũng dùng bạo lực với với phe này. Dễ hiểu, con đường bạo lực thường cực đoan, kém khoan dung.   
Chú thích.
 Khi có quyền viết Lịch Sử, các trí thức yêu nước thế hệ 3, 4 và 5 theo con đường bạo lực (của cụ PBC) chưa bao giờ nêu những gì mà cụ đã “tự phán”. Sách giáo khoa lại càng như vậy. Ngược lại, họ phê phán nặng nề chủ trương ôn hòa – kể cả trong hoàn cảnh “bạo động tắc tử”. Cụ Hà Huy Tập mạt sát nặng nề chủ nghĩa cải lương (đấu tranh ôn hòa, dẫn đến lẫn lộn bạn-thù). Thực ra, tháng 8-1945 Việt Minh giết hại các nhân vật Bùi Quang Chiêu, Dương Văn Giáo, Tạ Thu Thâu… mới là lẫn lộn bạn-thù; vì không thừa nhận cách đấu tranh (hợp pháp, ôn hòa) của các nhân vật này cũng là yêu nước. GS Trần Văn Giàu khi viết lịch sử còn chê bai cụ PBC (đại ý) “có lúc ngả sang chủ trương cải lương“… Còn đánh giá toàn bộ hoạt động của cụ Phan, vị GS này kết luận:thực chất là tư tưởng tư sản chứ không phải cái gì khác.  
– Câu hỏi là tại sao không một ai thuộc phe chủ trương bạo lực dám nặng lời phê phán cụ Phan Chu Trinh (như cái cách cụ Hà Huy Tập phê phán cụ Nguyễn Ái Quốc)?.
Ít nhất vì hai điều: 
1) Khi cụ Phan bắt đầu cuộc đời đấu tranh, kẻ thù đã tặng ngay cho Cụ bản án tử hình. Đố ai dám bào cụ không yêu nước. 
2) Khi cụ mất, cả nước thương tiếc, với đám tang lớn chưa từng thấy. Do vậy, ai ngu gì mà dám nặng lời phê phán cụ? 
Oai như GS Trần Văn Giàu nhưng vẫn viết rất chừng mực về cụ. Nhưng sau này, những đồ đệ của cụ PCT thì không còn được phe bạo động kiêng nể gì nữa.  
– Cũng dễ hiểu, khi các cụ Mác và Anghen đề xuất đường lối đấu tranh giai cấp, phe yêu nước bằng cách bạo động thấy ngay đây là vũ khi tư tưởng mà họ cần. Cuối đời, Mac và Anghen đã tự nhận nhiều sai lầm quá tả, nhưng các đồ đệ ở Việt Nam lờ tịt sự “tự phán” này. Cũng dễ hiểu như trên, lý luận bạo lực của cụ Lenin càng được họ hoan nghênh.
ĐỂ LẠI NHỮNG BÀI HỌC
Bài học lớn nhất?
Không thể tham vọng nêu hết các bài học người xưa để lại. Điều đó quá sức. Bài học chấp nhận có nhiều cách yêu nước đã nêu ở trên. Có lẽ bài học lớn nhất từ 150 năm nay vẫn là giải quyết câu hỏi về tương quan giữa  Độc Lập và Canh Tân – như đã được đặt ta từ thời cụ Nguyễn Trưởng Tộ.
– Cuối thế kỷ 19, nền độc lập bị đe dọa. Như đã phân tích từ các bài trước, chỉ có canh tân mới giữ được độc lập, nhưng các điều kiện xã hội – để tiếp nhận và thực hiện canh tân – ở nước ta chưa có. Muộn mất rồi. Dẫu nước ta có cụ Fukuzawa Yukichicụ cũng bó tay. Muộn rồi. Việt Nam đành chung số phận với các nước châu Á khác: Đó là bị thôn tính. Tỷ lệ dân và đất đai ở châu Á thoát bị chiếm đóng chỉ là 5%. Đừng nên tỏ ra “tiếc đứt ruột” để quy kết toàn bộ tội lỗi cho triều Nguyễn.
– Sang thế kỷ 20, nước đã mất. Suốt 30 năm, mọi cuộc vũ trang giành lại độc lập đều thất bại. Cụ PBC tiếp tục theo đuổi bạo lực thêm 20 năm nữa, khiến bài học càng đắt giá. Chỉ còn cách canh tân, nhưng canh tân cũng phải khác hẳn trước. Canh tân để mưu đồ độc lập lúc này phải nhằm vào dân trí, dân khí, dân sinh…
Bài học lớn đã được của cụ PCT dạy: Dẫu giành được Độc lập nếu dân trí vẫn thấp hèn, dân khí vẫn nhu nhược, thì nguy cơ là giới cầm quyền sẽ thành ông chủ mới. Số phận người dân vẫn phụ thuộc vào thiện chí của giới cầm quyền.
Chú thích
– Hai khái niệm được cụ Phan Chu Trinh phân biệt: Thầy-Trò và Thầy-Tớ. Cụ nói: Nếu ta coi người Pháp là “thầy”, họ sẽ coi ta là “trò”. Thầy sẽ dạy, trò sẽ học để tiến ngang thầy – xứng đáng hưởng độc lập. Ngược lại, nếu có độc lập mà dân trí, dân khí không tương xứng để hưởng độc lập… thì nguy cơ là giới cầm quyền sẽ xưng “Thầy”, rồi không ngớt kể công với “Tớ”.
– Hai sự kiện. Năm 1945-1946 Hồ Chí Minh coi “dốt” là giặc, chủ trương diệt giặc dốt (trong 1-2 năm phải thanh toán nạn mù chữ cho toàn dân, Hoàng Xuân Hãn soạn chương trình mới “biết đọc, biết viết sau 30 ngày học tập”). Thư gửi học sinh cả nước có câu: Nước ta có sánh vai được với các cường quốc ở năm châu hay không, phần lớn là nhờ công học tập của các cháu”.
– Hai câu hỏi. 
a) Sau 70 năm, những người chứng kiến hai sự kiện trên đến nay đã chết… gần 100%. Dân trí Việt Nam hiện nay thế nào? 
b) Vì sao các quyền dân ghi trong Hiến Pháp hầu hết là “hư quyền” hoặc vẫn nằm trên giấy? Dân khí người Việt hiện nay thế nào?
– Sang thế kỷ 21. Liệu cách mạng Việt Nam có gì khác, ngoài 9 chữ “khai dân trí, chấn dân khí, hậu dân sinh” – khi người dân vẫn thờ ơ hoặc ấm ức với các quyền của mình chính thức ghi trong Hiến Pháp?.
Liệu đây có phải là bài học lớn nhất từ 150 năm trước để lại?.
Những bài học cụ thể
– Thứ nhất, khi độc lập đã mất
Bài học thời hai cụ Phan là… nếu chế độ chính trị của “bọn cướp nước” cũng chỉ ngang như chế độ của ta, ta phải chống lại, chống lại đến kỳ cùng; không những chống từ khi chưa mất nước mà cả khi đã mất nước. Đó là bài học từ thời Lê Lợi. Bởi lẽ, một chế độ của chúng chỉ ngang với chế độ của ta thì mục đích xâm chiếm chỉ là khai thác, đồng hóa, kể cả diệt chủng; mà không thể trông mong gì chuyện khai hóa, mở mang cho ta. Các cuộc chống Tống, Nguyên, Minh là vậy. Khi Pháp xâm lược, cụ Phan Chu Trinh thấy chế độ của Pháp tiến bộ hơn chế độ của ta, cụ chủ trương “ỷ Pháp cầu tiến bộ”. Còn cụ Phan Bội Châu gọi Pháp là “man di”, do vậy càng phải chống lại quyết liệt.
Chú thích
Bước vào thế kỷ 20, ngoài chế độ tư bản, còn xuất hiện chế độ XHCN. Thế giới chia thành 2 phe, phe này chê phe kia đủ điều. Nhưng thật sự phe nào tiến bộ hơn? Thực tế cho thấy, cần có thời gian chiêm nghiệm. Bởi vì, trái với lý thuyết ban đầu, khiến ta phân vân: phe XHCN sau 70 năm tồn tại đã sụp đổ. Liệu có phải chế độ này tiến bộ hơn chế độ tư bản?.
Dẫu sao, dường như bài học thời hai cụ Phan vẫn nguyên giá trị. Và cách xử sự theo bài học vẫn dẫn tới thành công. Vấn đề là đánh giá chế độ chính trị của nước xâm lược. Hai minh chứng:
1) Sau năm 1945, khi Pháp – và sau đó là Mỹ – đem quân vào nước ta, ta coi họ thuộc về chế độ “lỗi thời” và “lạc hậu” (gọi tắt là “lỗi lạc”), do vậy ta đã chống lại. Và thành công.
2) Năm 1979, Trung Quốc xâm lược ta, chế độ chính trị của họ tuy tiến bộ hơn chế độ tư bản, nhưng vẫn chẳng hơn gì ta – thế thì… ta phải chống lại. Và cũng đuổi được giặc.
Sau 1979, chế độ ưu việt của ta tiếp tục phát triển – đã trên 3 thập niên – đến nay xếp hạng nào?
– Ngày nay, sau trăm năm, chúng ta thừa “khôn hậu” để thấy rằng… ngay khi triều đình còn huy động được hàng vạn quân cho một trận đánh; vậy mà ta vẫn cứ thua, mặc dù trong mỗi trận số quân của địch chỉ bằng 1/5 hoặc 1/10 số quân ta. Ta thua cả khi phòng ngự lẫn khi tấn công.
– Trận giữ đồn Kỳ Hòa, ta cố thủ, có thành lũy che chắn mà thương vong vẫn gấp 10 lần quân địch. Còn tấn công? Trận đánh đồn Mang Cá, ta chết gấp trăm lần kẻ thù… Huống hồ các cuộc khởi nghĩa sau này: Tất cả sảy ra ở địa bàn nhỏ hẹp, lực lượng mỏng manh, vũ khi thô sơ, làm sao chống được kẻ địch khi chúng đã vững chân trên đất nước ta? Do vậy, lẽ ra phải từ bỏ con đường bạo động sau khi phong trào Cần Vương đã thất bại hắn.
Chú thích
– Khi thấy các cuộc khởi nghĩa đều thất bại, cụ Phan Bội Châu cũng tự rút ra nhiều bài học:
1) Phải lập hội (đảng) bí mật, phát triển lực lượng đủ mạnh mới khởi nghĩa (cụ lập 2 Hội, cố gắng phát triển nhiều cơ sở, gửi người ra nước ngoài học quân sự, tìm cách liên kết với cụ Đề Thám ở Yên Thế…);
2) Phải tuyên truyền rộng rãi chủ trương, đồng thời kích động lòng yêu nước và căm thù thực dân. Cụ viết hàng ngàn trang kêu gọi đầy nhiệt huyết, khích lệ lòng căm thù; nay đọc lại vẫn xúc động;
3) Phải có tầm nhìn rộng. Cụ có đọc Tân Thư, có ra nước ngoài – dù chỉ trong châu Á – tiếp xúc nhiều nhà cách mạng; do vậy có tầm nhìn rộng hơn các lãnh tụ khởi nghĩa. Dưới con mắt cụ, tình hình thế giới khi đó là “họa da trắng” mà nạn nhân là “da vàng”. Do vậy, cụ chủ trương cầu viện Nhật – là nước thoát họa xâm lăng, lại còn đánh thắng Nga (da trắng).
4) Chủ trương bạo động thất bại, có thời gian cụ bị giằng co giữa đấu tranh ôn hòa và bạo lực; nhưng đến cuối đời cụ cũng rút được bài học giá trị nhất cho chính mình.
– Cầu qua sông Hồng khánh thành năm 1902, mặc dù khởi nghĩa Yên Thế tới tận năm 1913 mới tắt hẳn. Cụ PBC lập Hội Duy Tân, chủ trương bạo lực. Có ý kiến nói: Cứ cho rằng đúng lúc Hội của cụ mạnh nhất, cả Hội mang cuốc thuổng, gậy gộc, gươm giáo, súng cá nhân… hè nhau đến phá cái cầu này suốt 24 giờ (không ai ngăn cản). Liệu có phá nổi?
– Thứ hai, chuyện Canh Tân mỗi thời mỗi khác…
Thời hai cụ Phan, canh tân khác với thời cụ Nguyễn Trường Tộ. Chẳng cần ai “điều trần”, “năn nỉ”, chính bộ máy cai trị của thực dân Pháp đã thực hiện nhiều và nhanh – gấp 5 hoặc gấp 10 – những gì cụ Nguyễn Trường Tộ mơ ước.
Điều đó nói lên: 1) giới thực dân không còn phải lo lắng gì về các cuộc chống đối của người Việt nữa. Phong trào Yên Thế chưa tắt hẳn, nhưng người Pháp vẫn làm lễ khánh thành Nhà Hát Lớn, cầu Doumer, trường Y-Dược Đông Dương, Nhà Đấu Xảo… 2) việc canh tân lúc này càng củng cố thêm chế độ thực dân.  
– Trong hoàn cảnh này, các cụ Phan cũng có hai cách nhìn.
Phe bạo lực cho rằng không được để Pháp có thời gian và điều kiện củng cố chế độ cai trị. Do vậy, về tuyên truyền: Nhất thiết không thừa nhận bất cứ “công ơn” nào của thực dân; chúng làm gì cũng là “tội ác”. Nhưng về sau, khi thấy dân thật sự được hưởng những tiến bộ kinh tế và chính trị, các cụ chuyển sang nói: Chẳng qua, chúng mị dân, bằng thực hiện những tiến bộ “giỏ giọt”… Cứ xem các bài viết của cụ Phan Bội Châu và các cụ chủ chiến khác… đủ thấy.
Chú Thích
Trần Văn Giàu viết: “Hồi chiến tranh đang diễn ra ác liệt, để làm tiền, bòn lúa, bắt lính, bắt phu, viên toàn quyền Đông Dương Albert Sarraut hứa hươu, hứa vượn, trong đó có hứa một Hiến pháp cho Đông Dương, lại có hình ảnh son phấn của một xứ “Đông Dương – nước Pháp Viễn Đông”. Bùi Quang Chiêu, Phạm Phú Khai, Nguyễn Phan Long… bám vào chữ Hiến pháp đó để lập ra Đảng lập hiến Đông Dương…”14.
Thực ra, toàn quyền Đông Dương Albert Sarraut là hội viên của Hội Tam Điểm – một hội kết nạp những người thông thái, có tư tưởng bác ái, chủ trương tự do, bình đẳng cho mọi người. Nguyễn Ái Quốc, Phan Văn Trường cũng vào hội này.
Phe ôn hòa cho rằng cần chấm dứt bạo động, mà nên lợi dụng sự tiến bộ của chế độ chính trị bên nước Pháp (mà thực dân phải áp dụng ở thuộc địa) đấu tranh đòi họ thực hiện càng nhiều càng tốt cho dân ta. Cách này, đòi hỏi kiên nhẫn, rất lâu mới đem lại kết quả; do vậy ít được hưởng ứng, nhất là lúc ban đầu. Chính cụ Phan Chu Trinh đã tự nhận định như vậy.
Chú thích
Vài ví dụ các chính sách tiến bộ về báo chí chính phủ Pháp áp dụng cho Đông Dương; mà bộ máy cai trị ở đây phái thi hành (tất nhiên, nếu bất lợi thì thực dân sẽ chần chừ hoặc không thực hiện, trừ khi có sự đấu tranh mạnh trên cơ sở dân trí được nâng lên và dân khí bớt nhu nhược). Nói khác: Có cơ sở để dựa vào mà đấu tranh.
Sắc lệnh ký ngày 25-5-1881 của Tổng thống Pháp G. Grêvilơ, ghi rõ: Người Việt Nam ở Nam Kỳ được hưởng mọi quyền công dân như người Pháp trên đất Pháp. Luật về tự do báo chí của Quốc hội Pháp (thông qua ngày 29-9-1881), cũng được ban hành cho Nam Kỳ theo Nghị định của Toàn quyền Đông Dương ngày 12-9-1881. Sau đó, Bắc Kỳ cũng được hưởng nhiều quyền tự do báo chí. Năm 1909 Nguyễn Văn Vĩnh ra báo Đông Cổ (yêu nước). Năm 1936, đảng CS ấn hành công khai nhiều tờ báo cách mạng…
MỘT SỨ MỆNH TRAO LẠI
Sách, bài viết để lại của hai cụ Phan là hàng ngàn trang.
Dưới đây, tạm kê ra một số di sản.
Tác phẩm của cụ Phan Bội Châu
Tác phẩm của cụ PCT 
Việt Nam Quốc sử khảo
Ngục Trung Thư
Lưu Cầu Huyết Lệ Tân Thư
Việt Nam vong quốc sử
Việt Nam Quốc sử bình diễn ca
Cao Đẳng Quốc Dân Di Cảo
Chủng diêt dự ngôn
Tân Việt Nam
Thiên Hồ Đế Hồ
Khuyến quốc dân du học ca
Hải ngoại huyết thư
Dĩ cửu niên lai sở trì chủ nghĩa
(Tạm kê ra như trên)
Đầu Pháp chính phủ thư (1906)
Hợp quần doanh sinh thuyết quốc am tự (1907)
Tỉnh quốc hồn ca I & II (1907)
Trưng nữ Vương (tuồng) soạn chung với Hùynh thúc Kháng, Phan thúc Duyện (1910)
Trung kỳ dân biến thỉ mạt kư (1911)
Giai nhân kỳ ngộ (1913-1915)
Tây Hồ và Santé thi tập ! (1914-1915)
Khải Định Hoàng Đế thư (1922)
Bức thư trả lời cho người học trò tên Đông (1925)
Đông Dương Chính trị luận  (1925)
(Tạm kê ra như trên)
Các cụ viết toàn bằng chữ Hán
Thời nay, tên tác phẩm đã chuyển thành chữ quốc ngữ, ai cũng đọc được. Cụ thể là ai cũng đọc được, đọc thật to, tên các tác phẩm được kê ra (chưa đủ) ở bảng trên. Nhưng đọc lên (xướng âm) là một chuyện, còn hiểu lại là chuyện khác. Ví dụ, thời nay liệu có bao nhiêu vị cử nhân hiểu nghĩa cái tên tác phẩm Thiên Hồ, Đế Hồ của cụ Phan Bội Châu?. Huống hồ đầu thế kỷ 20 (cách nay trăm năm) tới 95 hoặc 99% dân ta mù chữ – cả chữ Hán và Quốc ngữ.
Cuối đời, bị giam giữ 15 năm, cụ Phan Bội Châu mới hì hục dịch một tác phẩm của mình sang chữ nôm, mà lại dùng thể thơ song thất lục bát. Tại sao cụ lại làm cái việc hơi bị trái ngược (dịch văn suôi sang thơ) này? Té ra, vẫn rất ít (và ngày càng ít) người dân biết chữ nôm, mà ngay chữ quốc ngữ cũng tới 95% dân ta bị “mù”. Cụ hy vọng, thể hiện tác phẩm của mình bằng thơ, mọi người sẽ dễ nhớ, dễ thuộc.
Một sứ mệnh lịch sử trao lại: Phổ biến chữ quốc ngữ
Gọi là sứ mệnh lịch sử thì không phải các bậc tiền bối (đã mất) vỗ vai thế hệ sau (còn sống), dặn dò, chỉ bảo… Mà thế hệ sau có nghĩa vụ tìm hiểu, thực hiện nếu muốn xứng đáng kế tục con đường yêu nước của thế hệ trước.
Dù đấu tranh bạo động hay ôn hòa, đều phải kêu gọi dân hưởng ứng. Vậy, sứ mệnh đầu tiên, số 1 và cấp thiết mà cả hai cụ Phan thống nhất trao lại: Chính là phổ biến chữ quốc ngữ – thứ chữ dễ học gấp trăm học chữ nho. Tiếp đó là nâng cao cách diễn ngôn… để mọi người thấy thứ chữ này cũng vạn năng, đáng yêu, đáng sử dụng.
Nhóm kế tục tiêu biểu nhất
Đó là bộ ngũ: Vĩnh-Quỳnh-Tốn-Tố-Khôi. Họ xứng đáng tiêu biểu, đại diện cả một thế hệ trí thức, vì họ có công nhất. Họ thuộc phái ôn hòa. Khi họ bước vào đời, chế độ thực dân đã vững chân ở Đông Dương, chuyện cộng tác với giới cầm quyền là không tránh khỏi, miễn là không cộng tác trên các lĩnh vực phương hại đến lợi ích lâu dài của dân tộc.
Họ thuộc thế hệ 3; tiếp tục con đường yêu nước cách ôn hòa. Như đã nói, những trí thức (cũng yêu nước) – nhưng theo con đường bạo lực – không ưa họ. Tuy nhiên, sự nghiệp của thế hệ này thật là đồ sộ, lớn lao. Cứ so sánh văn phong của hai cụ Phan (không viết báo) với văn phong quốc ngữ ở báo chí trước 1945; đủ rõ. Muốn đánh giá họ một cách công bằng, cứ tìm hiểu và phân tích những gì cho chính họ đã viết ra.
Nhãn quan thế hệ 6
Lợi thế của thế hệ này (nếu không bị nhét vào đầu xu thế ủng hộ chủ trương bạo động) thoát khỏi cái vòng kim cô của những thành kiến chính trị. Như mọi cuộc thám hiểm địa lý, họ chỉ duy nhất dựa vào văn bản, câu chữ.
Tạm đưa ra một bài của trí thức thế hệ 6: Ảo tưởng Phạm Quỳnh
Xin nhớ: Bài này, cũng như mọi bài khác, kể cả bài của Marx, Berstein… hay bất cứ ai, đều có thể thảo luận – chỉ dựa vào nội dung, câu chữ và hoàn cảnh ra đời. 
ĐỂ LẠI NỖI TRĂN TRỞ 
Cuối đời, cụ Phan Chu Trinh không có gì phải áy náy về con đường đã chọn. Nếu tiếc, có lẽ cụ chỉ tiếc rằng không thọ thêm để đi xa hơn, nhanh hơn trên con đường này. Nhiều người thời nay cũng tiếc như vậy. Nếu cụ cũng thọ như cụ Phan Bội Châu, có lẽ Hiến Pháp nước ta không ghi cái câu:
Ở nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các quyền con người về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hoá và xã hội được tôn trọng, thể hiện ở các quyền công dân và được quy định trong Hiến pháp và luật (Điều 50; Hiến pháp 1992) 
Ô hô! Quốc hội nước XHCN vẫn lẫn lộn quyền con người với quyền công dân! Phải 21 năm sau (sang thế kỷ 21) mới phân biệt được ở Hiến Pháp 2013. 
Còn cụ Phan Bội Châu thì khác
Sau những thất bại đau thương do bạo động, cụ tự phán:
 “Than ôi! Việc đời quá chừng trắc trở, cơ trời quá khó đo lường, hy sinh oan đồng bào mà không có kết quả gì, thiệt là đại tội cực ác của tôi, mà tôi phải thiên vàn thừa nhận.
“Vứt đầu sọ chí sĩ, hao huyết tủy nghĩa dân không biết bao nhiêu, mà những điều sở kỷ chẳng mảy may gì như ý! Nếu bảo tôi Nam hồi lần này chỉ có tội nặng mà không công gì, tôi cũng hết lời chối cãi!
“Mục đích của tôi là thừa cơ hội đảng cách mạng Tàu thành công, mượn tay người Tàu xoay chuyển một cuộc mới khác. Tuy nhiên sau việc mà nghĩ lại thì kế họach này cũng ngông quá. Vì ở trong không có một tổ chức thực lực gì, chỉ trông chờ ngọai lực, điều gì cũng cậy vào lưng người. Xưa nay Đông Tây các nước, không một đảng cách mạng nào chỉ là đoàn ăn mày các nước mà làm nên công được.” (Tự Phán).
Đối với người bạn chiến đấu, cụ viết (khi được tin bạn mất):
“Than ôi! Ông có thứ cho tôi chăng?
Lúc ông [từ Nhật Bản] về nước [1906], tôi tiễn chân ông đến Hương Cảng, ông cầm tay tôi dặn mấy lời sau hết: ‘Từ thế kỉ 19 về sau, các nước tranh nhau ngày càng dữ dội, cái tính mạng một nước, gửi trong tay một số người đông, chứ không thấy nước nào không có dân quyền mà khỏi mất nước bao giờ. Thế mà nay Bác lại còn dựng cờ quân chủ lên hay sao?’ Ông nói thế, lúc bấy giờ tôi chưa có câu gì đáp lại, nay đã hơn 20 năm rồi, lời ôn càng lâu, càng nghiệm.
Tôi mới biết cái óc suy nghĩ cùng cái mắt xem xét của tôi thiệt không bằng ông!
Phỏng ngày nay ông còn sống thì cầm cờ hướng đạo cho chúng ta, hẳn phải nhờ tay ông mới được.
Than ôi! Ngày nay những kẻ cúng vái ông, kính mến ông, có phải là chỉ ngắm tượng ông, đọc văn ông góp nhặt năm ba câu làm bộ ái quốc, ái quần đầu miệng mà thôi ư? Phải biết rằng ông Hi Mã mà được danh tiếng lưu truyền với sử xanh là vì ông có chủ trương thiệt, tinh thần thiệt”.
 Nguyễn Ngọc Lanh
Theo https://nghiencuulichsu.com/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Gió mùa - Tạp bút Phương Uyên

Gió mùa - Tạp bút Phương Uyên Một mình lang thang chiều cuối thu. Cơn gió đầu mùa đã về mang theo những không khí se lạnh đầy xao xuyến, t...