Từ
Nguyễn Trường Tộ tới bộ ngũ:
“Vĩnh - Quỳnh - Tốn - Tố - Khôi” 2
Hoạt động của Hội Quang Phục:
Vẫn “thiết huyết”
Vẫn “thiết huyết”
Hội Duy Tân tan rã, phong trào Đông Du cũng tàn tạ, vừa may năm
1911 cách mạng Tân Hợi thành công, Trung Quốc chuyển sang chế độ dân chủ… Đây
là cảm hứng để ngay giữa năm sau (1912) cụ Phan Bội Châu lập hội mới. Vẫn
phương pháp đấu tranh “thiết huyết” (sắt máu) nhưng cụ thay mục tiêu quân chủ
lập hiến bằng dân chủ. Đó là Hội Quang Phục, vẫn để hoàng thân Cường Để đứng
đầu; nhưng chính cụ mới là linh hồn của Hội. Xin nói ngay: Chỉ năm sau, cả
hoàng thân lẫn cụ Phan đều bị Pháp kết án tử hình vắng mặt chính vì những hoạt
động “thiết huyết” của Hội. Nhưng 12 năm sau cụ Phan mới bị dẫn độ về nước,
chính thức ra tòa và từ đó chấm dứt mọi hoạt động chống Pháp.
Dưới đây là những sự kiện liên quan.
– Ngay cuối năm, cụ đã tổ chức đại hội, có các đại biểu trong nước
sang dự (Nguyễn Khắc Cần, Phạm Văn Tráng…). Đại hội nhận định: Phong trào quốc
nội lâu nay im ắng quá. Đại hội quyết định: “gây tiếng vang” để thức tình đồng
bào. Nhóm “tử vì nghĩa” xin lãnh nhiệm vụ, hứa “làm sớm”.
– Chỉ 4 tháng sau, đã có “tiếng vang” ở Thái Bình và Hà Nội, làm 3
người chết, ngoài ra còn 2 người bị ám sát (cả thảy, gồm 3 Việt, 2 Pháp). Chính
quyền thuộc địa bắt 254 người để điều tra.
– Lại bốn tháng sau, 99 người bị truy tố, trong đó hoàng thân
Cường Để và cụ Phan (có tài liệu nêu cả các cụ Nguyễn Hải Thần, Nguyễn Bá Trác,
Nguyễn Văn Túy) bị tuyên án tử hình vắng mặt. Tính ra, từ đại hội đến lúc này,
chưa đầy một năm. Phiên tòa diễn ra trong ba ngày, có 7 án tử hình (lên máy chém ngày 24-9). Số còn lại bị tù từ 2 năm đến chung thân.
Cả 7 vị bị kết án tử đều hiên ngang, dõng dạc trước tòa, khẳng
định việc mình làm là chính nghĩa – nhưng chiếu theo luật pháp thời đó (và mọi
thời), đây là bị cáo tự nhận “giết người có chủ đích và có tổ chức”. Ngoài ra,
để tạo danh tiếng vang cho Hội, mọi người tự nhận mình là hội viên, nói cả tên
người đứng đầu hội… Xin chú ý rằng những vị bị kết án nặng nhất (tử hình, khổ
sai) hầu hết là nhà nho. Sau này, các cụ trí thức hậu duệ (tân học), như Trần
Phú, Hà Huy Tập… cũng theo gương tiền bối với thái độ cứng cỏi, ngạo nghễ trước
tòa.
Chú thích
– Hai sự kiện gây “tiếng vang”: Ngày 12-4-1913, tại Thái Bình, Phạm Văn Tráng – được sự hỗ trợ
của các đống chí – đã ném tạc đạn giết chết viên tuần phủ là Nguyễn Duy Hàn.
Tối 26-4, Nguyễn Khắc Cần và Nguyễn Văn Túy giết hai trung tá Pháp ở
khách sạn Hà Nội (nay là số 2, phố Nguyễn Khắc Cần). Nói thêm: Tuần phủ Nguyễn
Duy Hàn chính là ông nội của nhà cách mạng Nguyễn Thế
Truyền, đảng
viên CS Pháp (giới thiệu Nguyễn Ái Quốc vào đảng), hoạt động trong nhóm “Ngũ
Long” ở Paris – gồm Phan Chu Trinh, Phan Văn Trường, Nguyễn Ái Quốc, Nguyễn An
Ninh). Nghĩa là “việt gian” và “việt ngay” là ông nội và cháu nội của nhau.
– Các “tiếng vang” tiếp theo
1) Vận động lính bản xứ nổi dậy
Năm 1913 hội viên Đậu Quang Cơ (Đỗ Chấn Thiết) mang về nước
sách Hà Thành liệt sử truyện do Phan Bội Châu viết ca ngợi vụ đầu độc người
Pháp (1908) để phân phát trong
các đội lính bản xứ, kêu gọi nổi dậy, nhưng bị phát giác. Ông cùng 50 nghĩa
quân bị chém đầu.
2) Năm 1916, khởi nghĩa Thái Phiên, Trần Cao Vân thất bại, ngoài
số chết trận, còn nhiều vị cầm đầu bị án chém.
3) Năm 1917, Lương Ngọc Quyến và Trịnh Văn Cấn làm binh biến ở
Thái Nguyên, gồm khoảng 130 lính vệ binh, hơn 200 tù nhân, 300 dân phu và dân
địa phương. có 92 súng hỏa mai, 75 súng trường. Cũng thất bại.
4)
Tháng 6- 1924, hội gần như tan rã, nhưng một hội viên cũ là Phạm Hồng
Thái giả làm ký giả, ném bom vào bàn tiệc của Merlin. Viên Toàn quyền
thoát chết, 5 người Pháp thiệt mạng. Bị truy đuổi, Phạm Hồng Thái nhảy xuống
sông Châu Giang tự tử.
– Đánh giá
Theo cách hành văn truyền thống, các cuộc bạo động này đã gây được
tiếng vang, thức tỉnh lòng yêu nước và chí căm thù, tô thắm thêm truyền thống…
Còn phía kẻ thù thì hoang mang, lo sợ, điên cuồng khủng bố…
Vê sau, cụ Phan đánh giá những gì mà Hội đã làm “chỉ là một cách đánh bạc cầu may mà thôi“.
Cuối đời, cụ Phan viết “Tự phán” có câu:
“Tốn đầu sọ chí sĩ”,
“Phí huyết tủy nghĩa dân”
Không biết bao nhiêu mà kể…!
Chuyển sang đấu tranh ôn hòa?
Năm 1918, cụ Phan thấy bạo động không đem lại kết quả mong muốn, phong
trào sa sút, khó vực dậy; lại nghe nói ở trong nước Toàn Quyền Albert Sarraut
thực thi nhiều cải cách, cụ thay đổi cách đấu tranh, chuyển sang “ôn hòa”. Cụ
viết một thư ngỏ gửi người Pháp và đồng bào, chấp nhận hợp tác với Pháp, cùng
thực hiện các cải cách xã hội để… chống Nhật. Đó là văn bản chữ Hán, 20 trang,
tên gọi: Pháp Việt đề huề
chính kiến thư (tên khác là Pháp-Việt đề huề luận). “Đề huề” mang hàm ý đoàn kết, hợp tác và phát triển.
Chú thích
Từ
chỗ “vọng Nhật” nhưng khi nhóm Đông Du của cụ bị Nhật trục xuất, lại thấy Nhật
chiếm Cao Ly, cụ PBC cho rằng Nhật sẽ thi hành chính sách đế quốc, mà Đông
Dương sẽ là đối tượng. Nhật ở gần, nước Pháp ở xa, không thể giữ nổi Đông Dương
nếu không liên kết với người Việt, tiến hành cải cách xã hội, để được dân ủng
hộ, đặng chống Nhật… Nhận định này khiến cụ chấp nhận Pháp-Việt đề huề.
Người Pháp rất mừng với chủ trương mới của cụ Phan. Quan Toàn
Quyền cử người sang gặp cụ, đàm phán với cụ Phan, nhưng không thành. Bảy năm
sau, cụ Phan bị bắt cóc, bị đưa về nước và ra hầu tòa.
Lẽ ra, đã có án, người Pháp chỉ việc thi hành bản án xử (vắng mặt)
năm 1913, là xong. Nhưng trong phiên tòa trước, cụ chưa được biện bạch, chưa
được hưởng quyền có luật sư. Mặt khác, từ năm 1913 đến nay, có thêm nhiều sự
kiện mới… Đó là Hội của cụ tiếp tục bạo động (tội), nhưng khi cụ viết Pháp-Việt
đề huề luận (công) thì Hội cũng chấm dứt bạo lực.
Chú thích
Phải
nói rằng chủ trương Pháp Việt đề
huề chính là do cụ Phan Chu Trinh khởi xướng đầu tiên (nhưng lúc đó
chưa dùng tên gọi này), sau 8 năm được chính quyền thuộc địa chấp nhận, biến
thành chủ trương của mình và tuyên truyền rộng rãi, được giới “trí thức ôn hòa”
hưởng ứng. Tuy nhiên, giới “bạo động” chống lại dữ dội. Từ đây, sự chia rẽ
trong trí thức yêu nước thế hệ 3 càng thêm sâu sắc. Những người trước đây thuộc
phe bạo động nay chuyển sang đấu tranh ôn hòa, đã bị chỉ trích nặng nề, kể cả
bị coi là “phản động”; ví dụ Lê Dư, Nguyễn Bá Trác, Phan Bá Ngọc… Vậy mà, nay
cụ Phan – người chủ xướng cách đấu tranh bạo lực – lại đột ngột thay đổi quan
điểm, khiến dư luận trí thức xôn xao; vui mừng hoặc bực bội.
Phiên tòa 1913
Ngay trước và sau vụ xử, tờ Thực Nghiệp Dân
Báo đã đăng liên tiếp 15 bài, nêu
diễn biến phiên tòa và dư luận xã hội. Thời nay, những người còn trẻ (dưới 70
tuổi) không thể tự mình hình dung được chế độ thuộc địa vững vàng tới mức nào
mà chính quyền dám cho tờ báo tư nhân này ra đời. Mà đây là tờ báo công khai
bênh vực cụ Phan – người mà chính quyền thuộc địa gọi là phản nghịch (nay gọi
là “phản động”).
Thời nay, nếu cần tìm hiểu phiên tòa này, chỉ cần đọc 4 bài rất
gần đây (cảm ơn 4 tác giả) là tạm đủ. Có thể nhận ra quan điểm của từng tác
giả: hoặc ủng hộ ôn hòa; hoặc tân thành bạo động; hoặc muốn nhân đây nói quan
điểm riêng. Ngay trong “bạo động” cũng có hai cách thể hiện: Hoặc là không tán
thành thái độ nhiều lúc “quá nhũn” của cụ Phan trước tòa thực dân (thua xa ông
Nguyễn Khắc Cần); hoặc là “bỏ qua” những từ ngữ “lấy lòng tây” của cụ Phan, chỉ
nhấn mạnh dũng khí của cụ – để nêu tấm gương… Dưới đây là 4 bài nên đọc
thêm.
1- Phiên tòa lịch
sử xét xử Phan Bội Châu
Bài tổng hợp, rất đầy đủ về phiên tòa. Được viết theo quan điểm
ủng hộ đấu tranh ôn hòa – nghĩa là lược bỏ tất cả những đối đáp hơi bị “tự hạ
thấp mình” của cụ Phan “trước kẻ thù giai cấp”. Đọc kỹ, ta thấy hiện lên quan
điểm phải lợi dụng tối đa cách xét xử của tòa án thực dân (không buộc tội nếu
không có chứng cứ) để giữ lấy mạng sống, đặng có thế đấu tranh tiếp. Cụ Phan đã
chối bỏ tối đa các chứng cứ mà quan tòa trưng ra (ví dụ: Tất cả những người nhận tội trước đây –
Nguyễn Khắc Cần, Phạm Văn Tráng… – dù được thẩm vấn riêng rẽ đều thống nhất
khai cụ Phan chủ mưu), nhưng cụ chối phắt – vì “lời
khai” không thể coi bằng chứng xác đáng… Sách kích động bạo lực của cụ, cụ bảo
có thể người khác mượn tên cụ mà viết ra…
2- Bài thứ hai,
nêu khá chi tiết các câu phát
biểu và đối đáp của các bên. Nhưng 2 ông trạng sư cũng bị tác giả coi là thực
dân. Những câu mà cụ Phan “tự hạ thấp bản thân” cũng được nêu lên và bị tác giả
chê. Thực tế, những người làm theo lệnh cụ (như Phạm Văn Tráng) thì hiên ngang
nhận tội trước tòa; còn cụ thì chối phăng: Tôi không biết Tráng là ai… Bài viết thể hiện dưới nhãn
quan người ủng hộ đấu tranh bạo động, không vừa ý với thái độ “thiếu dũng khí”
của cụ Phan. Có lẽ, nếu cụ Phan dõng dạc lên án kẻ thù, hiên ngang nhận tội và
ngẩng cao đầu bước lên máy chém, mới “đạt yêu cầu”?
3- Bài Vụ án Phan Bội
Châu – điểm đột phá phong trào đòi tự do dân chủ thời Pháp thuộcchính thống hơn hẳn 3 bài còn lại, xét theo nơi đăng tải nó.
Bài nêu quan điểm đã là tòa thực dân thì không thể tin được trạng sư
(cũng là thực dân). Do vậy, cụ Phan phải tự biện hộ – qua đó bài này cho thấy
lý lẽ và dũng khí cụ Phan. Nhưng mục tiêu thứ hai mới là quan trọng: Vụ án làm
dấy lên phong trào dân chủ. Đặc biệt, tác giả nhấn mạnh tác dụng tích cực bài
báo của Nguyễn Ái Quốc đăng ở tờ Le Paria bên Pháp. Đến nay, bài của cụ Ái Quốc
được đưa vào chương trình môn Văn, lớp 7. Trong khi đó, bài viết của cụ Phạm
Quỳnh bênh vực cụ Phan (cũng đăng bên Pháp) thì không được tác giả (là nhà sử
học marxist) nhắc tới.
4. Bài Về vụ xử Phan
Bội Châu 86 năm trước. Tác giả muốn so sánh hai loại tòa án thời xưa và
thời nay. Như vậy, chẳng cần trên 70 tuổi, nếu muốn tìm hiểu quá khứ cũng không
khó – dù bị che dấu.
Chú thích.
Thời nay, dưới 70 tuổi (nếu không chịu khó tìm tòi) cũng khó tự
hình dung cách mà thức tòa án thực dân xử một đối tượng “phản động” sao lại..
ngu vậy? Tòa cứ để mọi người tự do tới dự (do vậy, rất đông); phóng viên tha hồ
tác nghiệp… cứ như chế độ muốn dạy mọi người thế nào là phiên xử công khai,
hoặc muốn khoe thế nào là tranh luận để có sự thật và công lý. Trạng sư (2
người Pháp) đã “cãi ra cãi”, có phiên dịch để bị cáo hiểu mà biện bạch hoặc cãi
lại… Đó là một số đặc trưng, dễ thấy.
Dẫu
sao, cần khẳng định: Đây chỉ là “dân chủ tư sản” (dân chủ giả hiệu). Nhận định
này giúp tạo ra “tòa án XHCN” (một khi cách mạng thành công). Đó là cứ làm
ngược lại mọi đặc trưng của “tòa án thực dân” sẽ thành “tòa án XHCN”? Bàn
tiếp sẽ lạc đề.
Nhờ gì, cụ Phan thoát án tử?
– Nguyên nhân số 1. Đó là việc “xử lại”
Cụ đã bị kết án tử hình năm 1913, bị truy nã để thi hành án. Nay
bắt được cụ, lẽ ra chính quyền thuộc địa chỉ việc thi hành luôn bản án cũ. Đó
là chưa nói sau năm 1913 Hội Quang Phục của cụ còn gây nhiều vụ bạo động khác,
trong đó thật sự cụ là chủ mưu – thế thì càng có lý do để thi hành bản án đã
tuyên. Nhưng tòa án thực dân vẫn “xử lại”. Vậy nguyên nhân số 1 đưa đến kết quả
thoát chết cho cụ Phan chính là cái động thái “xử lại” này. Không có nguyên
nhân này, xin miễn nói đến vai trò của các nguyên nhân và các tác động khác.
– Nguyên nhân số
2. Đó là cách xét xử của một tòa án độc lập.
Nếu đây là tòa án của Nam Triều hoặc tòa án Xô Viết (tam quyền
không phân lập) cụ Phan cũng hết đường sống. Hãy xem tòa Nam Triều xử các nghĩa
sĩ trong vụ nổi dậy ở Yên Thế, hoặc Stalin xử những người đồng cấp với mình
(Kamenev, Zinoviev…) trong đợt đại thanh trừng ở thập niên 1930.
Khi đối thoại giữa phiên tòa, chánh án nói rằng: Không xét xử
những gì cụ làm sau năm 1913 (may quá), vậy cụ có nhận tội theo cáo trạng 1913
không? Cụ chối bay, chối biến… đến nỗi chánh án phải nói rằng cụ không dũng cảm
bằng các hội viên của mình: tội rành rành, vẫn chối.
– Nguyên nhân số 3. Đó là cái văn bản Pháp-Việt đề huề luận
Luật sư đã hỏi cụ về nó. Đây là gợi ý để cụ theo đó mà kể công.
Chính nhờ văn bản này, tòa án đã xí xóa cho cụ những vụ bạo động sau năm 1913,
với số người nạn nhân nhiều gấp bội (năm 1913, chỉ làm chết 5 người: 3 người do
tạc đạn, 2 người do ám sát). Sau này, do bị chê bai về “bỏ đấu tranh, chuyển
sang thỏa hiệp” cụ đã nhiều lần chối bỏ đứa con tinh thần này (nhận rằng, vì
lầm lẫn mà đẻ ra nó) nhưng sự thất là chính nó đã cứu mạng cụ. Không có nó,
không luật sư hay dư luận nào có thể làm cụ thoát án tử.
Chú thích
Luật pháp của nước Pháp áp dụng cho Đông Dương tỏ ta tiến bộ và
khoan dung hơn hẳn Luật Gia Long (phong kiến). Đó là tính chất công bằng, công
lý. Trạng sư hết lòng vì thân chủ, qua đó tự nâng cao uy tín cá nhân mình. Trên
đầu quan tòa không có bất cứ thế lực nào, mà chỉ có Công Lý và Luật. Luật nước
Pháp xử rất nặng hành vi bạo lực gây chết người và hủy hoại tài sản cá nhân và
công hữu. Giết và cướp “có chủ đích và có tổ chức”, tội càng nặng.
Cũng
theo luật “tư sản”, công dân có quyền tha hồ ra báo, lập hội, lập đảng, tha hồ
phê phán, miễn là không xúc phạm, không bạo động. Bên Pháp, đảng CS tự do hoạt
động, nhưng ở Đông Dương lại bị cấm là do vậy.
– Vai trò của báo chí và dư luận xã hội. Nhất định có những tác dụng lớn hay nhỏ trong việc xin ân xá cho
cụ Phan. Ví dụ, các cuộc biểu tình ôn hòa (đưa thỉnh nguyện thư), truyền đơn và
các bài báo. Nhưng chỉ riêng bài của cụ Nguyễn Ái Quốc viết tháng 10-1925 (lên
án quan Toàn Quyền, ca ngợi cụ Phan) ngày nay được nhắc tới rất nhiều,
Nhưng nó thật sự tác dụng đến đâu khiến cụ Phan thoát án tử hình thì rất khó
đánh giá.
Chú thích
– Bài Những trò lố hay
là Varen và Phan Bội Châu của cụ Nguyễn công bố bên Pháp, trước khi quan Toàn Quyền Varenne
sang nhậm chức ở Đông Dương. Đây là bài văn châm biếm (đả kích), hoàn toàn hư
cấu, trong đó kết tội cụ Varenne là “phản bội giai cấp vô sản”. Hư cấu ở đoạn
cuối mới khiếp: Tác giả viết mập mờ để người đọc hiểu rằng Varenne bị cụ Phan
Bội Châu khinh và… nhổ vào mặt (!). Thực tế, thái độ của cụ Phan trước tòa rất
đúng mức; và sau đó, trong Tuyên Ngôn của mình, cụ Phan tỏ lòng biết ơn quan
Toàn Quyền đã ân xá cho mình.
– Từ lâu, bài này nằm trong chương trình Văn (lớp 7), có rất nhiều
bài hướng dẫn cách học. Có cả văn mẫu “Hãy phát biểu cảm
nghĩ của em”, có cảm nghĩ được đưa
vào tập “văn hay“.
– Vị toàn quyền này sinh trước cụ Nguyễn 20 năm,
vào đảng Xã Hội (cánh tả) cũng trước cụ Nguyễn, học lực cũng có khoảng cách như
vậy. Không hiểu có phải nhờ có bài của cụ Nguyễn mà quan Toàn Quyền Varenne (vì
sợ mà) ân xá cho cụ Phan hay không (?). Về quyền hạn, trong khi vua Việt Nam
chỉ có quyền (rơm) quản lý xứ Trung Kỳ, còn Varenne có thực quyền trên toàn cõi
Đông Dương, trong đó có quyền ân xá phạm nhân bị án tử hình. Đây chính là quyền
của nguyên thủ quốc gia.
– Hai mươi năm sau, cụ Nguyễn cũng thành nguyên thủ miền Bắc Việt
Nam mà sợ Tàu tới mức mất cả quyền ân xá cho bà Nguyễn Thị Năm, ân nhân của
chính phủ VNDCCH.
– Wikipedia (tiếng Việt) viết về Varenne như sau: Ông được xem là một Toàn quyền có ý thức nhân đạo
với chính sách tương đối cấp tiến hơn các tiền nhiệm. Một trong các hành động
nhân đạo tiêu biểu đó là ông cho chích ngừa dịch tả, cải cách các trường học,
ân xá cho Phan Bội Châu vừa bị tuyên án tử hình, lập các viện Dân biểu
Bắc Kỳ và Trung Kỳ. Ông cũng cho mở rộng ngạch tương đương (cadres
latérants) trong các công sở cho người Việt có đủ bằng cấp được quyền nắm giữ
các chức vụ tương đương với người Pháp. Về mặt kinh tế, Varenne cho thành lập
Bình dân Nông phố Ngân quỹ để cho giúp nông dân. Chính sách của ông bị thực dân
Pháp ở Việt Nam phản đối dữ dội, và Varenne bị gọi về Pháp năm 1928.
–
Wikipedia (tiếng Pháp) còn ca ngợi ông nhiều hơn, gồm cả những việc ông làm bên
Pháp.
– Vai trò của bản thân quan Toàn Quyền Varenne. Có sự đánh giá trái ngược nhau giữa phái “bạo động” và phái “ôn
hòa” về vai trò ông này giúp cụ Phan thoát án tử. Không những vậy, ông quan này
còn “tha bổng” cho cụ Phan (thoát cả án tù chung thân).
Ví dụ, cụ Nguyễn Ái Quốc (thế hệ 3) đánh giá cụ Phan Chu Trinh
(thế hệ 2) là “hủ nho”, nhưng ca ngợi cụ Phan Bội Châu (hơi quá mức) là bậc anh hùng, vị thiên sứ, đấng xả thân
vì độc lập, được 20 triệu con người trong vòng nô lệ tôn sùng; còn Varenne bị cụ Nguyễn coi là kẻ phản bội nhục
nhã… ta thấy ngay sự khác nhau giữa thái độ người chủ trương “bạo
lực” và “ôn hòa”. Một nguyên tắc là “không công nhận bất cứ việc làm nào của
thực dân là tốt”, mặc dù trong số họ có đảng viên xã hội, hội viên Tam Điểm…
Chú thích. Đến nay, trí thực yêu nước đã là thế hệ 7, vẫn có sự phân biệt
“bạo lực” và “ôn hòa” (dù cả hai phái đều yêu nước). Có những chuyện chẳng liên
quan gì tới thực dân Pháp, nhưng người ta vẫn thể hiện lập trường dân tộc rất
cực đoan. Chẳng hạn, có nhà sử học cho rằng dưới thời Bắc Thuộc, chẳng có bất
cứ “tên quan cai trị” nào là có công, có ơn với dân Việt (kể cả Sĩ Nhiếp, Nhâm
Diên, Tích Quang). Trong khi người “ôn hòa” nói đến lịch sử đại học Việt Nam
vẫn tỏ lòng biết ơn các ông thầy người Pháp có công đào tạo nhiều danh nhân
khoa học cho ta (Tôn Thất Tùng, Đỗ Xuân Hợp, Nguyễn Văn Tố…).
Cụ Phan có thật sự chuyển từ “bạo lực” sang “ôn
hòa”?
Cụ là tấm gương kịch liệt chống Pháp. Do vậy nếu cụ từ bỏ con
đường bạo lực để “diễn biến hòa bình” sang thỏa hiệp với Pháp… thì quả là
chuyện động trời. Giới trí thức theo cụ sẽ hẫng, khó xử.
– Trong nước, các cuộc bạo động vắng hẳn. Từ khi cụ Phan viết Pháp-Việt đề huê luận, cũng là lúc những
hoạt động bạo lữ ở trong nước vắng hẳn (1918-1939). Phải ôn hòa phát triển
thành rất nhiều xu hướng, sử dụng nhiều cách đấu tranh – từ cách ra báo (hàng
chục tờ) cho tới cách lập đảng, cách “dựa vào pháp” (ỷ Pháp cầu tiến bộ) – kể
cả cộng tác với Pháp. Miễn là nâng cao dân trí. Miễn là không giúp Pháp đàn áp
dân. Đảng CS Trung Quốc mới ra đời 1922, chưa có ảnh hưởng gì trong nước, nói
gì ảnh hưởng sang Việt Nam. Đến 1925. cụ Nguyễn Ái Quốc còn lo tập hợp “tàn
quân” của cụ Phan; đồng thời phải lo nhiệm vụ được Quốc Tế 3 phân công. Còn ở
Việt Nam lần đầu tiên 1925 cụ Phan Văn Trường đăng Tuyên Ngôn đảng CS (tiếng
Pháp) chẳng phải ai cũng đọc được, hiểu được và hâm mộ. Cụ Trần Phú lúc này mới
ngoài 20 tuổi, đang chập chững tìm hiểu chủ nghĩa Marx… Tóm lại, trong tình
hình này chưa có ai phàn nàn sự thỏa hiệp của cụ Phan. Trong sách Tự Phán, cụ
vẫn có thể tỏ ra rất ân hận về những thiệt hại sinh mạng vô ích do đấu tranh
bạo lực.
– Nhưng sau đó thì khác. Nhất là từ khi đảng CSVN ra đời, tiếp tục con đường bạo lực từ
1930 (có Xô Viết Nghệ Tĩnh) tới năm 1941 (Khởi nghĩa Nam kỳ).
Chính thời gian này, có nhiều ý kiến chê trách, khiến cụ tìm cách
thanh minh.
Chú thích
– GS Nguyễn Đình
Chú viết: Sách
báo macxít từ lâu đã cho rằng: về chính trị, từ sau khi viết Pháp-Việt đề huề chính kiến thư (1918), tức là sau đại chiến thế giới I, Phan Bội Châu, ít
nhiều cũng đã rơi vào trạng thái chao đảo giữa cách mạng và thỏa hiệp.
– Một trang web
khác có đoạn: Trong đời ông, có sự lầm lơ đáng tiếc là viết
bản thư nêu chính kiến “Pháp Việt đề huề“, mà
chính ông cũng tỏ ra ân hận.
–
Còn nhà sử học marxist bậc nhất (uy tín và quyền năng cũng bậc nhất) – GS Trần
Văn Giàu – đã chính thức chê cụ Phan trong cuốn “để đời” của mình.
Thời gian này, cụ Phan chối bỏ chủ trương Pháp Việt Đề Huề, nói
rằng bị cung cấp sai tình hình trong nước mà viết ra. Rồi lại nói: viết Pháp-Việt đề huề luận chỉ để lợi dụng kế sách của Pháp mà thi hành kế sách của ta (tương
kế tựu kế). Khi được phỏng vấn, cụ Phan có câu thơ:
“Đề huề chi mà đề huề
Oán thù ta hãy còn sâu
Trồng tre nên gậy, gặp đâu đánh què”.
Tuy nhiên, có nghiên cứu gần đây, với nhiều tài liệu tham khảo, đã
quả quyết rằng, cụ đã thật sự chuyển
biến.
Việc làm trước khi bị bắt và lời nói trước khi
nhắm mắt
– Ngay trước khi bị Pháp bắt, cụ Phan thấy không thể duy trì Hội Quang Phục, cụ soạn thảo dự
án thành lập đảng Quốc Dân Việt Nam (theo mô hình đảng của Tôn Trung Sơn) và
đưa cho cụ Hồ Tùng Mậu đem về nước tuyên truyền. Mật thám Pháp bắt được văn bản
này và dịch sang tiếng Pháp. Một nghiên cứu sinh Đức đã kiếm được nó trong lưu
trữ, dịch sang tiếng Đức. Đảng mới của cụ hoàn toàn chủ trương đấu tranh ôn
hòa.
– Trong văn bản viết trước khi mất (“Mấy lời vĩnh
quyết”), ta vẫn thấy cụ ân hận vì chủ trương bạo động – gián tiếp xác
nhận con đường ôn hòa.
“Phan Bội Châu, một tên dân Việt Nam, trước lúc
gần chết mà chưa tắt hơi, kính có mấy lời thành thực từ biệt cùng anh em đồng
bào.
Trước kia không kể, mà kể từ năm 1906 (vì tôi mà)… khiến cho người nước ta phải “kẻ ở người
đi, kẻ còn người mất và bị lụy rất nhiều, toàn là tội ác do tay tôi gây nên”.
Mà may quá! Từ 1925 tôi mang cái sống thừa về nước đến giờ, anh em đồng bào đã
không ai trách tội tôi mà lại quá thương yêu tôi, tôi thực là hổ thẹn với đồng
bào ta và cảm ơn vô cùng. Trải mười lăm năm nay, nằm co trong túp lều ở Bến Ngự
cùng chiếc đò trên sông Hương, đoạn đời sống thừa của tôi, không có việc gì
đáng nói và đồng bào đã thừa rõ. Bây giờ tôi đã đến lúc lâm biệt, tôi xin có lời
từ biệt.
Bội Châu từ xưa tới nay, đối với đồng bào đã
không có chút gì là công, mà lại tội ác quá nặng. Bây giờ tôi chết, thiệt là
một tên dân “trốn nợ và vỗ nợ”, nếu đồng bào có thứ lượng cho tôi thì xác tôi
tuy chết mà tinh thần tôi vẫn cảm ơn đồng bào luôn luôn.
“Người đến khi gần chết, lời nói hẳn lành”. Nay tôi đã đến lúc “gần chết” đó, xin có mấy lời gan phổi tỏ lời hy vọng cuối cùng với đồng bào:
“Người đến khi gần chết, lời nói hẳn lành”. Nay tôi đã đến lúc “gần chết” đó, xin có mấy lời gan phổi tỏ lời hy vọng cuối cùng với đồng bào:
Đồng bào Việt Nam ta có trên hai mươi triệu, bấy
nhiêu đầu óc, bấy nhiêu tai mắt, bấy nhiêu chân tay, nếu không biết thân yêu
nhau, đồng lòng hợp sức làm cái bổn phận quốc dân đối với Tổ quốc… Không thế,
trên mặt địa cầu sau này sẽ không có hình bóng dân tộc Việt Nam nữa, thì Bội
Châu này dầu có trốn nợ, vỗ nợ cũng may mà được chết trước anh em, tôi lấy làm
một điều hạnh phúc.
Mấy lời trên, tôi xin từ biệt mà cảm ơn đồng
bào…
Kính,
Kính,
Phan
Bội Châu quyết biệt” .
Đủ điều kiện để tranh đấu ôn hòa thành công
Lẽ thường tình
Giặc đến nhà? Đánh! và đánh! Đó là lẽ thường tình. Xin nhớ: Ta đã
từng đuổi Tống, quét Nguyên. Nhưng khi giặc đã chiếm nước ta? Càng phải đánh.
Xin nhớ: Lê Lợi sau 10 năm đã tống khứ giặc Minh. Bởi vậy, chuyện tiếp tục
phong trào Cần vương chỉ là theo lẽ thường tình của mọi người dân, huống hồ cụ
Phan Bội Châu là một sĩ phu hừng hực lòng yêu nước?. Tâm thức “nơm nớp lo mất
nước” từ ngàn xưa truyền đến lúc đó, âu cũng là chuyện thường tình.
Có hai đặc điểm về tâm lý: a) Sợ Tàu, vì dã tâm xâm lược muôn đời
không đổi; b) Nhưng vẫn phục Tàu – nơi sáng tạo đạo Nho mà cha ông ta tôn thờ.
Do vậy, nhiều phen chống Tàu, nhưng chưa bao giờ Ta dám gọi Tàu là Di, Mọi,
Quỷ. Chỉ có chuyện Tàu gọi Ta là “man”. Mặc dù, nền văn minh phương Tây đã vượt
cả Tàu lẫn ta, nhưng khi thấy Pháp có ý đồ xâm lược, Ta vẫn gọi Chúng là Di,
Mọi, Quỷ. Tầm nhìn thiển cận như vậy làm sao giữ nổi nước?.
Khi còn ít tuổi, cụ Phan đã khâm phục phong trào Cần Vương nay cụ tiếp tục con đường này cũng là lẽ thường tình. Chính do
vậy, cụ Nguyễn Hàm – một nhân vật cần vương đang “nằm im chờ cơ hội” – trở
thành nhân vật số 2 trong Hội Duy
Tân. Chủ
trương bạo động là tất nhiên và cũng rất “thường tình”. Đã Cần Vương, tất nhiên
duy trì quân chủ. Đây là mâu thuẫn không thể hòa giải với cụ Phan Chu Trinh –
chủ trương triệt để xóa bỏ quân chủ.
Cái
nhìn thời đại
– Sáng suốt, khi cụ Phan Chu Trinh nhận ra rằng “ta không đủ sức
đuổi Pháp” như ngày xưa Lê Lợi đuổi quân Minh. Thất bại suốt 30 năm của các
lãnh tụ Cần Vương đã đủ rút ra bài học. Và chính cụ là người sớm nhất đã rút ra
bài học.
– Nhưng sáng suốt gấp đôi, khi cụ còn nhìn ra:
1) Pháp không chỉ hơn ta về “kỹ xảo” (như thế hệ trước nhận định) mà là trình độ văn minh;
2) Mục đích xâm lược muôn thuở là nhằm khai thác; Pháp cũng vậy; nhưng rõ ràng khai thác đi kèm khai hóa.
Và rõ ràng, Pháp không định ăn xổi. Khi thiết lập bộ máy cai trị, Pháp tiến hành canh tân mạnh mẽ, có hệ thống, thể hiện ý đồ trú ngụ lâu dài ở xứ này. Nói khác, cụ Phan Chu Trinh nhìn ra sự khác nhau giữa “quân xâm lược” và “bọn thực dân”. Đây là những từ ngữ phổ biến một thời, ý coi khinh, đưa vào sách giáo khoa mà nhiều khi cứ nhập nhằng hoặc đồng nhất hai khái niệm.
1) Pháp không chỉ hơn ta về “kỹ xảo” (như thế hệ trước nhận định) mà là trình độ văn minh;
2) Mục đích xâm lược muôn thuở là nhằm khai thác; Pháp cũng vậy; nhưng rõ ràng khai thác đi kèm khai hóa.
Và rõ ràng, Pháp không định ăn xổi. Khi thiết lập bộ máy cai trị, Pháp tiến hành canh tân mạnh mẽ, có hệ thống, thể hiện ý đồ trú ngụ lâu dài ở xứ này. Nói khác, cụ Phan Chu Trinh nhìn ra sự khác nhau giữa “quân xâm lược” và “bọn thực dân”. Đây là những từ ngữ phổ biến một thời, ý coi khinh, đưa vào sách giáo khoa mà nhiều khi cứ nhập nhằng hoặc đồng nhất hai khái niệm.
Sự
lên tiếng đầu tiên: Mục tiêu quá to lớn
– Ngay lúc mới thành lập Hội Quang Phục, cụ Phan Bội Châu đã có kế hoạch ám sát viên Toàn
Quyền Albert Saraut. Rốt cuộc chỉ giết được 2 sĩ quan cấp tá, đã
nghỉ hưu. Đã sắp tan rã, nhưng Hội vẫn tiến hành ám sát Toàn Quyền Merlin (hội
viên Tam Điểm); nhưng… hụt. Tóm lại, từ đầu chí cuối, cụ Phan Bội Châu – vị đại
diện cho phái bạo lực – vẫn coi bất cứ “thằng Tây” nào cũng là kẻ thù. Đứa nào
chức càng cao, càng nguy hiểm. Nhãn quan này đến nay vẫn thấp thoáng tồn dư mỗi
khi viết Sử.
– Trong khi đó, cụ Phan Chu Trinh dùng lời lẽ thẳng thắn, nhưng
tôn trọng, gửi thư cho Toàn Quyền. Lạ, là thư ghi “gửi chính phủ Pháp“.
Cụ không biết chữ Tây, nhưng “toàn quyền Đông Dương” là chức gì, cụ hiểu đầy đủ
qua chữ Hán. Đó là Đông
Dương tổng thống toàn quyền đại thần (東洋總統全權大臣).
Vậy, đây là vị đại
thần có toàn quyền ở xứ Đông Dương do Tổng Thống ủy nhiệm. Tóm lại,
muốn phát biểu gì với chính phủ Pháp, cứ gửi văn bản cho ông này là đúng nơi.
Trong thư, cụ thóa mạ và kết tội nặng nề Nam Triều (tham nhũng, thối nát), và
chất vấn: Sao chính phủ bảo hộ vẫn duy trì và dung túng bọn này?. Đây chính là
nguyên nhân để 2 năm sau cụ bị Nam Triều kết án tử hình cụ, sau được giảm án,
đổi thành “khổ sai chung thân, vĩnh viễn không ân xá”.
–
Tác dụng của bức thư này đến đâu? Thật
sự, dường như nó chẳng đem lại hiệu quả gì. Làm sao đánh đổ được Nam Triều chỉ
bằng một bức thư của cá nhân? Quả thật, mục tiêu này quá to lớn. Giá trị bức
thư chỉ như một lời Tuyên Ngôn.
Người nhận thư là quan Toàn Quyền Beau – đảng viên Đảng Cấp Tiến, bản thân ông ta đã thực hiện nhiều cải
cách cụ thể ở Đông Dương… Nhưng chuyện “phế bỏ Nam Triều” là việc nằm ngoài
quyền hạn; hơn nữa, chính phủ Pháp không bao giờ chủ trương như vậy.
Dấn
thân vào những mục tiêu cụ thể
Chỉ vài năm vận động, nhưng phong trào Duy Tân mà các cụ Phan Chu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng, Ngô Đức Kế gây dựng đã
lan nhanh ra nhiều tỉnh miền Trung. Nay đọc lại, phong trào phát triển mạnh và
toàn diện, tác động rất rõ tới dân trí, dân khí, dân sinh. Thành quả này, trước
các cụ và sau các cụ chưa ai làm nổi – trừ năm 1945-46 với chủ trương “diệt
giặc đói (sản xuất), diệt giặc dốt (xóa nạn mù chữ) và bài trừ hủ tục (vận động
Đời Sống Mới)”.
Nhưng song song với phong trào Duy Tân còn có thêm phong trào “xin sưu, miễn thuế”, lúc đầu cũng ôn hòa, nhưng càng về sau, càng
bạo động. Thời nay, sử học gọi đây là cuộc “dân biến” – để so sánh với khái
niệm “binh biến” (như các cuộc binh biến Đô Lương, Thái Nguyên). Chính vì vậy,
phong trào bị đàn áp nặng nề và tai họa lan sang phong trào Duy Tân. Thiệt hại
rất lớn, gồm cả nhân mạng.
Trích dẫn: Cuối tháng 5 năm
1908, phong trào chống sưu thuế ở miền Trung bị dập tắt. Sau đó, nhiều người bị
kết án tử hình, trong đó có: Trần Quý Cáp, Lê Khiết, Nguyễn Bá Loan, Ông Ích Đường, Trịnh Khắc Lập, Nguyễn Hàng Chi… Hàng trăm
người bị đày ra Côn Đảo, trong đó có: Phan Châu
Trinh, Huỳnh Thúc Kháng, Phan Thúc Duyện, Trần Cao Vân, Đặng Nguyên Cẩn, Ngô Đức Kế… Hàng trăm
người khác bị đày đi Lao Bảo (Quảng Trị) – hết trích Nhờ có sự can thiệp của Hội Nhân quyền Pháp, Phan
Châu Trinh được trả tự
do trước thời hạn và đưa về Mỹ Tho để chịu
sự quản thúc (1911).
Cũng trong năm này, theo yêu cầu của cụ, cụ được nhà cầm quyền cho sang Pháp cùng với
con trai là Phan Châu Dật. Đến nơi, việc đầu tiên của cụ là minh oan cho những
người bị tù đầy. Cụ đưa cho Hội Nhân quyền Pháp bản điều trần, nhan đề Trung Kỳ dân
biến thủy mạt ký (ghi
lại đầu đuôi vụ dân biến ở Trung kỳ). Một ghi chép khác có tên là Trung Kỳ dân biến tụng oan thỉ mạt ký (Tập
ký kêu oan kể đầu đuôi vụ dân biến Trung Kỳ), gửi cho bộ Thuộc địa và toàn
quyền Đông Dương. Ngoài kêu oan, các bản điều trần còn mang
tính phê phán, cáo trạng. Kết quả rất tích cực khiễn cụ càng tin cách đấu tranh
ôn hòa.
Có
hai loại bài học được rút ra
– Phái bạo động thấy rằng muốn gây một cuộc “nổi dậy”, cứ khơi lên
những bức xúc của dân nghèo, khuyến khích họ hành động “để giành lại những lợi
ích vật chất bị kẻ thù chiếm đoạt”. Phần lớn các cuộc bạo động về sau đều dùng
mục tiêu này. Và đều thất bại (Khởi nghĩa Trần Cao Vân, Binh biến Thái Nguyên,
Xô Viết Nghệ Tĩnh, Khởi nghĩa Nam kỳ, Cải cách ruộng đất), nhưng được cắt
nghĩa: đó là bài học cho lần nổi dậy tiếp theo; và là sự tập dượt của quần
chúng…
– Cụ Phan Chu Trinh thấy bài học khác: Không thể bạo động mà không
bị đàn áp; trong khi đó rất đủ cơ sở để tin rằng có thể đạt được các mục tiêu
cụ thể, khả thi, bằng đấu tranh ôn hòa. Chỉ 2 năm, phong trào Duy Tân đã đưa
lại những kết quả đáng khích lệ; các bản điều trần của cụ gửi chính phủ Pháp
khiến nhiều nhân vật sớm thoát khỏi nhà tù…
Sốt
ruột và kiên nhẫn
– Phái tả không thể kiên nhẫn trên con đường đi tới mục tiêu; do
vậy đấu tranh bằng bạo lực là cách thích hợp. Phái “quá tả” và “cực tả” lại
càng sốt ruột. Do vậy, cụ Phan Bội Châu thua xa cụ Lenin và cụ Stalin – hai nhà
cách mạng mà trí thức yêu nước thế hệ 4 nước ta coi là các bậc thầy.
Chú thích.
Cụ Phan Chu Trinh phê phán cụ Phan Bội Châu (đại ý)… dùng
lời lẽ thống thiết kích động dân chúng lao vào máu lửa… Nhưng cần
nói thêm rằng bản thân các lãnh tụ phái tả cũng sẵn sàng xông vào máu lửa. Họ
không sợ hi sinh. Sự thành công của Lenin trong cách mạng tháng 10 Nga là nguồn
cảm hứng bất tận để phái bạo lực trên thế giới tin tưởng vào cách đấu tranh của
mình. Chính là do thắng lợi của cách mạng tháng 10 mà phái “sốt ruột” trong
đảng Xã Hội Pháp quyết tách ra, thành lập đảng Cộng Sản Pháp. Một khi thành
công, không phải các lãnh tụ phái tả không biết thương dân; ngược lại họ rất
muốn kiến tạo thật nhanh (ngay trong đời họ) một xã hội tốt đẹp, ấm no, hạnh
phúc. Nhưng các vị thương dân theo kiểu các vị bạo chúa ban ơn, ban phúc cho ai
tuân phục, lại ban cả uy và họa cho ai phản đối. Cũng do sốt ruột, họ xây dựng
xã hội bằng các biện pháp quyết liệt, trái quy luật – mà người nhận ra sớm nhất
là giới trí thức ôn hòa, sau đó là những dân thường có lương tri. Đây là những
người ưu tú nhất bị đày đọa hoặc giết hại sớm nhất. Còn lại là đám người dân
trí thấp, dân khí hèn. Thảm kịch ở Nga cho thấy quyền lực – dù ban đầu thiện
chí đến đâu – nếu không được kiểm soát, sẽ tha hóa để thành độc tài.
Theo cụ Phan, dân trí cao khi người dân giác ngộ các quyền chính đáng của mình (ví dụ ghi trong Hiến Pháp). Thực tế, trình độ học vấn của dân Liên Xô không thấp, nhưng họ không quan tâm tới những quyền của mình. Đó là biểu hiện dân trí thấp kém. Những người muốn sử dụng quyền thì tự thấy sợ hãi, không dám lên tiếng đòi hỏi. Đó là dân khí ươn hèn. Đủ thấy, cụ Phan Chu Trinh sáng suốt biết bao khi chủ trương khai dân trí, chấn dân khí…
Theo cụ Phan, dân trí cao khi người dân giác ngộ các quyền chính đáng của mình (ví dụ ghi trong Hiến Pháp). Thực tế, trình độ học vấn của dân Liên Xô không thấp, nhưng họ không quan tâm tới những quyền của mình. Đó là biểu hiện dân trí thấp kém. Những người muốn sử dụng quyền thì tự thấy sợ hãi, không dám lên tiếng đòi hỏi. Đó là dân khí ươn hèn. Đủ thấy, cụ Phan Chu Trinh sáng suốt biết bao khi chủ trương khai dân trí, chấn dân khí…
– Còn cách đấu tranh của cụ Phan Chu Trinh đòi hỏi sự kiên nhẫn,
có thể tốn 50 hoặc 70 năm, nhưng khi thành công thì mỗi người dân đủ trình độ
thụ hưởng nền độc lập.
Quan
điểm của nước Pháp đối với các thuộc địa
Khi cụ Phan Chu Trinh sang Pháp, tận mắt thấy nền chính trị tiến
bộ và dân chủ của nước này, cụ càng tin tưởng con đường đã chọn. Cách mạng Pháp
thành công – tới lúc đó – đã được 120 năm, thể chế ngày càng hoàn thiện. Khẩu
hiệu Tự do, Bình đẳng, Bác ái ngày càng hiện thực; trở thành một giá trị cao
cả, được nhân loại ngưỡng vọng.
Chú thích. Thời nay, đã là thế kỷ 21, vẫn ít người nhận
xét rằng… hầu hết người Việt khi được hấp thu đầy đủ nền giáo dục tại nước
Pháp, đều trở thành trí thức tiến bộ, yêu nước, muốn đấu tranh ôn hòa để đồng
bào cũng dần dần được hưởng Tự do, Bình đẳng, Bác ái như người dân Pháp đang
được hưởng. Dù quan điểm chính trị và cách làm khác nhau – có tranh luận hoặc
bất đồng, nhưng giữa họ với nhau vẫn có thể hợp tác. Ngược lại, ở nhiều mức độ,
họ bị phái bạo động đả kích. Nhẹ nhất là cụ Nguyễn Ái Quốc phê phán bậc cha-chú
mình: “Cụ Phan Châu Trinh chỉ yêu cầu người
Pháp thực hiện cải lương, đó là sai lầm chẳng khác gì đến xin giặc rủ lòng
thương” (sách Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ chủ tịch).
Nặng hơn, là những văn bản của đảng CS phê phán cụ Lê Quang Liêm, Bùi Quang
Chiêu (đảng Lập Hiến) là tay sai của Pháp; tệ hơn nữa, gọi các cụ Phạm Quỳnh,
Nguyễn Văn Vĩnh là “việt gian”; nặng nhất là giết hại; ví dụ toàn bộ các cụ
Troskists bị giết năm 1945.
– Thời cụ Phan sống ở Pháp, phái
hữu chủ trương khai
thác thuộc địa, nhưng không phải như sách Lịch Sử mô tả dưới dạng văn học (“một
cổ hai tròng”, “bóc lột đến xương tủy”; kiếp ngựa trâu…). Nước Pháp cần tài
nguyên, khoáng sản; thế thì chính quyền thuộc địa kêu gọi giới tư bản đầu tư
vào hầm mỏ, kể cả đầu tư vào giao thông, thương mại, xuất nhập khẩu… Giống như
ngày nay nước nghèo kêu gọi các nhà tư bản đầu tư để có ngân quỹ canh tân đất
nước. Trong đó, tất cả các bên đều có lợi. Chớ nghĩ rằng cứ phái hữu là xấu.
Chú thích.
Việc quy hoạch và xây dựng Hà Nội, làm cầu Long Biên, mở trường trung học và
đại học, nhà Đấu Xảo… là trông vào khoản thu do đầu tư là chính. Cố nông nước
ta (không ruộng) nếu dời quê, làm thuê cho chủ tư bản, thu nhập được cải thiện
rõ rệt. Theo sách Kẻ
Dòng của nhà văn
Nguyễn Văn Toại, thì dân nghèo làng Dòng (Xuân Lũng, Lâm Thao, Phú Thọ) bị chức
sắc trong làng ngăn cấm đi làm “phu” (khi tư bản Pháp thầu con đường sắt Hà Nội
– Lào Cai; chạy qua làng này) vì các gia đình phú nông trong láng thiếu nhân
công giá rẻ. Quan Công Sứ (người Pháp) tỉnh Phú Thọ lập tức gửi công văn về
làng “khiển trách”: Không được cản trở mọi người đi kiếm việc làm.
Nguyên tắc chung: Chế độ tư bản ngay thuở còn hoang dã cũng ít bất công và tàn bạo hơn – nếu so với chế độ phong kiến. Marx mô tả đời sống công nhân là “cực khổ”. Không sai. Chỉ có điều họ xuất thân nông dân, khi họ thành công nhân họ bớt “cực khổ” nhiều lắm. Khẩu khí của các nhà cách mạng hoặc yêu nước theo đường lối bạo động – dù nói năng cách gì – cũng không lẫn vào đâu được.
Nguyên tắc chung: Chế độ tư bản ngay thuở còn hoang dã cũng ít bất công và tàn bạo hơn – nếu so với chế độ phong kiến. Marx mô tả đời sống công nhân là “cực khổ”. Không sai. Chỉ có điều họ xuất thân nông dân, khi họ thành công nhân họ bớt “cực khổ” nhiều lắm. Khẩu khí của các nhà cách mạng hoặc yêu nước theo đường lối bạo động – dù nói năng cách gì – cũng không lẫn vào đâu được.
Còn
phái tả, thời gian này gồm hai trào lưu lớn: chủ nghĩa cấp tiến và chủ
nghĩa xã hội. Từ 1920, chủ nghĩa xã hội tách ra nhánh cộng sản. Các ông Toàn Quyền được cử sang Đông Dương tất nhiên phải thực hiện một chính sách chung (xem ở dưới) do Bộ Thuộc Địa hoạch
định. Tuy nhiên, đa số họ thuộc phái tả; do vậy – không nhiều thì ít – họ đều
muốn để lại dấu ấn khai hóa. Đây là cơ sở để những người ôn hòa tìm cách tác
động thích hợp.
Vai
trò những hội viên Tam Điểm
Ít nhiều, cụ Phan biết tới Hội Tam Điểm, vì những từng gần gũi với cụ là hội viên của
hội này: Bùi Quang Chiêu, Phan Văn Trường, Nguyễn Thế Truyền… Hai ông sau đã
giới thiệu Nguyễn Ái Quốc vào hội. Nhưng cụ không biết rằng hội viên Tam Điểm có vai trò nòng cốt trong cách mạng
1789 – cách đó trên trăm năm. Khi thành công, cuộc cách mạng này đã chấp nhận
lý tưởng của Hội Tam Điểm (Tự do, Bình đẳng, Bác ái) và lấy đó làm tiêu
đề cho mọi văn bản chính thức của Nhà Nước (giống như nước ta dùng Độc lập, Tự
do, Hạnh Phúc trên các văn bản chính thức). Nhiều công chức cao cấp của Pháp ở
Đông Dương là hội viên của hội này. Đó cũng là điều kiện thuận lợi cho phái đấu
tranh ôn hòa.
Chú thích. Đây là Hội được thành lập từ trước thời Phục
Hưng (thế kỷ 14), điều lệ được sửa đổi nhiều lần để ngày càng nhân bản, tiến
bộ. Hội kín, chỉ kết nạp những người có học thức và tôn trọng Tự do, Bình đẳng,
Bác ái. Chính do vậy, dần dần hội chấp nhận kết nạp dân da đen, dân thuộc địa,
chấp nhận hôn nhân đồng tính…
Ngay từ khi mới thành lập, hội này đã phản đối tình trạng
chính quyền (phong kiến) kết hợp với Nhà Thờ đưa đến nền thống trị tàn bạo;
phản đối đưa Kinh Thánh vào chương trình Giáo Dục… Như vậy, sớm nhất, đạo Công
Giáo và Hội Tam Điểm coi nhau là kẻ
thù. Đến
nay vẫn có những bài viết của
phía Công Giáo, rất công phu. cảnh báo sự nguy hiểm của Tam Điểm.
Sau đó là sự kỳ thị
nhau giữa hội này với chủ nghĩa CS và cuối cùng là với chủ nghĩa Phát xít.
– Nhiều danh nhân
thế giới là hội viên Tam Điểm: tổng thống Mỹ Washington, Thomas
Jefferson, Grant, Abraham Lincoln, Franklin Roosevelt, Trumann, Lyndon B.
Johnson v.v…, thủ tướng Anh Winston Churchill, tổng thống Chili Allende, các
nhân vật trọng yếu trong cuộc cách mạng Pháp 1789 (đại tướng La Fayette,
Mirabeau, Sieyès, toàn thể gia đình hoàng đế Nappoléon đệ I) và những nhà lành
đạo nước Pháp (Jules Ferry, Paul Doumer, Mendès France, Gambetta v.v…), những
nhà bác học (Alexandre Flemming, người phát minh ra thuốc Pénicilline; Lumière,
ông tổ điện ảnh, Laplace v.v…), những nhạc sĩ (Mozart, Haydn, Louis Amstrong,
Duke Ellington, Rouget de Lisle, tác giả bài quốc ca Pháp: La Marseillaise,
Eugène Pottier, tác giả bài Quốc Tế Ca của các đảng Xã Hội và Cộng Sản v.v…),
các văn sĩ và triết gia nổi tiếng (Montesquieu, Voltaire, Fichte, Rudyard
Kipling, Mark Twain, Pouchkine, Stendhal v.v…) các phi hành gia lên cung trăng
(Gordon, Cooper [1963], Aldrin, Gleen), các tài tử điện ảnh (Clark Gable, John
Wayne v.v…)…– Nhiều (22/32) Toàn Quyền Đông Dương là hội viên Tam Điểm (ví dụ Paul Doumer, Merlin Varenne…), là điều kiện để phải ôn hòa đấu tranh có hiệu quả thực hiện “khai dân trí, chấn dân khí…” Cụ Hồ (sinh 1890) và cụ Varenne (sinh 1870) cùng là hội viên Tam Điểm và đảng viên Xã Hội. Sau khi rút khỏi hai tổ chức này, cụ Hồ viết bài phê phán cụ Varenne là phản bội.
– Nhiều người Việt đã vào Hội Tam Điểm (Nguyễn Văn Vĩnh, Nguyễn Thế Truyền, Phạm Quỳnh, Bùi Quang Chiêu, vua Duy Tân, Trần Trọng Kim, Hoàng Minh Giám, Nguyễn Phan Long, Nguyễn Văn Thinh, Phạm Ngọc Thạch, Phạm Văn Huyến, Phạm Huy Lục, Trịnh Đình Thảo, Tạ Thu Thâu, Trần Quang Vinh, Nguyễn Hữu Thọ, Lê Văn Trung, Dương Văn Giáo, Lê Thước…); nay xem lại, các cụ đều có nhân cách cao cả, có “tâm” và có lòng yêu nước…
Hai
loại chính sách lớn đối với thuộc địa
Chính giới Pháp cho rằng nước Pháp có sứ mệnh khai hóa thuộc địa.
Phải tả và phái hữu đấu tranh để thúc đẩy hoặc làm chậm việc thực thi ý tưởng
này. Một thắng lợi khi Hội Tam Điểm và đảng Xã Hội đề nghị – và được đa số chấp
nhận – chấm dứt sự tìm kiếm thêm thuộc địa mới và tiến tới trao trả “tự
trị” cho các thuộc địa đang có; đặt các nước này trong “khối Liên Hiệp Pháp”.
Có hai khuynh hướng khác nhau: 1) Cần đồng hóa các dân tộc thuộc
địa về văn hóa và các mặt khác, để đạt được sự tiến bộ ngang với chính quốc; 2)
Cần liên hiệp với dân tộc thuộc địa để cùng tiến lên (“đề huề”). Như vậy, cả
hai khuynh hường đều không xuất phát từ ý đồ xấu.
Thực tế, trong quá trình thực hiện, kết luận được rút ra: Với
những dân tộc quá thiểu số, quá lạc hậu, thì đồng hóa là phù hợp. Với những dân
tộc lớn, đã có một nên văn hóa lâu đời, chỉ có cách liên hiệp, cùng tiến bộ.
– Một mô hình đồng hóa là Tân Đảo.
Tên gọi hiện nay là Nouvelle Calédonie.
Chú thích.
Đây là một hòn đảo ở nam Thái Bình Dương, thuộc địa của Pháp từ thế kỷ 17.
– Khi mới bị Pháp
chiếm: Dân tộc bản địa là da đen, thưa thớt và hoang dã: chưa
mặc quần áo, chưa có chữ viết, chưa có tôn giáo; kho từ vựng rất nghèo nàn; còn
ăn thịt người… Đến nay, dân số cả bản địa và Âu cũng chỉ là 250.000 người.– Vài tư liệu hiện nay: Là “lãnh thổ hải ngoại” của nước Pháp. Chế độ: Tự trị (nhiều lần trưng cầu ý dân: chưa muốn độc lập). Dân bản địa chiếm 42%; người Âu 37%; người Việt 1,5%. Thế hệ lai rất đông đảo, nói lên sự bình đẳng… Tiếng nói chính thức: Pháp ngữ; Quốc ca: bài La Marseillaise (quốc ca Pháp); nhưng có cờ và huy hiệu riêng. Bình quân đất đai: 13 người/km2; GDP: 12.000 Đôla/ người… Mọi người dân đều có hộ chiếu Pháp (đi khắp thế giới).
– Với Việt Nam: Chính giới Pháp từng có ý kiến: Việt Nam chưa có
chữ, phải mượn chữ Hán từ ngàn năm trước (lúc đó, chữ quốc ngữ chưa chính thức
lưu hành). Ảnh hưởng văn hóa Trung Hoa đã trở nên có hại (ý thức hệ phong
kiến). Do vậy, nên dùng chữ Pháp làm ngôn ngữ chung, thay hẳn chữ Hán…
Đây chính là một trong những bước đầu của chủ trương đồng hóa.
Câu nói của cụ Phạm Quỳnh chính là trong hoàn cảnh này: “Tiếng
ta còn, nước ta còn“. Và cụ là một trong 5 người có công lớn nhất
“phổ biến chữ Quốc Ngữ”.
Toàn Quyền Varenne sang ta năm 1925 đã thấy chữ quốc ngữ xứng đáng
có địa vị là một bản ngữ. Nhờ các hoạt động báo chí, nòng cốt là “bộ ngũ”,
Varenne nhận ra: Việt Nam có một nền văn hóa rất lâu đời, có ý thức dân tộc rất
cao. Ông nói: “Một
người Việt dù ở Nam Kỳ hay ở Bắc Kỳ, cũng không bao giờ coi nước Pháp là quê
hương của họ được”. Ông
chủ trương dùng chính sách “hợp tác” và “khai phóng”.
Bộ
máy cai trị thực dân
Dù Hiến pháp nước Pháp tiến bộ, dù nhiều lần phải “tả” chiếm ưu
thế trong chính phủ Pháp, dù nhiều ông Toàn Quyền là đảng viên phái tả, hoặc
hội viên Tam Điểm… nhưng việc đấu tranh ôn hòa vẫn không dễ dàng, thậm chí rất
khó khăn. Đó là do bộ máy cai trị thực dân ở ngay trên đất Việt Nam. Xa chính
quốc (sự kiểm soát lỏng lẻo), không phải dân bầu lên, không thể bị lật đổ… do
vậy – theo quy luật – bộ máy này có xu hướng quan liêu hóa. Một ví dụ, tư bản
Pháp muốn đầu tư khai thác thuộc địa (nhiều lợi nhuận) phải được bộ máy này cho
phép (đặc quyền). Do vậy, các nhà tư bản buộc phải đưa lại nhiều đặc lợi cho
các cá nhân có quyền thế trong bộ máy, khiến nó không cưỡng được sự tha hóa. Sự
cấu kết của các nhóm lợi ích mạnh tới mức đủ sức tẩy chay các vị Toàn Quyền
muốn cải cách, nhất là những cải cách mạnh bạo và sâu sắc; khiến lợi ích riêng
của họ bị thu hẹp. Nhiều Toàn Quyền bị triệu hồi về Pháp trước thời hạn.
Có người ví, các quan Toàn Quyền như người lái xe, còn hệ thống
chính quyền thuộc địa như cái xe… để các vị trổ tài quản lý. Điều này đúng
“nếu” đây thật sự là cái xe tốt, tuyệt đối tuân theo sự điều khiển. Khốn nỗi,
cái xe này có khả năng tẩy chay người lái.
Để đấu tranh với bộ máy này, cách hiệu quả nhất là dựa vào Luật mà
chính bộ máy này phải thực hiện. Đây là cách các cụ ôn hòa vẫn làm và truyền
đến nay. Các cụ có trình độ, hiểu luật, thấy rõ những luật nào bị giới cầm
quyền lờ đi (không thực hiện) hoặc chần chừ, lần lữa; hoặc thực hiện cầm chừng…
đều có thể lên tiếng.
Cụ Phan Chu Trinh dù chưa thấy đầy đủ những cơ sở thuận lợi để đấu
tranh ôn hòa, nhưng bằng trực giác của một con người sáng suốt, nhân ái, nhân
bản, cụ tin tưởng rằng đây là cách làm đem lại kết quả sâu sắc nhất, bền vững
nhất, lâu dài nhất.
Nó đòi hỏi sự kiên nhẫn, như cụ Bùi Quang Chiêu (trưởng ban lễ
quốc tang Phan Chu Trinh) đã hứa: “Tây Hồ anh ơi, tôi xin thề hy sanh cho
chủ nghĩa Pháp Việt đề huề“. Và nhận định: Phải can đảm mới có thể
kiên nhẫn theo đuổi lý tưởng đời mình.
Bộ ngũ học giả với kết cục đáng buồn
Năm vị học giả nổi tiếng từ trước
1945
Đây là các trí thức, không những vậy, mà họ còn đạt tới trình độ
học giả, cùng yêu nước theo cách đấu tranh ôn hòa (con đường Phan Chu Trinh).
Họ thuộc thế hệ 3, nghĩa là hoạt động chủ yếu trước 1945. Cùng thế hệ 3, nhưng
chọn cách đấu tranh bằng bạo lực là cụ Nguyễn Ái Quốc, theo con đường Phan Bội
Châu. Dù vậy, trước 1945 hai bên vẫn hiểu nhau, quan hệ thân mật và tôn trọng
nhau. Vậy mà trí thức thế hệ 4 và 5, nếu yêu nước bằng đấu tranh bạo lực, đã
bôi nhọ, kể cả kết tội, thậm chí giết hại, thế hệ cha-chú mình thuộc phái ôn
hòa. Đó là chuyện sau 1945 – khi phái bạo lực giành được quyền lực chính trị.
– Trước 1945 là thời thuộc Pháp, học sinh vẫn được các thầy nói
cho biết – với thái độ hãnh diện và thán phục – về 4 học giả nước ta “không
thua Tây”: Quỳnh-Vĩnh-Tố-Tốn. Họ xứng đáng danh vị học giả vì khối lượng và
chất lượng các công trình mỗi người để lại cho hậu thế. Ngoài những khảo cứu
ra, công trạng của các vị đối với việc phát triển và nâng cao ngôn ngữ Việt và
chữ quốc ngữ cũng đồ sộ không kém. Muốn vậy, cần đối chiếu tiếng Việt thời chưa
hoàn thiện, với các ngôn ngữ khác đã hoàn thiện ở trình độ cao.
Cả 4 vị đều thông thạo tiếng Pháp, đã từng viết bằng tiếng Pháp,
đăng ở báo tiếng Pháp, kể cả báo xuất bản bên Pháp. Mỗi vị còn sở hữu một nền
tảng Hán văn thâm hậu. Xã hội thời đó chưa chuộng chữ quốc ngữ; ngay các cụ
sáng lập Đông Kinh Nghĩa Thục tuy hô hào học quốc ngữ, nhưng chính các cụ cũng
quen viết bằng chữ Hán. Ấy vậy mà “bộ tứ” lại sử dụng hai thứ ngôn ngữ “ngàn
tuổi” nói trên (Hán và Pháp) để cân nhắc, đối chiếu, khi các cụ viết văn tiếng
Việt, bằng chữ quốc ngữ. Thuở ấy, văn viết tiếng Việt vẫn rất gần với văn
nói. Ngôn ngữ Việt trong kinh thánh lại càng rườm rà, ngô nghê. Chính
cách làm rất khoa học này của các cụ khiến cho ngôn ngữ Việt – thể hiện bằng
chữ quốc ngữ – trở thành hiện đại, với năng lực thể hiện tư duy không thua Hán
văn và Pháp văn. Nhờ vậy, chữ quốc ngữ có thể thay thế chữ Hán và chữ Pháp.
Nghĩ lại mà hú vía. Ở nhiều nước thuộc địa, ngôn ngữ bản địa sau một thời gian
chỉ còn là ngôn ngữ phụ – vĩnh viễn mất địa vị chính ngữ.
– Nhà báo Phan Khôi, có vốn Hán học uyên thâm, tất nhiên rất thành
thạo Hán văn; thế nhưng cụ lại tìm hiểu thêm Pháp văn – dám thử dịch cả quyển
kinh thánh dày cộp sang tiếng Việt – cũng dùng hai ngôn ngữ này tôi luyện Việt
văn. Bằng ngòi bút của một nhà báo “tả xung hữu đột” suốt 40 năm, từ Bắc chí
Nam, cụ xứng đáng là “một trong những kiện tướng tinh luyện tiếng Việt”. Nếu
các cụ “Quỳnh-Vĩnh-Tố-Tốn” bồi đắp ngôn ngữ Việt chủ yếu theo hướng hàn lâm,
chính tắc, thì cụ Phan Khôi sáng tạo văn phong đa diện của báo chí. Cụ khởi đầu
lối văn tranh luận, phê bình, châm biếm. Lại còn tiên phong trong sáng tác thơ
mới, vượt khỏi các khuôn mẫu cũ. Tuy nhiên, nếu đọc lại nội dung những gì cụ đã
thể hiện trên các trang viết, còn thấy đây cũng là một học giả đúng nghĩa. Ghép
thêm cụ vào danh sách để có “bộ ngũ” là do vậy.
Chẳng ai trong năm vị có kết cục tốt đẹp cho
cuộc đời mình
– Cụ Phạm Duy
Tốn
Cụ mất sớm (1924, thọ có 41 tuổi), kết cục này quả là không đẹp.
Nhưng vẫn còn “may”, vì còn 6 năm nữa đảng cộng sản mới ra đời (1930) và sau đó
15 năm cách mạng vô sản ở nước ta mới giành được chính quyền – tất nhiên bằng
bạo lực (1945). Cụ mất đi, khuất mắt, do vậy, cụ không bị các trí thức thuộc
phái bạo lực (thế hệ 4) kết tội là Việt gian, mặc dù các lĩnh vực hoạt động của
cụ chẳng khác gì các cụ “Việt gian” khác. Cả năm cụ đều yêu nước theo cách ôn
hòa, theo con đường “ỷ Pháp cầu tiến bộ” của Phan Chu Trinh (thế hệ 2).
Cứ nhìn tấm ảnh 4 cụ Quỳnh, Vĩnh, Tố Tốn chụp chung, ta sẽ thấy sự thân
ái, gắn bó vì cùng hoài bão, cùng cách thực hiện. Nếu Trời ban thêm tuổi, cụ
Phạm Duy Tốn sống tới năm 1945, số phận nào sẽ chờ đợi cụ? Tóm lại, kết cục
đáng buồn là cụ mất sớm, do vậy đáng tiếc là lẽ ra sự nghiệp của cụ còn lớn hơn
nhiều. Đổi lại, cụ không bị Lịch Sử sau 1945 gán cho cái danh “việt gian” mà
các cụ Quỳnh, Vĩnh phải gánh chịu cho tới nay.
– Cụ Nguyễn Văn Tố
Cụ bị giặc Pháp giết hại năm 1947 khi đang ở cương vị bộ trưởng,
thọ 58 tuổi. So với tuổi trung bình “trời ban”, cái kết cục này quả là không
tốt đẹp. Có người nghĩ rằng… lẽ ra sự nghiệp sáng tạo của cụ còn lớn hơn. Đây là
suy nghĩ thiện tâm, nhưng không thực tế. Thực ra, nếu cụ may mắn thoát chết,
nhưng với cương vị công chức cao cấp (dù chỉ có quyền tượng trưng) và sống gian
khổ ở chiến khu, làm sao cụ có điều kiện tiếp tục nghiên cứu?. Xin nói rằng ở
nước ta một học giả nếu được cách mạng vô sản “ưu ái” để thành công chức cao
cấp, sẽ rơi vào bi-hài kịch. Sẽ chẳng sự nghiệp nào có kết cục mong muốn. Cứ
xem cái cách người ta viết về cụ Nguyễn Văn Tố trên wikipedia, hoặc ở những bài khác, là đủ rõ. Sự nghiệp 30 năm nghiên cứu của cụ được nhắc bằng (nhõn)
một câu. Hoạt động xã hội 8 năm cũng được ghi bằng một câu. Trong khi đó, chỉ
có 2 năm làm công chức cao cấp lại được kể lể khá dài dòng, nhưng thực chất lại
rất vô duyên đối với một học giả. Nói thật, viết tiểu sử kiểu này thì cụ không
còn xứng đáng đứng trong danh sách “bộ ngũ” học giả nữa. Hy vọng rằng sau đây,
đảng CS, Nhà Nước, hoặc con cháu cụ sẽ bổ sung vào wikipedia để cụ vẫn là một
học giả. Nói khác, đến nay, kết cục đời cụ cũng chẳng như ý cụ. Xin nói thêm:
Con-cháu cụ Tố thua xa, xa lắc, so với con cháu 4 cụ kia trong việc báo đáp
công ơn cha-ông.
Chú thích. Wikipedia (tiếng
Việt) mục Nguyễn Văn Tố, toàn kể lể các chức vụ. Thời nay, người ta lấy tên cụ
để đặt cho trường, cho phố, chính là do chức vụ của cụ. Hy vọng rằng sau đây, đảng CS, Nhà Nước, hoặc con cháu cụ sẽ bổ
sung vào wikipedia để cụ vẫn là một học giả. Xin chốt lại nội dung chính
wikipedia 2015 về cụ Nguyễn Văn Tố (dưới).
– Nguyễn Văn Tố (1889–1947), bút hiệu Ứng Hoè,
sinh năm 1889,
quê ở Hà Đông.
Thuở nhỏ ông học chữ Hán,
sau sang Pháp học
đỗ Trung học. Về nước ông làm việc tại trường Viễn Đông Bác Cổ Hà
Nội, chuyên về văn học cổ
Việt Nam. Ông từng làm Hội trưởng hội Trí Tri, Hội truyền bá
chữ Quốc ngữ trước năm 1945. Sau Cách mạng tháng
Tám, ông giữ chức Bộ trưởng Cứu tế
Xã hội trong chính phủ cách
mạng lâm thời. Ông là Đại biểu quốc
hội, Chủ tịch Quốc hội khóa I, Quốc vụ khanh trong Chính phủ liên
hiệp Việt Nam lâm thời (1946). Sau ngày toàn quốc kháng chiến (ngày19 tháng 12 năm 1946, ông cùng chính phủ
rút lên Việt Bắc tiếp
tục kháng chiến chống Pháp. Ngày 7 tháng 10 năm 1947, trong một cuộc tấn
công chớp nhoáng của quân đội Pháp vào chiến khu trong chiến dịch Việt
Bắc, ông bị giết tại Bắc Kạn.
Tên ông được đặt cho 1 trường ở Khu 9 Nam Bộ trong
những năm kháng chiến chống Pháp (1946 – 1954).
Ngày nay còn có nhiều ngôi trường mang tên ông tại Hà Nội, Thành phố Hồ Chí
Minh, Nghệ An… Tại Thành phố Hà nội, tên ông được đặt cho một con đường gần chợ
Hàng Da, quận Hoàn Kiếm.
– Cụ Nguyễn Văn Vĩnh
Cụ cũng mất sớm (1936), nhưng (chẳng may cho cụ) khi đó đảng CS
nước ta đã ra đời và các trí thức trong đảng thời ấy đã coi cụ là tay sai của
Pháp. Sau năm 1945, Lịch Sử do trí thức thế hệ 4 – chủ trương bạo lực – viết
ra, chính thức coi cụ là Việt Gian. Vẫn chỉ là cách quy kết của phái bạo lực –
khi nắm được quyền lực – đối với phải ôn hòa. Tuy nhiên, sự lên án này không
gay gắt và dai dẳng như với cụ Phạm Quỳnh.
– Các cụ Phạm Quỳnh và Phan Khôi
Hai cụ có kết cục thảm hại nhất. Trong khi cụ Vĩnh bị lên án ít
hơn (nay đã có phố Nguyễn Văn Vĩnh) còn cụ Phạm Quỳnh vẫn tiếp tục bị bôi nhọ.
Nguyên nhân: cụ Phạm bị cách mạng vô sản giết (nghĩa đen), mà đây là giết một
học giả – khiến dư luận một thời xôn xao. Do vậy các nhân vật liên quan tới cái
chết của cụ đã dùng đủ cách thuyết phục hậu thế rằng đây là cái chết rất “đáng
đời”. Ví dụ, cụ Tố Hữu ngay thời đó đã phải lên tiếng, sau này ông còn nhờ nhà
văn Tô Hoài viết bài hồi tưởng. Ông Tôn Quang Phiệt và nhiều vị trọng trách
khác cũng lần lượt góp phần chứng minh cái chết của cụ Phạm là “đáng đời”. Như
vậy, cụ Phạm Quỳnh coi như bị giết thêm tới 2 lần sau cái chết sinh học (coi là
lần đầu), chưa kể những lần “nhân thể” bị chém thêm một nhát nữa. Ví dụ, “nhân
thể” viết cuốn “Tác gia văn học Thăng
Long Hà Nội từ thế kỷ XI đến giữa thế kỷ XX”, mục về Phạm Quỳnh (1892-1945) các tác giả cũng bồi thêm cho cụ
một nhát: “Đến Cách mạng Tháng Tám
1945 chính quyền nhân dân khép án tử hình!”. Có người bảo, đây là nhát chém vào quan tòa chứ không phải là
chém người bị khép án. Xin không bàn “đúng-sai” e rằng lạc đề.
Còn cụ Phan Khôi, sau 9 năm kháng chiến, có huân chương, không thể
gọi cụ là “việt gian”; do vậy, cụ chỉ là “phản động” – nhưng khác với các cụ
cùng nhóm, cụ mang danh phản động ngay khi còn đang sống.
Con cháu minh oan cho ông cha
Cả 5 vị học giả nói trên đều bằng lao động trí óc cá nhân mà kiến
tạo nên sự nghiệp của mình. Không rõ nên vui hay buồn khi sự nghiệp của các cụ
được thực hiện dưới thời thuộc Pháp. Sau cách mạng vô sản, mọi thứ đảo lộn. Cái
nhìn đối với các vị cũng đảo lộn cho phù hợp với quan điểm cách mạng vô sản.
– Chỉ có cụ Nguyễn Văn Tố là sướng nhất – hoặc khổ nhất – trong số
5 cụ, tùy theo góc nhìn. Cùng lứa tuổi với cụ Nguyễn Ái Quốc (cụ Hồ), cụ được
cụ Hồ mời làm bộ trưởng, rồi đứng đầu quốc hội, rồi quốc vụ khanh…, khi mất
được thêm cái danh hiệu liệt sĩ. Lại chẳng sướng? Nhưng giá mà các vị lãnh đạo
– hôm nay đang hường trọn quyền lực “tuyệt đối và toàn diện” mà cụ Hồ để lại
cho – hãy tái bản các sách và công trình nghiên cứu của cụ, có lẽ cụ vui hơn.
Bởi vì, muốn đánh giá học giả không gì tốt hơn hãy đọc họ. Nhưng trí thức cách
mạng vô sản có cách đánh giá khác, đơn giản hơn nhiều. Ví dụ, trong “bộ ngũ” có
hai cụ làm thượng thư. Thế thì cụ làm “thượng thư cho chính quyền cách mạng”
phải là “Việt ngay”; còn cụ kia làm “thượng thư cho thực dân, phong kiến” phải
là “Việt gian”… Tội gì mà tẩn mẩn đọc hàng chục ngàn trang viết của các cụ?
– Các cụ khác, nhờ… bị oan, con cháu trong gia đình, dòng họ (và
cả con cháu bên ngoài dòng họ – ví dụ nhà nghiên cứu Lại Nguyên Ân, nhà sử học Nguyễn Văn Khoan… vân vân) đã kiên nhẫn, khổ công, minh oan cho
cha-ông. Có một trang mạng về học giả Phạm Duy Tốn, do con-cháu cụ lập ta, với
lượng tư liệu đủ để viết nhiều luận án tiến sĩ về sự nghiêp của cụ. Hai trang
mạng khác, lớn hơn nhiều, về Phạm Quỳnh và về Nguyễn Văn Vĩnh, cũng do con-cháu
tạo dựng cho cha-ông. Con cháu cụ Phan Khôi cũng sưu tập đủ tư liệu để viết
sách minh oan cho cha-ông.
Công sức, thời gian mà con-cháu bỏ ra để minh oan các bậc cha-ông
là không thể đong đếm, cũng như nỗi đau khổ của gia đình, dòng họ – khi cha-ông
bị vu oan trắng trợn – cũng là không thể đong đếm. Lẽ ra, nếu xã hội thật sự là
“công bằng, dân chủ, văn minh” (như rêu rao) việc minh oan rất đơn giản. Chỉ
cần một văn bản chính thức, với vài hàng chữ, là xong. Oan Nguyễn Trãi (thời
hậu Lê), oan Nguyễn Văn Thành, Lê Văn Duyệt (thời Nguyễn) chỉ đời vua sau đã
được giải oan.
Bốn học giả rất thân thiết, cùng dùng phương pháp ôn hòa để thúc đẩy tiến bộ xã hội. Kết cục cuối đời đều không như ý, thậm chí bi thảm.
Thực chất mục tiêu chính trị của hai vị Việt
gian Quỳnh, Vĩnh
Ba vị cùng lứa tuổi, cùng là hội viên Hội Tam Điểm…
Đó là các cụ trí thức Nguyễn Văn Vĩnh, Nguyễn Ái Quốc và Phạm
Quỳnh, cùng thuộc thế hệ 3. Họ đều là hội viên của Hội Tam Điểm. Dẫu họ được
kết nạp không cùng nơi, không cùng lúc, họ vẫn giống nhau ở chỗ cùng đạt tiêu
chuẩn chung để được kết nạp. Đó là:
1) Họ đều tự nguyện xin vào Hội (hai người giới thiệu đảm bảo với Hội về trình độ và thanh danh của đương sự);
2) Họ trả lời “đạt yêu cầu” trong buổi phỏng vấn. Đương sự bị bịt mắt (để không biết ai nêu câu hỏi) và trả lời về niềm tin và sự thực hiện lý tưởng Tự do, Bình đẳng, Bác ái của mình. Đến nay, đây vẫn là lý tưởng thời đại; do vậy thật đáng tự hào nếu là hội viên hội này.
1) Họ đều tự nguyện xin vào Hội (hai người giới thiệu đảm bảo với Hội về trình độ và thanh danh của đương sự);
2) Họ trả lời “đạt yêu cầu” trong buổi phỏng vấn. Đương sự bị bịt mắt (để không biết ai nêu câu hỏi) và trả lời về niềm tin và sự thực hiện lý tưởng Tự do, Bình đẳng, Bác ái của mình. Đến nay, đây vẫn là lý tưởng thời đại; do vậy thật đáng tự hào nếu là hội viên hội này.
Chú thích.
Cụ Nguyễn Văn Vĩnh được kết nạp sớm nhất, tại Pháp. Thời gian này, Hội ở Pháp
chưa phát triển sang Đông Dương; nhưng những hội viên Pháp sang ta đã nhận thấy
cụ Vĩnh rất xứng đáng (trình độ học vấn và phẩm cách); do vậy, trong một dịp cụ
sang Pháp họ gợi ý cụ nhập Pháp tịch và như vậy là đủ điều kiện để được giới
thiệu vào hội. Cụ Phạm Quỳnh được kết nạp khi Hà Nội có chi hội; còn cụ Nguyễn
Ái Quốc được hai vị Phan Văn Trường và Nguyễn Thế Truyền giới thiệu tại Paris.
Rất sớm, cụ Nguyễn Ái Quốc bỏ Hội để vào đảng Cộng Sản, vì đảng này – cùng với
đạo Thiên Chúa và chủ nghĩa Phát Xít – coi Hội Tam Điểm là kẻ thù. Câu hỏi: Liệu có phải vì cụ Nguyễn Ái Quốc ra khỏi Hội mà thành “Việt
Ngay”, còn các cụ Nguyễn Văn Vĩnh và Phạm Quỳnh cứ trung thành với Hội sẽ thành
“Việt Gian”?? Xin trả lời: Chả phải.
Từng gặp nhau, từng trình bày cho nhau nghe về
mục tiêu chính trị
Vào năm 1922, ba vị trên đã nhiều lần gặp nhau ở Pháp. Tại đây, cụ
Nguyễn Ái Quốc đang hoạt động yêu nước trong nhóm các cụ Phan Chu Trinh, Phan
Văn Trưởng, Nguyễn Thế Truyền, còn hai cụ Nguyễn Văn Vĩnh và Phạm Quỳnh sang
Pháp dự Triển Lãm và ở lại hai tháng. Dịp này, họ đến thăm nhau, lần nào cũng
trò chuyện thân mật, ăn uống vui vẻ. Có lần, cụ Nguyễn Ái Quốc đứng ra mời cụ
Phạm Quỳnh “bữa cơm ta” được tổ chức ở nhà cụ Phan Văn Trường.
Theo cụ Lê Thanh Cảnh (bạn bè thời trung học với cụ Nguyễn Ái
Quốc) thì lần gặp quan trọng nhất có mặt tới 10 vị, tại bữa tiệc ở một khách
sạn, trong đó có 5 vị về sau được gọi là “Năm nhân vật phi
thường“. Đọc lại bài viết của cụ Lê
Thanh Cảnh, chúng ta thấy cả năm vị đều yêu nước, đều muốn đất nước độc lập và
xã hội tiến bộ, nhưng họ tranh luận về mục tiêu nào là thích hợp và cách làm
nào là phù hợp với thực tế. Tóm lại, vẫn là những mục tiêu từ thời cụ Nguyễn
Trường Tộ: Độc lập và Canh tân; vẫn là cái nào trước, cái nào
sau. Vẫn là biện pháp đấu tranh: bạo động hay ôn hòa… Tất cả, phải dựa vào tình
hình thực tế, nhưng dưới cái nhìn riêng của mỗi vị. Viễn kiến hay thiển cận,
chưa thể thấy ngay lúc đó.
Thực ra, mỗi người đã nung nấu lâu năm về chủ trương của riêng
mình; dẫu có gặp nhau ở cuộc họp trên hay không, cũng không dễ thuyết phục nhau
để đi đến thống nhất – dù rằng hai vị chủ tiệc rất mong có sự thống nhất nào
đó.
Chủ trương và biện pháp khác nhau
Chỉ có một vị chủ trương bạo lực (từ dùng là “cách mạng triệt
để”); còn 4 vị dùng cách ôn hòa, nhưng giữa 4 vị này cũng chưa thật thống nhất
với nhau.
– Cụ Phan Chu
Trinh hôm ấy vẫn kiên định “ỷ Pháp cầu tiến bộ” (dựa vào Pháp mong tiến
bộ). Cách nói này, xét ra, ý này chưa thật bình bình đẳng giữa Pháp và Việt; do
vậy những người Pháp tiến bộ đã phát triển ý của cụ thành Collaboration
franco-annamite (Hợp tác Pháp-Việt), sau đó chuyển sang tiếng
Việt thành Pháp-Việt đề huề. Theo cụ Phan, “ỷ Pháp cầu
tiến bộ” sẽ giúp nâng cao dân trí, dân khí, dân sinh… Và đó là điều kiện để
tiến tới đòi tự trị và độc lập. Sau khi gặp gỡ nhau trong bữa tiệc, cụ nhận
thấy nếu cả nhóm (sau này là ngũ long) cứ ngồi ở Pháp viết báo (tiếng Pháp) tố cáo chính quyền thực
dân, hoặc gửi kiến nghị cho chính phủ Pháp… sẽ ít kết quả, mà dân trí trong
nước cũng khó nâng lên được. Cụ chủ trương: Cả nhóm về nước đấu tranh ôn hòa và
hợp pháp; cố sử dụng tiếng Việt tuyên truyền trong dân… Về sau, mọi người đều
hưởng ứng chủ trương “về nước” của cụ; chỉ có cụ Nguyễn Ái Quốc sang Nga.
– Cụ Nguyễn Ái Quốc chủ trương “cách mạng triệt
để”, nghĩa là dùng bạo lực đánh đuổi thực dân, xóa bỏ phong kiến. Đây là con
đường cụ Phan Bội Châu chủ trương. Mọi người đều thấy con đường này là nguy
hiểm, đổ máu vô ích và sẽ thất bại, như cụ Phan Chu Trinh đã cảnh báo: Bạo
động ắt chết, vọng ngoại là ngu“. Nhưng cụ Nguyễn cứ chủ
trương bạo động (xây dựng lực lượng vũ trang), cứ vọng ngoại (Nga, Tàu). Trớ
trêu: cụ đã thành công. Chính vì vậy, cần có bài về cụ, trong loạt bài này.
– Cụ Nguyễn Văn Vĩnh nêu lại chủ trương “trực trị” –
đó là tên gọi có nguồn gốc từ tiếng Pháp: administration directe được dịch sang tiếng Việt, mà lẽ ra phải là “quản lý trực tiếp”.
Sau khi chết, cụ vẫn bị phái bạo lực (hế hệ 4, như con cháu cụ) gọi là Việt
Gian chính là do cái chủ trương này – mà họ hiểu sai là “cầu xin” Pháp “trực
tiếp thống trị” dân ta.
Chú thích. Sách giáo khoa Lịch Sử (ý): Chế độ bảo hộ của Pháp đã đủ để dân ta một cổ hai tròng; vậy
mà tên Việt Gian Nguyễn Văn Vĩnh còn dã tâm quỳ gối cầu xin thực dân Pháp trực
tiếp thống trị dân ta mãi mãi… Hắn vinh thân, phú quý, nhưng dân ta sẽ
vĩnh viễn làm thân trâu ngựa cho giặc (!).
– Nếu hiểu cho đúng ý cụ Vĩnh, thì chỉ là cụ mong cho dân Việt
thời đó (chưa có hiến pháp) được thực thi chính cái bản hiến pháp của nước
Pháp. Ngay thời nay (thế kỷ 21) nếu nước ta cứ dùng Hiến Pháp “tây” của thời cụ
Vĩnh có lẽ cũng tốt chán. Nào tự do ứng cử, nào tự do báo chí, nào là người dân
có thể lập Hội (ví dụ Hội Nhân Quyền, mà cụ Vĩnh là hội viên)… Toàn là quyền
“thật” chứ không phải là “bánh vẽ”.
–
Xin nhớ rằng Nguyễn Ái Quốc – cùng thế hệ trí thức 3 với hai cụ Quỳnh và Vĩnh,
lại đã nhiều lần gặp gỡ – chưa bao giờ cụ Ái Quốc coi hai cụ Quỳnh và Vĩnh là
“Việt Gian”. Cái từ này xuất hiện sau năm 1945, được thế hệ 4 – phái bạo lực –
tặng cho 2 vị tiền bối của mình, chỉ vỉ 2 vị thuộc phái ôn hòa. Thế hệ 4 độc
quyền viết Lịch Sử, dạy cho mọi học sinh như vậy.
Thật ra, đầu đuôi chủ trương của cụ Vĩnh dựa trên những gì đang
hiện thực và có khả năng hiện thực. Ngay từ năm 1881 (cụ Vĩnh mới 1 tuổi) tổng
thống Pháp đã sớm ban sắc lệnh (25-5-1881) quy định “quốc tịch của người Việt Nam ở Nam Kỳ được hưởng
mọi quyền công dân như người Pháp trên đất Pháp“. Nói khác, dân thuộc địa Nam Kỳ được chính phủ Pháp “quản lý
trực tiếp”, do vậy – cứ theo hiến pháp nước Pháp – được hưởng nhiều quyền dân
chủ, tự do mà bộ máy cai trị thực dân (ở bản xứ) không dễ thoái thác thi hành
hoặc chần chừ thực hiện. Ví dụ, ngay cuối năm đó, quan Toàn Quyền ra Nghị Định
về Tự Do Báo Chí ở Nam Kỳ – căn cứ vào đạo luật cùng tên ở bên Pháp. Đó là Luật ngày 29 tháng 7 1881 về tự do báo
chí (Loi du 29
juillet 1881 sur la liberté de la presse). Tới nay, Luật này (sau
nhiều lần bổ sung, sửa chữa) vẫn đang có hiệu lực ở nước Pháp. Khi cụ Vĩnh lớn
lên, nhiều quy định dân chủ khác được thực hiện ở Nam Kỳ. Nhờ vậy, các nhà yêu
nước Nam Kỳ bắt đầu đề cập tới thể chế “tự trị” thay cho thể chế “thuộc địa”.
Nói chung, nhờ sự “trực trị” mà dân trí, dân khí, dân sinh Nam Kỳ cao hơn Bắc
Kỳ và càng cao hơn Trung Kỳ.
Chú thích. Cụ Vĩnh – một trong “Năm nhân vật phi
thường” đã phát biểu trong
bữa tiệc như sau (trích): “Tôi đã từng đứng trong
hàng ngũ Đông Kinh Nghĩa
Thục cùng các bậc tiền bối và
rất đau đớn thấy hàng ngũ lần lượt tan rã… đến nỗi ngày nay tất cả các tổ chức
cách mệnh ấy chỉ còn cái tên vất vưởng trong ký ức chúng ta thôi: Bao nhiêu
chiến sĩ đều gục ngã hoặc còn sống vất vưởng ở Côn Đảo, Thái Nguyên, Lao Bảo,
hay Ban Mê Thuột. Bạo động như anh Quốc là thậm nguy! Sở dĩ tôi theo
lập trường “Trực trị” là kinh nghiệm cho tôi thấy Nam Kỳ trực trị mà tiến bộ
quá xa hơn Trung và Bắc. Mà Bắc kỳ nhờ chế độ mập mờ nửa Bảo hộ nửa Trực trị
(không công khai) mà hơn Trung Kỳ quá xa. Chính thể Bảo Hộ tại Trung Kỳ là quá
lạc hậu, đồng bào chúng ta ở đó còn trong tình trạng ngu muội. Cứ trực trị cái
đã rồi sau khi được khai hóa theo đà tiến bộ thì tức khắc dân chúng tự có sức
mạnh mà trồi đầu lên. Nói trực trị tôi chẳng khi nào chịu giao nước Nam cho Tây
đâu. Quá khứ đường lối tranh đấu của tôi, cuộc đời thiếu thốn của tôi đã hùng
hồn bảo đảm cho lời nói của tôi hôm nay“.
– Cụ Phạm Quỳnh (và cụ Bùi Quang Chiêu – đảng
viên Đảng Cấp Tiến XHCN Pháp, có quốc tịch Pháp) là hai người sớm nhất có tư
tưởng lập hiến. Các cụ đề nghị một Hiến Pháp cho Việt Nam. Hiến pháp tất nhiên
phải ghi những điều khoản tiến bộ – dù là tối thiểu – và đó là cơ sở để các nhà
đấu tranh ôn hòa đòi thi hành chúng. Theo cụ Phạm thì chính phủ Pháp, cũng như người
dân Việt thời đó, chưa muốn phế bỏ Nam Triều; do vậy, ta cứ tranh đấu cho chế
độ quân chủ lập hiến là phù hợp với tình hình. Hôm dự tiệc (có 5 nhân vật phi
thường), cụ nói: Quân chủ lập hiến mà được như Anh, Nhật… thì mong gì hơn?
Khi cụ viết trên báo Nam Phong về quan điểm quân chủ lập hiến của
mình, cụ bị ít nhất hai quan điểm khác phản đối: 1) Cụ Phan Chu Trinh muốn xóa
bỏ ngay lập tức, xóa triệt để, chế độ phong kiến; 2) Cụ Nguyễn Văn Vĩnh cũng
đòi xóa phong kiến, đồng thời phải áp dụng dần hiến pháp của nước Pháp cho Việt
Nam (trực trị là vậy). Thế là dấy lên cuộc tranh luận giữa cụ Quỳnh và cụ Vĩnh,
bị cụ Ngô Tất Tố coi là “tranh luận giả vờ”. Đọc lại các bài của cụ Ngô Tất Tố,
ta thấy cụ cũng thuộc phái ủng hộ cách yêu nước bằng bạo lực.
Nhưng có một người người chấp nhận quan điểm cụ Phạm Quỳnh, rất dễ
đoán là ai. Đó là vua Bảo Đại. Ông vua “tây học” này – không sành chữ Hán,
không ưa đạo Nho – khi vừa mới từ Pháp về nước nối ngôi vua Đồng Khánh, đã dứt
khoát bỏ cái lệ “quỳ lạy” khúm núm. Ít lâu sau, vị vua này cho phục viên (nghĩa
là “về vườn”) 5 vị thượng thư Nho học, thay bằng 5 vị gần gũi tân học – trong
đó có cụ Phạm Quỳnh. Nói khác, vị vua này muốn duy trì địa vị và chấp nhận một
hiến pháp. Sau này, thời gian chứng minh rằng cả 5 vị thượng thư này đều yêu
nước, và có tư cách cá nhân đẹp đẽ. Ví dụ, các cụ Hồ Đắc Khải, Ngô Đình Diệm, Thái Văn Toản, Bùi Bằng Đoàn... Chỉ riêng cụ Phạm Quỳnh là chịu thảm họa.
Cụ Phạm rất mềm mỏng với quan Khâm Sứ, nhưng rất kiên quyết đòi
“thực hiện đúng” hòa ước năm 1884, trong đó chỉ có Nam Kỳ là “Pháp quốc thuộc
địa” (tức là “đất thuộc nước Pháp”), còn Bắc Kỳ, Trung Kỳ vẫn của triều đình,
còn nước Pháp chỉ là “bảo hộ” (tức là “bảo vệ” và “kèm cặp”). Trong quá trình
thi hành hiệp ước, người Pháp cứ lấn dần, biến Nam Triều thành hữu danh mà vô
thực. Xét ra, đây là mục tiêu rất thấp, nhưng có cơ sở pháp lý và thích hợp với
chủ trương của vua Bảo Đại.
Những người ít ghét Phạm Quỳnh nhất thì phê phán cụ là “ảo tưởng”.
Thực ra, dễ thấy rằng mục tiêu của cụ Phạm là ít ảo tưởng nhất – nếu so với mục
tiêu “quét sạch thực dân” của các vị Phan Đình Phùng, Nguyễn Thiện Thuật, Hoàng
Hoa Thám, Phan Bội Châu, Nguyễn Ái Quốc… Cũng thấp hơn mục tiêu “xóa triều
đình” của các cụ Phan Chu Trinh, Phan Văn Trường, Nguyễn Văn Vĩnh.
Chú thích. (trích 1) Trong sách Con rồng Việt Nam, cựu hoàng Bảo Đại kể rằng:
“Phạm Quỳnh được biết đến sau vụ Yên Bái năm 1930 nhờ bốn bài xã luận đăng trên
báo France-Indochine ở Hà Nội, mà bài đầu tiên nhan đề: “Tiến tới một
Hiến pháp”. Ông ta chỉ muốn trở lại cơ cấu tốt đẹp cũ. Nằm trong tinh thần
hiệp ước bảo hộ, là nên trả lại cho chính phủ hoàng gia sự cai trị nội bộ với
Hội đồng Dân biểu. Muốn thực hiện cải cách ấy, cần phải có sự tham gia của phái
trẻ và tân học” (Bảo Đại, Con rồng Việt Nam, California: Nxb. Xuân Thu, 1990,
tr. 90.)
(Trích
2) Năm 1937 và 1938, tức là lúc đang làm thượng thư bộ Học, Phạm Quỳnh cho ấn
hành liên tiếp hai tập tiểu luận bằng tiếng Pháp nhan đề là Essais
franco-annamites (31-5-1937), và Nouveaux essais franco-annamites (30-6-1938).
Hai tập tiểu luận nầy đề cập đến những vấn đề chính trị Pháp Việt, và phản ảnh
chủ trương quân chủ lập hiến mà Phạm Quỳnh đã đưa ra từ trước khi tham chính.
Đối với người Pháp, ông cho biết: “Chúng tôi là một dân tộc bị chinh phục. Có thể sự chinh phục nầy
đem đến cho chúng tôi vài lợi ích. Nhưng những lợi ích nầy không bao giờ đền bù
được việc chúng tôi bị mất độc lập… Các ông đã hiện diện trên đất nước nầy bằng
quyền chinh phục. Các ông đã chinh phục mảnh đất nầy. Còn một cuộc chinh phục
cao cả khác các ông cần phải thực hiện tiếp: đó là cuộc chinh phục khối óc và
con tim.” (Dịch từ bài “Les conditions du rapprochement franco-annamite”
[Điều kiện tiếp cận Pháp Nam ] của Phạm Quỳnh đăng trong sách Essais
franco-annamites (1929-1932), Nxb. Bùi Huy Tín, Huế 1937, tt. 359-367).
Việt gian muốn kiến tạo một nền quốc học
– Đọc diễn văn trước Viện Hàn Lâm nước Pháp
Từ thuở nước ta đưa các môn khoa học (cách trí, địa dư, toán…) vào
chương trình giáo dục, xin hỏi: có người Việt “tân học” nào – cứ cho là đã có
bằng tiến sĩ tân học – mà được mời diễn thuyết đàng hoàng trước Viện Hàn Lâm
một văn minh nhất ở châu Âu – như nước Pháp? Xin trả lời: Duy nhất chỉ có
Phạm Quỳnh, vào năm 1922 – trong dịp cụ
sang Pháp dự Hội Chợ đấu xảo. Đây cũng là dịp cụ gặp Nguyễn Ái Quốc và các trí
thức yêu nước (đã nói ở trên). Nói thêm những điều duy nhất khác: Cụ mới 29
tuổi; chưa có bằng đại học, lại xuất hiện đầy tự tin trong bộ quốc phục. Đề tài
báo cáo liên quan giáo dục, nhằm bảo vệ nền văn hóa lâu đời của nước Việt trước
mối đe dọa bị thay thế hoàn toàn bằng văn hóa Pháp. Kết thúc diễn văn, cử tọa
đã phá lệ: tán thưởng bằng tràng pháo vỗ tay không ngớt.
Trong vòng một trăm năm tới (tức năm 2115) liệu điều này có thể
được một công dân Việt Nam tái hiện? Nếu sự kiện này xảy ra lần nữa, niềm tự
hào của người Việt phải gấp chục lần khi nước ta có Ngô Bảo Châu (được đào tạo
ở nước ngoài).
– Diễn văn đề cập gì?
Tốt nhất là chúng ta đọc bài dịch từ nguyên bản, hoặc ít ra có thể
đọc bài giới thiệu nội
dung chính. Kỳ thi Nho Học cuối cùng được tổ chức năm 1919, tới khi cụ Phạm
Quỳnh sang Pháp mới là 3 năm (1919-1922). Dễ hiểu, khi đó số người biết chữ nho
và chữ Pháp tuy hiếm, nhưng không hiếm hơn số người biết chữ quốc ngữ. Tiền và
giấy khai sinh còn in bằng 3 (hoặc 4) thứ chữ: Quốc Ngữ, Pháp, Hán và Nôm.
Trong chính giới Pháp vẫn còn lưu hành ý kiến cho rằng… nên dạy tiếng Pháp một
cách phổ biến – ngay từ tiểu học – để dân Việt dùng nó làm ngôn ngữ giao tiếp
đời thường và đó cũng là phương tiện tiếp thu khoa học và văn hóa Pháp –
tiên tiến nhất thế giới. Không thể vội vàng (như cách xử sự của phái bạo lực)
nói rằng đó là ý kiến thiếu thiện chí. Có thể lấy ví dụ từ nước Mỹ. Cho tới lúc
đó, nước Mỹ (vốn đa chủng tộc) sau 130 năm coi tiếng Anh là ngôn ngữ chung, đã
tự xây dựng nền văn hóa riêng của mình. Nhưng dân Việt thì khác. Họ từ ngàn năm
vẫn sống ở bản địa của mình, chẳng di cư đi đâu, mà cũng không pha trộn chúng
tộc; do vậy họ đã xây đắp được một nền văn hóa lâu đời. Cụ Phạm đã đề cập tới
Giáo Dục và giải thích trước viện Hàn Lâm Pháp rằng cần tránh áp đặt những gì
không thích hợp với truyền thống Việt, để tránh lai căng, đặng để giữ vững và
phát triển quốc học. Ví dụ cụ đưa ra thật là dễ hiểu và sâu sắc. “Dân
Việt Nam chúng tôi, không thể ví như tờ giấy trắng được. Dân tộc chúng tôi là
một quyển sách cổ đầy những chữ viết bằng một thứ mực không phai, đã mấy mươi
thế kỷ nay; không có thuốc gì xoá hẳn được thứ chữ ấy đi. Không ai có quyền tự
do muốn viết gì vào đấy thì viết được. Không thể đem in một thứ chữ ngoài lên
trên các dòng chữ cũ được”.
Kết tội của thời nay
Thời nay, đang có sự diễn biến hòa bình không cưỡng nổi: Trí thức
thế hệ 7 cũng đã nhận ra đóng góp về văn hóa của các vị Việt gian Quỳnh và
Vĩnh; bất chấp thế hệ 4, 5 và 6 dầy công phủ nhận suốt từ 1945 tới nay. Nói
khác, dùng bạo lực để phủ nhận sự thật sẽ không thể bền mãi được. Té ra, sau
100 năm vẫn không khó để phân biệt yêu nước cách bạo lực với cách ôn hòa, dù
được biến hóa thế nào. Nếu cho tới nay, tuy buộc phải thừa nhận công lao về văn
hóa, vẫn có người kết tội các vị về chính trị, thì chắc hẳn là họ chưa đọc ở
mức cần thiết các công trình của “Việt gian”.
Chú thích. Ngay khi còn sống, cụ Quỳnh đã biết rằng mình sẽ bị cả người đương
thời, lẫn hậu thế chê và khen. Hai phía khen và chê còn cãi nhau lâu.
Cụ viết như sau: Về phần riêng tôi, như thế là số mệnh đã an bài. Tôi là người của chuyển tiếp, vì vậy, sẽ không bao giờ được người đời hiểu mình. Chuyển tiếp giữa Á Đông và Tây Âu, giữa quá khứ và tương lai, giữa một trạng thái chính trị sản phẩm của xâm lăng và đương nhiên là phải hư hỏng ngay từ nền tảng, và một nền trật tự mới không thể nhất đán mà thành tựu, khả dĩ biết tôn trọng phẩm cách của con người. Sống giữa đầy rẫy những mâu thuẫn như thế, cố gắng dung hòa các mâu thuẫn đó, với hoài bão thực hiện một chương trình tiến hóa hợp tình hợp lý khả dĩ đưa đến tình trạng hòa hợp toàn diện; dĩ nhiên là tôi phải đương đầu với những ngộ nhận đủ loại…
Cụ viết như sau: Về phần riêng tôi, như thế là số mệnh đã an bài. Tôi là người của chuyển tiếp, vì vậy, sẽ không bao giờ được người đời hiểu mình. Chuyển tiếp giữa Á Đông và Tây Âu, giữa quá khứ và tương lai, giữa một trạng thái chính trị sản phẩm của xâm lăng và đương nhiên là phải hư hỏng ngay từ nền tảng, và một nền trật tự mới không thể nhất đán mà thành tựu, khả dĩ biết tôn trọng phẩm cách của con người. Sống giữa đầy rẫy những mâu thuẫn như thế, cố gắng dung hòa các mâu thuẫn đó, với hoài bão thực hiện một chương trình tiến hóa hợp tình hợp lý khả dĩ đưa đến tình trạng hòa hợp toàn diện; dĩ nhiên là tôi phải đương đầu với những ngộ nhận đủ loại…
Và một cuộc phiêu lưu đưa đến với tôi.
Là một nhà ái quốc An Nam, tôi yêu nước với tất
cả tâm hồn: người ta lên án tôi phản bội Tổ quốc, vì tôi đồng lõa với xâm lăng
và phục vụ xâm lăng!
Mặt khác, là bạn chân thành của nước Pháp: người
ta lại trách tôi khéo léo che đậy một ý thức quốc gia khe khắt và bài Pháp sau
một tấm bình phong thân Pháp!
Và trường hợp của tôi làm ai nấy ngạc nhiên.
Người ta cố tìm hiểu giải thích, bằng đủ mọi cách, mà vẫn không thể hiểu.
Có lẽ, một ngày kia, người ta sẽ hiểu, khi một
thỏa hiệp được chào đời có thể hòa giải tinh thần quốc gia An Nam và chính sách
thuộc địa Pháp.
Tôi tin sự hòa giải có thể thực hiện được. Nhưng
trong khi sự hòa giải đó chưa được thực hiện, cuộc phiêu lưu của tôi không
tránh khỏi trở nên bi đát?
Có
lẽ chăng, đó chẳng phải là cuộc phiêu lưu của riêng tôi. Nó vượt ra ngoài khuôn
khổ của một cá nhân, để trở nên của cả một thế hệ, một thời đại“.
Học
giả Phạm Quỳnh bị giết 3 lần
Nhắc
lại sự kiện giết Phạm Quỳnh lần 2. Phần trước của bài này đưa ra các tư liệu xác thực (dễ kiếm trên mạng internet)
khẳng định việc Phạm Quỳnh bị thủ tiêu ngày 6-9-1945, mà không qua xét xử. Đó
là giết lần 1, thuần túy về sinh mạng. Vậy mà 3 tháng sau, Ủy Ban Khởi Nghĩa
tỉnh Thừa Thiên – Huế vẫn thông báo chính thức, trên tờ báo chính thức, một tin
ngắn, bịa đặt, nhưng gồm tới bảy ý:
1)
Phạm Quỳnh là Việt gian phản quốc;
2) tối nguy hiểm;
3) bị kết án (tức là có
xét xử, có bản án);
4) mức án được tuyên: tử hình;
5) án đã thi hành ngay trong
thời kỳ thiết quân luật;
6) gia sản bị tịch thu;
7) cơ quan xử án, tuyên án và
thi hành án: chính là Ủy ban khởi nghĩa.
Chính cái tin bôi nhọ
thanh danh này đã mở đầu vụ giết vị học giả lần thứ hai.
Chú thích. Tin nguyên văn như sau (trích nguyên văn) “Ba tên Việt Gian tối nguy hiểm Ngô Đình Khôi, Phạm Quỳnh,
Ngô Đình Huân đã bị Ủy ban Khởi nghĩa tỉnh Nguyễn Tri Phương kết án tử hình và
bị bắn ngay trong thời kỳ thiết quân luật. Tài sản và vật dụng của ba tên phản
quốc ấy đều bị tịch thu và quốc hữu hóa”. Nay thì rõ: Tất cả đều
bịa đặt.
Tin này từ Huế lan ra Hà Nội cuối năm 1945, dư luận càng xôn xao
vì thương tiếc nạn nhân. Để dẹp dư luận, những vị có trách nhiệm phải “cung cấp
thông tin” cho báo chí để mọi người tin rằng Phạm Quỳnh được xét xử công minh,
được phát biểu trước tòa (kể cả khi ra pháp trường) và nhận mức án đúng với tội
trạng. Thế là, một loạt bài đăng trên báo chí thủ đô để minh họa điều này. Các
tác giả còn thêm gia vị và những lời bàn lâm ly, giật gân, để bài báo của mình
đáng đồng tiền, bát gạo. Đã bịa đặt, thế nào cũng vênh nhau. Chính vì “vênh
nhau”, dư luận càng gay gắt, tới mức cụ Tố Hữu phải lên tiếng vào tháng 8-1946
nhân dịp kỷ niệm 1 năm cướp chính quyền. Càng dở, trước hết vì chính cụ bịa ra
cái tòa án và bản án; tệ hơn nữa, cụ bịa cả thái độ “run sợ” của Phạm Quỳnh khi
bị bắt, để người đọc nghĩ rằng “lão” có tội thật. Cụ Tố Hữu gọi Phạm Quỳnh là
“lão” có lẽ vì tự thấy thua kém gần 30 tuổi, về học vấn còn thua kém nhiều hơn
nữa. Gọi như vậy đối với Việt gian vẫn còn tử tế chán. Cứ so với nguyên văn bản
tin, đủ rõ.
Thật sự, giết Phạm Quỳnh là cái
quan điểm yêu nước bằng bạo lực
– Câu hỏi: Nếu không phải hai cụ Tố Hữu, Tôn Quang Phiệt – mà là
hai vị khác thay hai cụ lãnh đạo cướp chính quyền ở Huế – thử hỏi: Liệu số phận của
nạn nhân có bớt thê thảm hơn hay không?
– Trả lời: Không đâu!. Bởi vì,
1) Cả tập thể lãnh đạo ở Huế đã đặt
Phạm Quỳnh vào vị trí đầu sỏ trong danh sách Việt gian; làm sao cụ thoát chết?;
và
2) Trong phạm vi cả nước, những nhân vật chính trị tuy không làm quan, không
cộng tác với Pháp, vẫn cứ bị thủ tiêu. Huống hồ Phạm Quỳnh.
Ví dụ, cụ Tạ Thu Thâu (Quảng Ngãi), Diệp Văn Kỳ (Nam Bộ)… Vậy, cụ Phạm làm sao thoát?
Như vậy, tình hình nói trên là phổ biến đối với các nhân vật chính
trị ôn hòa, chứ không chỉ riêng ở Huế. Hai bên không có ân oán cá nhân, mà chỉ
mâu thuẫn về cách yêu nước. Ngay dưới thời thuộc Pháp, phái bạo lực (chưa nắm
quyền lực) đã căm ghét phái ôn hòa. Nay, giành được quyền lực, họ “xử” theo mức
độ căm ghét từ trước. Hoàn toàn không cần bất cứ chỉ thị nào ban hành từ trung
ương (Hà Nội), nhưng ở các nơi trong cả nước (nhất là Huế, Quảng Ngãi, Sài Gòn)
các nhân vật thuộc phái ôn hòa đều nhất loạt bị “xử”, hầu hết là bị thủ tiêu.
Do vậy, thủ phạm giết Phạm Quỳnh và những
nạn nhân tương tự chính là đường lối bạo lực của cách mạng vô sản ở nước ta.
Trớ trêu, cả thủ phạm lẫn nạn nhân đều là trí thức và đều yêu nước.
Một
số nhà hoạt động yêu nước theo đường lối ôn hòa bị thủ tiêu (có thể tra cứu ở
Từ Điển mở Wikipedia và nhiều nguồn khác): Bùi Quang Chiêu; Huỳnh Phú Sổ; Ngô Đình Khôi; Nguyễn Văn Bông; Nguyễn Văn Sâm; Nhượng Tống; Phạm Quỳnh; Phan Kích Nam; Phan
Văn Hùm; Tạ
Thu Thâu; Trình Minh Thế; Trần Đình Long; Trương Bội Công… v. v....
Giết Phạm Quỳnh lần 3
Đây là một chủ trương, mang tính chất “đã đâm lao, phải theo lao
đến cùng”, vì liên quan tới tính chính danh của cách mạng vô sản. Đã khẳng định
Phạm Quỳnh có tội, nay thấy dư luận không thừa nhận (lần này dư luận dựa vào vô
số bằng chứng xác đáng) nên cố dẹp dư luận lần nữa. Vẫn như trước đây, những
người trực tiếp tham gia dẹp dư luận đều là trí thức, cũng yêu nước, nhưng sau
70 năm dù có ý thức hay không, họ vẫn thuộc phái bạo lực. Ngay cách dẹp dư luận
của họ cũng mang tính bạo lực, dù thời nay họ lâm vào thế yếu.
Sau cuộc chiến chống Pháp chín năm, tiếp đó là chiến tranh Bắc-Nam
20 năm; sách giáo khoa Lịch Sử có thừa thời gian (30 năm) để đặt Phạm Quỳnh vào
vị trí Việt gian vĩnh viễn. Muốn vậy, chỉ cần ngăn cản trí thức tiếp xúc với
mọi trước tác của Phạm Quỳnh. Khốn nỗi, chính trong những năm hết chiến tranh
(sau 1975) đám trí thức già – thuở xưa từng khâm phục Phạm Quỳnh – có điều kiện
đọc nguyên bản các công trình của vị học giả. Họ sửng sốt. Số trang để lại cho
hậu thế tính bằng đơn vị “chục ngàn”, cả tiếng Việt, tiếng Pháp; lại gồm đủ thể
loại: báo chí, ký sự, nghị luận, văn học, khảo cứu, tiểu luận… Tất cả, đều có
chất lượng cao. Tất cả, đều toát lên tinh thần yêu nước sâu đậm. Số người tìm
hiểu Phạm Quỳnh cứ tăng lên, dù chậm chạp, nhưng ngày càng trẻ. Ví dụ, trí thức
thế hệ 6, đã lên tiếng. Ngay từ năm 2006 nhà văn Hà Khánh Linh đã đề nghị Trả lại sự sáng
trong cho Phạm Quỳnh…
Nhận ra sự nguy hiểm, nhưng muộn
mất rồi
Ngày càng nhiều người muốn làm sáng tỏ vai trò của học giả Phạm
Quỳnh trong lịch sử, mà việc đầu tiên là tái bản các trước tác của học giả.
Khen hay chê, công hay tội… muốn khách quan phải dựa vào nội dung những trước
tác này; chứ không thể dựa trên cái tin báo chí do cụ Tố Hữu đưa ra năm 1945 –
cũng như không thể dựa trên cái đơn
xin học Trường Thuộc Địa mà
kết luận cụ Nguyễn Ái Quốc không yêu nước.
– Thế là, sau khi tìm hiểu, phân tích, suy xét, người đọc thấy
rằng di sản tinh thần của Phạm Quỳnh thật là đồ sộ và có giá trị nhiều mặt (văn
hóa, văn học, triết…), trên cái nền chung là lòng yêu nước sâu sắc. Từ đó, các
nhà xuất bản của nước CHXHCNVN đã tái bản chúng ngày càng nhiều. Điều này gây
bực bội cho giới bảo thủ, không những về quan điểm và cả về biện pháp. Họ mở
cuộc phản công: Lập diễn đàn trao đổi. Nhưng vẫn không che dấu được tính bạo
lực của diễn dần, vì tính một chiều của nó. Cứ đọc bài “tổng kết” đủ thấy.
Vài ví dụ về các công trình của
Phạm Quỳnh đã xuất bản (từ
năm 2001-2007):
–
Mười ngày ở Huế (NXB Văn học, 2001)
– Luận giải về Văn và Triết (NXB Văn hoá Thông tin, 2003)
– Pháp du hành trình nhật ký (NXB Hội Nhà văn – 2004)
– Thượng Chi văn tập (5 tập) (NXB Văn học, 2007)
– Tiểu luận bằng tiếng Pháp giai đoạn 1922 – 1932 (NXB Tri thức, 2007)
– Du ký Việt Nam (NXB Trẻ, 2007)
– vân vân…
– Luận giải về Văn và Triết (NXB Văn hoá Thông tin, 2003)
– Pháp du hành trình nhật ký (NXB Hội Nhà văn – 2004)
– Thượng Chi văn tập (5 tập) (NXB Văn học, 2007)
– Tiểu luận bằng tiếng Pháp giai đoạn 1922 – 1932 (NXB Tri thức, 2007)
– Du ký Việt Nam (NXB Trẻ, 2007)
– vân vân…
Trước và sau các đợt in lại tác phẩm của Phạm Quỳnh, còn có những
cuộc trao đổi ý kiến, hội thảo, phát biểu cá nhân trên báo chí… Riêng năm 2007
có tới 3 nhà xuất bản tham gia; do vậy, năm 2008 là năm mở đầu đợt công kích
Phạm Quỳnh. Nơi phát ra các bài kết tội Phạm Quỳnh là tạp chí HỒN VIỆT, hầu như
tạp chí này không đăng bài phản bác; nhưng GS Mai Quốc Liên – tổng biên tập và
đương nhiên là người chủ trì – vẫn gọi đây là “diễn đàn”, “trao đổi ý kiến”… và
viết Lời Tòa Soạn ngay dưới bài mở đầu rằng, đây là diễn đàn “công
minh, minh bạch nhưng khoan dung”…
Chú thích.
Ngày 30/07/2008 báo Sài Gòn Giải Phóng đưa tin: Tạp chí “Hồn Việt” trao đổi ý
kiến về Phạm Quỳnh và Nguyễn Văn Vĩnh… và mở đầu như sau: “Đánh
giá các nhân vật trong lịch sử, trong văn hóa một cách công minh, minh bạch
nhưng khoan dung, chắt lọc… là chuyện cần làm, nên làm. Nhưng không được lộn
trái lịch sử…, làm lờ mờ thật giả đưa đến cách nhìn sai lệch, nguy cơ cho lịch
sử và cho cả hiện tại…”.
Bắt đầu diễn đàn là bài của GS Nguyễn Văn Trung (viết trước 1975),
và bài của cụ Đặng Minh Phương. Với những luận chứng lịch sử xác đáng, hai bài
này bác bỏ một số ý kiến gần đây muốn lật ngược lịch sử về hai ông Nguyễn Văn
Vĩnh và Phạm Quỳnh với những đánh giá khá phiến diện, cố tình lờ đi hành động
làm tay sai cho “mẫu quốc” của hai ông này và cố công ca ngợi hết mức, coi họ
như là những bậc thức giả yêu nước.
Nhận xét.
1) Lời mở đầu dùng các từ công
minh, minh bạch, khoan dung, chắt lọc… nhưng nếu đọc tiếp, hoàn toàn có thể
khẳng định: Cái “diễn đàn” này chỉ có một mục đích: Giết Phạm Quỳnh thêm một
lần nữa. 2) Chỉ cần đọc và bàn về 2 bài mở đầu, đủ rút ra vài kết luận cần
thiết.
Nhưng đọc đến bài Tổng Kết thì kết luận chỉ có một: Diễn đàn này phủ
định tuyệt đối nhân vật Phạm Quỳnh – cả về chính trị, cả về văn hóa. Một
câu ở đoạn giữa của bài Tổng Kết (đoạn quan trọng nhất) dùng cách nói văn hoa,
dài dòng để thể hiện cái tin vu cáo, rất cô đọng nhưng vẫn gói đủ “bảy ý” mà cụ
Tố Hữu đã đăng lên báo ở Huế năm 1945. Nói khác, phái bạo lực giết Phạm Quỳnh
lần thứ 2 rất trắng trợn, nhưng giết lần này – vẫn dứt khoát – nhưng êm ái hơn.
Nhưng hơi bị thiếu khí thế
Số bài đăng ở Hồn Việt lúc tập trung nhất vẫn chỉ quanh quẩn con
số một chục, tiếp sau đó lại càng thưa thớt. Đây là gồm cả những bài mà “diễn
đàn” đã lấy từ quá khứ – là lúc mà trào lưu kết tội Phạm Quỳnh vẫn còn “rộ”. Ví
dụ bài của các cụ Ngô Tất Tố (trước 1945), Nguyễn Văn Trung (trước 1975). Đã
vậy, chất lượng các bài rất xoàng. Ví dụ bài Chung quanh cái chết của Phạm Quỳnh.
Chú thích.
Bài “Chung quanh cái chết của Phạm Quỳnh“. Tác giả nói loanh quanh một hồi, rồi “tóm lại”
rằng Phạm Quỳnh bị bắt, bị giết vì Nhật và Pháp muốn bắt liên lạc với ông. Bậy.
Trước hết, nước Nhật đã đầu hàng, quân Nhật đóng ở Huế chẳng còn thiết tha gì
chuyện cứu chính phủ Trần Trọng Kim đương nhiệm nữa, huống hồ “bắt liên lạc”
với Phạm Quỳnh – đã bỏ chính trường từ lâu – làm cái quái gì cơ chứ?. Còn cái
chuyện toán biệt kích Pháp (nhảy dù) muốn tiếp xúc với Phạm Quỳnh, nhưng làm gì
có chứng cớ Phạm Quỳnh cũng muốn bắt liên lạc với họ? Chỉ có những chứng cứ
ngược lại mà thôi. Nếu cảnh giác, phòng xa, có thể cách ly Phạm Quỳnh một thời
gian, nhưng lại thủ tiêu người ta, thì quả là ám muội, phi nghĩa. Ai thấy cần
thưởng thức, xin cứ đọc nguyên bản bài “Chung quanh cái chết của Phạm Quỳnh“.
So với lần 2, đầy hùng hổ, thì lần này hơi bị ít khí thế. Lần
trước nhiều tờ báo có bài đánh Phạm Quỳnh, có cả những tờ quan trọng nhất của
Việt Minh. Vậy mà lần này chỉ có tờ Hồn Việt, thuộc loại trung bình thấp. Người
cầm quân lần này là GS Mai Quốc Liên làm sao bằng được cụ Tố Hữu, cụ Văn Tân ở
lần trước? Lần 2 tuyệt nhiên không có bài nào viết đối kháng, phản biện; thì ở
lần 3 này, số bài loại này – đăng ở các báo khác lại nhiều áp đảo…
Chỉ cần đọc hai bài mở đầu là tạm
đủ
Bài mở đầu hẳn phải là những bài được Hồn Việt đánh giá cao nhất
về chất lượng, chặt chẽ nhất về lập luận, vững chắc nhất về chứng cứ. Hồn Việt
chính thức đưa ra hai bài. Lại phải chọn cả tác giả: sao cho xứng đáng. Đó là
một giáo sư lão thành và một nhà báo lâu năm, lập trường kiên định, viết khỏe.
Thứ nhất,
trước 1975, chuyện “vùi bùn” Phạm Quỳnh đâu có gì lạ? Nhiều bài lắm. Cứ đăng
lại bài Phạm Quỳnh trên bàn mổ của cụ Văn Tân (1945) cũng tốt chán! Nhưng
thời nay khác rồi, việc khen chê đòi hỏi những chứng cứ đầy đủ, chứ không phải
như thời 1945-1975 nữa, nghĩa là không thể cứ sưng sưng gọi người ta là “việt
gian nguy hiểm” rồi bàn luận giống như lời quan tòa trước kẻ sát nhân, mà xong!.
Thứ hai,
sau 30-40 năm GS Nguyễn Văn Trung đã thay đổi, và thay đổi hẳn
quan điểm về Phạm Quỳnh rồi. Cụ Trung – khi tiếp xúc với tư liệu mới – đã
coi Phạm Quỳnh là người được Hồ Chí Minh tuyệt đối tin cẩn, được trao sứ mệnh
rất đặc biệt. Ở đây, không bàn tiếp câu chuyện giật gân này, mà chỉ muốn nói
rằng việc chọn bài trước 1975 (và chỉ chọn 1 bài) để mở đầu diễn đàn thời nay
là không ổn. Trích dẫn ai cũng vậy, cần trích dẫn quan điểm cuối cùng của người
ta, khi người ta thay đổi quan điểm.
–
Bài mở đầu thứ hai, nhan đề Ông Phạm Quỳnh
và báo Nam Phong. Tác
giả bài này là cây bút chủ lực của diễn đàn – cụ Đặng Minh Phương – vì sau bài
mở đầu này, tác giả còn viết nhiều bài khác nữa. Đọc chúng, người ta suy ra cái
“diễn đàn một chiều” này cố gắng chống lại luồng dư luận đang rất mạnh mẽ ở bên
ngoài diễn đàn. Như cái tên bài, bạn đọc hy vọng sẽ được thấy một bài trung
tính, khách quan và khoa học về “ông Phạm Quỳnh và tờ báo Nam Phong” của ông
ta. Nhưng không phải. Ví dụ, sau ít câu giáo đầu có vẻ công bằng, tác giả vào
bài như sau: Sau
khi xảy ra chiến tranh thế giới lần I (1914-1918), thực dân Pháp lo bảo vệ
thuộc địa Đông Dương, đã cử sang nước ta những tay cai trị sừng sỏ, đứng đầu là
toàn quyền An-be Xa-rô (Albert Sarraut). Sarraut đem theo Louis Marty, Marty
được cử làm chánh mật thám Liên Bang Đông Dương cùng với Sarraut hoạch định
chính sách về văn hóa. Có lẽ đây là đoạn cố gắng tỏ ra khách quan
nhất trong bài. Tuy nhiên, cách hành văn chính trị này quá quen thuộc trong
sách Lịch Sử sau 1945, nhất là sách của GS Văn Tân, Trần Văn Giàu… Wikipedia
viết về toàn quyền An-be
Xa-rô (Albert Sarraut) công
bằng hơn. Ông này có cả một học thuyết về thuộc địa, khá tiến bộ. Hai lần làm
Toàn Quyền Đông Dương, ông ta làm được nhiều việc tốt theo học thuyết của mình.
Khốn nỗi, quan điểm nhất quán của “giới trí thức yêu nước bằng bạo lực” thì bất
cứ việc gì người Pháp thực hiện ở nước ta đều có mục đích xấu xa. Ngay chuyên
dịch Direction des
Affairs politiques et de la Sureté générale(cơ quan do Louis Marty đứng đầu) thành “Sở Mật Thám” đã đủ
bất lợi cho Phạm Quỳnh rồi. Hiện nay, đảng CS và Nhà Nước ta cũng có một (vài)
cơ quan đối nội với chức năng tương tự cái Direction
des Affairs politiques et de la Sureté générale dưới thời Tây. Mong rằng chớ dùng từ,
đại khái “Sở Mật Thám”…
– Về
mục đích của báo Nam Phong, tác
giả viết: Mục đích
thứ nhất của Nam
Phong là đào tạo các trí thức cũ theo lề lối Pháp, lớp người vẫn ảnh hưởng
nhiều trong xã hội bản xứ (tầng lớp nhà nho và ảnh hưởng của nho học). Mục đích thứ hai của Nam Phong là phải làm ra bộ độc
lập vô tư. Điều cốt yếu là làm cho người đọc chấp nhận sự bảo hộ của Pháp về
phương diện tinh thần và trí thức, vì yêu thích và do đọc báo mà hiểu rõ hơn
văn hóa Pháp, choáng lóa trước ánh sáng của nền văn hóa ấy.
Đây là “mục đích” mà tác giả suy luận ra. Nếu công bằng và khách
quan, tác giả nên tham khảo đoạn dưới đây
Trường hợp ra
đời của tạp chí Nam Phong
Huỳnh Văn Tòng
http://phebinhvanhoc.com.vn/
Ở
Pháp, trong những năm tìm kiếm tư liệu cho dự án Tiến sĩ về Lịch sử báo chí Việt Nam, tác giả may mắn tìm được vài
tài liệu của Pháp nói đến tờ Nam Phong.
Căn cứ vào những tài liệu này, ta có thể hiểu được lý do tại sao tạp chí này ra
đời, do ai chủ xướng và với mục đích gì. Tất cả những tài liệu này đều là tài
liệu mật, trên có ghi “Secret et Confidentiel”, gồm những bản báo cáo và tường
trình của viên Toàn quyền Pháp ở Đông Dương gởi cho Tổng trưởng Bộ Thuộc địa
Pháp ở Paris. Đó là những tài liệu chắc chắn và đáng tin cậy.
Căn
cứ vào những tài liệu trên thì người chủ xướng ra tờ Nam Phong là viên Toàn quyền Pháp ở Đông Dương lúc ấy
là ông Albert Sarraut và người điều khiển trực tiếp tờ báo là Louis Marty,
Trưởng phòng Chánh trị và An ninh của Chính phủ Đông Pháp.
Mục đích của
Nam Phong (vắn tắt) là:
1)
Chống lại ảnh hưởng văn hóa của Đức thông qua sách TQ sang VN
2)
Pháp hóa giới tinh hoa Việt
Nhận xét:
Thời gian này, các cụ ta rất ham đọc Tân Thư (viết bằng chữ Hán) từ Trung Quốc
đưa sang. Trong số tác giả Tân Thư, thì nhà cách mạng Khang Hữu Vi rất thân
Đức, ra mặt nói xấu Pháp. Tờ Nam Phong ra đời có một mục đích là
chống lại ảnh hưởng tuyên truyền của Đức (kẻ thù của Pháp). Nam Phong phải có
phần Hán Văn là do vậy. Cụ Nguyễn Bá Trác dẫu có làm tốt (hoặc chưa tốt), phần
Hán Văn… vẫn cứ bị cách mạng vô sản coi là Việt gian, phản bội… Khỏi cần bàn.
Còn mục đích thứ hai là loại bỏ ảnh hưởng của Nho học, thay bằng
văn hóa Pháp, thì các cụ Phan Chu Trinh, Phan Khôi, Huỳnh Thúc Kháng… đã tự
mình thực hiện cho chính mình rồi. Mục đích thứ hai (đương nhiên có lợi cho
Pháp – khỏi cần bàn, vì do Pháp đề ra) nhưng câu hỏi là… mục đích này có lợi
(và có hại) gì cho sự tiến bộ xã hội của Việt Nam hay không? Phái bạo lực sẽ
“suy luận” để đưa ra câu trả lời nhằm bản kết tội thực dân và tay sai Phạm
Quỳnh.
– Về trích dẫn: bài Ông Phạm Quỳnh và báo Nam Phong trích dẫn rất nhiều, tất nhiên phải chọn những
lời bất lợi cho Phạm Quỳnh. Nhưng vấn đề là nội dung trích dẫn có đúng và có
còn thích hợp không. Thích kết tội Phạm Quỳnh thì cứ trích dẫn những phát ngôn
trước 1975 (dù chúng được in ra, hoặc được tái bản sau 1975, thậm chí rất gần
đây). Loại này có mà hàng “đống”. Thói thường, người ta trích dẫn những người
có uy tín. Nhưng vẫn nên cẩn thận. Cụ Hồ năm 1941 nói rằng “Gia Long bán nước”,
nhưng nay các hội thảo khoa học về Lịch Sử, với chứng cứ vững chắc, lại đưa đến
kết luận rằng không phải như cụ Hồ nói. Ví dụ khác. GS Văn Tạo hai lần nhận xét
tạp chi Nam Phong và Phạm Quỳnh (lần sau rất khác lần trước)
nhưng tác giả chỉ đưa vào bài cái nhận xét lần đầu của vị GS này. Tác giả còn
dẫn tư liệu, nhằm kết tội Nam Phong đã “công kích chủ nghĩa Bôn-sê-vích Nga”
(là bạo lực). Thật là viễn kiến mà chỉ trí thức yêu nước theo cách ôn hòa mới sớm
nhận ra, trong khi các vị yêu nước bằng bạo lực đã từng mê mẩn tôn sùng cái chủ
nghĩa này. Khỏi cần đánh giá tiếp cái bài mở đầu này.
Danh ngôn của những người cùng
thời…
Trong bài Ông Phạm Quỳnh và báo Nam Phong tác giả có câu: Lúc
làm báo và quyền cao chức trọng, ông (tức PQ) được khen nhiều và bị chê không ít. Thế
nhưng, tác giả đã bỏ công sưu tầm toàn là những lời chê bai, và gộp chúng lại
thành mấy bài đăng trên Hồn Việt. Xin không bàn tiếp về sự định kiến thiên
lệch, cứ tưởng chỉ có từ thưở trước 1945, nay lại hiện về. Ai thấy hứng thú xin
đọc nguyên văn ở Hồn Việt các bài loại này, xuất hiện rất gần đây (năm 2014).
Cái câu: Truyện Kiều còn, tiếng
ta còn…
Cây bút chủ lực của “diễn đàn” – cụ Đặng Minh Phương – đã
trích dẫn ý kiến nhiều trí thức (phát biểu trước 1975, thậm chí trước 1945) có
nội dung chê bai hai câu của Phạm Quỳnh. Câu 1: Tôi sinh ra, nước
đã mất; còn đâu nước để tôi bán? (Phạm
Quỳnh nói câu này để thanh minh khi bị người cùng thời kết tội “bán nước”). Câu
2: Truyện Kiều còn,
tiếng ta còn; Tiếng ta còn, nước ta còn. Mục đích, để vận động bảo
vệ giá trị văn chương của truyện Kiều – quốc hồn, quốc túy của nước ta. Nói
thêm: chí sĩ Ngô Đức Kế lại chuyển sang chính trị để đả kích: Phạm Quỳnh muốn
giới trẻ say mê truyện Kiều mà quên nhục mất nước.
Ngoài trích dẫn ý kiến người khác chê trách hai câu trên, bản thân
cụ Đặng Minh Phương cũng đưa ra ý kiến riêng. Cụ gộp hai câu lại để chỉ ra sự
mâu thuẫn trong phát ngôn của Phạm Quỳnh. Nguyên văn: Khi thì ông nói
nước ta còn (vì Truyện Kiều còn, tiếng ta còn), khi thì ông thừa nhận nước ta
đã mất… (để ông không có nước mà bán).
Thật ra, chỉ cần chút công bằng và ôn hòa là có thể hiểu tâm trạng
Phạm Quỳnh, vì nội dung hai câu trên khá đơn giản. Quan niệm thông thường, “mất
nước” là khi mất quyền
điều hành và quản lý đất nước (mất
chủ quyền) vào tay ngoại bang. Hiểu theo cách này, nước ta đã từng “mất” vào
tay Trung Quốc và Pháp. Do vậy, “bán nước” theo nghĩa phổ biến là bán cáiquyền
điều hành và quản lý đất nước (chủ
quyền) cho ngoại bang. Nước ta mất chủ quyền năm 1884, Phạm Quỳnh sinh năm
1992; ông nói câu 1 đâu có gì sai? Mất nước loại này là chưa mất hẳn, còn có cơ
hội khôi phục lại chủ quyền. Dân ta đã nhiều lần khôi phục chủ quyền từ tay
ngoại bang. Nhưng khi đã mất chủ quyền, lại
còn mất nốt cả ngôn ngữ, là mất nước vĩnh viễn, là bị đồng hóa.
Ngàn năm mất nước (thời Bắc thuộc) mới chỉ là mất chủ quyền, chứ chưa mất
“tiếng ta”. Lịch sử ngàn năm Bắc thuộc khiến chúng ta hiểu được tâm trạng Phạm
Quỳnh: Hãy cố bảo vệ và duy trì “tiếng ta”, thì cơ hội giành lại chủ quyền vẫn
còn. Đâu có quá khó để hiểu cái câu “tiếng ta còn, nước ta còn”.
Bài tổng kết
Sau chục bài đánh Phạm Quỳnh và tự coi là đã toàn thắng, Hồn Việt
đưa ra bài “tổng kết”, với nhan đề Về trường hợp
Phạm Quỳnh, không
có tên tác giả, mà chỉ ký “Hồn Việt”. Liệu có thể coi đây là bài của cụ GS Mai
Quốc Liên, tổng biên tập? Xin chớ dùng mãi cái “trách nhiệm tập thể”.
– Đoạn mở đầu bài này có câu: Kể
ra trường hợp Phạm Quỳnh cũng là một trường hợp hơi lạ. Nó đã rõ ràng đến thế
rồi, mà có người vẫn muốn “chiêu tuyết” (có “tuyết” đâu mà “chiêu”). Đây chính là lời tuyên bố toàn thắng.
Vâng, “đã rõ ràng đến thế” thì cần gì phải lập diễn đàn trao đổi?
– Đoạn giữa bài này có câu: Thực
ra, nếu vấn đề Phạm Quỳnh không trở thành vấn đề chính trị quan trọng của đương
thời, có ẩn ý sâu xa bên trong, thì nó đã chết chìm cùng với lịch sử, khơi lại
làm chi cho tốn giấy mực! Vâng,
lẽ ra vấn đề Phạm Quỳnh cứ để nó chết vĩnh viễn. Bất cứ ai bới lên, đều bị coi
là nhằm ý đồ chính trị, nấp dưới chiêu bài phục hồi danh dự cho một học giả.
Nhưng mà, phía “muốn bới lên” lại dám tuyên bố rằng không tham vọng chính trị
(hết tuổi rồi), mà chỉ cần sự phục hồi. Khốn nỗi, phục hồi lại động tới cụ Tố
Hữu… và cao nhất là động chạm tới tính chính danh cách mạng vô sản… Khó thế!
Chính câu trích ở đoạn đầu và đoạn giữa đã đầy tính áp đặt – một biểu hiện của
bạo lực.
– Còn câu cuối của bài là: Cũng
từ số này, Hồn Việt xin phép được kết thúc vấn đề… Làm sao kết thúc dễ vậy? Thực tế là
tới năm 2014, Hồn Việt vẫn phái đăng bài Người cùng thời
với Phạm Quỳnh nói về Phạm Quỳnh.
Như vậy, bạn đọc chỉ cần coi đoạn giữa của bài này còn có những
câu gì khác để thấy nó ẩn dấu tính bạo lực trong thảo luận. Nhiều, nhưng ở chỉ
xin đơn cử vài ba. Nguyên văn một câu: Cụ Đặng Thai Mai từng nói: “Phạm
Quỳnh đủ chữ Tây để lừa ta, đủ chữ Hán để lừa Tây!”. Chuyện Phạm
Quỳnh được học tiếng Pháp (thủ khoa) lại viết báo tiếng Pháp, và diễn thuyết ở
Viện Hàn Lâm Pháp, nay đã có quá nhiều chứng cứ. Trích dẫn câu này – lại trích
dẫn ở bài “tổng kết” – là rất thiếu thông minh, đồng thời (nếu không phải là
bịa đặt cho cụ Đặng Thai Mai) là vạch ra cho mọi người thấy vị GS này (phái bạo
lực) căm ghét phái ôn hòa lắm lắm.
– Một câu nữa, hơi dài: Có
người sẽ nói: Phạm Quỳnh là kẻ có tội với nhân dân, với đất nước về mặt chính
trị thì rõ rồi,
nhưng còn về mặt văn hóa, nếu xét theo hoàn cảnh đương thời, thì ông ta có công
đấy chứ! Xin thưa: nhận tiền của Toàn quyền Albert Sarraut, trùm mật thám L.
Marty làm báo, thì bọn trùm thực dân là những tên cáo già, nghiên cứu sâu rộng
và quá hiểu thuộc địa, lẽ đâu chúng lại ngu ngốc để cho Phạm Quỳnh dùng văn hóa
để tuyên truyền lòng yêu nước? Làm gì có chuyện hoang đường như thế? Câu này chửi Phạm Quỳnh chưa đủ nhiều, nhưng
chửi những nhà xuất bản ở nước ta – đã xuất bản các tác phẩm “bán nước” của
Phạm Quỳnh thì… tới tận cấp rất cao. Đó là nơi ký quyết định cho phép thành lập
và quản lý các nhà xuất bản ấy.
– Một câu nữa: Còn
một câu chuyện nữa cũng xin thưa. Ấy là chuyện đối với Nhạc sĩ Phạm Tuyên và
Bác sĩ Phạm Khuê. Đối với hai anh, chúng tôi vô cùng quý mến, hết lòng kính
trọng… (Nhưng) chuyện cha là chuyện của cha, chuyện
của con là chuyện của con, làm thế nào thay đổi được, làm thế nào chọn cửa sinh
ra… Thôi ạ,
xin đủ ạ. Xin cảm ơn mấy cái lời đãi bôi ạ. Câu của con-cháu cụ Phạm là: Tôi tin rằng Lịch Sử sẽ công bằng với cha tôi.
Nguyễn
Ái Quốc và Phạm Quỳnh
So sánh sự giống nhau, khác nhau giữa các cụ Nguyễn Ái Quốc và
Phạm Quỳnh là điều không thể chấp nhận được ở nước ta suốt 70 năm nay. Chế độ
hiện nay xếp hai nhân vật này ở hai thái cực đối lập: Vinh Quang và Nhục Nhã;
giữa họ, không thể có cái gì “chung”. Khốn nỗi, đây chỉ là cách xếp loại theo
một quan niệm; đầy chủ quan. Thay đổi quan niệm sẽ dẫn tới thay đổi cách phân
loại. Nếu coi “ai không theo ta, là kẻ
thù của ta” thì số lượng kẻ thù sẽ cao
ngất ngưởng. Stalin và Mao nhìn đâu cũng thấy kẻ thù, đòi hỏi mọi người phái
phân định rõ ranh giới Bạn-Thù. Nhưng nếu quan niệm ngược lại (ai không đứng
trong hàng ngũ kẻ thù, phải được đối xử như “ta”), “phe ta” sẽ đông đúc và mạnh
mẽ hẳn lên. Hai quan niệm ngược nhau này, chính là sự ngược nhau giữa bạo lực và
ôn hòa vậy. Quan điểm bạo lực thường khe khắt, khó chấp nhận sự khác biệt. Trái
lại, quan điểm ôn hòa thường bao dung, công nhận sự khác biệt và tính đa
nguyên. Nói khác, quan điểm ôn hòa chấp nhận cả cách đấu tranh bạo lực, nếu
thật sự cách này thích hợp trong những tình huống thích hợp.
Vẫn là cái mạch “Độc Lập và Canh Tân”, cũng như “Bạo Lực và Ôn
Hòa” từ thời cụ Nguyễn Trường Tộ truyền lại, đã thể hiện suốt trong 10 bài qua;
do vậy, đến đây lại đòi hỏi sự so sánh. Thời thế đã khác, cách đấu tranh – dù bạo
lực hay ôn hòa – cũng phải khác.
Bên này là Nguyễn Ái Quốc, bên kia là “bộ ngũ” – tiêu biểu là Phạm
Quỳnh – là hai đại diện cho trí thức yêu nước thế hệ 3, kế tục con đường của
thế hệ 2, trong đó hai vị đại diện cho 2 cách đấu tranh là Phan Bội Châu (đấu
tranh bạo động – tức là ưu tiên
giành độc lập) và Phan Chu Trinh (đấu tranh ôn hòa – tức là ưu
tiên canh tân xã hội). Có thể so sánh cụ Nguyễn Ái Quốc với từng
cụ trong “bộ ngũ”; nhưng như vậy sẽ quá dài dòng, trùng lắp. May, nổi bật và
tiêu biểu hơn cả là sự khác nhau và giống nhau giữa cụ Nguyễn Ái Quốc và cụ
Phạm Quỳnh. So sánh hai vị này với nhau là tạm đủ để thấy sự liên quan và mâu
thuẫn giữa hai cách đấu tranh – từ thế hệ 2 khi chuyển sang thế hệ 3.
Nguyễn Ái Quốc và Phạm Quỳnh: khác nhau gì?
– Khác nhau thuở thiếu thời
Hai vị này cùng lứa tuổi, cùng xuất thân gia đình nho giáo, trọng
lễ nghĩa, cùng bỏ cựu học để tiếp thu tân học; nhưng cụ Nguyễn Ái Quốc có thân
phụ đỗ đại khoa, gia đình danh giá hơn nhiều. Chết nỗi, cụ Nguyễn vì phản đối
Pháp mà bị đuổi học ngay ở bậc trung học; trong khi đó, con đường học hành của
cụ Phạm (và các cụ trong “bộ ngũ”), ngược lại, rất hanh thông. Từ đó, cụ Nguyễn
bôn ba nơi xứ người, vất vả, nghèo khổ; còn cụ Phạm vào đời đầy thuận lợi: Vật
chất đầy đủ, cuộc sống sung túc, vợ con đề huề, học vấn tăng tiến. Điều này
không nhiều thì ít, đã ảnh hưởng tới biện pháp đấu tranh yêu nước của mỗi cụ:
chọn bạo lực hayôn hòa; chọn căm ghét “bọn” tư bản,
thực dân, hay thấy rằng có thể cộng tác và lợi dụng những tiến bộ của “chúng” áp
dụng cho dân Việt, đặng nâng cao dân trí…
– Khi đã trưởng thành, hai vị cùng là hội viên Tam Điểm, nghĩa là cùng thấy sự cao cả của
lý tưởng Tự Do – Bình Đẳng – Bác Ái, từng gặp gỡ nhau
ở Marseille và mời nhau bữa
“cơm ta“ ở Paris, từng trình bày mục
tiêu chính trị cho nhau nghe… Tuy hai bên rất hiểu nhau, công nhận lòng yêu
nước của nhau, nhưng vẫn bất đồng. Mỗi người cứ theo đuổi con đường của mình.
Sự khác nhau giữa họ là kế thừa sự khác nhau giữa hai cụ thuộc thế hệ trước:
Phan Chu Trinh và Phan Bội Châu. Bất đồng, nhưng vẫn hiểu nhau; không bao giờ
coi nhau là kẻ thù. Ấy vậy mà đến thế hệ 4, quan hệ đã trở thành thù địch. Có
nguyên nhân. Đó là phái bạo lực tranh đấu thành công: giành được chính quyền.
Điều này cần được phân tích sâu
hơn.
Sự khác nhau lớn nhất là mục tiêu chính trị.
Tuy vẫn chỉ là Độc Lập dân tộc và Canh Tân xã hội, cái nào cần làm
trước và được coi là điều kiện phải có (cần) để thực hiện cái thứ hai. Từ đó,
họ khác nhau ở cách thực hiện. Và chẳng ai chịu ai; vì bên này coi mục tiêu của bên kia là quá
cao, nguy hiểm về sinh mạng và không tưởng. Thời điểm này chính là lúc Hội Quang Phục của cụ Phan Bội Châu
lâm vào bế tắc, trên đường tan rã. Còn với bên kia, thì chuyện ôn hòa với giặc
để mong chúng ban ơn là nguy hiểm về danh dự (dễ thành tay sai), lại càng là không tưởng. Lúc này, cụ Nguyễn Ái Quốc đang sống ở Pháp, liên tục viết báo
(tiếng Pháp) tố cáo với chính phủ Pháp và dân Pháp về “tội ác” của thực dân
Pháp ở Đông Dương, nhưng hầu như chẳng có tác dụng gì. Cụ hết tin tưởng vào con
đường ôn hòa. Nếu mục tiêu của Nguyễn Ái Quốc bị mọi người coi là quá cao, thì
mọi người lại coi mục tiêu của Phạm Quỳnh là quá thấp. Cụ chủ trương cứ duy trì
ngôi vua (dễ quá, đúng ý triều đình và thực dân) nhưng có hiến pháp để hạn chế
quyền vua. Và có thể thực hiện bằng biện pháp ôn hòa. Hình mẫu quốc gia muốn
hướng tới là Nhật và Anh. Nhưng cụ Nguyễn cho rằng không thể dựa vào giặc để
thực hiện bất cứ tiến bộ xã hội nào. Câu nói điển hình: Không
thể xin giặc rủ lòng thương…
– Sau cùng, họ khác nhau về kết quả sự nghiệp. Một vị được tôn là cứu tinh của dân tộc, xưng tụng bao nhiêu vẫn
không xứng. Vị kia là tội đồ của giống nòi, không hình phạt nào là thỏa đáng.
Nguyễn Ái Quốc đạt tới tột đỉnh vinh quang; và được đệ tử coi như thánh nhân –
nghĩa là suốt đời không mắc sai lầm; mọi lời nói đều là chân lý. Còn Phạm Quỳnh
bị giết rất thê thảm, sau khi chết còn bị bôi nhọ thanh danh đến tận hôm nay.
Mấy chục ngàn trang viết không những vô dụng, mà còn bị coi là bằng chứng tiếp
tay cho giặc thống trị dân ta. Kết quả này là tất yếu, khi phái bạo lực – chủ
yếu là thế hệ 4, tiếp thu ý thức hệ từ chủ nghĩa Stalin (tên công khai là chủ
nghĩa Mác-Lê) giành được quyền lực chính trị trên đất nước ta.
Chú thích.
Cuộc “Trao đổi ý kiến
về Phạm Quỳnh và Nguyễn Văn Vĩnh” ở tạp chí Hồn Việt rất gần đây, thực chất là đợt kết tội mới hai
nhân vật này; trong đó cụ Nguyễn Văn Vĩnh nhờ chết sớm nên ít bị đả kích hơn.
Cách “trao đổi ý kiến” này mang tính áp đặt và bạo lực rất rõ. Hầu như không có
bài phản biện; mà ngay những bài viết có cái đầu đề vô tư nhất, trung tính
nhất, nhưng nội dung lại rất thiên lệch. Ví dụ bài Ông Phạm Quỳnh
có công gì với đất nước... cứ tưởng nội dung là “kể công” cho ông; nhưng chả phải. Toàn là
kể tội. Vẫn biết, tác giả bài này có quyền viết quan điểm của mình, nhưng “tên
bài một đường; còn nội dung một nẻo” nói lên cách tư duy rất bất bình thường.
Nói chung, tuy gọi là “trao đổi” nhưng các bài chỉ rặt một chiều. Đến bài Tổng Kết, ký tên “Hồn Việt”, thì sự thiên lệch còn gấp bội. Cụ GS Mai Quốc
Liên, tổng biên tập, phải được coi là linh hồn của bài này - dù nó do ai viết
ra. Nếu sự nghiệp vùi dập Phạm Quỳnh mà thành công rực rỡ, công lao này mãi mãi
gắn với danh tính cụ Mai Quốc Liên.
Tuy nhiên, sự giống nhau mới là quan trọng
– Đó là cả hai
đều tiếp thu văn minh châu Âu, cụ thể là Pháp. Sự tiếp thu này khác hẳn thời
xưa, khi các cụ Phan Thanh Giản, Ngụy Khắc Đản, Đặng Huy Trứ… chỉ nhận ra Âu
hơn Á về kỹ thuật; còn cụ Nguyễn Trường Tộ tuy nhận thức sâu rộng hơn, nhưng
cũng chỉ nhận ra sự khác biệt Á Âu là “thời thế”. Đến thời hai cụ Nguyễn và
Phạm, họ nhận ra sự khác nhau về trình độ văn minh. Cụ Nguyễn còn có dịp sống ở
Anh và Mỹ. Chính do vậy, dù đã là Cộng Sản nhưng năm 1945 cụ lại có những hành
động khá kỳ quặc, cứ như sắp từ bỏ CS, từ bỏ lý tưởng “thế giới đại đồng”, mà
chỉ cần độc lập cho Việt Nam trước hết. Trong khi Stalin coi Mỹ là kẻ thù lớn
nhất, thì cụ Nguyễn lại “năm lần, bảy lượt” mong Mỹ ủng hộ nền độc lập của Việt
Nam. Chuyện này còn phái bàn thêm. Cụ Phan Bội Châu không có điều kiện sống ở
châu Âu để mở rộng tầm mắt; bởi thế cách bạo động của cụ Phan rất cực đoan.
Hoạt động yêu nước của cụ gây thiệt hại sinh mạng không nhỏ, mà chỉ thu được
“tiếng vang”. Tuy cũng chủ trương bạo động, nhưng Nguyễn Ái Quốc khác hẳn bậc
tiền bối của mình, chính vì đã sống 12 năm ở Âu-Mỹ. Sau này, Nguyễn Ái Quốc
từng được tôn là “chủ tịch đảng” nhưng không tàn bạo như Stalin, Mao, Kim (sẽ
nói ở dưới) chính vì Stalin, Mao, Kim chưa bao giờ tiếp cận với những ưu việt
của văn minh mới. Về căn bản, ba vị này là sản phẩm của văn minh nông nghiệp.
Từ văn minh nông nghiệp, chỉ có thể mọc lên lãnh tụ phong kiến và chế độ phong
kiến. Đồ đệ của Nguyễn Ái Quốc (thế hệ 4) tuy cũng là trí thức (Trần Phú, Hà
Huy Tập, Lê Duẩn, Lê Đức Thọ…) nhưng học vấn chưa đủ cao, hơn nữa, chưa có dịp
nào tiếp cận và hưởng thụ văn minh công nghiệp Âu Mỹ, đã vậy lại chỉ tiếp thu
chủ ngĩa Stalin… do vậy còn cực đoan hơn cả thầy và hơn cả “thầy của thầy”. Khi
trưởng thành và khi nắm quyền (sau 1951), thế hệ này gây điêu đứng cho Nguyễn
Ái Quốc không ít. Khỏi nói, họ đối xử với Phạm Quỳnh tàn bạo tới mức nào.
– Giống nhau nữa: Đó là, cả hai cụ đều đứng giữa
những làn đạn.
– Xã hội ta ở đầu thế kỷ XX là xã hội đang chuyển đổi: Gốc rễ
phong kiến vẫn còn nặng, ảnh hưởng của “tân thư” và văn minh Âu Tây chưa đủ
mạnh để thay thế. Ngay chữ quốc ngữ cũng còn rất lép vế. Do vậy, cụ Phạm tự
biết mình đứng giữa – không phải chỉ hai, mà nhiều – làn đạn. Ngay khi còn
sống, cụ đã thổ lộ rằng mình sinh vào lúc giao thời, có nhiều trào lưu trái
ngược nhau – tuy ôn hòa; nhưng mỗi bên đối lập vẫn có những bộ phận khen hoặc
chê Phạm Quỳnh – kể cả kịch liệt đả kích. Phạm Quỳnh được xếp đứng đầu “tứ đại
học giả”, nhưng vẫn có người kết tội là “bán nước” (phải lên tiếng thanh
minh). Khi làm thượng thư (hy vọng thực hiện quân chủ lập hiến) cụ bị các vị thượng
thư cũ coi là nguyên nhân khiến họ mất chức, do vậy là kẻ thù “không đội chung
trời”. Trong khi đó, cùng phái tân học với cụ, người ta coi cụ là cộng tác với
thực dân và muốn duy trì chế độ phong kiến. Khỏi nói, phái bạo lực căm ghét cụ
đên đâu…
Các phía đối lập vừa chống nhau, lại vừa chống Phạm Quỳnh. Ví dụ,
việc đề cao văn chương truyện Kiều, cụ vừa được tung hô rầm trời, vừa bị đả đảo
rậy đất. Bị chê cộng tác với Pháp, nhưng chính người Pháp cũng chưa thật tin,
mà còn cảnh giác. Tóm lại, cụ bị chê rất khiếp, nhưng khen cũng rất kinh.
– Cụ Nguyễn Ái Quốc cũng tương tự. Cụ theo Quốc Tế Cộng Sản 3 chỉ
vì nó đưa ra bản Luận Cương ủng hộ phong trào thuộc địa. Khốn nỗi, mục tiêu của
chủ nghĩa Cộng Sản không dừng ở đó, mà phải là xóa biên giới quốc gia, xóa
chủng tộc, để có “thế giới đại đồng”. Chủ nghĩa Cộng Sản không những kỳ thị chủ
nghĩa dân tộc; mà ngay chủ nghĩa cải lương (cách mạng, nhưng nửa vời, thỏa hiệp
với tư bản) cũng bị CS coi là nguy hiểm. Chết là ở chỗ đó. Cụ chủ trương bạo
động, nhưng không bạo động triệt để như cách mạng vô sản yêu cầu; cụ vẫn cho
rằng cần đoàn kết với tư sản dân tộc và trung và tiểu địa chủ “miễn là yêu
nước”… Phải hiểu rằng các lãnh tụ cộng sản không bao giờ nới tay khi cần thanh
trừng nội bộ, kể cả với các đối tượng “lừng chừng”. Cụ viết lý luận, đăng ở các
tạp chí cộng sản, nhưng trong đó lại để cao “dân tộc học phương Đông” mà không
triệt để ủng hộ đấu tranh giai cấp và chuyên chính vô sản… Thế là đủ “chết”
rồi. Cấp trên (Stalin) nghi ngờ cụ. Vị bạo chúa này có đủ lý do và quyền năng
trừ khử cụ. Cấp dưới của cụ (Hà Huy Tập, Trần Phú), chỉ sau ít tháng đã phê
phán và tố cáo cụ rất nặng nề; và họ có đủ đa số để (nếu cần) sẽ khai trừ cụ…
Trong nhiều làn đạn mà cụ đứng ở giữa, thì đây là hai làn đạn ác liệt nhất,
nguy hiểm nhất. Sống sót tới năm 1945, cụ đã năm lần, bảy lượt, tranh thủ sự
ủng hộ của Mỹ, nhưng Mỹ không đáp ứng. Có thể có vàiba nguyên nhân:
a) Mỹ chưa quan tâm tới Việt Nam;
b) Mỹ vẫn muốn Pháp quay lại VN;
c) Mỹ hơi bị… ngu.
Đến năm 1949, khi biên giới Việt Nam mở thông với Trung Quốc cộng sản, cụ bắt đầu khó xử, cả về nội trị và ngoại giao. Cái tội của cụ – Stalin nắm được từ nhiều nguồn – là cụ đã giải thể đáng CS và đưa quá nhiều nhân sĩ vào chính phủ và quốc hội. Từ năm 1951 trở đi, đảng CS ra công khai, từ đấy mỗi lần biểu quyết, cụ thường thuộc phe thiểu số trong đảng…
a) Mỹ chưa quan tâm tới Việt Nam;
b) Mỹ vẫn muốn Pháp quay lại VN;
c) Mỹ hơi bị… ngu.
Đến năm 1949, khi biên giới Việt Nam mở thông với Trung Quốc cộng sản, cụ bắt đầu khó xử, cả về nội trị và ngoại giao. Cái tội của cụ – Stalin nắm được từ nhiều nguồn – là cụ đã giải thể đáng CS và đưa quá nhiều nhân sĩ vào chính phủ và quốc hội. Từ năm 1951 trở đi, đảng CS ra công khai, từ đấy mỗi lần biểu quyết, cụ thường thuộc phe thiểu số trong đảng…
Kết lại, các làn đạn này đã đưa đến 3 lần “suýt chết” cho cụ
Nguyễn. Lần đầu, năm 1929, cụ bị kẻ thù (thực dân, phong kiến) kết án tử. Nếu vụ xử ở Hồng Công, luật sự Loseby không cứu được cụ, cụ sẽ bị
dẫn độ về nước, bản án này chắc chắn sẽ được thi hành. Lần thứ hai, năm
1937-38, cụ suýt chết ở Nga vì Đảng CS thanh trừng (những người cùng ban, cùng tổ đều bị
giết). Tư liệu khá đầy đủ về sự kiện này, khỏi cần suy luận. Lần thứ ba, là
buổi tối 3-12 năm 1967, ông Vũ Kỳ cố ý tiết lộ rằng có âm mưu ám sát cụ, thủ phạm hẳn phải là “đồng chí” và học trò của cụ, dưới hình
thức tai nạn máy bay (khi hạ cánh). So với Phạm Quỳnh, nào có kém gì về chuyện
hứng các làn đạn?
– Giống nhau nữa: Lúc chức cao nhất lại là lúc
cô độc nhất
– Phạm Quỳnh nhận chức thượng thư vì vua Bảo Đại (tân học, tiếp
thu văn hóa Pháp, học hành ở Pháp) có ý thức thoát khỏi vai trò bù nhìn, khi
biết quan điểm chính trị của Phạm Quỳnh (quân chủ lập hiến), đã mời cụ. Vị vua
này liền phế bỏ “cái rụp” 5 vị thượng thư cũ (già nua, đặc sệt Nho Giáo). Đây
là thời kỳ cụ Phạm tự thấy cô độc nhất, phải chống đỡ mọi phía và thanh minh
nhiều nhất. Tất nhiên, năm vị thượng thư già (đại diện Nho Học) thù ghét 5 vị
mới: nhưng mũi nhọn của họ chĩa thẳng vào riêng Phạm Quỳnh. Trí thức tân học
(như Ngô Tất Tố, Nguyễn Công Hoan…) đả kích cụ cay độc; trí thức bạo lực (Trần
Văn Giàu, Đặng Thai Mai…) căm ghét cụ trong nhiều dịp phát ngôn. Một bài ở tạp
chí Hồn Việt trích lời cụ Đặng Thai Mai (ý): Phạm Quỳnh đủ chữ Pháp để lòe người Việt và đủ chữ Hán để
lòe người Pháp. Ngay trong “bộ ngũ” cũng xảy ra tranh luận
giữa Quân chủ lập hiến và Trực trị, bị bên ngoài coi như trò hề, lừa dối…
– Nguyễn Ái Quốc lao đao hàng chục năm mà các nguyên nhân chính là:
a) Viết lý luận về chủ ngĩa Marx thì dám chê rằng nó chỉ “thích hợp với châu Âu”; khi viết báo cáo về tình hình Việt Nam với Quốc tế CS thì dùng cách nhận định “phi giai cấp”, “phi vô sản”.
b) Viết Chính Cương (2-1930) thì muốn đoàn kết cả với tư sản, địa chủ (miễn là yêu nước) bị học trò phê phán nặng nề (tố cáo tới tận Stalin), do vậy chỉ sau đó 8 tháng Chính Cương này bị “sổ toẹt” bởi Chính Cương (10-1930) của thế hệ 4 (do cụ Trần Phú soạn thảo, có một ý rất viển vông: Đảng CS Đông Dương phải “trước (tiên là) làm cách mạng quốc gia, sau (đó là) làm cách mạng quốc tế”;
c) Sau 1930, bị vô hiệu hóa, nếu không khéo léo, cũng bị “tiêu” rồi, nhất là khi cụ Hà Huy Tập báo cáo với Quốc Tế CS về lập trường “nghiêng ngả, bấp bênh” của đồng chí Nguyễn Ái Quốc. Cụ phải đóng vai trò cái hòm thư, nghe ngóng tình hình hai bên (trong nước, quốc tế CS) để thông báo cho bên kia – khiến mỗi bên đều tưởng cụ vẫn còn được tín nhiệm, vẫn đang có vai trò quan trọng.
a) Viết lý luận về chủ ngĩa Marx thì dám chê rằng nó chỉ “thích hợp với châu Âu”; khi viết báo cáo về tình hình Việt Nam với Quốc tế CS thì dùng cách nhận định “phi giai cấp”, “phi vô sản”.
b) Viết Chính Cương (2-1930) thì muốn đoàn kết cả với tư sản, địa chủ (miễn là yêu nước) bị học trò phê phán nặng nề (tố cáo tới tận Stalin), do vậy chỉ sau đó 8 tháng Chính Cương này bị “sổ toẹt” bởi Chính Cương (10-1930) của thế hệ 4 (do cụ Trần Phú soạn thảo, có một ý rất viển vông: Đảng CS Đông Dương phải “trước (tiên là) làm cách mạng quốc gia, sau (đó là) làm cách mạng quốc tế”;
c) Sau 1930, bị vô hiệu hóa, nếu không khéo léo, cũng bị “tiêu” rồi, nhất là khi cụ Hà Huy Tập báo cáo với Quốc Tế CS về lập trường “nghiêng ngả, bấp bênh” của đồng chí Nguyễn Ái Quốc. Cụ phải đóng vai trò cái hòm thư, nghe ngóng tình hình hai bên (trong nước, quốc tế CS) để thông báo cho bên kia – khiến mỗi bên đều tưởng cụ vẫn còn được tín nhiệm, vẫn đang có vai trò quan trọng.
Chú thích.
Ví dụ, cụ nghe ngóng và thông báo cho Quốc Tế CS về cuộc nổi dậy của nông dân
Nghệ Tĩnh, nhưng lại dùng từ “Xô Viết” để chỉ chính quyền xã. Điều này khiến
Moscou nghĩ rằng chúng cụ chỉ đạo các đồng chí trong nước hành động. Nhờ vậy,
được Moscou coi là cụ có tín nhiệm ở Đông Dương. Mặt khác, khi cụ họp với các
đồng chí quốc nội, cụ thông báo tình hình quốc tế, ra vẻ được quốc tế CS cử về
(cụ Trịnh Đình Cử đã vặn hỏi “có giấy giới thiệu của Quốc Tế CS không?; được
trả lời là: Nếu tôi bị Pháp bắt mà trong người có giấy ủy nhiệm của Quốc Tế CS
thì kẻ thù sẽ đối xử với tôi ra sao?)… Có thời gian, cụ trôi dạt sang tận Xiêm.
1938.
d) Bất ngờ, bị bắt ở Hồng Công, may mà thoát (nhờ vị luật sư người Anh) khỏi bị dẫn giải về Việt Nam (án tử hình đang chờ). Khổ nỗi, khi cụ lặn lội trở về tới Nga (hậu phương, tưởng là an toàn) lập tức bị nghi ngờ “sao NAQ có thể thoát nạn vụ Hồng Công dễ dàng thế?”, suýt bị thanh trừng năm 1938… Tới năm 1941 về nước, tưởng yên thân ở Việt Bắc, nhưng sau đó trong chuyến công tác sang Quảng Tây lại bị chính quyền tỉnh này giam giữ trên một năm.
d) Bất ngờ, bị bắt ở Hồng Công, may mà thoát (nhờ vị luật sư người Anh) khỏi bị dẫn giải về Việt Nam (án tử hình đang chờ). Khổ nỗi, khi cụ lặn lội trở về tới Nga (hậu phương, tưởng là an toàn) lập tức bị nghi ngờ “sao NAQ có thể thoát nạn vụ Hồng Công dễ dàng thế?”, suýt bị thanh trừng năm 1938… Tới năm 1941 về nước, tưởng yên thân ở Việt Bắc, nhưng sau đó trong chuyến công tác sang Quảng Tây lại bị chính quyền tỉnh này giam giữ trên một năm.
Thời kỳ vừa ý nhất
Từ 1943 đến 1951 là thời kỳ vừa ý nhất của cụ Nguyễn. Trước hết,
đó là nhờ sự “may mắn” khi cuộc Khởi Nghĩa Nam
Kỳ (1940) bị thất bại, cả loạt trí
thức yêu nước kiểu bạo lực (thế hệ 4) bị tử hình và tù tội (Nguyễn Văn Cừ, Hà Huy Tập, Phan Đăng Lưu, Võ Văn Tần, Nguyễn Thị Minh
Khai...); đảng CS lâm vào thoái trào, lại thêm Nhật kết hợp với Pháp cùng
đàn áp đảng CS. Trong tình hình như vậy, cụ Nguyễn trở thành lãnh tụ, có vai
trò như chủ tịch đảng, với quyền lực cực lớn.
Chú thích. Thời nay, rất ít người hiểu biết đầy đủ về chức danh “chủ tịch
đảng”. Đây là nguyên nhân quan trọng dẫn đến những phán xét sai lệch về nhân
vật lịch sử. Chủ tịch đảng: Chẳng có văn bản quy định quyền hạn, nhưng đó là người được coi
như “cha đẻ” của đảng cộng sản một nước, với quyền hạn như một gia trưởng phong
kiến mà đảng là gia đình. Chủ tịch đảng có vị thế “đứng trên cả ban chấp hành
trung ương”; “một mình ra quyết định theo ý riêng”; kể cả việc cho ai vào ban
chấp hành (và đuổi ai ra, kể cả giam và tước bỏ sinh mạng). Chủ tịch đảng chính
là vị vua, do vậy chỉ xuất hiện ở các đảng CS nước nông nghiệp lạc hậu, có chế
độ phong kiến từ mấy ngàn năm trước, kéo dài cho tới lúc đó. Chủ tịch đảng
không thể bị các Đại Hội đánh đổ qua bầu cử. Một nguyên nhân là chính người dân
coi lãnh tụ CS là cứu tinh, biết ơn và tôn sùng như thần thánh.
Một số chủ tịch đảng trong lịch sử: Ở Liên Xô là Lenin, Stalin. Lenin đã kinh! Cụ đứng đầu phe đa số
trong đảng, đã quyết định lật đổ chính phủ Kerensky của phe thiểu số, bất cần
nguyên tắc gì hết. Dẫu sao, Lenin đã sống khá lâu ở các nước tư bản, sự độc
đoán chưa tuyệt đối như Stalin. Đến Stalin mới khiếp, vì ông độc đoán tới 29
năm. Stalin với quyền hạn “đứng trên ban
chấp hành trung ương” đã giết hầu hết ủy viên bộ chính trị cùng thời, đã đưa ra
tòa kết tội “phản bội”, “gián điệp” một loạt nhân vật đứng đầu chính phủ (từ
thủ tướng); và mấy chục năm không thèm tổ chức đại hội đảng… Ở Trung Quốc: Mao Trạch Đông (được ví như Tần Thủy Hoàng), tự tung, tự tác 32 năm, giết cả chủ
tịch nước Lưu Thiếu Kỳ… Ở Triều Tiên, chủ tịch đảng là 3 thế hệ trong một gia
đình, từ Kim Nhật Thành tới Kim Chính Ân, quyền hành ngang trời. Ông Ủn mới tí tuổi đầu mà giết chú (rể) của mình (đại công thần của chế
độ) như giết con ngóe.
Từ
năm 1941, đảng Cộng Sản Đông Dương bị thiệt hại nặng sau Khởi Nghĩa Nam Kỳ, thế
hệ trí thức 4 chết hại rất nhiều, cụ Nguyễn về nước lập ra mặt trận Việt Minh
ngày 19-5 (về sau, cụ coi đây là ngày sinh nhật); từ đó. cụ được coi là chủ
tịch đảng, quyết định mọi việc. Đó là những việc đại sự mà “không cần hỏi ai”,
“không cần sự biểu quyết của ban chấp hành trung ương” (ngày nay, tổng bí thư
và bộ chính trị không thể có quyền như vậy). Có thể nói rất nhiều việc cụ
làm – khi nắm quyền chủ tịch đảng – đều trái với lý luận và nguyên tắc của chủ
nghĩa Stalin. Vài ví dụ: Liên lạc với phái bộ điệp báo
Mỹ, bất chấp nguyên tắc bạn thù; sáu lần đề nghị Hoa Kỳ hợp tác (đây
chính là tội ly khai); tự ý giải thể đảng; tự ý viết Tuyên Ngôn Độc Lập theo
lập trường dân tộc và chủ nghĩa tư bản; lập chính phủ theo ý riêng (2/3 là nhân
sĩ); tự ý viết Hiến Pháp (không có một tý lập trường giai cấp nào); tự ý ký kết
các hiệp định hòa hoãn với Pháp – coi “Việt Nam độc lập trong khối Liên Hiệp
Pháp). Những việc tưởng là nhỏ: Đó là tự ý phong đại tướng cho một trí thức (có
học vấn cao nhất trong đảng; vào đảng sau Lê Đức Thọ, Lê Duẩn, Trường Chinh…
tới 10 năm). Việc này về sau gây ra sự ghen tức rất lớn, rất dai dẳng… Cụ mất
chức chủ tịch đảng năm 1951, vì Đại Hội chỉ bầu cụ là “chủ tịch ban chấp hành
trung ương”. Đến nay, ngay những người trên 75 tuổi vẫn không phân biệt được
quyền hạn khác nhau của hai chức vụ này và không nhận ra năm 1951 là cái mốc
rất khắc nghiệt với Nguyễn Ái Quốc. Từ đó, việc gì cũng do bộ Chính Trị và Ban
Chấp hành TƯ quyết định theo đa số – trong đó phiếu của cụ Nguyễn (chủ tịch ban
chấp hành trung ương) chỉ có giá trị là “một phiếu”. Cũng từ nay (1951) trở đi
Nguyễn Ái Quốc nói gì, làm gì… đều phải lo giữ mình. Hậu thế không khó để hiểu…
vì sao, cụ luôn luôn nói “đoàn kết”, “đoàn kết”, “đoàn kết”; vì sao cứ chổi đây
đẩy “tôi chẳng có lý luận gì”; “tôi có thể sai, chứ Stalin không thể sai”…
Tâm lý cực đoan
Hiện nay, trên mạng internet có hai luồng ý kiến, tranh nhau về
mức độ cực đoan. Cùng một nhân vật, nhưng “bên này” coi là thánh; còn “bên kia”
coi là “tặc”. Cũng nên đọc qua, để biết mỗi bên cực đoan tới mức nào. Và để
nhận ra một điều đơn giản: Cực đoan là biểu hiện bạo lực. Tuy nhiên, nếu ai dại
dột sa đà vào các luồng ý kiến đó, không những mất thì giờ, vô bổ; mà còn có
thể bị cuồng tín vì sự phù hợp quan điểm chính trị của cá nhân mình.
Một luồng đề cao cụ Nguyễn Ái Quốc (hoặc cụ Phan Chu Trinh, Phạm
Quỳnh…) y như tín đồ đề cao đức Thánh, đức Chúa. Xin nhớ rằng một người có
nguyện vọng hỏa táng – như cụ Ái Quốc – là người tự thấy trên đời không có ai
là thánh hết. Còn một luồng ý kiến chỉ muốn biến cụ Nguyễn Ái Quốc (hoặc Phạm
Quỳnh) thành tội đồ toàn diện. Kỳ lạ, theo luồng ý kiến này, bất cứ các cụ này
làm gì, nói gì, đều được gán cho một mục đích, một tác dụng: hại dân, hại nước.
Nhiều khi, mục đích số 1 của luồng ý kiến này chỉ nhằm đánh đổ một thần tượng
mà phe đối lập cứ đề cao không biết ngượng. Nhân vật mà hai bên đề cập trở
thành nạn nhân, thành cái bung xung.
Đánh giá tổng quát một nhân vật lịch sử
Nhân vật lịch sử là những cá nhân bằng tư tưởng và hành động của
mình tạo được ảnh hưởng tới diễn biến lịch sử. Ảnh hưởng này có thể lớn hay
nhỏ, nhưng phải có thật, thấy được, và được ghi nhận chung. Sau trăm năm, các
cụ Nguyễn và Phạm vẫn được lôi ra để hai phe cãi lộn, đủ chứng tỏ đây là những
nhân vật lịch sử của nước ta.
Nhân vật lịch sử có thể được đánh giá một cách cụ thể, chi tiết,
tỉ mỉ; hoặc được đánh giá một cách tổng quát. Cả hai cách đánh giá đều cần
thiết, đều đưa lại những bài học hữu ích. Những nhân vật “đứng giữa các làn
đạn” bao giờ cũng bị đánh giá rất mâu thuẫn nhau (kẻ khen, người chê), tùy theo
sự yêu-ghét và tùy quan điểm chính trị, khó mà ngã ngũ ngay được. Điều này dễ
hiểu. Tuy nhiên, nếu được đánh giá tổng quát – một cách tương đối chính xác –
sẽ giúp cho việc đánh giá cụ thể, chi tiết… đỡ khó khăn, phúc tạp, đỡ mâu thuẫn
kéo dài. Phạm vi bài viết ngắn này chỉ có thể đề cập đến những đánh giá tổng
quát nhất về nhân vật trong bài.
Nhân vật lịch sử cũng có cuộc sống “đời thường” như mọi người
khác. Cuộc sống này có thể tốt hay xấu; may hoặc rủi… Người đời có thể khen
hoặc chê những chi tiết thuộc cuộc sống riêng tư của nhân vật lịch sử – giống
như với mọi người khác. Để đánh giá tổng quát, ta có thể bỏ qua các chi tiết
này – nếu:
1) chúng khó kiểm chứng (phải “suy luận”);
2) không thật sự ảnh hưởng đến tư tưởng chủ đạo và mục tiêu tổng quát của nhân vật.
Lời khuyên của người xưa: Không nhìn các nhân vật lịch sử bẳng con mắt của người hầu phòng. Người hầu phòng rất dễ thấy những mảnh riêng tư của người khác và dễ tự ý suy luận theo chiều hướng bôi nhọ để kháo chuyện.
1) chúng khó kiểm chứng (phải “suy luận”);
2) không thật sự ảnh hưởng đến tư tưởng chủ đạo và mục tiêu tổng quát của nhân vật.
Lời khuyên của người xưa: Không nhìn các nhân vật lịch sử bẳng con mắt của người hầu phòng. Người hầu phòng rất dễ thấy những mảnh riêng tư của người khác và dễ tự ý suy luận theo chiều hướng bôi nhọ để kháo chuyện.
Cần xác định dòng tư tưởng chủ lưu
Cũng như cần xác định mục tiêu xuyên suốt của nhân vật, vì nó giúp
đánh giá tổng quát nhân vật này. Nhưng nhân vật lịch sử sống trong dòng chảy
lịch sử, do vậy mỗi lời nói và hành động cần đặt vào đúng thời điểm và hoàn cảnh.
Trước một hoàn cảnh cụ thể, nhân vật có thể phát ngôn hoặc hành động chưa phù
hợp với tư tưởng chủ lưu, nhưng đó chỉ là tạm thời, mang tính chiến thuật. Cụ
Hoàng Hoa Thám đã có thời hòa hoãn với thực dân Pháp, nhưng “dòng chủ lưu”
(sòng chảy chính) trong tư tưởng vẫn là chống Pháp tới cùng.
Mặt khác, nhân vật lịch sử có thể và có quyền thay
đổi suy nghĩ,
thay đổi chủ trương và thay đổi cách hành động. Nói khác, dòng chủ lưu có thể
chảy thẳng, có thể quặt phải, hoặc rẽ trái. Sự thay đổi này cũng phải đặt vào
thời điểm và hoàn cảnh của nó.
Chú thích. Cụ Lê Dư (Lê Đăng Dư) thoạt đầu sang Nhật (trong phong trào Đông Du do cụ
Phan Bội Châu khởi xướng) nhưng chỉ một năm sau tất cả bị trục xuất, cụ sang
Trung Quốc, vất vưởng ít lâu, rồi về nước. Tiếp đó, cụ hoạt động khảo cứu văn
học, mà không làm hại gì cho phong trào yêu nước. Cụ bị kết tội vì nhận một
chức vụ được chính quyền thuộc địa trả lương. Như vậy, nhân vật này thay đổi từ
cách đấu tranh bạo lực, sang cách đấu tranh ôn hòa, nghĩa là dòng chủ lưu tư
tưởng có một khúc rẽ. Cụ Nguyễn Ái Quốc coi cụ Lê Dư là “Việt gian” là xuất
phát từ quan niệm đấu tranh bằng bạo lực (đã theo con đường này, không được bỏ.
Bỏ giữa chừng là “phản bội”). Nhưng theo cách đấu tranh ôn hòa, sẽ có nhận định
khoan dung hơn; nghĩa là chấp nhận sự thay đổi tư tưởng và cách đấu tranh.
Không suy luận “có tội” ở tòa án Lịch sử.
Nhân vật lịch sử không thể sống lại để tự biện hộ. Tội phải dựa
vào bằng chứng, không thể dựa vào suy luận. Nếu lời nói hoặc hành động của họ
cần phải suy luận để hiểu thấu động cơ, mục đích… thì hậu thế không được phép
suy luận theo hướng “có tội” mà phải theo hướng “vô tội”. Nói vậy, cũng tức là
không suy luận theo hướng “có công”. Nếu không như vậy, thế hệ con cháu có thể
tha hồ chửi bới hoặc tâng bốc thế hệ cha ông, tùy sở thích, tùy yêugh ét theo
cảm tính, hoặc theo mục tiêu chính trị… Đây là cách mà tạp chí Hồn Việt xúc
phạm cụ Phạm Quỳnh và một số trang mạng kết tội cụ Nguyễn Ái Quốc bằng suy luận
thuần túy. Nhiều nhân vật sống vào lúc giao thời được đánh giá công bằng, xác
thực; nhưng họ cũng bị khen, chê rất ‘vô lối” chỉ qua suy luận.
Chú thích.
1) Sự kiện Nguyễn Ái Quốc năm 21 tuổi xin học trường Thuộc Địa bằng lá đơn viết rất nắn nót, với lời lẽ lễ phép. Muốn biết động cơ, mục đích, chỉ có thể suy luận – mà kết luận tùy thuộc chủ quan mỗi người, nhưng không thể giơ tay bỏ phiếu. Ở đây, đa số chẳng giá trị gì hết. Có thế, sự suy luận đưa đến hai kết luận: Kết tội (nếu coi lá đơn này là bằng chứng nói lên đương sự có ý định làm tay sai cho giặc); hoặc vô tội (đây là việc riêng tư của một thanh niên 21 tuổi, đơn viết theo mẫu chung; lễ phép là tất nhiên khi gửi cho một tổng thống… hoặc là: Nguyễn Ái Quốc muốn đấu tranh ôn hòa, vì trong thư có đoạn “Tôi muốn trở nên có ích cho nước Pháp trong quan hệ với đồng bào tôi và đồng thời mong muốn đồng bào tôi thu lợi từ việc học hành này“.
1) Sự kiện Nguyễn Ái Quốc năm 21 tuổi xin học trường Thuộc Địa bằng lá đơn viết rất nắn nót, với lời lẽ lễ phép. Muốn biết động cơ, mục đích, chỉ có thể suy luận – mà kết luận tùy thuộc chủ quan mỗi người, nhưng không thể giơ tay bỏ phiếu. Ở đây, đa số chẳng giá trị gì hết. Có thế, sự suy luận đưa đến hai kết luận: Kết tội (nếu coi lá đơn này là bằng chứng nói lên đương sự có ý định làm tay sai cho giặc); hoặc vô tội (đây là việc riêng tư của một thanh niên 21 tuổi, đơn viết theo mẫu chung; lễ phép là tất nhiên khi gửi cho một tổng thống… hoặc là: Nguyễn Ái Quốc muốn đấu tranh ôn hòa, vì trong thư có đoạn “Tôi muốn trở nên có ích cho nước Pháp trong quan hệ với đồng bào tôi và đồng thời mong muốn đồng bào tôi thu lợi từ việc học hành này“.
Sự kiện khác: Năm 1945 một toán biệt kích Pháp nhảy dù xuống làng Hiền Sĩ, có
bằng chứng chúng muốn liên lạc với Phạm Quỳnh. Cũng có hai cách suy luận: Kết tội (đây là chứng cứ nói rằng Phạm
Quỳnh là đại việt gian, nguy hiểm, được kẻ thù liên kết) vàvô tội (không có bằng chứng nào nói lên Phạm Quỳnh muốn liên lạc với
Pháp).
2)
Trong Tuyên Ngôn Đảng
Cộng Sản (1848), các vị Marx và Engels thể hiện nhất
quán dùng bạo lực cách mạng xóa bỏ sớm nhất và triệt để nhất chế độ tư bản. Sau
đó Marx sống thêm 35 năm, đã chấp nhận sử dụng cả cách đấu tranh ôn hòa; vì
thấy chế độ tư bản ngày càng tiến bộ và bớt dần sự “hoang dã”. Sau thất bại của
Công Xã Pari, ông rút được nhiều bài học. Còn Engels sống thêm tới 47 năm, sự
thay đổi tư tưởng lại càng sâu sắc hơn. Không khó, để tìm lại những tư liệu
khẳng định những chuyển biến lớn trong tư tưởng của nhà cách mạng này. Suy nghĩ
cuối đời phải là suy nghĩ chính thức của nhân vật. Tuy nhiên, Lenin (tự nhận là
học trò Mác) lại chỉ học Marx và Engels về bạo lực. Còn những trí thức yêu nước
Việt Nam tự coi là đồ đệ của hai vị này lại cấm hai vị tổ sư có cái quyền thay
đổi suy nghĩ. Trong sách, báo, tư liệu chính thống của mình, chưa bao giờ họ
nói về những thay đổi trong tư tưởng của hai vị này. Hễ ai chỉ ra cho họ thấy,
họ có thể… nổi quạu (!).
Phạm Quỳnh và Nguyễn Ái Quốc đều là những nhân vật lịch sử của
nước ta ở đầu thế kỷ XX. Đánh giá tổng quát về họ – với tư cách là nhân vật
lịch sử – không thể dùng những chi tiết trong cuộc sống riêng của họ, nếu chúng
không ảnh hưởng đáng kể tới dòng tư tưởng chủ lưu và mục tiêu tống quát của họ.
Nhưng suốt 70 năm nay, Phạm Quỳnh đang bị đánh giá bằng những chi tiết như vậy
– chẳng dính dáng đến diễn biến lịch sử và tư tưởng chủ lưu hoặc mục tiêu chủ
đạo của nhân vật này. Điều này đã được nói nhiều ở các bài trước; bài này do
vậy không cần nói thêm nữa; mặc dù muốn nói thêm vẫn còn chuyện để nói.
Còn sự đánh giá Nguyễn Ái Quốc (nay là cụ Hồ) mới khiếp. Phía này
tôn cụ là “thánh nhân toàn thiện” thì phía kia coi là “tội ác toàn thân” – mọi
việc làm của nhân vật này đều từ mưu đồ gây hại cho dân, hoặc tối thiểu là
“đóng kịch”; giả dối. Nếu vậy, can cớ gì mà phong kiến và thực dân phải kết án
tử hình (vắng mặt) nhân vật này năm 1929 – là thời điểm nhân vật chưa đứng ra
thành lập đảng Cộng Sản?
Chú thích. Người ta say sưa bất tận khi kháo chuyện – vô bằng chứng, chỉ
toàn “suy luận” – về Phạm Quỳnh; ví dụ “hắn có ý đồ làm tay sai cho Nhật”; và
sau đó còn bịa rằng “hắn đã bị đưa ra tòa để chính thức nhận án tử hình”. Cũng
bằng “suy luận”, để gán cho Nguyễn Ái Quốc là tác giả bài thơ “Bác anh hùng,
tôi cũng anh hùng“, hoặc chuyện “bán đứng Phan Bội Châu”. Chuyện “bán đứng” này,
nếu có, thì cách nay đã 90 năm (1925-2015); nghĩa là, đã qua thời gian bảo mật
rất lâu rồi. Nhưng chưa chưa ai tìm được tài liệu (giải mật) nào liên quan.
Có
câu nói “chớ nghe giới hầu phòng
kháo chuyện về các ông Hoàng, bà Chúa“. Đó là lời khuyên – có thể có
ích – mỗi khi chúng ta định đánh giá tổng quát một nhân vật lịch sử. Khốn nỗi,
chuyện của giới hầu phòng rất hấp dẫn và càng hấp dẫn với những ai có định kiến
với cá nhân ông hoàng A, hoặc bà chúa B. Ai ham chuyện của họ, rất có thể họ
trưng ra “cái bao cao su đã qua sử dụng” để ngầm minh họa việc xảy ra (không ai
chứng kiến) khi ông hoàng A tới thăm bà chúa B!.
Nguyễn Ái Quốc từ 1930 đến 1941
Hồ Chí Minh từ 1941 đến 1951
Nguyễn Ái Quốc từ 1930 đến 1941
Từ 1920 đến 1930: Mười năm, chỉ mục tiêu Độc
Lập
– Khi còn ở Pháp (1917-1923), Nguyễn Ái Quốc vào đảng Xã Hội nhưng
thật sự chưa hiểu gì về lý tưởng của đảng này, ngay cả những từ ngữ chính trị
liên quan cụ cũng chưa hiểu hết. Cụ hồn nhiên thể hiện một suy nghĩ rất tréo
ngoe: Tôi tham gia Quốc Tế Cộng Sản 2 để thực hiện lý tưởng của chủ nghĩa tư
bản (!).
Chú thích.
Đảng Xã Hội Pháp thuộc Quốc Tế Cộng Sản 2, do Marx và Engels thành lập, có mục
tiêu đánh đổ chủ nghĩa tư bản. Ấy thế mà cụ Nguyễn khi trả lời câu hỏi “vì sao vào đảng này” lại nói rằng: “Chỉ vì đây là tổ chức duy nhất ở Pháp bênh vực nước tôi, là
tổ chức duy nhất theo đuổi lý tưởng cao quý của Đại cách mạng Pháp: Tự do, Bình
đẳng, Bác ái”. Rõ khổ! Té ra cụ chưa hiểu rằng cái “lý tưởng cao
quý” mà cụ nhấn mạnh là của cách mạng tư sản (!) mà đảng Xã Hội muốn vứt bỏ, để
thay thế bằng một lý tưởng cao hơn. Tóm lại, vào đảng Xã Hội chỉ là cái vỏ, còn
cái mục tiêu là độc lập dân tộc. Trình độ thế mà cũng được kết nạp!.
Sốt ruột, cụ Nguyễn tự thấy rằng cứ ngồi ở Paris thì có viết bao
nhiêu bài tố cáo thực dân ở tận Đông Dương vẫn chẳng đem lại kết quả gì. May
quá! Khi kiếm được bản Luận Cương của Lenin về giải phóng thuộc địa, cụ nhận ra
một điều: Quốc Tế 2 của Engels không quan tâm gì tới thuộc địa, nhưng Quốc Tế 3
của Lenin lại có chủ trương rất rõ ràng. Tuy chưa hiểu đầy đủ bản Luận Cương
này, cụ Nguyễn vẫn bỏ QT2, để theo QT3 – tức là vào đảng CS Pháp.
Trình độ “giác ngộ lý tưởng CS” và mục tiêu thật sự của mình đã
được thể hiện khi cụ trả lời câu hỏi của một nữ đảng viên “vì sao tán thành
QT3”, như sau: “Rất giản đơn. Tôi không hiểu chị nói
thế nào là chiến lược, chiến thuật vô sản và nhiều điểm khác. Nhưng tôi hiểu rõ
một điều: Quốc tế III rất chú ý đến vấn đề thuộc địa… Tự do cho đồng bào tôi,
độc lập cho Tổ quốc tôi, đấy là tất cả những điều tôi muốn, đấy là tất cả những
điều tôi hiểu”…
– Năm 1923-1924 khi sống ở Moscou, ngoài việc dự một lớp ngắn ngày
về lý luận; còn phần lớn thời gian cụ Nguyễn dùng để phát ngôn trong mọi dịp
(diễn thuyết, tham luận, viết báo, đề nghị) với chủ đề duy nhất là kêu gọi,
thúc đẩy phong trào Cộng Sản quan tâm tới nhiệm
vụ giải phóng thuộc địa. Lúc nào cụ cũng lôi cái Luận Cương của
Lenin ra để buộc mọi
người, mọi tổ chức. Cuối cùng, cụ nhận ra một điều: Quốc Tế 3 tuy quan tâm giải
phóng thuộc địa, nhưng lại hiểu rất ít về tình hình phương đông và hoàn cảnh
đấu tranh giành độc lập ở đó. Đây chính là lý do số 1 để cụ viết bản báo cáo
nhan đề Báo cáo Bắc kỳ,
Trung kỳ và Nam kỳ gửi QT3. Ngày nay, nếu đọc lại bản Báo Cáo
này, thì ngoài “tình hình”, cụ Nguyễn còn đề cập lý luận, nêu ra sự thiếu sót
của chủ nghĩa Marx và đề nghị bổ sung nó. Các sự kiện sau đó cho thấy: QT3,
nhất là từ Đại Hội 1928, không coi trọng Báo Cáo này, cả về thực tiễn và lý
luận. Hơn nữa, những người lãnh đạo QT3, nhất là Stalin bắt đầu nghi ngờ Nguyễn
Ái Quốc “chẳng qua chỉ ái quốc” chứ chưa xứng đáng là một chiến sĩ cộng sản
quốc tế.
Chú thích. Gần đây, việc phát hiện toàn văn bản Báo cáo Bắc kỳ, Trung kỳ
và Nam kỳ được coi là sự kiện lớn của đảng CSVN. Đảng CS coi (nguyên văn) “Đây là một tác phẩm lý luận xuất sắc về đường lối và phương
pháp cách mạng Việt Nam, với hai luận điểm: 1) Cuộc đấu tranh giai cấp ở các
nước phương Đông và ở Việt Nam không diễn ra giống như ở phương Tây;
2) Chủ
nghĩa dân tộc là động lực lớn của đất nước”.
–
Nhưng xin nói thật: Với những người kiên định chủ nghĩa Mác Lênin, theo đúng
tinh thần Stalinst, thì lý luận của cụ Nguyễn là “xét lại” (tội quá nặng). Do
vậy, hành động của cụ sẽ dẫn đến thủ tiêu đấu tranh giai ấp và thỏa hiệp với kẻ
thù (hai tội cực nặng).
– Năm 1924, sau nhiều lần đề nghị, cụ được cử làm phiên dịch cho
phái đoàn cố vấn Liên Xô bên cạnh chính phủ Trung Quốc (Tưởng Giới Thạch). Đây
là chức vụ công khai, để có lương. Còn nhiệm vụ tự giao (hoặc được giao) của cụ
Nguyễn là gây dựng phong trào cách mạng. Lúc này các tổ chức yêu nước của cụ
Phan Bội Châu đang trên đà rệu rã và phân hóa; nhất là sau năm 1925 (cụ Phan bị
bắt). Ví dụ, từ vài năm trước, một tổ chức thanh niên đã tách ra khỏi Hội Quang
Phục (tự lấy tên là Tâm Tâm Xã). Nhân đó, năm 1925, cụ Nguyễn đã vận động những
người thích hợp ở Tâm Tâm Xã để thành lập Hội Thanh Niên
cách mạng đồng chí.
Chú thích. Tuy nhiên, cần nhắc lại tình hình khi đó:
a)
Năm 1925 dường như chưa có cụm từ ” chủ nghĩa Mác-Lênin”.
b) Năm 1925 cụ là bí
thư (nhân vật số 2, đồng sáng lập) của Hội Liên hiệp các dân tộc bị áp bức ở Á
Đông, do Liêu Trọng Khải, một cộng sự thân tín của Tôn Dật Tiên, làm hội trưởng
và ông làm bí thư; tóm lại, vẫn cứ luẩn quẩn với độc laaph dân tộc.
c) Năm
1925, không cần bí mật, lén lút, cụ Phan Văn Trường đã công bố trên báo bản
Tuyên Ngôn Cộng Sản.
Các bài giảng cho tổ chức thanh niên nói trên được tập hợp lại trong
cuốn sách nhỏ, tên là Đường Kách Mệnh (1927). Một số thanh niên trong nước cũng sang Quảng Châu dự lớp,
trong đó có Trần Phú, Lê Hồng Phong… sau này trở thành tổng bí thư. Với Hội
Thanh Niên, sau này Lịch Sử Đảng coi cụ là người có vinh dự đưa chủ nghĩa
Mác Lênin vào Việt Nam.
– Cũng năm 1927, nội chiến Quốc-Cộng xảy ra, phái đoàn Liên Xô về
nước. Cụ Nguyễn sang Xiêm (Thái Lan) hoạt động cách mạng 2 năm ở đây. Trong 2
năm đó, các nhóm (đảng) Cộng Sản trong nước tự thành lập, nhưng mâu thuẫn nhau.
Chú thích.
Nếu đọc nguyên văn Đường Cách Mệnh (1927), ta thấy sau phần Tổng
Quan (cách viết rất dễ hiểu, đơn giản, nhưng khá hệ thống), cụ đi đến kết luận
là Việt Nam nên làm cách mạng dân tộc, trong đó Sĩ, Nông, Công, Thương và toàn
dân hợp lực đánh đuổi thực dân, giành lại độc lập cho đất nước. Cụ “chết” chính
là ở chỗ này.
Tuy
Stalin đã đặt ra cái tên “chủ nghĩa Mác-Lenin”
từ 1925, nhưng tên này chưa bén mảng vào Đường Kách Mệnh. Tất nhiên sách có nêu
tên Lenin, nhưng đó là khi trích dẫn một câu nói của ông – chứ không có “chủ
nghĩa Lênin” nào trong sách hết. Còn Các Mác, sách có nhắc tới, nhưng cũng chỉ
dùng làm minh họa cho định nghĩa cách mệnh là gì (?); ví dụ, Mác được coi là “nhà cách mạng về kinh tế” đứng ngang với Galilê
(cách mệnh về khoa học); Stêphenxông (cách mệnh về cơ khí); Đácuyn (cách mệnh
sinh học)… Sách chia cách mệnh thành hai loại: Cách
mệnh thế giới (công,
nông đứng lên đánh đổ chế độ tư bản) và cách mệnh dân tộc (toàn dân đứng lên đánh đổ chế độ thực
dân). Sách của cụ nói: Hai loại cách mạng này liên quan nhau; ở chỗ, nếu
ta đánh đuổi thực dân Pháp, tư bản Pháp bên chính quốc sẽ yếu đi, cách mạng bên
Pháp sẽ dễ thành công… Về sau, cụ Trần Phú nói khác hẳn: Cách mạng
Việt Nam làm cả hai nhiệm vụ: Trước, làm cách mạng quốc gia; sau, làm cách mạng
quốc tế.
Mười
năm tiếp: Khổ vì mục tiêu độc lập
–
Năm 1930: Đầu năm lên mây, cuối năm xuống bùn
Năm 1930, cụ Nguyễn triệu tập hai hội nghị. Đầu năm, cụ chủ trì,
tha hồ nói và giới thiệu các văn bản “con đẻ” của mình. Cuối năm, cụ đau khổ
nhìn người ta ra nghị quyết “thủ tiêu” chúng.
– Tháng 2-1930 Nguyễn Ái Quốc – lấy tư cách là phái viên của QTCS
– triệu tập và chủ trì một hội nghị gồm 4 đại biểu trong nước và 3 đại biểu hải
ngoại, thay mặt tổng số 211 đảng viên. Nay có thể gọi là hội nghị “hợp nhất” (ba tổ chức) và “thành lập“ đảng CSVN. Các văn bản Chính cương vắn
tắt, Sách lược vắn
tắt, Chương trình tóm
tắt do
chính cụ soạn thảo được giới thiệu. Tinh thần cơ bản là đoàn kết mọi lực
lượng để trước hết chống thực dân. Các đại biểu có nhiệm vụ phổ
biến tài liệu trong toàn đảng. Uy tín cụ Nguyễn lên cao tuyệt đối.
Chú thích. Chỉ có 4 đại biểu sang Hồng Công mà phải phổ
biến tài liệu theo từng cấp, tới các chi bộ nằm rải rác trong 3 miền rộng mênh
mông… Do vậy, có thể nghĩ rằng phải mất nhiều tháng. Ấy thế mà chưa đầy 3 tháng
sau – dưới sự lãnh đạo của xứ ủy Trung Kỳ – đã nổ ra bãi công (ngày 1-5) ở Bến
Thủy, lan ra thành phong trào chống đối ở hai tỉnh Nghệ Tĩnh… Với khẩu hiệu
“Trí, Phú, Địa, Hào: đào tận gốc, trốc tận rễ” thì đây là cuộc bạo động chẳng
mang tính chất “đoàn kết nội bộ nhân dân” một tý nào. Câu hỏi là: Xứ ủy Trung
Kỳ đã nhận được 3 văn bản nói trên chưa (?) mà lại hành động ngược lại, nghĩa
là rất khớp với Luận Cương của cụ Trần Phú. Khi cụ Trần Phú phê phán Luận Cương
của cụ Nguyễn và trình bày Luận Cương của bản thân (tháng 10-1930), thì cuộc
bạo động ở Nghệ Tĩnh đã diễn ra được 5 tháng và còn tiếp tục. Hiện nay, theo
Wikipedia, thì cụ Trần Phú là nhân vật số 1 lãnh đạo Xô Viết Nghệ
Tĩnh, và cái khẩu hiệu “sắt máu” nói trên chính là do cụ Trần Phú đưa ra.
– Tám tháng sau, trong Hội Nghị trung
ương đảng CSVN –
cũng do Nguyễn Ái Quốc triệu tập –
trong số đại biểu tham dự, đáng chú ý là có cụ Trần Phú, mới về nước sau khi
tốt nghiệp trường đại học Phương Đông (được Nguyễn Ái Quốc đề nghị bổ sung vào
ban chấp hành trung ương); do vậy, được hội nghị coi như người quán triệt
mọi chủ trương, đường lối của QTCS khi đó – mà lúc này đảng CSVN cũng đang rất
mong được QTCS công nhận. Cụ Trần Phú vận dụng những điều đã học để phê phán
tất cả các văn bản của cụ Nguyễn, ngay trước mặt cụ – theo cách “vuốt mặt không
cần nể mũi” – nhưng lại rất được hội nghị lắng nghe, thán phục. Cuối cùng, Hội
Nghị thông qua một Nghị Quyết “thủ tiêu” các văn bản trên, để Luận Cương mới do
Trần Phú soạn thảo trở thành chính thức. Tác giả của nó được bầu làm tổng bí
thư. Việc đổi tên từ đảng CSVN thành đảng CS Đông Dương là chủ trương của QTCS.
Nay, đọc nguyên văn hai Luận Cương (của cụ Nguyễn và cụ Trần) ta
hiểu tại sao cụ Trần Phú đề ra cái khẩu hiệu “Trí, Phú, Địa,
Hào, đào tận gốc, trốc tận rễ…” – rất đắc dụng trong phong trào Xô
Viết Nghệ Tĩnh.
Chú thích. 1)
Quan hệ tình cảm giữa Nguyễn Ái Quốc – Trần Phú. Trước đó 3 năm cụ
Trần Phú từ trong nước sang Quảng Châu gặp cụ Nguyễn, dự lớp, nghe giảng “đường
cách mệnh” và được giới thiệu sang Nga học tiếp. Giữa họ, đúng là quan hệ như hai thầy-trò thân thiết, và hai người đồng
chí chân
thành.
2) Quan
hệ lập trường giữa Nguyễn Ái Quốc – Trần Phú. Đó là lập trường giữa
đấu tranh giai cấp và thủ tiêu đấu tranh giai cấp (đoàn kết vô nguyên tắc). Đó
cũng là lập trường giữa triệt để cách mạng và cải lương, thỏa hiệp. Đó còn
“tính đảng” của đảng viên, gồm tập trung dân chủ, thiểu số phục tùng đa số… Bởi
vậy, thời nay chúng ta không nên dựa vào đạo đức thường tình mà phê phán cụ
Trần Phú… một khi cụ coi lập trường, lý tưởng, quan điểm và tính đảng là cao
nhất. Cho tới năm 1930, cụ Nguyễn vẫn luẩn quẩn trong lý tưởng độc lập dân tộc;
làm sao cao cả bằng lý tưởng thế giới đại đồng của cụ Trần Phú?
3) Để cắt nghĩa, có lẽ cần thấy hoàn cảnh và môi
trường có ảnh hưởng tới tính cách con người. Các cụ Stalin, Mao Trạch Đông,
Trần Phú… chưa bao giờ có thời gian thật sự sống trong xã hội dân chủ do nền
văn minh công nghiệp đem lại. Xã hội tiểu nông lại khác hẳn.
1930-1931:
Đường lối “sắt máu” được thử nghiệm tại Nghệ Tĩnh
Chính thức mà nói, Luận Cương “thủ tiêu đấu tranh giai cấp” (của
cụ Nguyễn Ái Quốc) sau 10 tháng mới bị thay thế bằng Luận Cương của cụ Trần
Phú. Với Luận Cương mới, thì chỉ có Công-Nông là lực lượng cách mạng, các giai
cấp còn lại (tuốt luốt) đều là kẻ thù, hoặc không đáng tin cậy. Tuy nhiên, trên
thực tế sự thay thế chẳng cần đợi lâu đến vậy. Trước khi Hội Nghị trung ương
họp (tháng 10-1930) thì ở Nghệ-Tĩnh đã nổ ra bạo động. Đáng chú ý là các cụ chỉ
đạo Xô Viết Nghệ-Tĩnh (như Trần Phú, Nguyễn Đức Cảnh, Nguyễn Phong Sắc, Lê Mao…)
khi đó đều rất trẻ (22-28 tuổi); đều là trí thức bản xứ và đều hy sinh hoặc mất
ngay sau đó.
Chú Thích. Trước Xô Viết Nghệ-Tĩnh, còn có cuộc khởi
nghĩa Yên Bái (tháng 2-1930). Sinh viên Việt Nam tại Paris có cuộc biểu tình
(ngày 20-5) phản đối bản án tử hình lãnh tụ Nguyễn Thái Học. Nhưng cũng tại
Paris, chưa rõ vì sao không có hành động nào trong giới sinh viên Việt Nam phản
đối nhà cầm quyền Pháp khi Xô Viết Nghệ-Tĩnh cũng bị đàn áp rất dã man, nhiều
vị lãnh đạo cũng bị tử hình và cũng hiên ngang, bất khuất ở pháp trường. Chính
quyền xã trong cuộc nổi dậy được gọi là “xã bộ nông” (từ Hán-Việt), nhưng được
báo cáo với QTCS là các “xô viết” (từ Nga, hầu như chẳng người Việt nào hiểu –
kể cả sinh viên thời nay)..
Đảng
CS thừa nhận: cụ Nguyễn “đã chết” năm 1932?
Dịp đảng CS được 3 tuổi, cụ Hà Huy Tập viết một bài kỷ niệm, đồng
thời cũng là Báo Cáo thành tích – gửi Đông Phương Bộ (Quốc Tế CS). Không khó để
tìm đọc toàn bài, nhưng khi đọc cần hiểu đó là bài đã dịch sang tiếng Việt.
Còn nguyên bản là tiếng Pháp – giống như mọi văn bản khác của đảng mỗi khi gửi
QTCS. Vậy, xin cứ đọc đến cuối bài sẽ thấy chú thích: Gửi “Đông
Phương bộ và các thuộc địa“. Và “Lưu tại Kho Lưu
trữ Trung ương Đảng. Bản dịch từ tiếng Pháp“. Sau vài câu mở đầu,
ta bắt gặp câu sau đây: Đảng
Cộng sản Đông Dương vừa được thống nhất vào đêm trước của cuộc bãi công có tính
chất khởi nghĩa của các phu đồn điền Phú Riềng, bởi ba nhóm cộng sản của Bắc
Kỳ, Trung Kỳ và Nam Kỳ dưới sự lãnh đạo của người sáng lập
của nó là đồng chí Nguyễn ái Quốc, đã bị ám sát vào giữa năm 1932 trong các nhà
tù địa ngục của Hồng Công. Nhiều người đọc đến đây là… thôi,
mừng húm, vì đã có được cái cần có. Đây là bằng chứng được đảng CS chính thức
thừa nhận rằng cụ Nguyễn đã chết. Thực ra, tin này do luật sư Loseby tung ra để
cụ Nguyễn (sau khi thoát bị kết án ở Hồng Công) khỏi bị truy lùng tiếp.
Chú thích. Báo L’Humanité của đảng CS Pháp đăng lại tin vào ngày 9 tháng 8 năm 1932: “Nguyen Ai Quoc, le vaillant fondateur du P.C. indochinois
est mort emprisonné“. Năm sau, 1933, ngày
15-2, báo Cahiers du Bolchévisme tại Mạc Tư Khoa đăng tin đồng chí Nguyễn Ái
Kvak đã hy sinh trong nhà tù Hồng Kong vào ngày 26-6-1932.. Rồi có cả lễ truy
điệu ở Nga… Năm 1969; ngay sau khi cụ Hồ chết, báo New York Time ngày
6-9-1969 đã đăng bài phỏng vấn bà vợ của luật sư Loseby (Lúc này ông Loseby đã
chết). Bà Loseby xác nhận rằng tin
Nguyễn Tất Thành bị chết trong tù là do chính luật sư Loseby tung ra để
đánh lạc hướng theo dõi của mật thám Pháp, nhằm giúp cho cụ Nguyễn không bị mật
vụ của Pháp theo dõi để bắt sau khi được thả ra khỏi nhà giam.
Chính do vậy, đến khi cụ Nguyễn lặn lội tới được nước Nga (cuối
1933 hoặc đầu 1934) thì tin này cũng… tịt. Phải đoàn cố vẫn Nga (bên cạnh chính
phủ Trung Quốc) về nước năm 1927, nay (sau 5 năm) vẫn nhận ra Nguyễn Ái Quốc
“bằng xương, bằng thịt”… chưa chết. Nhưng mà không; mãi tận 76 năm sau
(1932-2008), ông phó giáo sư Hồ Tuấn Hùng ở Đài Loan, vẫn bắt Nguyễn Ái Quốc
phải… chết hẳn, để đưa ông nội mình (là cụ Hồ Tập Chương) thay thế vai trò và
chức vụ cụ Nguyễn Ái Quốc – lúc này lấy tên là Hồ Chí Minh. Hai luồng dư luận
ăn theo là…
1) tiếp tay ông PGS Hùng chứng minh cụ Hồ Chí Minh không phải cụ Nguyễn Ái Quốc; và
2) gán tội ác cho cụ Hồ Tập Chương – bằng cách chứng minh rằng cụ này tìm mọi cách “diệt khẩu” tất cả những ai có điều kiện nhận ra Tập Chương đang đóng giả Ái Quốc (!).
1) tiếp tay ông PGS Hùng chứng minh cụ Hồ Chí Minh không phải cụ Nguyễn Ái Quốc; và
2) gán tội ác cho cụ Hồ Tập Chương – bằng cách chứng minh rằng cụ này tìm mọi cách “diệt khẩu” tất cả những ai có điều kiện nhận ra Tập Chương đang đóng giả Ái Quốc (!).
Chú thích.
1) Chuyện tào lao (từ ngữ do cụ Vũ Thư Hiên dùng) về cụ Tập Chương đóng vai cụ Ái
Quốc đến nay chưa hết. Chỉ cần gõ “hồ tập chương” sẽ được google cung cấp những
kết quả đưa lên mạng internet rất gần đây: 2015.
2)
Trong Báo Cáo nói trên, dù để truy điệu Nguyễn Ái Quốc, Cụ Hà Huy Tập vẫn không
quên kể tội. Hãy đọc câu: “Công lao mà ông đã
đóng góp cho Đảng chúng ta thật là lớn. Song các đồng chí chúng ta trong lúc
này không được quên những tàn dư dân tộc chủ nghĩa của Nguyễn Ái Quốc…
3)
Nghiên cứu một nhân vật lịch sử, lẽ ra phải dựa vào chuỗi sự kiện (phát ngôn,
bài viết và hành vi…) để xác định tư tưởng chủ lưu của nhân vật. Trong những
tình huống cụ thể, nhân vật lịch sử có thể, hoặc buộc phải, có phát ngôn, hành
động xa dời tư tưởng chủ lưu của mình. Đó chỉ là tạm thời. Nhưng do định kiến,
người ta rất dễ cắt nghĩa các sự kiện sao cho phù hợp với ý riêng, với lòng yêu
ghét… Cực đoan hơn nữa, đó là xét đoán sự kiện theo con mắt của người hầu phòng
với những nhân vật mà chúng ta không ưa. Người hầu phòng rất thích tẩn mẩn khám
phá những chuyện riêng tư của đối tượng. Và thích kháo chuyện; kích thích tò
mò. Nếu đối tượng bị căm ghét, họ sẽ cắt nghĩa sự việc theo chiều hướng họ
muốn. Các cụ nay trên 70 tuổi đều biết trước 1964 báo chí miền Bắc đã dùng con
mắt của người hầu phòng mô tả cụ Ngô Đình Diệm, khiến người đọc hiểu rằng… có
sự “tằng tịu” giữa cụ Ngô và bà em dâu (Lệ Xuân). Nghề hầu phòng không xấu.
Nhưng trong chính trị thì khác.
Mắc
nạn ở Hồng Công
Dưới cái tên Tống Văn Sơ, khi hoạt động ở Hồng Công, cụ Nguyễn Ái
Quốc bị cảnh sát phát hiện và bắt giữ (1931). Cảnh sát Pháp ở Đông Dương sẵn
sàng chi tiền để được giao cụ Nguyễn – với cái án tử hình vắng mặt tuyên hai
năm trước. May mắn, cụ được luật sư Loseby cãi trắng án (ngày 28 tháng 12 năm
1932) và giúp trốn khỏi nơi này. Vụ án này được tác giả Bùi Quang Minh tổng hợp
và viết lại rất đầy đủ (Vụ án Nguyễn Ái
Quốc ở Hồng Kông năm 1931) hiện còn lưu trên Chungta.com – một website rất nổi tiếng và bổ ích. Thiết
tưởng, không cần nói gì thêm.
Chú thích. Vì
sao cụ Nguyễn thoát án? Câu
trả lời đầu tiên hẳn phải là “nhờ tài năng và tấm lòng của cụ luật sư Loseby và
các cộng tác viên của cụ. Vì sao vị luật sư tận tình với bị cáo đến vậy, mặc dù cãi
miễn phí? Vì lương
tâm nghề nghiệp và vì biết rõ bị cáo là người hoạt động cách mạng, muốn giải
phóng dân tộc mình khỏi ách thực dân. Cụ Loseby cũng rất ý thức rằng nếu không
thoát án lần này, bị cáo cũng hết đường sống… Còn có thể hỏi nhiều câu khác.
Tuy nhiên,
chớ quên cái gốc: Tòa án nước Anh là độc lập; bộ Luật nước Anh được toàn dân chấp
nhận. Nếu không thế, dẫu 100 cụ Loseby cũng không cãi nổi với 1 quan tòa.
Suýt
chết ở Liên Xô và rồi thoát vòng cương tỏa (1934-1941)
Thoát chết ở Hồng Công, Nguyễn Ái Quốc chỉ còn đường quay lại Liên
Xô. Sau Hội Nghị trung ương tháng 10-1930, uy tín cụ giảm sút. Ở lại Trung Quốc
thì không còn danh nghĩa phái viên QTCS, hơn nữa mâu thuẫn Quốc-Cộng Trung Hoa
đã thành nội chiến, không dễ hoạt động như trước. Chân ướt chân ráo, vừa tới
Liên Xô lại bị cụ Hà Huy Tập không những viết bài phê phán (31-3-1935), mà còn
tố cáo cái tội mất cảnh giác gây thiệt hại cho cách mạng. Ngay năm sau, Liên Xô
tiến hành cuộc đại thanh trừng, số đảng viên bị bắt là 1,5 triệu (giết 50%,
còn lại tù đầy). Hầu hết những người quen biết và cùng công tác với Nguyễn Ái
Quốc đều bị khủng bố. Bản thân cụ Nguyễn bị tình nghi về chuyện “thoát án ở
Hồng Công sao mà quá dễ dàng” (?). Sự việc lớn đến nỗi Quốc Tế CS phải thành lập Ban Kiểm Tra sự kiện Nguyễn Ái Quốc. Điều may mắn là Ban
Kiểm Tra này khách quan và công tâm, mặc dù nhận được những văn bản “chết
người” do cụ Hà Huy Tập gửi tới. Sau 5 năm, trong bối cảnh chiến tranh thế giới
sắp xảy ra, đường lối của Quốc Tế 3 tỏ ra hòa dịu hơn. Cụ Nguyễn được phép sang
hoạt động ở Trung Quốc. Quả là qua cơn ác mộng.
Chú thích.
Thư ngày 31-3-1935 gửi QTCS, cụ Huy Tập viết: “… các
tổ chức cộng sản đã tiến hành một cuộc đấu tranh công khai chống lại những tàn
dư của tư tưởng dân tộc cách mạng pha trộn với chủ nghĩa cải lương của đảng
Thanh niên và của đ/c Nguyễn Ái Quốc, những tàn dư ấy rất mạnh và tạo thành một
chướng ngại nghiêm trọng cho sự phát triển chủ nghĩa cộng sản… Chúng tôi đề
nghị đ/c Lin viết một quyển sách để tự phê bình những khuyết điểm đã qua”.
–
Tư liệu về sự đe dọa sinh mạng chính trị (cũng như mạng sống) đối với cụ Nguyễn
rất đủ và rất dễ kiếm. Ví dụ, có thư tố cáo Nguyễn Ái Quốc phải
chịu trách nhiệm chính về việc hơn 100 Đảng viên của Đảng Cách mạng Thanh niên
bị bắt do việc Nguyễn Ái Quốc biết Lâm Đức Thụ trước đây là kẻ phản bội mà vẫn
tiếp tục sử dụng; Nguyễn Ái Quốc rất sai lầm khi yêu cầu mỗi học viên cung cấp
hai ảnh, họ tên, địa chỉ, họ tên cha mẹ, ông bà nói chung những người sinh
thành và địa chỉ chính xác của 2 đến 10 bạn thân. Những bức ảnh của các học
viên do Nguyễn Ái Quốc và Lâm Đức Thụ yêu cầu đều vào tay mật thám... Xin nhắc lại một câu đã viết ở trên:
Điều may mắn là Ban Kiểm Tra này khách quan và công tâm, mặc dù nhận được những
văn bản “chết người” do cụ Hà Huy Tập gửi tới. Và cũng xin nói thêm: Cụ Hà Huy
Tập cũng khách quan và công tâm, chớ không có thù riêng với cụ Nguyễn. Cụ Hà
chỉ thật lòng vận dụng những gì cụ tiếp thu từ lý luận đấu tranh giai cấp và
chuyên chính vô sản khi đối chiếu điều đã học với những gì do cụ Nguyễn Ái Quốc
viết ra. Còn những tin tức “chết người” cũng không phải do cụ bịa đặt, mà là
“nghe được” và có nhiệm vụ báo cáo lên cấp trên rằng “nghe được”.
–
1938 – 1941: sang Trung Quốc, về Việt Nam
– Năm 1938, cụ Nguyễn trở lại Trung Quốc. Tư liệu khá đầy đủ. Lần
này, cụ đóng vai thiếu tá Bát Lộ Quân (đạo quân thứ 8 của đảng CS Trung Quốc)
công tác ở Quế Lâm và vài nơi khác thuộc địa bàn mà đảng CS Trung Quốc còn có
ảnh hưởng. Lúc này, Quốc-Cộng đã hợp tác chống Nhật. Điều may mắn, trong mấy
năm hoạt động, cụ Nguyễn Ái Quốc gặp và được sự giúp đỡ của một chí sĩ yêu nước
là cụ Hồ Học Lãm,
lúc này là sĩ quan cao cấp của quân đội Quốc Dân Đảng. Trong Hồi ký về cha mình, bà Hồ Mộ La (nay còn sống, con gái chí sĩ)
có nhiều chỗ đề cập đến quan hệ giữa hai cụ: Thân thiết, sâu đậm và tin tưởng.
Một ví dụ. Cụ Nguyễn nhờ cụ Hồ Học Lãm xin cho một thanh niên là Lê Thiết Hùng vào học trường quân sự Hoàng Phố. Sau này ông Thiết Hùng thành con
rể cụ Học Lãm, có nói với gia đình vợ về nhận định của cụ Nguyễn Ái Quốc: Cụ Hồ Học Lãm (lúc đó đang đứng đầu hội Việt Minh),
rất thích hợp để làm chủ tịch nước khi chúng ta giành được độc lập.
Nhưng cụ Hồ Học Lãm đã mất từ khá lâu, trước khi ông Lê Thiết Hùng được chính phủ cụ Hồ phong thiếu tướng sớm nhất (ngay năm 1945).
Tác giả cuốn hồi ký (về cha mình) không nói tên hiệu của thân phụ là Hồ Chí
Minh như dư luận bàn tán.
Chú thích.
Cụ Hồ Học Lãm, do địa vị hợp pháp của mình, đã xin phép chính phủ Tưởng Giới
Thạch thành lập một hội lấy tên là hội Việt Nam Độc lập Vận động Đồng minh Hội (gọi tắt là Việt Minh). Hiểu sang
tiếng Việt, đây là hội của những người cùng hợp sức “vận động cho nên độc lập
của Việt Nam”. Thực chất, đó là nơi an toàn để các nhà cách mạng Việt Nam có
thể hoạt động ở Trung Quốc – dưới dang nghĩa hội viên Việt Minh. Vài năm sau, ở
trong nước cụ Nguyễn Ái Quốc (lúc này là Hồ Chí Minh) cũng lập một Hội cùng
tên; nhưng bỏ hai chữ “vận động”, vì thực chất đây là mặt trận rộng lớn, gồm
nhiều đoàn thể, có phạm vi hoạt động cả nước. Dự kiến: sẽ tới lúc cụ Hồ Học lãm
về nước, đứng đầu Hội này, để sau đó đủ danh nghĩa và uy tín trở thành chủ tịch
nước. Nhưng dự kiến không thành.
Đầu tháng 1-1941, cụ Hoàng Văn Thụ,
Ủy viên Thường vụ Trung ương Đảng từ Việt Nam sang gặp cụ Nguyễn Ái Quốc để báo
cáo kết quả xây dựng và củng cố “khu an toàn” Cao Bằng và đề nghị cụ Nguyễn về
nước- cũng đúng với dự định của cụ Nguyễn.
Năm
1940: Kết thúc hẳn sự tồn tại Luận Cương 10-1930
Sau thất bại của cuộc bạo động ở Nghệ-Tĩnh, đảng CS Đông Dương
thiệt hại rất nặng nề, rơi vào thời kỳ thoái trào. Có những năm, ở trong nước
không có nổi ban chấp hành trung ương, mà “Ban Hải Ngoại” phải đóng vai trò
này. Suốt 10 năm, đảng không tổ chức được cuộc nổi dậy vũ trang nào. May mắn,
khi Mặt Trận Nhân
Dân bên
Pháp lên cầm quyền (1936), nhiều đảng viên ở VN được tha tù; một bộ phận hoạt
động nửa công khai (ra báo, ứng cử vào các cơ quan dân cử…), nhờ vậy đảng phục
hồi. Ban chấp hành trung ương do cụ Nguyễn Văn Cừ đứng đầu, trên thực tế đã
thực hiện nhiều nội dung Luận Cương “đoàn kết” của Nguyễn Ái Quốc. Sức mạnh dân
tộc hướng mũi nhọn vào đế quốc, thực dân, mà tạm quên mục tiêu diệt địa chủ,
phong kiến. Nhưng tới năm 1940, một hành động tả khuynh lại gây thiệt hại lớn –
nặng nề hơn thất bại trong cuộc bạo động Nghệ-Tĩnh trước đây. Đó là cuộc Khởi Nghĩa Nam
Kỳ, do
xứ ủy Nam Kỳ chủ trương. Qua đây, có nhận xét rằng cấp ủy Trung và Nam Kỳ tả
khuynh rất nặng, so với Bắc Kỳ. Trung Ương đảng (đóng ở Bắc Kỳ) đã chỉ thị hoãn
khởi nghĩa vì dự kiến sẽ thất bại (tình thế chưa chín, chuẩn bị chưa đủ), nhưng
không kịp. Cuộc khởi nghĩa bị đàn áp. Không những các nhà lãnh đạo trực tiếp
cuộc nổi dậy bị tử hình, lưu đầy, mà nhiều vị khác cấp cao khác cũng bị xử trí
nặng nề vì “chịu trách nhiệm về mặt tinh thần”.
Mười
năm tiếp theo: Trong 60 năm hoạt động cách mạng, thì 50 năm bất như ý, nhưng có
10 năm (1941-1951) cụ Nguyễn Ái Quốc, dưới tên Hồ Chí Minh, được toàn tâm và
toàn quyền (huy động toàn lực dân tộc) thực hiện tư tưởng chủ đạo của mình. Đó
là giành lại độc lập cho đất nước. Cụ cũng chịu trách nhiệm về dân trí, dân
khí, dân sinh sao cho cho xứng với nền độc lập.
Hồ Chí Minh từ 1941 đến 1951
Vào bài. Tư liệu liên quan với bài này rất phong phú, dễ tìm kiếm; nhưng
chính do vậy cần chọn lọc để bài không quá dài và không lạc khỏi chủ đề. Cụ
Nguyễn Ái Quốc cùng thời với các trí thức trong “bộ ngũ”
(Vĩnh - Quỳnh - Tốn - Tố - Khôi) đều thuộc thế hệ 3. Nghĩa là, nước đã mất từ khi các
vị chưa sinh ra. Khi các vị trưởng thành, thực dân Pháp đã đặt được hệ thống
cai trị vững chắc trên đất nước ta và chính họ đã thực hiện giấc mơ canh tân
của cụ Nguyễn Trường Tộ. Mất nước, nhiệm vụ giữ độc lập chuyển thành giành lại độc
lập, tất nhiên phải dùng bạo lực; còn nhiệm vụ canh tân đất nước chuyển thành
nhiệm vụ học hỏi thực dân để khai dân trí, đòi cải cách xã hội; đặng dần dần
thu hồi độc lập… (chỉ có thể bằng cách ôn hòa). Cách này tốn rất nhiều thời
gian, nhưng trình độ người dân dần dần được nâng cao, xứng đáng thụ hưởng và
bảo vệ độc lập, tự do. Một người, một tổ chức không thể thực hiện đồng thời cả
hai phương pháp. Do vậy, câu hỏi từ thời cụ Nguyễn Trường Tộ vẫn được đặt ra:
Nhiệm vụ nào phải làm trước, nhiệm vụ nào có thể làm sau… “Bộ ngũ” kế tục con
đường do Phan Chu Trinh vạch ra, còn cụ Nguyễn theo con đường Phan Bội Châu.
Nhưng cụ Nguyễn khác cụ Phan Bội Châu là đã được sống trong xã hội văn minh
công nghiệp với nền dân chủ đang ngày càng hoàn thiện. Do vậy, cách bạo động
cũng ít cực đoan hơn.
Cuối
năm 1930 cương lĩnh (chính cương) bạo động “có chừng mực” của cụ Nguyễn bị phê
phán là “thủ tiêu đấu tranh”, và bị thay bằng cương lĩnh “sắt máu” của cụ Trần
Phú. Chính cái cương lĩnh này khi vừa mới thực thi đã kịp gây thiệt hại lớn sau
Xô Viết Nghệ Tĩnh, rồi sau 10 năm nhen nhóm lực lượng lại bị tổn thất sau Khởi
Nghĩa Nam Kỳ – tới mức những vị lãnh đạo sống sót phải mời cụ Nguyễn Ái Quốc về
nước, đặt cụ lên vị trí lãnh đạo “độc tôn, toàn diện và tuyệt đối”. Nói khác, đó
chính là vị trí của chủ tịch đảng (suy tôn, mà không cần qua bầu cử) – y hệt vị
trí của các cụ Stalin, Mao Trạch Đông, Kim Nhật Thành… (khi sống, quyền như
vua; khi chết được xây lăng). Nhưng có hai điều cần phải phân biệt giữa cụ Hồ
với các cụ này. Đó là: 1- Các cụ Stalin, Mao, Kim nhất
thiết phải trừ khử các bạn chiến đấu ngang tầm, ngang công lao, ngang tuổi tác
với mình để làm chủ tịch đảng; còn cụ Hồ thì không cần làm như vậy, vì cụ duy
nhất thuộc thế hệ trước, cũng là người sáng lập đảng. 2- Các cụ Stal, Mao, Kim giữ vị trí chủ tịch đảng tới khi chết; nhưng
cụ Hồ (sau khi bị Stalin quở trách) chỉ còn là chủ tịch ban chấp hành trung
ương. Cần phân biệt chủ tịch đảng (được mấy triệu đảng viên suy tôn) với chủ
tịch ban chấp hành trung ương (chỉ đứng đầu vài trăm người). Nói khác, kể từ
năm 1951, cụ Hồ cũng phải bỏ phiếu như mọi vị trong ban chấp hành trung ương,
và giá trị lá phiếu của cụ Hồ chỉ là 1/ mấy trăm phiếu của những người khác. Cụ liên miên thuộc phe thiểu số. Bài này nói
về thời kỳ đắc ý nhất của cụ: 1941-51. Sau đó là thời kỳ bất như ý, đến cuối
đời.
Phế bỏ Cương Lĩnh “sắt máu”. Tự đổi tên là Hồ
Chí Minh
Ra đi năm 1911, sau 30 năm cụ Nguyễn Ái Quốc được đón về Việt Nam
ngày 28 tháng 1 năm 1941. Thời nay, tùy nhãn quan chính trị, người ta có thể
nhận định khác nhau về quãng đời 30 năm này của cụ, nhưng không một giáo sư sử
học nào, và không cuốn đại từ điển nào, lại không kết luận cụ là người yêu
nước. Năm sau, cụ lấy tên là Hồ Chí Minh; do vậy, bài này dùng tên mới (cụ Hồ)
thay cho tên cũ của cụ Nguyễn.
Sau thất bại của 3 cuộc nổi dậy liên tiếp (Bắc Sơn, Nam Kỳ và Đô Lương), thực dân Pháp – khi đã dàn xếp xong với Nhật – quay sang đánh phá
khốc liệt các tổ chức đảng CS và ráo riết lùng bắt đảng viên. Để giữ bí mật, cụ
Hồ được sắp xếp sống ở một hang núi thuộc bản Pác Bó; rất hẻo lánh. Trong khi
chờ đợi triệu tập hội nghị trung ương, cụ mở các lớp huấn luyện tại chỗ và lập
các hội, như Nông Dân, Phụ Lão, Phụ Nữ… Đây là ba thành phần mà cụ gặp gỡ đầu
tiên khi về nước. Tên gọi các hội đều có 2 chữ “Cứu Quốc”, rất phù hợp với tư
tưởng chủ lưu từ 20-30 năm trước của cụ. Sau 3 tháng chắp mối, Hội Nghị trung
ương (lần 8) khai mạc ngày 10-5-1941
– mở rộng tới xứ ủy Bắc Kỳ, Trung Kỳ. Nói “hội nghị” tưởng là to, thật ra rất
ít người dự (dưới 10?) nói lên sự thoái trào. Quyết định quan trọng nhất là
thành lập một đồng minh (mang tính chất mặt trận), với mục tiêu duy nhất là độc
lập. Còn mục tiêu cách mạng thổ địa hãy gạt sang một bên. Tên của mặt trận –
được gọi theo ngữ pháp Hán-Việt (rất thông dụng trước 1945) – là Việt Nam Độc
Lập Đồng Minh; cụ Hồ đề nghị gọi tắt là Việt Minh. Nó thay cho cái “Mặt trận phản đế” thành lập 10 năm trước đó. Chỉ riêng cái tên “phản đế” (chống đế
quốc – chuyện của cả thế giới) đã đủ thấy sự huênh hoang và cực tả. Việt Nam cứ
tự lo chuyện độc lập cho chính mình cái đã. Việt Minh tập hợp rộng rãi nhân dân, ngoài các đoàn thể, còn thu nhận các cá
nhân: nhân sĩ, trí thức, nhà tư sản, điền chủ (miễn là chấp nhận chống thực dân
Pháp, giành độc lập). Theo tiêu chuẩn này, bà Nguyễn Thị Năm, ông Trịnh Văn Bô… đều có thể được kết nạp. Lễ thành lập Việt Minh diễn ra ngày
19-5, sau này được cụ Hồ lấy làm ngày sinh của mình. Từ nay cụ Hồ nghiễm nhiên
được coi là Chủ Tịch Đảng và suốt 10 năm (1941-1951), cụ có thực quyền quyết
định mọi chủ trương và chỉ chịu trách nhiệm trước lịch sử.
Chú thích.
Sau cuộc nổi dậy ở Nam Kỳ, một loạt các nhân vật “sắt máu” nhất đã hy sinh – mà
trước đó 10 năm họ phê phán cụ Nguyễn Ái Quốc không chút nể nang. Họ vắng mặt
vĩnh viễn là điều may mắn tạm thời cho cụ, nhưng chỉ kéo dài cho tới năm 1951 –
là thời điểm Stalin buộc cụ Hồ phải tái lập đảng CS và làm Cải Cách Ruộng Đất.
Đến lúc này (1941) các vị kỳ cựu còn lại, tuy đã chốt chặt chủ nghĩa Mác-Lenin trong óc (trong đó, nhiều người đã thụ giáo ở Nga), đành phải chấp nhận
đường lối đoàn kết toàn dân, trước tiên chĩa mũi nhọn vào Pháp, Nhật, giành lấy
độc lập cái đã. Chuyện đấu tranh giai cấp và làm “thổ địa cách mạng” tính sau.
Hội nghị trung ương 8 họp ở một nhà sàn tiều tụy, nhỏ xíu, nằm trơ trọi, hẻo
lánh (nay đã cắm biển di tích), nói lên hoàn cảnh bi đát nhiều mặt khi đó.
Tình hình biến chuyển nhanh
Việt Minh phát triển rất mạnh, do đường lối phù hợp và do tình
hình thế giới: Pháp đã mất nước; số phận thực dân ở Đông Dương thật bấp bênh;
Nhật bắt đầu thua các nước Đồng Minh. Nhờ vậy, Việt Minh lập được cơ sở rộng
rãi ở khu Việt Bắc và lan khắp nước. Nhiều cá nhân trí thức, tư sản, điền chủ
cũng có mặt. Ví dụ, Trịnh Văn Bô, Trần Duy Hưng, Dương Đức Hiền, Văn Cao, Đỗ Đình Thiện… Sau khi Nhật đảo chính Pháp, phong trào càng mạnh mẽ, được dân
chúng trông mong. Sau khi Nhật làm đảo chính, phong trào phát triển đột biến.
Nông thôn sáu tỉnh phía Bắc đã do Việt Minh làm chủ (lập khu giải phóng). Một
Hội Nghị quân sự đã quyết định thống nhất các lực lượng vũ trang, gọi chung là
Giải Phóng Quân. Như vậy, chỉ sau 4 năm (1941-1945), cụ Hồ đã triệu tập được
một cuộc họp lớn chưa từng có, gọi là Đại Hội Quốc Dân với nhiều thành phần tiêu biểu,
nơi họp phải là ngôi đình – nói lên sự hồi phục và lớn mạnh của phong trào;
cũng nói lên đường lối đúng của cụ Hồ được các cấp của đảng CS răm rắp thực
hiện. Chính từ Đại Hội này, Ủy Ban Khởi Nghĩa ra đời và ban hành Quân Lệnh số 1
khắp cả nước.
Chú thích.
Vài quyết định của đại hội.
1) Cử ra Ủy ban Giải phóng dân tộc Việt Nam, được coi là Chính phủ lâm thời do cụ Hồ Chí Minh làm chủ tịch và có một Ủy ban Thường trực gồm 5 người: Hồ Chí Minh, Trần Huy Liệu, Phạm Văn Đồng, Nguyễn Lương Bằng và Dương Đức Hiền.
2) Lập Ủy Ban Khởi Nghĩa; Ủy Ban này đã ban hành Quân Lệnh số 1, gửi Việt Minh các địa phương trong cả nước.
3) Quy định quốc kỳ (nền đỏ sao vàng) và quốc ca (Tiến quân ca).
1) Cử ra Ủy ban Giải phóng dân tộc Việt Nam, được coi là Chính phủ lâm thời do cụ Hồ Chí Minh làm chủ tịch và có một Ủy ban Thường trực gồm 5 người: Hồ Chí Minh, Trần Huy Liệu, Phạm Văn Đồng, Nguyễn Lương Bằng và Dương Đức Hiền.
2) Lập Ủy Ban Khởi Nghĩa; Ủy Ban này đã ban hành Quân Lệnh số 1, gửi Việt Minh các địa phương trong cả nước.
3) Quy định quốc kỳ (nền đỏ sao vàng) và quốc ca (Tiến quân ca).
Chủ tịch đảng đã quyết định những gì?
– Trước khởi nghĩa (Việt Minh chưa ra công khai)
Được coi như chủ tịch đảng, các quyết định và các chỉ thị của cụ
Hồ đều được đảng thi hành đầy đủ. Nếu có đưa ra Hội Nghị trung ương cũng chỉ là
thủ tục. Trong thời gian 1941-1945 không có đại hội đảng, chỉ có chuyện bổ sung
thêm người vào ban chấp hành trung ương và bầu cụ Trường Chinh làm tổng bí thư,
nhưng linh hồn của cuộc họp là cụ Hồ. Ngày nay, đọc Lịch Sử (và Lịch Sử Đảng)
ta thấy uy tín tuyệt đối của cụ thời 41-45. Kết quả tổng hợp của những quyết
định và chỉ thị của cụ Hồ là dẫn đến cái Đại Hội Quốc Dân nói trên. Đại hội này chấm dứt thời kỳ (gọi là) “tiền khởi nghĩa”,
chuyển sang khởi nghĩa và thời cơ chỉ gói trong một-hai tuần lễ. Có thể nói
gọn: Mấy chục năm nung nấu mục tiêu Độc Lập, nay là lúc cụ Hồ có toàn quyền,
toàn lực thực hiện nó. Ví dụ, trong bối cảnh tháng 7-1945, khi cụ nhận ra thời
cơ, cụ nói (chỉ thị): Lúc này thời cơ
thuận lợi đã tới, dù phải hy sinh tới đâu, dù phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn,
cũng phải kiên quyết giành cho được độc lập“. Nói khác, đây là giành độc
lập bằng bất cứ giá nào. Trước đó, tháng 5-1945, khi dự định viết Tuyên Ngôn
độc lập, cụ đã hỏi ý kiến một “người bạn Mỹ”, mà không hỏi bất cứ đồng chí nào
khác xung quanh cụ. Nói khác: Cụ tin rằng cuộc khởi nghĩa sẽ thành công (phải
lo soạn Hiến Pháp đi).
Đến đây, ngoài việc nhìn cụ Hồ như một trí thức chủ trương bạo
động giành độc lập, còn phải nhìn cụ là một nhà hoạt động chính trị – giống cụ
Phạm Quỳnh. Hai cụ kiên định mục tiêu như nhau, tuy nhiên, sự lọc lõi, quyền
biến và can trường thì không giống nhau.
– Xin nói hai
việc vặt, mà chủ tịch đảng quyết định ở thời kỳ tiền khởi nghĩa. Đó là phế
bỏ một quyết định “tập thể” của cấp dưới và tự ý tranh thủ hợp tác với Mỹ.
–
Ngày 13-8-1942, Nguyễn Ái Quốc (giấy tờ tùy thân là Hồ Chí Minh) sang Trung
Quốc để liên hệ với các tổ chức cách mạng người Việt Nam và với Đồng Minh (Mỹ),
đã bị chính quyền địa phương bắt giữ 13 tháng. Ở nhà, các vị Trường Chinh, Phạm
Văn Đồng… (vẫn còn chút máu bạo lực) tự ý phát động cuộc chiến tranh du kích
chống Pháp Nhật ở Cao Lạng. Việc bốc đồng này có thể “nướng” hết quân. Lẽ ra,
phải xây dựng các đoàn thể quần chúng bằng tuyên truyền, giác ngộ để tạo ra lực
lượng chính trị hùng hậu; còn lực lượng quân sự non nớt, chỉ để tự vệ, mà chưa
thể “phát động chiến tranh” với quân chính quy của thực dân và phát xít. May,
cụ Hồ về nước kịp chấn chỉnh điều này. Cụ chỉ cho phép trưng dụng 34 người từ
các đơn vị tự vệ địa phương để lập ra trung đội “tuyên truyền
giải phóng quân“,
nhưng vẫn phải lấy nhiệm vụ chính trị làm đầu. Phải khá lâu về sau mới có quyết
định hợp nhất tất cả các đơn vị vũ trang thành một tổ chức thống nhất, lấy tên
là Quân Giải Phóng (lúc đó gọi là “Giải Phóng Quân”).
–
Cũng trước ngày khởi nghĩa, cụ tự ý “đi quá xa” khi đặt quan hệ với Mỹ, qua
việc liên hệ mật
thiết với đơn vị tình báo OSS. Dù cùng Mỹ đứng trong phe Đồng Minh chống phát
xít, nhưng Liên Xô không cho phép các đảng Cộng Sản cộng tác với Mỹ tới mức như
cụ Hồ thân thiết với OSS.
– Sau khởi nghĩa
Cụ Hồ quyết định nhiều việc ở chức vụ thủ tướng
và chủ tịch nước, công khai, nay vẫn lưu lại kết quả. Xin đơn cử:
–
Tháng 11-1945 khi đảng CS đang tranh chấp gay gắt về quyền lực với hai đảng
khác (Việt Quốc và Việt Cách, theo chân quân Trung Quốc sang ta) thì cụ lại tuyên bố giải thể đảng
Cộng Sản (thực
ra, là chuyển sang hoạt động bí mật như trước đó 3 tháng). Stalin không thể tha
thứ việc làm này.
Chú thích.
Dư luận chung quốc nội thời đó là không ưa – mà sợ – cộng sản, nhưng lại rất
tín nhiệm Việt Minh. Thái độ quốc tế cũng e dè cụ Hồ vì biết rõ Hồ là Cộng Sản.
Còn Việt Quốc, Việt Cách thì hàng ngày tuyên truyền ra rả và thẳng thừng rằng
“Việt Minh còn cộng sản hơn cả Nga Xô”. Điều này có thể đúng tới 70%, vì rất
nhiều nhân vật của Việt Minh thời đó cũng chưa biết rằng mình hoạt động dưới sự
lãnh đạo của Cộng Sản. Họ tham gia Việt Minh thuần túy là yêu nước. Trong tình
thế bất lợi như vậy, cụ Hồ tuyên bố “giải thể đảng”. Về sau, khi biết chuyện
này, Stalin rất bực tức và bắt cụ thành lập lại đảng và hoạt động công khai. Đó
là năm 1951. Để lấy lòng Stalin và Mao Trạch Đông, năm 1951 văn kiện Đại Hội
thành lập đảng Lao Động ghi rõ: “Đảng theo chủ nghĩa Mác-Angghen-Lenin-Stalin”
và “tư tưởng Mao Trạch Đông”. Để xóa cái án “xét lại” (khi chê chủ nghĩa Marx
trong bài viết năm 1924) cụ Hồ nói như đinh đóng cột giữa Đại Hội: “Tôi chẳng
có lý luận gì hết”.
– Ngay sau
khởi nghĩa tháng tám, cụ thành lập chính phủ lâm thời, mà thành phần chủ yếu là
những nhân vật đã được bầu chọn ở Đại Hội Quốc Dân; do vậy có rất nhiều đảng viên CS. Cái chính phủ thành lập vội vã
này (ngày 28-8-1945) là để 5 ngày sau kịp có mặt trên lễ đài – ra mắt quốc dân
– trong ngày tuyên bố Việt Nam độc lập (2-9-1945). Nhưng qua mấy lần cải tổ về
sau, những thành phần mà cụ Trần Phú muốn “đào tận gốc” lại chiếm đa số trong
chính phủ mới. Cụ Hồ công khai từ bỏ lập trường giai cấp, chuyển sang “thỏa
hiệp”, nhưng như vậy giữ được nền độc lập non trẻ đang rơi vào tình huống rất
chênh vênh.
– Khi viết
Tuyên Ngôn Độc Lập cho nước ta, cụ chỉ tham khảo Tuyên Ngôn và Hiến Pháp của
Hoa Kỳ; mà không thèm nhớ gì tới các tuyên ngôn của chính quyền Xô Viết khi nó
ra đời (1917) – mặc dù cụ đã từng sống khá lâu ở Liên Xô. Liều lĩnh nhất là cụ
cho một người “bạn Mỹ” xem trước bản thảo và đề nghị góp ý; trong khi đó cụ lờ
hẳn các đồng chí của cụ; trong đó có nhiều người từng thụ giáo chủ nghĩa
Mác-Lenin ở Nga…
Chú thích. Xin trích nguyên văn một đoạn ở một bài viết gần đây; để tham khảo:
Ngày 29 tháng 8, cụ Hồ Chí Minh mời Thiếu tá
Patti đến gặp, tại nhà của ông bà tư sản yêu nước Trịnh Văn Bô tại phố Hàng
Đào, để thông báo 2 việc quan trọng:
1-
Ngày mai, 30 tháng 8, Hoàng đế Bảo Đại sẽ thoái vị.
2-
Ngày mồng 2 tháng 9, sẽ trở thành ngày Độc lập của VN.
Và cụ Hồ Chí Minh muốn tham khảo lần cuối ông
Patti về bản Tuyên Ngôn độc lập của VN.
Thực ra, từ tháng 5 năm 1945, khi Dan Phelan
nhảy dù xuống Tân Trào, cụ Hồ Chí Minh đã cho ông Dan Phelan biết Cụ Hồ đang ấp
ủ viết bản Tuyên Ngôn Độc lập của nước VN, và đã hỏi ý kiến của ông Phelan về
bản Tuyên ngôn độc lập của Mỹ. Theo ông Dan Phelan nhớ lại: thật ra khi hỏi ông
Phelan, Cụ Hồ đã biết rất rõ nội dung bản Tuyên ngôn độc lập của Mỹ năm 1776.
Sau đó, ông Dan có chuyển cho Việt Minh cả bản Hiến pháp Mỹ, và Luật Nhân quyền
Mỹ.
Như vậy Thiếu tá Patti là người Mỹ thứ hai được
cụ Hồ tham khảo về bản Tuyên Ngôn độc lập của VN. Vào ngày mồng 2 tháng 9
năm 1945, Bác Hồ đọc bản Tuyên ngôn độc lập, khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ
cộng hòa.
Trong các bức ảnh về ngày mồng 2 tháng 9 đó,
trên khán đài mà Bác Hồ đọc bản Tuyên ngôn độc lập, có hình ảnh Cựu hoàng Bảo
Đại, đứng phía sau Bác Hồ, và ảnh ông Patti, cao lớn, mặc quân phục xám, đội mũ
ca-lô, đứng bên cạnh Bác Hồ.
Sau khi Bác Hồ đọc xong bản Tuyên ngôn độc lập
của VN, với lời nói dản dị đi vào lòng người “Tôi nói, đồng bào nghe rõ không”,
ông Võ Nguyên Giáp đọc diễn văn về các vấn đề của Chính phủ lâm thời. Trong
diễn văn đó, có đoạn ông Võ Nguyên Giáp nói về nước Mỹ:
“-Mỹ là một nước dân
chủ, không có tham vọng về lãnh thổ, nhưng đã góp phần đặc biệt đánh bại kẻ thù
của chúng ta, phát-xít Nhật. Vì thế, chúng ta coi Mỹ như người bạn tốt.”
Khi chuẩn bị kết
thúc diễn văn này, ông Giáp nói về Tổng thống Mỹ Roosevelt : “Như Ngài
Roosevelt đã từng nói, áp bức và tàn bạo đã làm cho chúng ta biết ý nghĩa của
tự do”.
Khi đó, trong những ngày Cách mạng tháng 8 sôi
sục ấy, ở Hà Nội có 59 người Mỹ, hầu hết là các nhân viên OSS. Họ được Việt
Minh và nhân dân VN đón tiếp nồng nhiệt.
Cũng
ngay trong tháng 9 năm 1945, Bác Hồ cho thành lập Hội Hữu nghị Việt-Mỹ. Quan hệ
VN-Mỹ chưa bao giờ tốt như vậy.
– Cuộc tổng
tuyển cử (6-1-1946) năm 1946, mọi người tha hồ tranh cử, tha hồ vận động. Đây
là hiện thực “tự do ứng cử, bầu cư” mà cụ thấy tận mắt khi sống 6 năm ở Pháp.
Hà Nội được bầu 6 (theo số dân) nhưng có tới 75 vị ứng cử. Số nghị sĩ không
cộng sản chiếm đa số. Sau này, có 70 nghị sĩ thuộc đảng Việt Quốc và Việt Cách
được bổ sung khiến cho tỷ lệ nghị sĩ cộng sản càng giảm. Ây vậy, cụ Hồ lại
trịnh trọng phát biểu tại phiên khai mạc rằng đây là quốc hội tiêu biểu cho
đoàn kết; không đại diện cho đảng phái nào, mà đại diện toàn dân.
Chú thích.
Chính cách thức bầu cử đã tạo ra được một quốc hội mà sản phẩm tiêu biểu của nó
là Hiến Pháp 1946 bất tử – bản Hiến Pháp tôn trọng người dân hơn tất cả các bản
Hiến Pháp sau này. Đây là bản Hiến Pháp có câu “không phân biệt giầu-nghèo” (ý:
giai cấp), hơn nữa, nó không cho phép cái từ “giai cấp” được bén mảng vào.
Trưởng Ban soạn thảo Hiến Pháp 1946 chính là cụ Hồ, nhưng cụ bất cần biết hiến
pháp Liên Xô có đặc trưng gì. Hơn nữa, ở vị trí là chủ tịch đảng, cụ bất cần có
cuộc họp “nội bộ” nào góp ý cho Hiến Pháp trước khi đưa ra Quốc Hội thông qua.
Điều lạ lùng là các nghị sĩ cộng sản đều giơ tay tán thành hiến pháp. Chỉ có 2
phiếu chống, nhưng đều là của người “không cộng sản: cụ Nguyễn Sơn Hà và cụ
Phạm Gia Đỗ.
Cứ tưởng rằng… nhưng không phải (!)
Nước Nhật đầu hàng phe Đồng Minh ngày 15-8, chỉ cần 1-2 tuần là
quân Trung Quốc, Anh kịp vào nước ta để giải giáp quân Nhật. “Nếu” lúc đó nước
ta đã có một chính phủ chống Nhật, tuyên bố độc lập, được lòng dân (do tổng
tuyển cử đưa lên) thì đó chính là vị “chủ nhà” hợp lệ, đủ tư cách tiếp khách.
Việt Minh đã thực hiện rất trọn vẹn cái chữ “nếu” này. Trong Tuyên Ngôn Độc Lập
có câu tranh thủ sự ủng hộ của Đồng Minh: “Một dân tộc đã gan góc chống ách nô lệ của Pháp hơn 80 năm nay,
một dân tộc đã gan góc đứng về phe Đồng Minh chống phát xít mấy năm nay, dân
tộc đó phải được tự do! Dân tộc đó phải được độc lập!”. Chỉ sau khởi nghĩa 14 ngày, đã có một chính phủ, đã có bản Tuyên
Ngôn độc lập, đã thành chủ nhà đón tiếp quân Đồng Minh, chúng ta phải nhìn cụ
Hồ là con người chính trị, đầy khả năng và rất quyền biến.
Cứ tưởng rằng mọi chuyện sẽ êm đẹp; nhưng không phải. Nguyên nhân
chỉ có một: Pháp quyết chiếm lại thuộc địa cũ: Đông Dương.
– Chính phủ Trần Trọng Kim. Nước Nhật sắp thua, tình hình trong nước và ngoài nước biến
chuyển dồn dập, mau lẹ. Phe Đồng Minh đã phân công Trung Quốc và Anh vào Đông
Dương giải giáp (năm 1945 gọi là “tước khí giới”) quân Nhật, lấy vĩ tuyến 16 để
chia nhiệm vụ. Đồng Minh cũng tuyên bố: Tất cả các chính quyền do Nhật dựng lên
(không chống Nhật) đều bất hợp pháp. Ở Việt Nam, chính phủ của cụ Trần Trọng
Kim rơi vào trường hợp này. Đây là chính phủ yêu nước, nhưng không có thành
tích chống Pháp, càng không có thành tích chống Nhật. Còn chính quyền của Việt
Minh (đã tạo dựng ở một số tỉnh miền núi phía Bắc) té ra lại được coi là hợp
pháp – vì đã chống cả Pháp thực dân và Nhật phát xít. Mà chống bằng xương máu
hẳn hoi. Điều mà Việt Minh cần là lập thêm thành tích với phe Đồng Minh. Cụ thể
là hưởng ứng lời kêu gọi của Đồng Minh, chống Nhật, lật đổ chính quyền do Nhật
dựng lên. Tất nhiên, điều này phải thực hiện trước khi quân Anh kịp vào Nam Kỳ
(Pháp sẽ theo vào để chiếm lại thuộc địa) và trước khi “Hoa quân nhập Việt”
mang theo các đảng phái thân Trung Quốc, sẽ cạnh tranh với Việt Minh.
Chú thích.
Chính do vậy, khi quân Nhật (vốn không ưa Việt Minh) thông báo với chính phủ
Trần Trọng Kim “sẵn sàng trấn áp, nếu Việt Minh định làm đảo chính” đã bị từ
chối. Một phần, đây là chính phủ yêu nước, không muốn để người nước ngoài làm
Việt bị đổ máu; một phần khác, nếu chính phủ này nhờ Nhật
đàn áp người Việt sẽ nguy hiểm cho bản thân mình – một khi quân Đồng Minh có
mặt ở nước ta. Cũng chính do vậy, khi cụ Trần Trọng Kim đề nghị Việt Minh “hợp
tác”, làm sao Việt Minh dám nhận lời (để bỗng chốc thành kẻ thù của Đồng Minh)?
– Chuyện “Hoa quân nhập Việt”
Các nhà yêu nước sau khi chống Pháp thất bại (Đông Du, hội Quang
Phục, Việt Nam Quốc Dân Đảng…) đã ở lại Trung Quốc hoặc sang lánh nạn, tiếp tục
hoạt động. Thiếu sót của các vị là không gây cơ sở trong nước, không nắm được
dân; nhưng bù lại, họ được chính phủ Quốc Dân Đảng ủng hộ vì ý thức hệ tương tự
nhau. Chính phủ này nói chung không ưa thực dân Pháp ở Việt Nam – vì quan niệm
rằng “Trung Quốc mất Việt Nam (chư hầu truyền thống) vào tay Pháp”. Từ lâu,
Trung Quốc đã có chủ trương “Hoa quân nhập
Việt” đem theo các nhà yêu nước cùng ý thức hệ đặng thành lập một chính
quyền thân Trung Quốc. Chủ trương đã thành hiện thực năm 1945, khi Trung Quốc
được phân công vào miền Bắc nước ta tước khí giới quân Nhật. Dịp này, họ chủ
trương “diệt cộng, cầm Hồ” (giam giữ Hồ), khiến Việt Minh thấy rõ nguy cơ với
mình.
Chú thích.
Các nhà yêu nước xu hướng cộng sản cũng trú ngụ trên đất Trung Quốc nhưng
thường không công khai mục tiêu; nhất là thời kỳ Quốc-Cộng chống nhau kịch
liệt. Khi các tổ chức Việt Quốc và Việt Cách (theo quân Trung Quốc) về nước, họ
chiếm được một số thị xã (tỉnh lỵ) biên giới. Nhưng không may, khi đó Việt Minh
đã có tiếng tăm cả nước, được lòng dân, đã thành lập xong chính phủ lâm thời
(28-8-1945) và chính thức ra mắt quốc dân ngày 2-9-1945. Cuộc tranh chấp quyền
lực giữa hai phe thuộc hai ý thức hệ có lúc tạm hòa hoãn, có lúc gay gắt, đổ
máu. Ở miền Bắc, khi quân đội Trung Quốc rút khỏi nước ta, phe quốc gia không
còn hậu thuẫn, đã hoàn toàn thất thế. Ở miền Nam, quân Anh cũng rút, nhưng quân
Pháp mở rộng vùng chiếm đóng và đánh ra miền Trung và cả Tây Nguyên.
Nhượng bộ và nhượng bộ để tránh chiến tranh
Đến nay, rất đủ tư liệu khẳng định tổng thống Pháp De Gaull quyết
chiếm lại Đông Dương, mặc dù cụ Hồ tìm mọi cách tránh cuộc chiến tranh này. Cụ
thật sự làm công việc ngoại giao; và tự mình có hai quyết định lớn: ký với Pháp Hiệp Định 6
tháng 3 và Tạm ước Việt –
Pháp ngày 14-9; trong đó có sự nhân nhượng và lần sau nhân nhượng nhiều hơn. Trong
Lời Kêu Gọi Kháng Chiến, có câu: Chúng ta muốn hoà bình, chúng ta phải nhân nhượng. Nhưng
chúng ta càng nhân nhượng, thực dân Pháp càng lấn tới, vì chúng quyết tâm cướp
nước ta một lần nữa! Không! Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không
chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ.
Chú thích. Rất đủ tư liệu nói lên quyết tâm của tổng thống Pháp De Gaull chiếm lại Đông Dương; bất kể đối phương nhượng bộ đến đâu. Về sau,
Lịch Sử đánh giá chủ trương của ông này là “mù quáng”, ví dụ trong tác phẩm “L’Aveuglement,
De Gaulle face à l’Indochine“. Chủ trương sai lầm của De Gaull đưa đến các hệ quả:
1) Năm 1948-49 chính phủ Pháp thấy rằng không thể thằng Việt Minh
và tái chiếm Đông Dương trước sự kháng chiến của Việt Minh, đã đồng ý trao lại
độc lập cho… vua Bảo Đại (!). Thử hỏi, liệu Việt Minh có thể ngừng chống Pháp,
quy thuận Bảo Đại để được “hưởng độc lập” do Pháp ban cho hay không?
2) Khi Cộng Sản Trung Quốc nắm chính quyền, Việt Nam chỉ có cách
cầu viện Xô, Trung.
3)
Pháp thua trận cuối ở Điện Biên Phủ, dẫn đến mất nốt cả thuộc địa cuối cùng là
Algerie. Các nhà sử học thế giới coi chiến thắng Điện Biên Phủ có ý nghĩa quốc
tế “xóa bỏ chế độ thuộc địa” trên toàn cầu. Từ thời điểm này không còn cường
quốc nào muốn duy trì chế độ thực dân, buộc phải tiếp tục trao trả độc lập cho
các thuộc địa. Cụ Hồ trở thành biểu tượng đấu tranh tranh giải phóng thuộc địa.
Trong dịp tang lễ cụ Hồ (2-9-1969) có tới mấy trăm điện văn chia buồn, hầu hết
nhắc tới vai trò này. Nhưng xin nói thêm: Đây là vai trò bất đắc dĩ.
Rất nên tìm hiểu giai đoạn rối ren này để biết sự thật. Có 2 tài
liệu của người Việt – là các nhà nghiên cứu sử học (đang sống ở nước ngoài)
đáng được tham khảo:
1) Ôn lại những
biến cố đưa tới ngày “toàn quốc kháng chiến”.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét