Rời
Nālakagāma, đức Phật và đại chúng bộ hành theo con đường thương mãi để đến thị
trấn Pāṭaligāma phồn vinh bên này phía Nam sông Gaṅgā. Tại đây, ngài dừng chân
một vài trú xứ, sách tấn Tăng Ni, sau đó vượt sông Hằng lên Vesāli...
Sau
trận tai họa dịch bệnh, Vesāli phục hồi sinh lực rất nhanh. Nhờ biết tin vào
những giá trị thiêng liêng, biết đoàn kết, biết sinh hoạt hội đồng với tinh
thần dân chủ, biết cải cách chính sách kinh tế - nên đất nước sớm giàu mạnh,
thịnh cường. Đi vào thành phố, chỗ này cũng công trường, chỗ kia cũng công
trường. Ba bức tường thành chớn chở và kiên cố vòng quanh Vesāli như những vòng
đai thép bảo vệ kinh đô - có ba cửa lớn vào ra luôn luôn có lính ôm gươm giáo
sáng lòa. Rồi những vọng gác và những vọng gác, đêm đêm hỏa đăng sáng rực. Những
dãy phố, dãy lầu kéo dài từng dặm, từng dặm - phô ra tất cả mọi đường nét và
sắc màu nguy nga tráng lệ...
Đi
bên sau đức Phật, chư tăng trầm trồ vì coi chừng, Vesāli sẽ vượt trội Rājagaha!
Biết
đức Chánh Đẳng Giác không muốn xen vào một nhận xét nào, nên tôn giả Sāriputta
nói:
-
Là bậc xuất gia phạm hạnh, chúng ta không nên góp ý về việc phú cường của một
quốc độ. Riêng tôi thì chỉ thấy lòng người thể hiện ra bên ngoài mà thôi! Tôi
đọc được rằng, đó là tham vọng chinh phục, tham vọng bá chủ và cả tham vọng
củng cố quyền lực. Tôi lại còn nghe mùi binh đao và máu lửa nữa đấy!
Nghe
vậy, đức Phật bảo:
-
Hãy ghi nhớ lời của Sāriputta! Đấy cũng là pháp duyên khởi đương nhiên vậy!
Đêm
đó, đức Phật và đại chúng ngụ ở Đại Lâm. Tôn giả Sāriputta dẫn hai cô em gái sang
ni viện để hôm sau cho thọ giới.
Cuộc
lễ vừa chấm dứt thì tỳ-khưu-ni Ambapālī từ ngoài vào, đến đảnh lễ đức Phật và
chư tôn trưởng lão. Đức Phật mỉm nụ cười nhẹ:
-
Này con gái, đời sống phạm hạnh với tuổi già có thấy dễ chịu không?
-
Rất mát mẻ và thảnh thơi, bạch đức Thế Tôn!
- Ừ
- đức Phật gật đầu - con cũng đã trải qua không biết bao nhiêu
là gian truân, chìm nổi. Chỉ do một phát ngôn bất cẩn, thiếu thận trọng mà con
đã chịu không biết bao nhiêu kiếp đọa đày, thống khổ.
-
Đệ tử cũng đã biết rồi, đã thấy rồi, bạch đức Thế Tôn!
Thế
là cả đại chúng hôm đó đều đã biết người kỹ nữ nỗi tiếng thành Vesāli, vị
tỳ-khưu-ni già đã chứng quả A-la-hán, luôn cả thần thông.
Và
đây là câu chuyện của nàng.
Sau
khi xuất gia, tỳ-khưu-ni Ambapālī không được vui do tuổi già, không còn đủ lanh
lẹ trong mọi sinh hoạt như các tỳ-khưu-ni khác. Có một dao động mãnh liệt khi
thấy bản chất già yếu, lụm khụm, mệt mỏi... và sự biến đổi, thay đổi của thân
xác.
Hôm
kia, ngồi bên bờ suối vắng vẻ, nhìn ngắm chiếc bóng già nua thấp thoáng ẩn hiện
trong dòng nước, tỳ-khưu-ni Ambapālī kinh cảm, tràn đầy xúc động, thốt lên một
bài kệ như sau:
“ - Ôi! Mái tóc thanh xuân của ta,
Mái tóc màu xanh sậm tợ mắt con ong chúa
và bồng bềnh sóng gợn từ gốc tới ngọn
Bây giờ sắc đẹp ấy đã bị phá hủy
Do bệnh hoạn, do tuổi già
Do lửa thời gian thiêu đốt
Nó khô rang giống như sợi vỏ cây gai dầu
Ai rồi cũng phải bị tuổi già khống chế,
bị sự vô thường chi phối
Đúng như lời dạy bảo của đấng Giác Ngộ, không sai!
Ôi! Một thời,
Mái tóc của ta tỏa hương thơm
giống như một hộp đựng châu báu
hoặc như một hộp đựng hương
Do trên đầu ta luôn phủ đầy hoa puppheti,
hoa campaka, hoa aribian
cùng bột hương và các loại hương liệu tế nhị, quý phái
Còn nữa, mái tóc ta dày rậm
như một khu rừng khéo trồng,
mỗi sợi tóc là mỗi gốc cây luôn được bảo vệ,
chăm sóc như trong công viên của hoàng gia,
Nó mềm mại, êm ái và sực nức thơm tho.
Lại còn được làm đẹp
với lược gắn bằng vàng ròng tinh chất,
với trâm cài có đính kim cương -
Nó óng ánh, đẹp đẽ
và chói sáng giống như ngày hội của muôn sao.
Bây giờ thì nó đã thưa thớt dần
Sau khi cạo bỏ,
nó lại phảng phất mùi hôi như lông chú cún,
khó chịu như mùi lông cừu
Ôi! Quả đúng là một rừng bất tịnh
Đúng như lời dạy bảo của đấng Giác Ngộ, không sai!
Ôi! Một thời,
Đôi làn mi của ta
đã được họa sĩ trứ danh khéo vẽ
Đẹp tựa vầng trăng lưỡi liềm
Nó không những điểm màu xanh tinh tế,
màu gợi cảm tinh tế
mà còn pha thêm hồn của liễu rũ,
hồn của những sợi tơ con ngài
Phải nói là nó đẹp đến tuyệt mỹ, vô song
Bây giờ đôi làn mi ấy
chỉ còn là những sợi rơm rạ khô vàng
kéo theo những tia nhăn nheo phủ xuống mệt mỏi,
báo hiệu sự già lão, chết chóc.
Ôi! Một thời,
Đôi mắt của ta đen huyền và xanh thẳm
như đôi mắt của chúa bồ câu,
chúa thiên nga, chúa nai trong rừng sâu
Nó lại còn rực rỡ, chói ngời
nhưng xanh trong và tỏa sáng dịu dàng
như hai luồng châu báu
Bây giờ, tháng năm biến đổi
Nó đã đục lờ như nước sữa chua
Nó đã lấm tấm mọc lên li ti
những mụn bụi, mụn cát màu xám nâu
Nó xấu xí, bạc nhược và vô hồn đến nổi,
có thể đem so với đôi mắt con cá chết,
nhưng mà con cá chết ươn!
Ôi! Đang lúc tuổi trẻ dậy thì
Mũi của ta mềm dịu,
Ngay thẳng và sáng trong
Sống mũi là một gò núi tinh tế, tuyệt hảo
Nó kiều diễm như châu ngọc không có tỳ vết
Bây giờ thì nó sụp xuống như ống cống bị gãy
lại còn tươm rỉ nước mũi lệt sệt hôi hám
Ôi! Sự thật vô thường thật là khó kham, khó nhẫn;
đúng như lời dạy bảo của đấng Giác Ngộ, không sai!
Ôi! Một thời,
Đôi tai của ta, vành tai,
trái thùy châu của ta
Nó được những vòng vàng, vòng ngọc,
vòng bạc khéo chế tạo, tế nhị điểm trang
Nó sáng chói như ngọc chuốt
Bây giờ thì nó chảy xệ xuống,
nhăn nheo rũ xuống như hai miếng giẻ rách
Ôi! Sự thật vô thường thật đáng sợ
Đúng như lời dạy bảo của đấng giác Ngộ, không sai!
Ôi! Một thời,
Hàm răng của ta trắng tinh như ngà,
đều đặn như hạt lựu, hạt bắp,
trắng nõn như búp măng chuối mới sinh.
Nay thì nó bị bể, bị gãy, bị sâu đục
rồi chiếc rụng, chiếc long
và chúng ngả sang màu vàng, đen xỉn
Trông mới ghê sợ, thê thảm dường bao!
Ôi! Một thời,
Giọng nói, âm sắc của ta ngọt ngào, ngọt lịm
Nó êm ái, du dương
Nó mê ly, thánh thót
Nó quyến rũ mê hồn
Khi ta thốt lên thì nó thỏ thẻ, đường mật,
gợi tình như tiếng chim cu
sống chung trong cánh rừng
cùng những ca sĩ non xanh líu lo tấu nhạc
trong một khúc trường xuân miên viễn
Nay thì nó rè rè, khan khàn, đứt đoạn
giống như gió thổi qua ống sáo trúc bị nứt bể!
Ôi! Một thời,
Chiếc cổ của ta thật là kiều diễm
Nó đầy đặn, mềm mại, tròn sáng
Như vỏ ốc xà cừ bằng vàng
được đánh bóng công phu, khéo tay và tinh tế
Giờ đây trông nó như vỏ mướp đắng phơi khô,
có nhiều ngấn quăn queo,
chỉ còn là bì da đựng lớp mỡ thừa,
chảy xệ, nhão nhoẹt.
Ôi! Một thời,
Hai cánh tay trần của ta mềm mại, tròn trịa
vàng sáng như được tô ngọc
hòa thêm với ánh trăng đêm mười sáu
Nó còn giống như hai ống ngọc tròn
vòng quanh ngôi đền tình ái
Nay thì nó đã xiêu đổ, biến dạng, đổi hình
Và nó yếu ớt, tàn tạ
như đóa hoa kèn trắng bệch
không còn chút huyết sắc nào
Ôi! Một thời,
Hai bàn tay của ta trắng trẻo, mềm dịu,
sáng trắng như trứng gà bóc
Lại còn nhẫn vàng, nhẫn ngọc,
nhẫn kim cương, hột xoàn trang điểm
tô chuốt óng ánh bóng ngời
Nay thì nhăn nheo, nhũn nhèo
mềm xèo như cây hành héo
như nhúm cải luộc!
Ôi! Một thời,
Cặp nhũ của ta căng phồng, tròn trịa
Mơn nõn như hai trái đào tiên
đầu vú cứng cáp tràn trề sinh lực
và đỏ hồng như điểm chu sa
Nay thì nó chảy xệ xuống
Như bầu da khô sữa không còn căng đầy
Như túi nước đã rỉ hết nước
ẻo xèo và nhăn nhúm
Ôi! Một thời,
Thân ta thon thả và chói sáng
như áo giáp vàng đánh bóng
Sau khi đã bôi lên một chất son tinh khiết
Đâu cũng mịn màng, láng lẩy
Đâu cũng tròn căng và thơm tho
Nay thì chúng đã xuống cấp
Như ngôi nhà mối mọt
Đã tàn tạ và mục rửa ở khắp mọi nơi
cả những sinh bào bé tí
cũng cau mặt, nhăn nhiu thảm hại
Ôi! Một thời,
Cặp đùi của ta múp míp đầy đặn
ánh ngời như cặp ngà voi
Mềm mại và uyển chuyển
như bước đi của tiên nữ
Và nó đã làm cho bao nhiêu
vương tôn công tử chết đứng chết ngồi
Vì nó đã được ông thợ trời khéo khắc, khéo tạc
Thành một tác phẩm tuyệt mỹ
Nay thì giống như hai ống tre khô dòn
đến thời quăng vào lửa đốt!
Cặp bắp chân của ta cũng thế
Như được uống nước no,
mịn màng và vàng óng
Lúc nào cũng giống như đôi giày được độn đầy bông
Nay thì nó gầy gò, teo tóp, xương xẩu
rất ít thịt và máu
giống như thân cây mè khô
được cắt bỏ ngoài đồng ruộng
khô nỏ, nứt nẻ
Những sợi lông chân của ta
cũng mịn màng vàng óng
Bây giờ thì như cây cỏ
trong ngôi rừng vừa bị lửa cháy!
Ôi! Cái thân, cái thân!
Các pháp hữu vi kết hợp này
Nó chịu cái già lão hủy hoại
Cái ngôi nhà được vô minh và ái dục xây nên
Nay đã cũ kỹ
cột kèo, đòn dông đã bị hư mục
Mái lợp, tấm che đã xiêu rách tả tơi
Và những lớp vôi trét tường đã đến hồi rụng rã
Cái thân vô thường này
là một cái bọc chứa đầy bất tịnh và đau khổ
Lời dạy của đức Tôn Sư
muôn đời là sự thật
Tham luyến, chấp thủ gì nữa
Sau
khi thốt lên lời thán ca về sự vô thường, biến đổi, bất tịnh của cái thân như
thế - tỳ-khưu-ni Ambapālī nắm ngay tướng bất tịnh ấy, lìa tham ái, chấp thủ,
đoạn trừ năm triền cái, 5 thiền chi xuất hiện đi vào định thiền, tuần tự sơ
thiền, nhị thiền, tam thiền, tứ thiền chỉ trong thời gian bảy ngày. Nhờ tâm
định vững chắc, kiên cố - nàng quán sát danh sắc, thấy được thực tánh, tam pháp
ấn hiển lộ, chứng đắc các tầng tuệ giác, từ cạn vào sâu - chứng quả A-la-hán
với đầy đủ ba minh.
Bổi
hổi, bồi hồi, lạc phúc và an tịnh, nàng dùng thiên nhãn, sanh tử minh, rồi túc
mạng minh - chiêm quan nhìn ngắm các kiếp sống trầm luân sinh tử của mình - cảm
thán, nàng thốt lên một bài kệ tán ca nữa:
“- Hóa ra ta đã có căn duyên
từ thời Phật Phussa
Ta thuộc dòng dõi Sát-đế-lỵ
Là chị gái của đức Hiền Trí ấy
Tuy nhiên, dẫu lắng nghe chánh pháp
dẫu bố thí cúng dường lớn lao
ta cũng chỉ biết
cầu mong có được sắc đẹp diễm kiều
Đến thời Phật Sīkhī xuất hiện
Ta sinh ra
trong kinh đô Aruṇa tuyệt vời thanh lịch
Ta xuất gia tỳ-khưu-ni trong giáo pháp này
Hôm kia,
dẫn đầu đoàn ni chúng đông đúc
đến chùa nghe pháp đức Thế Tôn
có một vị Trưởng lão ni lậu hoặc đã tận
do hắt xì hơi nhổ ra một bãi đờm
Ta bước qua, thấy bãi đờm,
cất lời nguyền rủa
“ Con kỹ nữ nào
dám nhổ cái đống bất tịnh ở đây!”
Do lời ác khẩu
phỉ nhổ bậc thánh vô nhiễm
Ta bị đọa sanh ở cõi hỏa ngục
chịu nhiều cực hình đau đớn
Sau đó bị dư nghiệp của quả báo
Ta bị làm kỹ nữ suốt mười vạn kiếp nữa
Đến thời Phật Kassapa
Ta được xuất gia tỳ-khưu-ni
với bậc Đại Chiến Thắng
Nhờ giới hạnh trong sạch
Tích lũy thiện nghiệp
Ta được hóa sanh vào cõi Tam thập tam
Đến thời Phật Sākya Muni hiện tại
Do đã chán các thai bào dơ uế
Nên tuy sanh làm người
Nhưng ta lại hóa sanh tại cây xoài
Nên được đặt tên là Ambapālī
Do nghiệp còn dư sót
Ta vẫn làm kỹ nữ
Do sắc đẹp, tài năng -
thế gian không ai sánh nổi
Nên được phong danh hoàng hậu kỹ nữ
Khi tuổi chiều bóng xế
Ta lại được nghe pháp của đức Thế Tôn
Duyên xưa trổ sanh
được xuất gia tỳ-khưu-ni
Và không mấy chốc
ta đã đạt Tam minh
Mọi lậu hoặc, kiết sử không còn nữa
Ta thênh thang giải thoát
Ta vô ngại giải thoát
Ta chẳng còn tái sanh, luân hồi nữa
Ta đã làm trọn hảo phận sự của mình
Thực hiện đúng đắn lời dạy của đức Tôn Sư
Chẳng còn gì để làm nữa trên cõi đời
Vô lượng tri ân bậc Vô tỳ vết,
bậc Chiến thắng tam giới,
đã cho con nếm thưởng
hương vị Pháp bảo vô sanh bất diệt!”
Những
đoạn kệ, nhất là bài thán ca vô thường bất hủ của tỳ-khưu-ni
Ambapālī không mấy chốc được lan truyền đi khắp nơi. Một vị thánh ni, xuất thân
là một kỹ nữ vừa được sanh ra trong giáo pháp của đức Thế Tôn là một biến cố
trọng đại, được mọi người xưng tán, tôn trọng tụng ca, hàm tàng biết bao nhiêu
ý nghĩa, khó nói cho hết được.
Chiếc lá đắng
Rời
ni viện, đức Phật trở lại Sảnh Đường Nóc Nhọn ở Mahāvana thì thấy chư tăng
trong vùng đã tìm đến và đợi ngài rất đông. Các vị tôn giả ở trú xứ này và các
vùng lân cận tìm đến đảnh lễ và vấn an sức khỏe của ngài.
Đức
Phật thấy các vị có số đã già yếu như Kondañña, Vappa, Assaji... ngài khuyên
không cần thiết phải ta bà khổ hạnh trì bình khất thực nơi này và nơi kia nữa;
nên ở một trú xứ, thường là có tứ sự đầy đủ để cho chư tăng nương nhờ, y chỉ.
Các vị trưởng lão khác như Gayākassapa, Nadīkassapa... cũng không cần thiết
phải thọ trì hết tất cả các pháp đầu-đà, tuổi tác và khí huyết suy nhược sẽ
không kham nổi nắng mưa, sương gió - nếu bệnh mà nằm xuống là thiếu mất những
bậc giáo thọ uy nghi, gương mẫu và nhiều kinh nghiệm.
Các
vị cúi đầu, tuân mệnh.
Buổi
chiều, một vị vua trong số ba vua Licchavī dẫn một hoàng tử còn trẻ đến yết
kiến đức Phật. Vị vua tâu nhỏ rằng, hoàng tử, con của ông cứng đầu khó dạy bảo
quá; nguy hiểm nhất là nó lại rất độc ác. Sự phẫn nộ, hung dữ của nó thật không
còn ai chịu đựng nổi. Với tay chân thuộc hạ xung quanh, khi mà nó nổi trận lôi
đình lên thì nó đánh nó đập với đùi với gậy, với cả gươm đao nữa. Nó độc hơn cả
một con rắn độc! Nó điên cuồng hơn cả một con voi động dục! Cha mẹ, anh em, họ
hàng không những không khuyên lơn gì được - mà nó còn coi chúng tôi không ra
gì! Nghe đức Tôn Sư đến, chúng tôi rất mừng. Cả hội đồng hoàng gia họp kín, nói
rằng, chỉ may ra đức Tôn Sư mới giáo hóa nó nổi mà thôi! Vậy, trăm lạy Tôn Sư,
ngàn lạy tôn sư, vạn lạy Tôn Sư hãy mở tâm Đại Từ Bi và Đại Trí
Tuệ cứu độ, tiếp độ con của chúng tôi!
Thấy
vị vua già sụp lạy với cái trán lộp độp dưới đất, đức Phật đứng dậy, kéo tay
ông, chỉ vào một chiếc ghế bên cạnh, nói rằng:
-
Hãy bình tĩnh ngồi xuống, thư giãn một chút đi. Chuyện đâu còn có đó. Ừ, Như
Lai sẽ giúp đức vua!
Nói
xong, đức Phật tản bộ ra ngoài sân, thấy hoàng tử trẻ đang dùng lửa đốt một ổ
mối, ngài biết là ác độc đã như là một cái gì bẩm sinh - do nghiệp quá khứ chi
phối - đã trở thành quán tính mất rồi! Khởi một làn sóng tâm từ bao trùm “
ông hoàng con” rồi ngài dịu dàng nắm tay chú bé kéo dậy. Thấy vị đại
sa-môn với nụ cười tươi rạng, đồng thời cảm nhận một cái gì đó mát mẻ cả châu
thân, chú bé vui vẻ... bước theo ngài, không cưỡng được. Rồi từng bước một,
từng bước một, họ đi dạo như hai người bạn thân.
-
Tiểu hoàng tử thấy dễ chịu khi đi bên Như Lai chứ?
-
Dạ thưa vâng, rất dễ chịu!
- Ở
trong chỗ hoàng cung cao sang, tiểu hoàng tử thường thấy mình dễ chịu hay khó
chịu?
-
Thưa, ít lắm - lúc nào con cũng nóng nảy, bực bội, muốn đập một cái gì đó, muốn
đánh một cái gì đó... cho đã nư, cho hả dạ!
-
Thưa vâng, nóng lắm, nóng như có lửa đốt bên trong!
-
Ừ, vậy thì khi nào nóng nảy quá thì đến đây đi dạo với Như Lai. Không có Như
Lai thì đi dạo với các vị trưởng lão, để cho cái lửa ấy nó nguội đi, được
chăng?
-
Thưa vâng!
Đức
Phật mỉm cười, mỉm cười với tâm từ:
-
Tiểu hoàng tử đã tỏ ra rất ngoan ngoãn! Vậy thì đi dạo với Như Lai một chút nữa
nhé! Như Lai muốn cho tiểu hoàng tử xem cái này!
Dừng
lại bên một mầm cây Nimba - có vị đắng kinh khiếp - vừa nhú
lên hai lá, đức Phật nói với chú bé:
-
Tiểu hoàng tử có thấy cái mầm cây nhỏ bé mà trông rất sung sức ấy không?
-
Thưa, thấy ạ!
-
Tiểu hoàng tử hãy nhấm chiếc lá của cái cây ấy xem thử mùi vị nó như thế nào?
Chú
bé cúi xuống rứt chiếc lá. Trong lúc ấy thì đức Phật trả lại tâm tính tự nhiên
cho chú bé, không sử dụng năng lực của tâm từ nữa.
Chú
bé đưa vào miệng, vừa cắn một chút từ đầu lưỡi, chú vội vàng nhả ra, vừa nhổ
xuống đất vừa phun phì phì - kèm theo lời nguyền rủa:
-
Cái lá chết tiệt! Cái lá giết người!
Đức
Phật mỉm cười:
-
Tiểu hoàng tử cảm nhận chiếc lá ấy ra sao?
Chú
bé nhăn mày đáp:
-
Thưa đại sa môn! Lá ấy đúng là thuốc độc chết người; nếu mà nó lớn lên, không
biết sẽ làm chết bao nhiêu người khác nữa!
Nói
xong, chú bực bội nhổ cây Nimba lên, chà nát nó trong hai tay
của mình với dáng vẻ vô cùng tức giận. Rồi chú chỉ vào xác lá, đọc lên một câu
kệ:
“ - Chỉ chiếc lá tỉ ti!
Cách đất bốn đốt tay
Mà sao lại độc ác
Lớn lên tích sự gì?”
Biết
nhận thức đúng đắn trong tâm chú bé đã khởi động, đức Phật dịu dàng nói:
-
Cây Nimba nhỏ bé này, vị nó đắng chát chết người, lớn lên sẽ
chẳng làm được gì, là đồ ăn hại, có phải thế không, tiểu hoàng tử?
-
Thưa, đúng vậy! Là đồ ăn hại, nên con đã hủy diệt nó rồi, thưa đại sa-môn!
Đức
Phật lại ân cần nắm tay chú bé, về lại sảnh đường nhưng lại rẽ sang hướng khác.
-
Này tiểu hoàng tử! Chiếc lá đắng của cây Nimba vừa giúp cho Như Lai một bài
học, không biết tiểu hoàng tử có muốn chia sẻ điều ấy với Như Lai không?
-
Dạ, muốn lắm!
-
Chiếc lá cũng được ví như người! Trên thế gian này có biết bao nhiêu là người
có tâm tính cũng đắng chát như chiếc lá ấy - và nếu lớn lên, không biết họ làm
được tích sự gì; hay là cứ nhổ hết, cứ chà nát, vò nát hết trong tay như tiểu
hoàng tử đã làm?
-
Không nên! Chú bé chợt lắc đầu - Với người thì không nên vò
nát hết như chiếc lá kia được!
-
Vậy thì phải làm sao - cứ để chúng lớn mạnh, đâm nhánh nẩy cành rồi mọc ra hằng
trăm, hàng ngàn chiếc lá độc chết người ấy hay sao?
-
Con người thì có lẽ phải giáo dục từ từ, thưa Đại sa-môn! Con nghe những bậc
giáo thọ trong hoàng cung thường nói như thế!
Đức
Phật khen ngợi:
-
Giáo dục! Hay! Giáo dục thì đúng quá rồi! Tiểu hoàng tử giỏi lắm!
Chú
bé nở mũi, nhưng lại đáp rất khiêm tốn:
-
Không dám ạ!
Thế
rồi, đức Phật lại bước đi, nói như tâm sự:
-
Tiểu hoàng tử biết không, giáo hội của Như Lai có mặt trên cuộc đời - cũng nhằm
vào chỗ giáo dục như tiểu hoàng tử vừa nói đó. Hằng trăm hằng ngàn sa-môn sống
đời xuất gia phạm hạnh mà hoàng tử trông thấy nơi này và nơi kia - ngoại trừ
những bậc tối thượng, còn đa phần họ đắng lắm, không đắng kiểu này thì đắng
kiểu khác. Thế là Như Lai phải chế từng loại thuốc cho họ uống. Đúng như tiểu
hoàng tử vừa nói là phải giáo dục từ từ... Vậy nên, rất đông, không phải hằng
trăm mà hằng ngàn chiếc lá không còn đắng nữa. Mà lại còn ngon, còn ngọt, còn
bùi, còn béo, còn thơm nữa đấy!
-
Thật là kỳ diệu - chú bé thốt lên! Nhưng con chưa hiểu là họ đắng
như thế nào?
-
Có người rất độc ác, bạo tàn, hay đánh mắng người, chửi rủa người. Không những
họ hành hạ người mà còn hành hạ vật, giết vật để thỏa tính hung dữ của họ
nữa...
Tiểu
hoàng tử chợt cau mặt lại, có vẻ trầm ngâm - lát sau, chú hỏi:
-
Vậy thì những người rất đắng nọ, sau khi giáo dục từ từ, uống thuốc từ từ - thì
họ ngon, ngọt, béo, bùi, thơm - con cũng chưa hiểu ngon, ngọt, béo, bùi, thơm
ấy là thế nào!
- Họ
trở nên dịu dàng, mát mẻ; sống có tình, có nghĩa; biết tôn kính các bậc tôn
trưởng, cha mẹ; biết yêu thương, chia sẻ, cảm thông và đùm bọc những người xung
quanh mình... Họ trở nên là người tốt, rất tốt đấy, tiểu hoàng tử ạ!
Đến
ngang đây, chú bé chợt quỳ sụp xuống, sụt sùi nước mắt, đảnh lễ đức Phật rất
mực tôn kính rồi cất giọng nghẹn ngào!
-
Chiếc lá đắng ấy là con, là chính con chứ không ai khác! Thưa Đại sa-môn - con
xin cất lời hứa thiêng liêng là từ rày về sau, con sẽ làm chiếc lá ngon ngọt
hữu dụng cho cuộc đời!
Đức
Phật lại ân cần nắm tay, cất giọng dịu dàng như giọng người mẹ hiền:
-
Ừ, Như Lai biết là tiểu hoàng tử làm được mà! Ai cũng muốn sống sao cho người
khác kính thương, cảm mến - không ai lại dại gì sống cho người khác kinh sợ,
ghét bỏ và xa lánh - phải vậy không nào, chú bé con?
Nghe
đức Phật gọi mình là chú bé con – tiểu hoàng tử bây giờ mới cảm nhận mình chỉ
là chú bé con thật sự, tâm tính ngây thơ trở về, chú chợt lấy hai tay ôm choàng
đức Phật vô cùng thân thiết, có cảm giác như với cha, với mẹ - mà chú đã bỏ
quên quá lâu!
Trở
lại sảnh đường, các hàng trưởng lão và đức vua Licchavī vô cùng ngạc nhiên -
khi thấy hoàng tử đi bên đức Phật hiền lành, ngoan ngoãn như một chú bê con,
như một chú nai hiền - không còn tìm thấy đâu là bóng dáng của một hoàng tử nổi
tiếng ác độc nữa.
Đức
Phật nắm tay hoàng tử trao cho đức vua:
-
Như Lai mượn hoàng tử dạo chơi một lát - bây giờ, Như Lai trả lại cho đức vua
một hoàng tử - không còn là chiếc lá đắng nữa mà sẽ là chiếc lá ngọt!
Rồi
quay sang hoàng tử , đức Phật nói:
-
Phải vậy không, chú bé con?
Hoàng
tử gật đầu mạnh mẽ:
-
Đúng vậy, thưa Đại sa-môn!
Rất
nhiều người không hiểu chuyện gì vừa xảy ra? Chẳng rõ đức Phật giáo dục cái
kiểu gì mà chỉ trong thời gian đi dạo rất ngắn lại phát sanh điều kỳ diệu như
thế chứ!
Khi
đức Phật về hương phòng, trưởng lão Kondañña mới nói với chư tỳ-khưu xung
quanh:
-
Khêu gợi cho trẻ một nhận thức đúng đắn - sau đó, tự nó sẽ tự tri, tự giác -
thì sự chuyển đổi, cải hoán mới chắc thật, mới vững bền! Đấy là một trong nhiều
phương cách giáo huấn của đức Tôn Sư!
Hạt giống hy hữu
Rời
Vesāli, đức Phật và đại chúng ghé thăm Videha, Moriya sau đó qua Malla. Đâu đâu
cũng được chư tăng và hai hàng cận sự Nam nữ tiếp đón, cúng dường. Đức Phật chỉ
định các vị thượng thủ A-la-hán thay nhau thuyết pháp. Mọi sinh hoạt tu tập,
chùa viện, liêu xá ở những xứ sở này đang từng bước đi vào ổn định.
Hôm
ấy, do tiết trời nắng nóng, đức Phật và đại chúng dừng chân tại khu rừng
Ampiyamba, gần thành Anupiya - trước khi lên đường đến Koliya - thì
có một cậu bé trai tìm đến. Nó cứ đưa đôi mắt trong sáng, ngây thơ nhìn đức
Phật rồi luẩn quẩn loanh quanh bên các vị trưởng lão chứ không chịu rời đi.
Nhìn khuôn mặt sáng sủa, thuần hậu của cậu bé, tôn giả Sāriputta đưa mắt thiện
cảm, ân cần hỏi chuyện. Biết cậu bé có thiện cảm đặc biệt khi nhìn tướng hảo
của đức Phật, phát tâm trong sạch muốn xuất gia - tôn giả bảo là phải xin phép
gia đình đã.
Cậu
bé hớn hở vụt chạy đi, lát sau, dẫn một bà già đến - trông còn quắc thước với
sắc phục, dáng dấp có vẻ dòng dõi quý phái - rồi rành rõi giới thiệu:
-
Đây là bà ngoại cháu - bà ngoại cháu rất vui mừng khi thấy cháu được đi theo
quý ngài.
-
Tội quá quý ngài ơi! Nó là dòng dõi hoàng tộc xứ Malla đấy. Khi còn trong thai
bào, thì mẹ nó - tức là con gái cưng của già đây - bị chết vì bạo bệnh. Khi đem
hỏa thiêu, do sức nóng của lửa làm cho cái bụng người chết nứt ra làm hai.
Không biết căn do kỳ lạ nào - mà cái bọc thai lại vọt ra, rơi vào một bụi cây,
nằm vắt vẻo giữa mấy cành cây, an bình như một phép lạ. Nên được đặt tên là
Dabba. Thấy cháu lại tưởng đến con gái, già xin bên nội cho già được nuôi
dưỡng. Bây giờ nó đây, ngoan ngoãn và dễ dạy, thông minh và hiếu thuận. Không
có điều gì đáng chê ở nơi tính hạnh của nó cả. Ai cũng thương. Bây giờ nó cứ
nằng nặc được xuất gia đi theo quý ngài, già mừng như được chết đi mà sống lại.
Thế gian này trăm ngàn sự khổ, ai đi tu được như quý ngài, già cũng mừng...
Bà
lão sụt sùi lau nước mắt. Tôn giả đưa tay chỉ đức Phật:
-
Đây là đức Thế Tôn! Cậu bé sẽ được nương tựa trong hào quang của đức Tôn Sư vô
thượng...
Bà
già lại sụp lạy. Lại nói huyên thuyên:
-
Già nghe rồi, già biết rồi. Ai không nghe câu chuyện một vị thái tử cao sang
kinh thành Kapilavatthu bỏ vương vị, vợ đẹp con xinh để đi xuất gia tầm đạo thì
kẻ đó không có tai. Ai không biết vị ấy sáu năm nằm gai nếm mật, khổ hạnh vô
thượng - sau đó tìm tới cội bồ-đề, chỉ tịnh và quán minh mới đắc quả Chánh Đẳng
Giác thì kẻ ấy không có óc! Hãy cho cháu được xuất gia ngay bây giờ đi - bạch
đức Thế Tôn!
Đức
Phật mỉm cười:
-
Cái hạt giống quý đấy, này Sāriputta! Ông hãy đích thân làm lễ xuất gia sa-di
cho Dubba - Mallaputta!
Không
biết duyên lành thế nào mà trong hội chúng lại có vị có thừa y bát. Thế là cậu
bé được làm lễ xuất gia.
Tôn
giả Sāriputta đích thân dẫn Dubba ra bờ suối để cạo tóc. Do túc duyên ba-la-mật
sẵn có, khi đường dao cạo thứ nhất vừa lướt qua làn da đầu, Dubba chứng quả
Tu-đà-hoàn. Khi đường dao cạo thứ hai vừa kéo theo một chùm tóc,
Dubba đắc quả Tư-đà-hàm. Thế rồi, đường dao thứ ba, Dubba đắc quả A-na-hàm.
Đường dao thứ tư vừa xong - thì Dubba thành tựu rốt ráo cứu cánh sa-môn hạnh -
đắc quả A-la-hán luôn cả các thắng minh.
Khi
tôn giả dẫn Dubba đến trình diện đức Phật, ngài nói:
-
Này, Sāriputta! Chú bé này đã là “con trai” của Như Lai - vậy ông hãy cho thọ
luôn cụ túc giới! Đây là trường hợp đặc biệt trong giáo hội của Như Lai.
Nghe
đức Phật tuyên bố như vậy, các vị có Tam minh chỉ mỉm cười nhưng một số phàm
tăng thì bàn tán xôn xao:
-
Kỳ diệu làm sao - chú bé qua bốn đường dao đã đắc quả A-la-hán rồi?
-
Đức Tôn Sư vừa gọi là “ Con trai ” đó!
-
Bảy tuổi lại được thọ đại giới sao?
Sau
khi Dabba-Mallaputta trở thành tỳ-khưu trẻ nhất của giáo hội, nhìn tăng tướng
đẹp đẽ như một ngoan đồng cõi trời, ai cũng trầm trồ, tấm tắc nhìn ngắm. Bà
ngoại của cậu cũng thảng thốt nhìn sững.
Đức
Phật chợt nói:
-
Này Moggallāna! Ông hãy kể chuyện nhân duyên quá khứ của Dubba-Mallaputta cho
cả hội chúng được nghe để họ khỏi thắc mắc và hoài nghi.
Rồi
lớp mù sương quá khứ, sau đó đã được vị Đệ nhất thắng trí vén mở, như sau:
“- Vào thời đức Thế Tôn Padumuttara, Dabba sinh ra trong một gia
đình trưởng giả hữu danh tại kinh đô Haṃsavatī. Ông thường đến chùa để nghe
pháp. Hôm đó, đức Phật tán thán, khen ngợi một vị tỳ-khưu đã quán xuyến, giỏi
giang về việc sắp đặt chỗ ăn ở cho mấy chục ngàn vị tỳ khưu mà đâu đó đều đàng
hoàng, tươm tất. Đức Phật gọi phong tặng phương danh vị tỳ-khưu ấy là “Đệ nhất
về hạnh tri xứ ”!
Dabba nghe vậy, thỏa thích, hoan hỷ quá, ông nỗ lực cúng dường
lớn, làm các công đức phục vụ Tam Bảo không mệt mỏi - rồi quỳ xin đức Phật
Padumuttara chứng minh cho ông, trong một kiếp vị lai nào đó, được xuất gia với
một vị Phật và sẽ thành tựu sở nguyện công hạnh giống như vị tỳ-khưu “Đệ nhất về
tri xứ ” kia. Đức Phật thọ ký cho ông.
Sau nhiều trăm ngàn năm được luân chuyển thọ hưởng phước báu trời
và người - đến thời đức Thế Tôn Kassapa, ông được xuất gia và tu tập cùng với 6
vị tỳ-khưu bạn hữu ở trong một hang núi. Khi đức Phật nhập diệt rồi mà cả 7 vị
đều chưa chứng được gì cả. Và tình trạng sinh hoạt và tu tập của giáo đoàn cũng
không còn nền nếp, nghiêm túc như xưa. Hôm kia, họ họp bàn, thảo luận:
- Đã có triệu chứng giáo pháp suy đồi, chúng ta phải làm sao? Sống
chung với những tỳ-khưu thiếu niệm và thiếu tinh cần, chúng ta sẽ thối thất
mất.
- Khi một vị Phật ra đi, một lúc nào đó, trên cõi châu Diêm-phù-đề
này sẽ có dấu hiệu phong thịnh, hỏa thịnh, thủy thịnh hay địa thịnh - sẽ tạo
nên những biến cố bất toàn cho chúng ta.
Sau khi đi đến nhất trí, họ làm một cái thang cao, cùng leo lên
một ngọn núi đá có vách dựng đứng; rồi thốt lời đại nguyện rằng:
- Nếu chưa chứng quả, chúng tôi không rời đỉnh núi này, thà thịt
nát xương tan, thà tử thần cướp đi mạng sống - đây là lời hứa thiêng liêng!
Thế rồi, chỉ mới ngày thứ năm, một vị tỳ-khưu đã làm xong phận sự
của mình, tức là việc cần làm đã làm xong. Lặng lẽ, vị ấy ôm bát sang Bắc Cu-lu
châu khất thực, trở về nói với các bạn rằng:
- Hãy thọ dụng vật thực, các bạn! Việc lớn tôi đã làm xong rồi,
bây giờ, việc đi khất thực hằng ngày hãy để dành cho tôi.
Tuy nhiên, cả sáu vị thà nhịn đói chứ không chịu thọ dụng. Họ nói:
- Khi xô cái thang xuống, chúng ta không hề nói rằng: “ Là vị nào
đắc Tam minh trước, vị ấy phải có bổn phận đi khất thực để hộ độ cho những vị
còn lại chưa đắc!” Vì chưa giao ước như thế nên chúng tôi không dám dùng, thà
chết cũng không thể dùng được!
Một vị nói:
- Rất cảm ơn lòng tốt của ngài! Tuy nhiên, ngài đắc Tam minh là do
duyên phước ba-la-mật đầy đủ. Còn chúng tôi, nếu căn duyên còn thiếu - thì thà
chịu đau khổ do đói, khát cũng rèn luyện thêm được ý chí, nghị lực và tinh cần
cho mình, cũng là cách bổ túc ba-la-mật vậy.
Thấy không khuyên can được ý chí bất thối của họ - vị A-la-hán
đành nói lời phúc chúc rồi quăng bát ra giữa hư không, du hành sang phương
khác.
Đến ngày thứ bảy, một vị nữa đắc quả A-na-hàm; nhưng do đói và
khát, chấm dứt thọ hành, vị ấy trú thánh định rồi hóa sanh vào cõi Ngũ tịnh cư
thiên, Niết-bàn luôn ở đấy, không trở lại nhân gian nữa. Năm vị còn lại, không
đắc được gì cả, lần lượt ra đi do đói và khát. Nhưng nhờ tâm tinh cần bất thối
chuyển ấy, cả năm vị đều được hưởng phước báu luân phiên cõi người và trời. Đến
thời đức Phật Sākya của chúng ta, cả năm vị đều được thác sanh ở châu Diêm-phù-đề,
nơi này và nơi khác, như sau:
- Một vị sanh vào hoàng tộc, kinh thành Takkasīla, quốc độ
Gandhāra - có tên là Pukkusāti. Một vị sanh vào thai bào nữ du sĩ xứ
Majjhantikā - có tên là Sabhiya. Một vị sanh vào gia tộc của vị trưởng giả xứ
Bāhiya - có tên là Bāhiya. Một vị sanh vào thai bào của vị tỳ-khưu-ni có tên là
Kumārakassapa. Còn Dabba tái sanh trong dòng hoàng tộc tại thành Anupiya xứ
Malla! Thế là cả 5 vị tỳ-khưu thuở xưa tu hành tinh cần quá mức cho đến chết,
sẽ cùng lần lượt kẻ trước người sau tao ngộ trong giáo pháp đức Tôn sư của
chúng ta!”
Chuyện
kể xong, đại chúng thở phào. Hóa ra cậu bé này có căn cơ sâu dày đến vậy. Nếu
cơ duyên tròn đủ, cậu ta đã đắc quả A-la-hán với thời gian cách đây cả một vị
Phật, chứ đâu phải tầm thường!
Tỳ-khưu
Dabba-Mallaputta bây giờ đã lấy lại tư cách, tác phong, sự chững chạc, đĩnh đạc
của một trưởng lão thánh tăng, quán nhân duyên sau trước, rồi quỳ thưa:
-
Bạch đức Thế Tôn! Hãy cho đệ tử về Trúc Lâm tịnh xá để tập sự công việc đúng
như lời nguyện thuở trước khi quỳ bên chân đức Chánh Đẳng Giác Padumuttara!
Đức
Phật mỉm cười:
-
Ừ, đúng vậy, con trai!
Bà
ngoại của Dabba đi từ ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác. Chưa thôi, đức Phật
còn bảo:
-
Con trai hãy quăng bát qua hư không rồi vận thần thông lực trở về Jetavana
trình diện các vị trưởng lão ở đấy, rồi xin được làm phận sự của mình cho xứng
đáng với danh xưng của vị tỳ-khưu “Ưu thắng về tri xứ”!
Tỳ-khưu
Dabba-Mallaputta vâng mệnh, đảnh lễ đức Phật và chư tăng rất từ tốn và chậm
rãi, xong, như cánh chim ưng vàng bay qua hư không, chỉ mấy sát-na sau là mất
dạng. Đại chúng hoan hỷ, tán thán không hết lời.
Bà
ngoại của chú bé thấy mình như đang sống trong truyện cổ tích. Vui mừng quá,
tâm tịnh tín phát khởi, bà xin quy y, bắt đầu làm một cận sự nữ thuần thành
trong giáo hội của đức Tôn Sư.
Tu hạnh chó và hạnh bò
Trên
đường về quốc độ Koliya, đức Phật và đại chúng dừng chân tại thị trấn
Haliddavasana. Ở đây có rất nhiều tu sĩ theo phái lõa thể. Đặc biệt là lõa thể
Punna Koliyaputta tu theo hạnh con bò, được gọi là Ngưu hành giả; lõa
thể Seniya tu theo hạnh con chó, được gọi là Cẩu hành giả.
Thấy
đức Phật và chư tăng - một hội chúng đông đảo đi trì bình khất thực vàng rực
các ngã đường; và dân chúng tín mộ chờ chực nơi này nơi kia để đặt bát cúng
dường - lòngNgưu hành giả nôn nao, nói với bạn là Cẩu hành
giả:
-
Tin truyền, đấy là một vị Chánh Đẳng Giác đang chói sáng khắp thế gian. Ta hãy
cùng đến chiêm bái ngài, sau đó xin vài lời chỉ giáo.
Lúc
ấy, cả hai đang ở trong một cánh rừng ở ngoại ô. Cẩu hành giả ngần ngại:
- Đức
Phật ấy và tăng chúng ấy theo bạch tịnh y, sạch sẽ và cao sang quá - ta xuất
hiện như thế này có tiện chăng?
Ngưu hành giả tập
tiếng bò cười, rống lên như bò cười rồi nói:
-
Chúng ta đều đi bằng bốn chân thì “ vật xấu” ấy nó nằm bên
dưới, có ai thấy đâu? Vả lại, đã là chó thì phải tư duy như chó, quan niệm như
chó - ông bạn chưa thấy vô ngại được nên còn rơi rớt, chấp thủ tư duy và quan
niệm của loài người rồi đấy!
Cẩu hành già cũng
tập tru như chó, nên tru một tràng, sủa vài ba tiếng rồi cãi lại:
-
Ông bạn cũng thế thôi, đã theo được hạnh “ngưu hành giả” một
cách triệt để đâu?
Nói
thì nói vậy nhưng cả hai, sau khi rời rừng, mỗi người lấy một bó lá cột quanh
thắt lưng - rồi họ cùng đi bằng bốn chân đến yết kiến đức Thế Tôn.
Lúc
ấy, đức Phật đã thọ thực xong, đang ngồi tịnh chỉ dưới gốc cây ven lộ.
Lõa
thể Punna Koliyaputta, tức là Ngưu hành giả đến đảnh lễ đức
Thế tôn rồi ngồi một bên. Lõa thể Seniya, tức Cẩu hành giả không
đảnh lễ, chỉ cất lời thăm hỏi rồi ngồi một nơi phải lẽ.
Ngưu
hành giả cất tiếng nói trước:
-
Bạch đại sa-môn! Tôi được nghe đại sa-môn có nhiều thắng trí, tuệ trí, minh trí
biết khắp ba cõi, thấy suốt nghìn đời. Vậy xin đại sa-môn cho biết, là bạn tôi
đây - Cẩu hành giả -đang hành trì theo hạnh con chó, là một
hạnh khó hành, không phải ai cũng hành được...
Đức
Phật gật đầu:
-
Ừ, vậy hãy kể cho Như Lai nghe?
-
Bạn tôi đây đi bằng bốn chân, bò lết hoặc chạy đều bằng bốn chân. Nếu có ngồi
thì cũng chỉ ngồi hai chân sau còn hay tay thì chống dựng phía trước. Lúc nằm
thì nằm sấp trên đất, hai tay úp ở phía trước như chó. Đại tiện, tiểu tiện đều
được tập tành cam go như kiểu chó. Ăn thì chỉ ăn những vật người ta quăng bỏ
trên đất, còn uống thì liếm liếm, táp táp bất cứ vũng nước, hố nước nào có sẵn
bên đường. Nói tóm lại, là Cẩu hành giả, bạn tôi, từ tứ oai
nghi, ăn uống, đại tiểu tiện đều cố hành trì như chó trong một thời gian dài,
rất công phu, rất kiên nhẫn, rất tinh cần. Vậy chẳng hay, trong tương lai, vận
mạng của bạn tôi thế nào - tức là sanh thú, cảnh giới trong mai hậu sẽ như thế
nào, thưa ngài đại sa-môn?
Đức
Phật nhíu mày lại:
-
Ông đừng hỏi như vậy nữa, có được không, này Punna Koliyaputta!
-
Không, không thể dừng câu hỏi được, xin ngài đại sa-môn cho biết sanh thú, cảnh
giới? Tại sao vậy? Tại vì công phu khó khăn, kiên nhẫn và tinh cần bất thối như
thế - chắc phước báu sẽ tối thượng chứ?
Đức
Phật đã không muốn trả lời, nhưng vì Ngưu hành giả nằn nì lần thứ hai, lần thứ
ba - đức Phật đành phải nói ra sự thật:
-
Này, Punna Koliyaputta! Vậy thì hãy nghe Như Lai xác chứng sự thật như sau:
Người nào hành trì hạnh con chó một cách triệt để, nghĩa là hoàn toàn viên mãn
theo hạnh con chó - thì giới, uy nghi, tâm và trí của người ấy
cũng phải hoàn toàn viên mãn như thế!
-
Vâng, tôi đã hiểu.
-
Nếu hành trì giới viên mãn như chó, hành trì uy nghi viên mãn như chó, hành trì
tâm viên mãn như chó, hành trì trí viên mãn như chó thì sau khi thân hoại mạng
chung - người ấy sẽ cộng trú với loài chó, thân hữu với loài chó, dòng chủng
của loài chó - không sai, không trật vậy.
Cẩu hành giả đang
ngồi một bên, nghe vậy theo thói quen, sủa gâu gâu... rồi khóc
rống lên...
Đức
Phật cất giọng như tiếng chuông ngân:
-
Chưa thôi đâu, này các vị lõa thể. Cõi địa ngục thường dành cho những tâm địa
độc ác, bạo tàn do tâm sân, tâm sát. Nhưng ở địa ngục cũng có những cõi tối
tăm, đầy đặc ngu si cả triệu triệu năm dành cho những người tà kiến. Nếu người
hành trì theo hạnh loài chó, lại chấp chặt quan điểm rằng: Do giới này, do uy
nghi này, do tâm này, do trí này, do phạm hạnh này - ta sẽ thành vị chư thiên
này hay chư thiên khác! Thì tức khắc, người ấy sẽ đọa xuống cõi địa ngục nêu
trên. Nói tóm lại là chỉ có hai cõi: Không địa ngục thì bàng sanh,
không bàng sanh thì địa ngục!
Trong
lúc Cẩu hành giả nước mắt ròng rã, sụt sùi, giọt ngắn giọt dài
cảm thương cho sinh mệnh tương lai của mình thì Ngưu hành giả lại
nói:
-
Ông bạn sao chưa sáng mắt ra mà còn khóc? Đức đại sa-môn khẳng định rằng: Nếu
viên mãn hạnh con chó thì cái quả tựu thành chắc chắn sẽ là loài chó. Nếu không
tựu thành, chấp chặt tà kiến thì sanh vào cõi địa ngục tăm tối cả triệu triệu
năm đấy!
Lấy
tay quệt nước mắt nước mũi cho khô ráo, Cẩu hành giả chợt chấp
tay thưa:
-
Bạch đại sa-môn! Tôi khóc như vậy không phải là khóc vì những câu nói của ngài,
vì những xác chứng như thực của ngài. Tôi khóc, tôi tủi thân là vì tôi tiếc.
Tôi tiếc rằng là cái hạnh như con chó này, tôi đã gian lao, vất vả, kiên trì,
nỗ lực trong một thời gian rất dài. Bây giờ, tất cả chỉ còn là công cốc. Mọi
công phu đã trôi tuột tất cả...
Nghỉ
hơi một lúc, Cẩu hành giả nói:
-
Còn bạn tôi, Ngưu hành giả sẽ như thế nào, thưa ngài đại
sa-môn?
Đức
Phật tỏ vẻ bi mẫn:
-
Thì cũng tương tợ như ngươi vậy thôi, này Seniya! Nếu giới viên mãn như bò, uy
nghi viên mãn như bò, tâm viên mãn như bò, trí viên mãn như bò - thì sẽ cộng
trú với loài bò, thân hữu với loài bò, đồng chủng của loài bò. Còn nếu chấp
chặt tà kiến mong được sanh thiên - thì sẽ đọa địa ngục tối tăm ngu si - không
sai, không khác!
Đến
phiên Punna Koliyaputta rống lên như bò rồi khóc lóc, sụt sùi, nước mắt tuôn
rơi lã chã. Cũng tương tợ như Seniya, ông khóc là vì tiếc cho công phu Ngưu
hành giả quá lâu ngày, bây giờ chợt trống rỗng không còn gì!
Lát
sau, lấy lại sự tỉnh táo, cả hai đồng xin đức Phật thuyết pháp một đề tài liên
hệ để họ hy vọng từ bỏ được hai cái hạnh bò, hạnh chó ngu si này.
Đức
Phật, sau đó đã tùy thuận giảng về các loại nghiệp. Ngài đã rộng rãi nói đến 4
loại nghiệp - đấy là nghiệp đen, nghiệp trắng, nghiệp đen trắng, nghiệp
không đen không trắng, chấm dứt các nghiệp [i]. Nghiệp đen là nghiệp xấu ác, tổn hại mình và người sẽ đưa
đến đau khổ, thống khổ - là cảnh giới của tứ ác đạo. Nghiệp trắng là nghiệp
lành tốt, lợi ích cho mình và người sẽ đưa đến hạnh phúc, an vui - là tất cả
các cảnh trời sắc giới và vô sắc giới. Nghiệp đen trắng là nghiệp
xấu ác có lẫn lộn lành tốt sẽ đưa đến lẫn lộn đau khổ và an vui - là cõi người.
Nghiệp không đen không trắng là nghiệp chấm dứt các nghiệp - hàm chỉ tứ thánh
đạo quả và Niết-bàn...
Sau
thời pháp, hai lõa thể tà mạng ngoại đao sáng mắt, xin được quy y và xin được
sống đời xuất gia phạm hạnh. Đức Phật nói, phải ở bốn tháng biệt trú để chư vị
trưởng lão xem xét tánh hạnh và xem có thay đổi được tri kiến lầm lạc cũ hay không,
sau đó mới được thọ đại giới. Cả hai thành khẩn và hoan hỷ xin được biệt trú
bốn năm để gột rửa, tẩy rửa cho sạch sẽ tư tưởng chó và bò còn tồn đọng trong
tâm tưởng...
Đức
Phật chấp thuận. Sau đó ngài bảo rằng, hãy tắm rửa, cạo bỏ râu tóc, ăn mặc như
người cư sĩ áo trắng đến làm công quả tại Kỳ Viên hoặc Trúc Lâm tịnh xá để tích
lũy một ít công đức trong thời gian chờ đợi. Họ vâng mệnh nhưng có vẻ hơi lúng
túng, hổ thẹn khi đứng lên... Tôn giả Mục-kiền-liên tâm ý linh thông, ngài đã
đến một gia chủ giàu có trong thành, kể lại sự việc và đã xin cho hai người hai
bộ áo quần của người cư sĩ - ngài trao cho họ rồi mỉm cười nói:
-
Còn biết tàm, quý [ii] là tốt rồi đó, hai ông bạn! Hãy đi xuống suối, tắm rửa, mặc áo
quần vào rồi hẵng lên đường.
Nhiều
tiếng cười xung quanh rộ lên, vui vẻ, hỷ xả.
Cả
hai, Ngưu hành giả và Cẩu hành giả đi rồi mà
đại chúng còn bàn tán xôn xao mãi. Sao lại tự hành thân hoại thể và tu hành một
cách ngu si như thế? Tu như chó, tu như bò mà lại đòi được sanh thiên?
Tôn
giả Sāriputta gật đầu:
-
Các bạn nói đúng! Tuy nhiên, nhờ các bạn đang sống trong giáo pháp quang minh,
sáng sủa nên mới biết được, mới thấy được như thế - chứ thế gian tối tăm này,
phần đông, trong mắt họ nhiều cát bụi lắm, không dễ gì thấy biết được đâu!
Một
vị thắc mắc hỏi:
-
Hai tà mạng ngoại đạo này, sau này - họ tu tập có được gì không, tôn giả?
Tôn
giả cười nhẹ:
-
Khi đức Tôn Sư đã tạo duyên rồi, thì nhanh hay chậm, họ cũng đến được bến bờ
bình yên thôi, các bạn!
Một
vị cất giọng khôi hài:
-
Hai vị đại nhân - đại nhân bò và đại nhân chó này, phước đức trăm ngàn đời mới
gặp được đức Tôn Sư chúng ta!
[i] Do trình độ thấp thỏi của các tà mạng
ngoại đạo - đức Phật phải thuyết cái vô tạo tác, vô hành là nghiệp không đen,
không trắng cho họ dễ hiểu.
[ii] Tàm (hiri), quý (ottapa) - hổ thẹn tội lỗi
và ghê sợ tội lỗi.
Vị thánh 7 năm trong bình máu
Từ
giã thị trấn Haliddavasana, đức Phật và đại chúng chậm rãi bộ hành về hướng
Devadaha, là kinh đô của nước Koliya - là quê ngoại của ngài. Lần này, đi theo
đức Phật hầu như có đủ mặt các ông hoàng, công tử cả hai quốc độ thuở trước -
đấy là các trưởng lão Ānanda, Kāḷudāyi, Bhaddiya, Devadatta, Kimbila,
Anuruddha... cùng vị thợ cạo Upāli mà bây giờ đã là bậc trưởng lão, tuy chưa có
danh xưng nhưng được xem như là đệ nhất tri luật!
Bao
nhiêu năm qua rồi, khuôn mặt của kinh thành cũng không thay đổi mấy. Xóm phường
lao động thì vẫn bụi và rác, vẫn bò và dê bên những ngôi nhà tồi tàn nhiều năm
không được tu sửa, chỉnh trang. Họ vẫn an phận thủ thường với cái nghèo của
mình. Giới nô lệ thì cứ vẫn là nô lệ - bị đẩy bật ra ngoài mọi sinh hoạt công
cộng. Giới lao động chân tay thì cứ vẫn đen đúa, nhem nhuốc với những công việc
hạ cấp của mình. Những khu nhà của giới thương gia, quý tộc thì vẫn uy nghi,
hiển hách, cứ vẫn là giàu sang và vương giả như thuở nào!
Đến
Devadaha thì trời vừa tối, tôn giả Sāriputta thu xếp, phân phối đại chúng tạm
thời qua đêm quanh các khu rừng để khỏi phiền đến dân chúng.
Rạng
ngày, như một cuộc diễu hành - đức Phật và đại chúng tách ra từng toán nhỏ đi
trì bình khất thực khắp các ngã đường. Dân chúng và phố phường có vẻ xôn xao
khi hay tin giáo đoàn đang ở trong thành phố. Vả chăng, đây là quê hương của
Devadatta và Yasodharā mà ai ai cũng nghe danh. Và ai cũng biết chuyện đức vua
Suppabuddha đã thâm thù đức Phật đến tận tủy xương khi đã cướp đi
con trai và con gái của ông! Tuy nhiên, mấy giáo đoàn đang hành hóa tại xứ sở
này lại rất thành công. Giới quý tộc, chiến sĩ, thương gia cũng như dân chúng
phát sanh tâm tín mộ dạt dào. Có nhiều cư sĩ đắc quả thánh. Rất nhiều quý tộc,
thương gia đã đứng vào hàng ngũ cư sĩ cận sự hai hàng. Dầu chưa có những tòng
lâm lớn rộng - nhưng các sinh hoạt tại những tăng xá, cốc liêu của chư tỳ-khưu
đã tạo ra được cơ sở vững chắc. Gần đây, trưởng lão ni Gotamī và
Yasodharā đã tạo lập đươc ba ni viện. Một ở Koliya, một ở Kapilavatthu và một ở
Savatthī dành cho tỳ-khưu-ni - nghe đâu cũng thành công.
Khi
thấy bình bát đã vừa đủ dùng, đức Phật, hai vị đại đệ tử cùng Ānanda tìm đường
đến ni viện để ngọ trai. Một khu vườn xanh mát với nhiều liêu cốc tranh tre
thanh nhã hiện ra - với nhiều chiếc bóng vàng thấp thoáng. Rất đông tỳ-khưu-ni
lạ mặt ra đón tiếp phái đoàn. Bất chợt, tỳ-khưu ni Khemā và Dhammadinnā ra quỳ
đảnh lễ và họ cho biết là vừa từ Trúc Lâm sang; còn trưởng lão ni Gotamī và
Yasodharā Sundrinandā thì đang ở Savatthī.
Đức
Phật an tọa trên bồ đoàn, thăm hỏi công việc hoằng hóa ở Koliya. Lát sau, các
vị trưởng lão Bhaddiya, Devadatta, Kimbila... dẫn chư tăng trong vùng đến đảnh
lễ, hầu thăm đức Phật và đại chúng. Hóa ra ở nơi này, chư tăng cũng đã kiến lập
khá nhiều cơ sở, đặc biệt có một khu lâm viên khá lớn, sức chứa có thể lên đến
năm, bảy trăm vị. Công trình này do họ hàng hoàng gia bên nội của Devadatta và
công nương Yasodharā dâng cúng. Họ đồng quỳ thỉnh đức Phật về ngụ cư ở tăng
viện.
Khi
hai hội chúng gặp gỡ, đang thân tình thăm hỏi nhau, thì bên ngoài cổng vườn,
một chiếc xe hai ngựa dừng lại, một vị hoàng gia hấp tấp đi vào. Một vị ni cho
biết đấy là ông hoàng Mahāli, có vị phu nhân là công nương Suppavāsā mang thai
đã 7 năm mà chưa sinh. Công nương Suppavāsā lại có tâm tín đạo rất lớn. Hai ông
bà đã cúng dường khu vườn xinh đẹp cùng với mọi công trình tao nhã tại ni viện
này.
Thật
ra, không cần phải ai thưa trình, đức Phật đã biết tất cả mọi chuyện khi đến
Koliya, ngài đã tính đúng giờ phút mà công nương Suppavāsā đang chuyển dạ. Có
ai biết rằng, công nương Suppavāsā suốt 7 năm qua đã mang trong lòng mình một
thánh thai? Sáu năm trước, trong bụng mẹ, dẫu nằm trong một bình máu, nhưng
thai nhi đã không dám động cựa, sợ mẹ đau! Đến năm thứ bảy, nhất là những ngày
sau cùng, sự đau đớn khốc liệt xảy ra cho công nương Suppavāsā là chuyện tự
nhiên của sinh lý cơ thể lúc sắp sinh. Nhưng do tâm lý, “cái quái thai” 7
năm - nên sự đau đớn kia như tăng gấp bội - làm cho vị công nương tưởng mình
sắp chết. Sáng nay, nghe tin đức Phật và đại chúng đang trì bình khất thực trên
các ngã đường Devadaha, công nương Suppavāsā mừng quá, những mong được chiêm
ngưỡng đức Phật trước khi mạng chung nên đã hối hả nói với chồng:
-
Chàng ơi! Hãy tức khắc đi ngay! Hãy vì thiếp và hãy vì cái quái thai trong
bụng thiếp; hãy thỉnh cho kỳ được đức Phật và chư tỳ-khưu tăng ni đại chúng -
cho thiếp được chiêm bái và bố thí cúng dường lớn - trước khi vĩnh biệt!
Người
rành rõi chỉ chỗ đức Phật. Tội nghiệp ông hoàng thân trẻ tuổi, thương vợ, với
nước mắt, tức tốc, hối hả lên đường.
Thấy
dáng dấp hoàng thân Mahāli với bước đi hấp tấp, vội vã cùng với nét sầu não
hiện ra nơi sắc mặt - chưa kịp đảnh lễ, thưa thỉnh - đức Phật đã mở lời trấn
an:
-
Này Mahāli! Không sao đâu hoàng thân! Phu nhân sẽ an toàn - và cái thai nhi kia
cũng sẽ an toàn! Như Lai sẽ chú nguyện cho! Bây giờ, hoàng thân hãy yên tâm mà
ra về đi, đừng lo lắng nữa, đứa trẻ sắp chào đời rồi đấy!
Tin
tưởng vào đức Thế Tôn, hoàng thân Mahāli thở ra một hơi dài. Và khi ông vừa rời
gót, dùng trí sinh tử, đức Phật biết rõ quả nghiệp chịu đựng đau khổ của mẹ con
thai nhi đã chấm dứt - nên ngài chú tâm, hướng năng lực tâm đến chỗ sản phụ, đọc
lên bài kệ với ý rằng:“ Công nương Suppavāsā xứ Koliya được khỏe mạnh và an
lành, hạ sanh một hài nhi cũng khỏe mạnh và an lành như thế!”. Câu
phúc chúc của đấng Mười Lực vừa chấm dứt thì tại biệt phủ, công
nương Suppavāsā sinh hạ một hài nhi nhẹ nhàng như nước trong bình đổ ra. Nhìn
đứa bé khuôn mặt đẹp đẽ, hồng hào, mũm mĩm như con nhà trời, công nương mừng
vui bế trẻ vào lòng với hai hàng lệ tuôn chảy. Cả nhà đổ xô lại. Ai cũng muốn
nhìn tận mặt “cái quái thai” 7 năm trong bụng mẹ. Khi thấy trẻ
rồi, và vì do phước báu của trẻ mà ai cũng nghe trong lòng thơ thới, mát mẻ, an
vui một cách lạ kỳ. Do cảm giác ấy mà mọi người đồng thanh gọi là “Sīvali,
sīvali...” từ đó thành tên.
Hoàng
thân Mahāli vừa đến cổng, chưa xuống xe đã nghe không khí vui tươi, nhộn nhịp
của cả đại gia đình, ông cảm kích và càng khởi tâm tịnh tín khi biết rõ oai lực
vô song của đức Giác Ngộ. Ông hoàng thấy tâm hồn lâng lâng, đi nhanh vào hậu
điện. Một bà vú bế trẻ ra cho ông xem. Ông chiêm ngưỡng con mình như chiêm
ngưỡng một tác phẩm kỳ lạ của ông thợ trời. Vào phòng, đặt trẻ trong vòng tay
của công nương, sung sướng và hạnh phúc quá làm cho đôi mắt ông cũng đỏ hoe!
Hoàng
thân thuật lại lời đức Phật chỉ dạy. Công nương chấp hai tay lên trán, lầm thầm
thốt lời tạ ân đức Phật rồi nói:
-
Chàng chịu khó trở lại ni viện một lượt nữa, thỉnh mời đức Thế Tôn
và tất thảy tăng ni, có đủ 500 vị thì càng quý, bắt đầu
từ ngày mai, chúng ta sẽ đặt bát cúng dường 7 ngày, ý chàng thế nào?
-
Vâng, vâng! Ông hoàng hối hả gật đầu! Phải vậy! Để tri tạ ân
đức Tam Bảo!
Thế
rồi, việc đặt bát cúng dường 7 ngày tại biệt điện đến đại chúng có đức Phật cầm
đầu đã diễn ra hỷ mãn. Và trong thời gian ấy, ai ai cũng chứng kiến chuyện lạ
lùng, là trẻ Sīvali lớn nhanh như thổi. Chỉ trong ngày thứ nhất, vừa qua đêm,
trẻ đã đổi khác. Qua ngày thứ hai, vừa cách đêm, trẻ đã lớn bằng đứa bé hai
tuổi. Và cứ thế, đến ngày thứ bảy thì trẻ đã hao hao giống đứa bé ba bốn tuổi -
nhưng cử chỉ, đi đứng, ăn nói thì đã tỏ ra không thua gì trẻ sáu bảy tuổi. Trẻ
đã nói chuyện với cha mẹ với âm giọng khá rõ ràng, nhưng đặc biệt, trong đó lại
toát ra sự hiểu biết không phải của con nít! Cậu lại còn biết xin phép cha mẹ
cho được tự tay đặt bát cúng dường một vài thứ vật thực đến đức Phật và chư vị
trưởng lão!
Chuyện
kỳ lạ này không mấy chốc đã lan nhanh khắp cả thành phố. Không những bà con nội
ngoại, thân bằng quyến thuộc tò mò tìm đến thăm viếng mà kẻ lạ, người dưng ngày
nào cũng đứng chật sân vườn, cổng ngõ. Trẻ Sīvali tỏ vẻ không được vui, than
phiền với mẹ là thiên hạ đến đây ồn ào, huyên náo quá, chẳng yên tịnh được chút
nào! Công nương nhìn cậu quý tử, cứ tròn mắt ngạc nhiên từ chuyện này sang
chuyện khác; và bà biết rõ trong tâm, con bà không phải là thường nhân!
Cũng
ngày thứ 7, sau khi nhận đầy đủ vật thực, Ni trở về ni viện, Tăng trở về tăng
viện - đức Phật bảo tôn giả Sāriputta ở lại thuyết pháp cho cả đại gia đình
cùng nghe. Thế rồi, tôn giả thuyết về khổ sanh, khổ của sự tái sanh và sự khổ
của vòng trầm luân sinh tử. Trẻ Sīvali lắng nghe rất chăm chú. Cậu rất thấm
thía thời pháp. Cậu thấu hiểu một cách rất sâu sắc và cụ thể về sự khổ sanh -
vì chính cậu đã nằm trong bụng mẹ suốt 7 năm, 7 ngày! Nằm trong bụng mẹ, như
nằm trong cái bọc máu, đã nhẫn chịu tối tăm, dơ uế mà mọi động cựa cũng phải
cẩn thận vì có thể làm cho bà mẹ bị đau! Mặc dầu bà mẹ rất biết kiêng cử, nhưng
tế bào thần kinh của trẻ rất nhạy. Chỉ một chút cay, chút nóng, chút mặn, chút
đắng, chút chua... là cậu như bị tra tấn! Khổ nhất là thời tiết của trời đất
thất thường chuyển đổi ở bên ngoài - thì bên trong này, trẻ đau đớn cùng cực...
Thời
pháp chấm dứt, trẻ Sīvali ăn mặc rất đẹp, bước ra đảnh lễ tôn giả rất mực
nghiêm cung và lễ độ. Tôn giả dịu dàng cất tiếng hỏi:
-
Mọi việc đều an lành và tốt đẹp cả chứ, này Sīvali?
-
Hiện tại, trong không khí phước sự và trong thời gian nghe pháp thì đúng là
vậy, thưa tôn giả!
Nghe
câu trả lời của trẻ “không đơn giản” chút nào, tôn giả ngạc
nhiên, nhăn mày hỏi tiếp:
-
Con nói hiện tại? Vậy trước cái hiện tại này
thì sao?
Trẻ
mỉm cười mà như mếu, rồi đáp:
-
Trước cái hiện tại, nghĩa là thời gian suốt 7 năm, 7 ngày con nằm trong một cái
bình máu - thì an lành và tốt đẹp sao được, thưa tôn giả!
-
Đúng là vậy - tôn giả hoan hỷ nói - Vậy là cái khổ nằm trong
bụng mẹ, con là người cảm nhận sâu sắc nhất!
-
Không chỉ là cảm nhận - trẻ Sīvali lắc đầu - con còn kinh sợ
nữa, thưa tôn giả!
Qua
vài câu đối thoại giữa tôn giả và “ hài nhi” mới sanh có 7
ngày - đã lôi cuốn sự chú tâm của mọi người. Công nương Suppavāsā hoan hỷ và
hãnh diện quá, bà thốt lên:
-
Coi kìa! Coi kìa! Con tôi mới có 7 ngày mà đã thảo luận “về sự khổ” với
bậc Tướng quân chánh pháp!
Biết
trẻ có căn duyên sâu dày, tôn giả ướm hỏi tiếp:
-
Nếu kinh hãi sự khổ thì con phải làm sao, Sīvali?
Trẻ
có vẻ suy nghĩ rồi mới trả lời:
-
Theo thời pháp của tôn giả, xuất gia mà thấy pháp, chứng pháp, giác ngộ pháp sẽ
lần lượt cắt đứt tất thảy sự khổ. Vậy trước sau, con cũng xin được xuất gia
thôi!
Tôn
giả gật đầu:
-
Ừ, thế là đúng! Nhưng bây giờ con còn bé dại quá! Hãy sống ngoan ngoãn, hiếu
thảo với cha mẹ, hiếu thuận với mọi người. Khi cơ duyên chín muồi, tự đích thân
ta sẽ tìm đến con đấy! Nhớ lời hứa đó nhé?
-
Dạ xin vâng!
Quay
qua đại gia đình rồi nhìn công nương Suppavāsā, tôn giả hỏi:
-
Có một trẻ như vậy, thế gian hiếm có! Này công nương hữu phúc! Công nương có
còn muốn những bé trai tương tợ như vậy nữa hay không?
-
Muốn, rất muốn! Nếu có đau khổ 7 lần, được 7 bé trai như thế, đệ tử cũng muốn
như thường!
Câu
chuyện của trẻ Sīvali, không mấy chốc đã trở thành câu chuyện nóng sốt được bàn
tàn khắp mọi nơi. Không những tại các tăng ni viện mà tại cung đình, hoàng gia,
quý tộc, các đạo tràng ngoại giáo, đường phố, công viên, chợ búa... ai cũng
muốn chiêm ngưỡng trẻ hoặc suy luận về căn cơ, nghiệp từ kiếp trước. Có một số
vị tỳ-khưu đem chuyện kể về trẻ Sīvali và trẻ Dabba-Mallaputta vừa mới xảy ra ở
khu rừng Ampiyamba gần thành Anupiya - xem như đều là những việc hiếm có trên
đời. Nói chung, họ cứ thắc mắc, thắc mắc mãi là cả hai mẹ con bị cái nghiệp gì
kinh khiếp mà cùng chịu đau khổ chung suốt 7 năm, 7 ngày như thế?
Tôn
giả Moggallāna thấy tiết lộ điều này - tức là nhân của nghiệp quá khứ - chư
tăng sẽ hiểu thêm về sức mạnh của nghiệp báo, lợi ích cho việc tu tập của họ -
nên đã không ngần ngại kể cho họ nghe rằng:
“- Trong một kiếp quá khứ, tiền thân Sīvali là một vị thái tử con
vua Brahmadatta, kinh thành Bārāṇasī. Thái tử tinh thông các môn học nghệ, đức
độ và tài giỏi nên được vua cha nhường ngôi lúc còn rất trẻ.
Đức vua xứ Kosala sẵn binh lực hùng hậu, có dã tâm xâm lược, thấy
nước lân bang trù phú, giàu có nên đã khởi một đạo quân lớn, đột ngột tấn công
Bārāṇasī, giết đức vua Brahmadatta, lấy hoàng hậu vua làm vợ mình. May mắn
thay, lúc ấy thái tử đang ở ngoại thành, đang cùng với toán quân vệ sĩ đang đi
tuần thú các nơi - nên thoát khỏi nạn.
Thấy nước mất, nhà tan, thái tử rất căm hận - tụ họp bên mình
những chiến sĩ gan dạ, yêu nước - rồi âm thầm đi khắp các trấn thành, thị
trấn... kêu gọi đoàn kết, phất cờ khởi nghĩa vệ quốc.
Hôm kia, một đoàn đại quân đằng đằng sát khí - có thủ lãnh là vị
vua trẻ - bao vây Bārāṇasī - rồi bắn vào thành một trăm mũi tên viết bằng máu:
“ Một là giao thành, hai là giao chiến, ba là các ngươi hãy tự sát!”
Đức vua Kosala và quân đội đang hưởng lạc, say men chiến thắng,
nhận được tối hậu thư, mỉm cười khinh bỉ: “Thằng trẻ ranh dám hù dọa ta sao?”,
bèn cho bắn tên trả lời: “ Một tuần nữa, ta sẽ chặt đầu ngươi ở dưới chân
thành, cho chó ăn! ” Tức giận đến máu trào, thái tử tức tốc cho tấn công, không
đợi chờ nữa. Ba lần tấn công cả ba lầm đều bị đẩy ra do binh lực của chúng còn
rất mạnh.
Trong thành, bà hoàng hậu hay tin, nhờ cảm tử quân ban đêm vượt
thành, đưa tin cho thái tử hay rằng:
“- Quân đội của chúng chưa tổn hao, nhưng lương thực trong thành
đã gần cạn. Vậy, không nên đánh thành mà chỉ nên bao vây, cắt đứt các ngã đường
tiếp tế. Chỉ cho đến khi nào củi, nước, gạo trong thành khánh kiệt - không cần
đánh mà chúng ta vẫn thắng! ”
Nghe lời mẹ, thái tử cho các tướng dẫn quân bao vây, bít chặt mọi
lối ra, vào; những ngõ ngách bò dê heo chó gì cũng bịt kín. Thế là đến ngày thứ
bảy, dân chúng trong thành do đói khát nên chết rất nhiều. Một số còn đủ sức,
họ mang gươm giáo nổi loạn. Quân đội của vua Kosala cũng chết do đói khát, số
còn lại thì vật vờ, yếu lả nên không còn đủ sức kháng cự. Dân chúng tràn vào
vương cung, chặt đầu vua rồi tự động đem giao nộp cho thái tử. Chàng hiên ngang
vào thành, lấy lại vương quốc, mẹ con trùng phùng... Mạng chung, họ đi theo
nghiệp của mình”.
Kể
xong chuyện quá khứ, tôn giả kết luận:
-
Do nhân gieo vây hãm thành 7 ngày làm cho rất nhiều người chết; sau khi bị trả
quả khổ ở địa ngục, nghiệp còn dư sót - mẹ mang thai con 7 năm, 7 ngày chịu khổ
với nhau để trả cho hết nghiệp xưa! Công nương Suppavāsā bây giờ là hoàng hậu
thuở trước, thái tử Bārāṇasī vây thành chính là trẻ Sīvali vậy.
-
Trời đất ơi! Một người cất tiếng than - Cái nhân 7 ngày vây hãm thành, cái quả
trả dư sót lại lên đến 7 năm, 7 ngày! Xem nào! Một năm vị chi số ngày như thế,
chia cho 7 như thế - vị chi gấp 52 lần cộng thêm 7 ngày! Ôi! khiếp thay cái
nghiệp báo! 53 lần hơn là cái sự khổ phải chịu!
Có
tiếng cười. Rồi có người còn thắc mắc, hỏi:
-
Trẻ Sīvali rất thông minh, sáng dạ; không những nắm bắt cái “khổ sanh” trong
thời pháp, mà còn thảo luận với bậc Tướng quân chánh pháp vài câu nghe rất có
chiều sâu. Như thế, hẳn trẻ phải có căn cơ giáo pháp sâu dày nào từ quá
khứ, phải thế không, thưa tôn giả?
Tôn
giả gật đầu:
-
Ừ, đúng vậy! Sẽ còn có lắm điều kỳ diệu về trẻ Sīvali này. Nhưng phải đợi 7 năm
nữa, sau khi cậu bé xuất gia - cái căn cơ cũ ấy mới trọn vẹn mãn khai! Hãy đợi
đấy mà xem!
Lại
có tiếng cười:
-
Xem tôn giả quý kính của chúng ta nói kìa! Cứ ởm ờ, úp mở thế đấy!
-
Vậy thì lần này, huynh đệ chúng ta ráng “chộp” cho bằng được
cái thiên nhãn sinh tử thông - để tôn giả không còn chơi “khăm” phàm
phu chúng mình nữa!
Thấy
chư tăng trẻ ăn nói rất dí dỏm, dễ thương, tôn giả chúm chím cười:
-
Cũng được! Nhưng nhớ là phải “chộp” cái lậu tận trước đấy nhé!
-
Xin tuân mệnh ạ!
Những người bạn cũ
Đây
là lần thứ ba sau khi giác ngộ, đức Phật trở lại quê hương. Trời nắng hanh,
khô, bụi bặm bám đầy cây lá ven đường do những đoàn xe bộ hành thương mãi ngày
ngày ngược Bắc xuôi Nam.
Lúc
qua sông Rohini, đức Phật dừng chân lại. Ngài đi theo ven bờ xuống phía hạ lưu.
Sông mùa này cạn nước, chảy lờ đờ, vàng đục. Nơi này nơi kia đọng lại từng
vũng, từng vũng; thỉnh thoảng có những hố nước lớn. Ở đây, người dân hai bên bờ
đã làm những con mương nước để dẫn nước sang hai bên - rồi dùng sức của những
chiếc gàu tay, những thùng tre, đưa nước đến cấp cứu cho những đám ruộng, đám
ngô, bắp đậu... ở những bãi biền.
Mấy
người nông dân thấy đức Phật và tăng chúng đứng lố nhố quá đông - họ sợ hãi nép
núp chỗ này chỗ kia. Đức Phật bước lại, cất giọng từ hòa:
-
Như Lai đây mà! Như Lai đi thăm hỏi bà con đây mà! Hiện nay, hai bờ con sông
này không còn xảy ra tranh chấp nữa chứ?
-
Dạ không! Một người đàn ông có vẻ rành rõi bước ra đáp! Chúng tôi vẫn nhớ câu
đức Đại Bi đã dạy là “máu quý hơn nước” - nên không dại gì để
xảy ra tranh chấp với đùi gậy, với gươm giáo nữa.
-
Tốt, rất tốt! Vậy, hiện tại, quý vị làm lụng có đủ ăn, đủ mặc không?
-
Dạ, cơm ăn thì cũng bữa đực, bữa cái; áo quần thì cũng đầu
thừa chắp nối đuôi thẹo- nói chung cũng qua ngày, chưa đến nổi đói lạnh,
thưa đức Tôn Sư!
-
Ừ! Thế thì đức vua và các quan tổng trấn - họ có tốt không, họ đã đối xử với
nhân dân như thế nào?
-
Dà, ông vua này ngó bộ cũng biết lo cho dân! Nhưng quan tống trấn ở đây thì già
rồi, có lẽ không còn được mấy hơi, cứ ì ạch, ì ạch ở lì trong trấn phủ, có khi
nào đi quan sát dân tình đâu mà biết!
Đức
Phật gật đầu:
-
Đúng vậy, quan tổng trấn phải trẻ và phải năng động mới được! Một vị quan tốt
phải đến tận nhà dân nghèo, phải biết quan sát cái nồi cơm, nhìn xem cái hố xí!
Xin lỗi, đôi khi xem dân ỉa ra cái giống gì - mới biết được dân đói hay no, ăn
cơm hay chỉ ăn với lá và củ!
-
Ôi! Hoàn toàn đúng! Đúng đức Tôn Sư là bậc thấy biết khắp thiên hạ, không có gì
là không biết!
Mọi
người xung quanh đổ xô lại. Một người thưa:
-
Quan tổng trấn ở miệt trên, nghe nói trẻ lắm! Đến các vụ mùa gieo cấy hay gặt
hái, ông ta ra ngủ với dân, đôi khi còn ăn chung, ăn thử món này món kia - và
tận tình chỉ dạy từng ly, từng tí cách thức trồng trọt giống này, giống kia
nữa!
Rời
Rohini, thế là đức Phật đã biết sơ về tình hình chung của lãnh thổ, quê hương.
Và, tương tợ như Devadaha, Kapilavatthu cũng không mấy thay đổi. Đức vua
Mahānāma dầu có trẻ trung, tháo vát nhưng sức nặng truyền thống, những tập tục
cổ hủ, nạn phân chia giai cấp đã làm thui chột tất thảy mọi năng lực sáng tạo
để đưa đất nước đi lên. Thuở xưa, ngài đã bất lực - thì nay Mahānāma cũng bất
lực mà thôi.
Ngang
qua khu vườn Lumbinī, thấy nơi này xanh mát, đức Phật và đại chúng dừng lại
nghỉ ngơi.
Tôn
giả Ānanda đi dạo quanh một vòng, dừng lại nơi gốc cây có khắc dấu kỷ niệm
hoàng tử Sākya Siddhattha đản sanh, cất giọng bùi ngùi:
-
Mới đó mà đã gần 45 năm rồi. Xem kìa, cái gốc cây Sālā này trông đã già đi
nhiều lắm.
Tôn
giả Sāriputta đang đứng sau lưng, góp lời:
-
Sau này, đây sẽ là cái cây thiêng liêng đấy, pháp đệ!
Từ
giã Lumbinī, đức Phật nói:
-
Đúng vậy! Nhưng mà kỷ niệm để làm gì! Quả đất này chật chội lắm; còn chúng ta
thì cứ sanh tới sanh lui mãi, chưa nhàm chán sao? Chưa mệt mỏi hay sao? Cứ
quăng một cục đá lên trời, nơi nào nó rơi xuống, đào lên, sẽ bắt gặp xương cốt
hoặc vật gì đó của chúng ta từ một quá khứ vô định nào!
Lời
của đức Phật nói, tuy nhỏ nhưng mà lại thoảng vào tai của đại chúng, rõ mồn
một. Họ nghe như có tiếng lá rơi vèo, xào xạc giữa không gian. Trời nắng nóng
mà họ cảm nghe ngọn gió hư vô lạnh buốt vừa thổi qua. Rùng mình. Họ trực thức
trở lại với chánh niệm ngay, không dám vọng tưởng và hoài niệm nữa!
Tiếp
tục lộ trình, đức Phật và đại chúng thanh thản đưa mắt nhìn ngắm hai bên trên
con đường vào thành. Nhà nhà mở cửa, quét dọn sạch sẽ. Nơi những nhà giàu còn
xông thơm ngát hương chiên-đàn. Họ như một đoàn quân chiến thắng khải hoàn; một
chiến thắng vinh quang nhất là chiến thắng khổ đau, phiền não và buộc ràng! Và
đây cũng là đoàn quân của giáo hội độc thân, của vô sản, bần hàn; nhưng cũng là
của tự do, bình đẳng và dân chủ nhất trên toàn cõi châu Diêm-phù-đề!
Chư
tăng địa phương và cận sự Nam nữ dòng Sākya biết tin đức Phật sẽ về đây từ mấy
hôm trước. Khi ngài và đại chúng còn ở Koliya - thì họ đã rủ nhau vào khu Rừng
Cây Đa(Nirodhavana) để dọn dẹp vệ sinh toàn bộ các nơi. Cốc liêu
chư tăng cũng được sơn quét, làm sạch, làm đẹp các lối đi và cả những công
trình phụ. Tại giảng đường, họ dùng nệm sạch mới trải khắp, sắp đặt chỗ ngồi,
ghè nước và treo đèn kết hoa. Bảo tọa của đức Thế Tôn được lát thảm nhung sẫm
nâu, tẩm hương liệu rồi họ xông chính giữa giảng đường một lò chiên-đàn lớn để
xua tạp khí...
Do
chư tăng ni đến quá đông nên một số phải di tản. Chư ni được dẫn sang ni viện
mới do ni trưởng Gotamī, Yasodharā và dòng Sākya kiến tạo. Nơi này sinh hoạt
Phật sự có vẻ tăng thịnh - vì dù sao cũng là quê hương của Phật - lại nữa, dòng
Sākya thường hãnh diện, tự hào về đức Chánh Đẳng Giác đã xuất sinh ở đây, cùng
chung huyết thống với họ.
Đức
Phật vừa ngồi xuống nghỉ ngơi thì đức vua Mahānāma cùng các quan đại thần trẻ
tìm đến. Họ đảnh lễ rất thành kính trong cung cách của những đệ tử tại gia.
Nhìn
những sợi tóc bạc lấm tấm của Mahānāma, đức Phật muốn dành một chút thời
gian “tâm sự với bạn cũ” nên dịu dàng cất tiếng hỏi:
-
Thời gian trôi qua nhanh quá, phải không Mahānāma?
-
Đúng vậy, thưa Tôn Sư! Không chỉ nhanh như bóng ngựa qua cửa - mà nhanh như
từng nháy mắt, từng sát-na!
-
Ừ, đúng vậy! Đức Phật gật đầu. Im lặng một lát, ngài hỏi tiếp ra chiều quan
tâm:
-
Công việc triều chính, kinh tế, ngoại giao cũng như xã hội, dân sinh... lúc này
có những biến chuyển gì, dấu hiệu gì, tốt hay xấu hở đại vương?
-
Nói chung là triều chính vẫn trì trệ, mặc dầu đệ tử đã lựa chọn những quan đại
thần trẻ trung xuất thân từ đại học Takkasīla. Do nhân số không đủ, chỉ một ít
ở triều chính và một ít ở vài ba tổng trấn lớn. Họ có tư duy mới, cách làm việc
mới nhưng do cỗ xe đã quá cũ kỹ, quá hao mòn nên sức người không thể chuyển đổi
được sức mạnh của nghiệp cộng với sức mạnh của thuyết định mạng!
- Ừ,
Như Lai hiểu! Cái thuyết định mạng của bà-la-môn giáo thiệt là tệ quá. Nó còn
làm trì trệ châu Diêm-phù-đề này mấy ngàn năm nữa đấy, Mahānāma!
Im
lặng. Lát sau, Mahānāma trình bày tiếp:
-
Kinh tế thì càng ngày càng rơi vào thế lực của các tập đoàn. Họ năng động, tài
giỏi, tư duy sắc bén - lại có nhiều tiền bạc nên thế lực mạnh quá, đôi khi
triều đình phải lệ thuộc, cần sự tài trợ của đám thương gia ấy.Chúng ta chưa
tìm ra một nhà kinh tế học ưu việt, khả dĩ vừa có biện pháp chế tài vừa có
chính sách đem đến lợi ích cho muôn dân! Ước gì có một người có trí tuệ khả dĩ
bằng một phần mười sáu của đức Thế Tôn!
Đức
Phật mỉm cười:
-
Rồi để mà làm gì, hở Mahānāma?
Câu
hỏi của đức Phật làm ông vua bạn cũ nín lặng. Phải, làm gì đã chứ? Thoáng chốc
là phù du cái cuộc đời này! Ông là một vị vua quyền uy hiển hách, phú quý và
tài lộc thuộc đệ nhất đẳng - ai cũng tưởng là hạnh phúc; nhưng ông nào có mấy
niềm vui? Đêm nằm luôn trăn trở, thao thức - từ lo nghĩ, toan tính này sang nỗi
buồn phiền, ưu tư nọ vì việc nước, việc nhà, việc thê thiếp và các con. Chỗ nào
cũng bất như ý, chỗ nào cũng khó chịu, bực bội, chỗ nào cũng là cái ổ phiền
não...
Đức
Phật biết nỗi lòng của Mahānāma. Không những hằng trăm cái buồn phiền - mà
chuyện vừa mới xảy ra đã làm cho ông ta không yên tâm. Số là đức vua Kosala
muốn kết thân với ngài - nên cho sứ giả sang Kapilavatthu để dạm hỏi một cô
công chúa dòng dõi Sākya về làm quý phi. Dòng tộc Sākya vốn kiêu căng, ngã mạn
- không chịu cho cưới những cô gái cành vàng lá ngọc - nên họ thuyết phục đức vua
Mahānāma gã cô con gái cưng của ông, vốn lai tạp huyết thống của bà mẹ nô lệ.
Cô Vāsabha-Khattiya đúng là một công chúa, lại là rất khả ái, nết na, dịu dàng
và xinh đẹp - nên rất đúng với tiêu chuẩn yêu cầu. Khi gã cô con gái
yêu quý đi rồi, một phần nhớ thương con, một phần thì lo sợ đến lúc nào đó
triều đình Kosala phát giác con mình không thuần chủng, như thế là coi khinh họ
- thì khó tránh khỏi hiểm họa cho đất nước - vốn mang thân phận nhược tiểu, chư
hầu!
Đức
Phật biết tất cả mọi chuyện nhân quả, nghiệp báo, không những bây giờ và còn
nhiều kiếp về trước nữa, nhưng không thể tiết lộ, ngài chỉ nói:
-
Như Lai đã từng thất bại - thì đức vua hãy xem sự thất bại như một bài học cụ
thể ở đời để giác ngộ, để thấy rõ bản chất như thực của nội tâm cũng như ngoại
cảnh tương giao phát sinh. Ngay chính những lo nghĩ, những buồn phiền cũng thế
- bản chất chúng cũng sinh diệt, này Mahānāma!
Đức
Phật dẫn dắt câu chuyện thật là khéo, đã đưa đức vua vào với giáo pháp hồi nào
mà ông ta cũng chẳng hay! Lời giáo giới ấy cho ông ta một phần nào tỉnh thức,
khuôn mặt đã thấy giãn ra!
Câu
chuyện vừa ngang đây thì Ānanda, Devadatta, Kimbila, Upāli, Anuruddha,
Bhaddiya, Kāḷudāyi... cùng bước vào... Đức vua Mahānāma chưa kịp chào hỏi thì
vị này vị kia đến ôm choàng lấy ông làm ông vô cùng mừng tủi. Thấy vị nào cốt
cách cũng cao sang, khuôn mặt ngời ngời không hề thấy một nếp nhăn - dù ai cũng
đã trên dưới tứ tuần - ông biết họ có nhiều căn lành, nhiều duyên phúc và nhiều
trí tuệ hơn ông!
Đức
Phật để cho họ tự do hàn huyên, ngài chỉ hỏi Ānanda:
-
Sāriputta và Moggallāna đi đâu?
-
Thưa, hai sư huynh của đệ tử đang giáo giới tại ni viện!
-
Vậy thì tối nay, Như Lai sẽ vào hoàng cung với Mahānāma để thuyết pháp cho
những người không đi được - còn ông, hãy thuyết pháp đến cho các Sākya cận sự
Nam nữ!
-
Thưa vâng, bạch đức Tôn Sư! Nhưng xin đức Tôn Sư cho đề tài phụ hợp với căn cơ.
-
Chuyện phước thôi, này Ānandā! Hãy thuyết làm sao cho dòng tộc Sākya biết giữ
ngũ giới cho tốt; ngoài ra, giải thích thêm lợi ích của bát quan trai giới!
Ngạc
nhiên, tôn giả Ānanda hỏi:
-
Dường như đề tài này, đức Tôn Sư, hai vị đại sư huynh và chư trưởng lão đã
thuyết nhiều lần tại đây rồi? Sao không cho đệ tử thuyết những pháp cao hơn?
-
Hãy cứ thuyết nữa đi! Do một số khá đông trong họ chưa giữ tròn ngũ giới - và
họ tỏ ra lơ là bát quan trai giới! Cứ nhắc đi nhắc lại mãi thì rồi họ cũng
thấm. Vả lại, nếu biết triển khai - thì những giới sơ cơ ấy cũng có bề rộng và
bề sâu vậy!
Ānanda
hiểu, tuân mệnh - và tôn giả biết mình làm được, thuyết được. Tuy nhiên, tôn
giả cũng chưa hiểu dụng ý của đức Chánh Biến Tri, bậc liễu thông tất cả. Chỉ có
đức Phật mới biết rằng, trong tương lai, dòng Sākya sẽ bị diệt vong - do hiểm
họa mà trong tâm tư ông vua Mahānāma đang lo nghĩ! Và chỉ có sức mạnh ngũ giới,
bát quan giới được hành trì, tu tập tốt - mới là chiếc phao phước báu đưa dòng
Sākya đi lên các cõi trời và người mà thôi!
Chiếc phao phước báu
Mấy
ngày hôm sau là những cuộc cúng dường đặt bát liên tục từ các gia đình hoàng
gia, các quan đại thần cùng các thương gia và gia chủ trong kinh thành. Các
buổi chiều, hai vị đại đệ tử và các vị trưởng lão đi giáo giới tại các tăng
viện, ni viện. Đức Phật cũng đi thăm một vòng quanh các cơ sở vừa mới thành
lập. Đâu đâu không khí cũng có vẻ an lạc và thanh bình. Các vị trưởng lão cho
biết là chư tăng ni chưa có những trường hợp nào có vẻ sai phạm lớn về đời sống
phạm hạnh. Riêng giới cư sĩ thì có vẻ chưa được thuần thành, nên tổ chức các
thời pháp lớn tại Rừng Cây Đa. Và đây cũng là ý của đức Thế Tôn.
Tôn
giả Ānanda đã thuyết ba thời pháp liên tục vào ba buổi chiều. Những thời pháp
của tôn giả có tác dụng lớn. Do được nghe nhiều lần nội dung về ngũ giới, về
bát quan trai giới từ kim khẩu đức Thế Tôn nên tôn giả đã triển khai theo một
chiều hướng khác, cách nói khác, bề rộng và bề sâu khác rất ấn tượng.
Tôn
giả thuyết rất mới mẻ rằng,
-
Giới như ngọn đèn trong đêm tối,
giới
như con mắt sáng nhìn xuyên qua lớp sương mù,
giới
như người bộ hành lên đường có bản đồ và đầy đủ lương thực,
giới
như chiếc thuyền ra khơi có la bàn định hướng,
giới
như thương gia làm ăn có sẵn vốn liếng,
giới
như vị tướng ra trận có quân cận vệ dũng cảm ở hai bên mình,
giới
như người thợ mộc có đầy đủ thước mực cùng lắm mẹo hay,
giới
như vị minh quân có sẵn các quan đại thần tài đức gồm đủ,
giới
như hạt mầm vừa mọc lên đầy đủ nước, ánh sáng, phân bón và công chăm sóc,
giới
như người vừa mới sanh ra trong gia đình có cha mẹ giàu sang và hiền thiện...
Do
vậy,
giới
là viên ngọc quý, là kho báu, là bảo tàng, là áo giáp thiện hạnh;
là
người bạn lành chung thủy,
là
đóa hoa tươi thắm sắc hương,
là
bài thơ trăng sao giữa nước mây lồng lộng...
Này
các vị Sākyaputta - những đứa con của dòng dõi Sākya - hãy
xem năm giới như tài sản của mình, vận may của mình, bậc thầy của mình, phước
lộc của mình, sức khỏe của mình, sinh mạng của mình - là chiếc chìa khóa có bộ
phận cơ cấu chi tiết tỷ lệ vàng có thể mở tất thảy mọi cánh cửa người, trời an
lành và hạnh phúc.
Đừng
đơn giản nghĩ rằng, không sát sanh chỉ là không giết người, giết vật - mà còn
phải học cho được bài học để giác ngộ rằng: Mới khởi một niệm sát, niệm sân,
niêm hại là cái tâm ấy đã uế nhiễm, đã là bất thiện rồi.
Liên
hệ giới này đối với bậc xuất gia thì lại càng khiếp nữa. Có một vị tỳ-khưu uống
nước ao hồ mà quên lọc - thế là đã bị giới phạm tỳ vết! Có một vị tỳ-khưu chỉ
bứt một cọng cỏ vô tình cũng phải đi sám hối!
Đừng
dễ dãi nghĩ rằng, không trộm cắp là không lấy cắp của người dù một cọng cỏ, một
cây kim là giới ấy đã viên mãn rồi! Phải học cho được bài học để giác ngộ rằng:
Chỉ khởi một niệm tham, một niệm chiếm hữu, một niệm sở hữu gì đó thì giới ấy ở
trong tâm đã bị lẹm khuyết, đã bị vấy bẩn rồi.
Liên
hệ giới này đối với sa-môn phạm hạnh lại càng vi tế hơn nhiều. Có một vị
tỳ-khưu vào ra nhà người bị dính một cọng tranh trên đầu mà ông ta giả
vờ là đã dính mắc nên đem trả lại! Có một vị tỳ-khưu tắm dưới hồ sen
đã bị một vị trời cười chê là ăn trộm hương sen!
Đừng
hời hợt nghĩ rằng, giữ tròn giới thứ ba là không tà vạy bất chánh với vợ con
người - mà còn phải học cho được bài học để giác ngộ rằng: Một niệm dục, một
niệm muốn thỏa mãn giác quan và cảm xúc đã làm cho giới này bị rò rỉ, bị mối
mọt, bị sâu đục từ trong ruột.
Đối
với chư tăng ni lại càng nghiêm túc hơn nữa. Một vị tỳ-khưu nhìn người phụ nữ
mà nắm tướng chung, nắm tướng riêng (biết là trẻ, già, mập, ốm) là
đã không được rồi! Có một vị tỳ-khưu, lúc tu tập mà nắm bắt tịnh tướng (đẹp,
sạch) là đã bị chúng bạn cười chê!
Đừng
nông cạn nghĩ rằng, chỉ không nói dối láo là giữ tròn giới thứ tư - mà còn phải
học bài học để giác ngộ rằng: Bất cứ tác hành nào về khẩu ngôn, khẩu ngữ mà
không y cứ trên sự thật, trên nền tảng cái chân thật - thì giới ấy đã bị cong
quẹo, nghiêng lệch rồi.
Các
hàng sa-môn quyết đi theo cái như thật, cái như thật đến tận cùng - như một vị
tỳ-khưu tu tập tuệ minh sát, một khởi ý lệch hướng, sai hướng (Ayonisomanasikāra) đã
có thể đi trệch chánh pháp! Một vị tỳ khưu còn phải tránh xa nói hai lưỡi, nói
thêu dệt, nói ác độc, nói phù phiếm, nói hoa mỹ, nói thêm bớt, nói vô ích, nói
rỗng không, nói gợi ý, nói ngon ngọt văn chương bóng bẩy... nữa.
Đừng
vội vàng nghĩ rằng, không uống rượu và các loại men đã là tốt rồi. Mà còn phải
chiêm nghiệm sâu xa hơn về các loại chất say ấy. Phải học cho được bài học để
giác ngộ rằng: Say nào cũng là say; có cái say thô thiển, có cái say vi tế; có
chất say thuộc về vật, có chất say thuộc về tâm; có loại say thuộc sắc thanh
hương vị xúc, có loại say thuộc về mắt tai mũi lưỡi thân!
Các
hàng xuất gia thì công phu miên mật hơn về giới này, ngày đêm bám sát, chánh
niệm, tỉnh giác không rời; vì chỉ cần dính ở đâu đó, an trú ở đâu đó hơi lâu -
thì phải trực thức, phản tỉnh tức khắc, chiếu soi tức khắc - là mình đã say, đã
đắm, đã dính vào đối tượng đó chưa!
Như
vậy đấy, nào các hàng cận sự Nam nữ! Quý vị đừng có than phiền với đức Thế Tôn
là ngũ giới khó khăn, ngũ giới là cái gì rất khó thọ trì đối với hàng tại gia
lúc còn phải buôn bán, làm ăn, giao tiếp với cộng đồng, xã hội. Than phiền là
tâm lý thường tình của quý vị - một giãi đãi, một buông xuôi, một tiêu cực, một
cầu an - như là một thỏa hiệp với ma vương đấy thôi! Cái đó tùy! Nhưng mai này,
địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh, a-tu-la... là những cánh cửa rộng thênh thang để
quý vị đi vào! Quý vị đã thủ chiếc chìa khóa để mở những cánh cửa ấy. Rồi mai
này, đừng than nóng, đừng than vạc dầu, đừng than hầm chông, đừng than chặt đầu
lột da, đừng than tăm tối, đừng than nhầy nhụa máu mủ, đừng than đói khát, giá
lạnh, đừng than tối tăm ngu si, đừng than đần độn, lông lá, đừng than thống
khổ, sợ hãi, đọa đày, sầu bi ưu não...
Hãy
thức dậy giữa đám người say ngủ! Hãy tỉnh táo giữa đám người mê lú! Hãy tăng
tốc lực phi mã giữa đám ngựa què! Hãy vượt lên đồi cao giữa đám nhân loại bạc
nhược yếu hèn! Hãy đi bằng con mắt của mình, đôi chân của mình, ngọn đèn của
mình! Hãy chiến thắng! Hãy tự do! Này dòng dõi Sākya anh hùng!
Không
dừng lại ở đó, bài pháp của tôn giả còn nói thêm về ba giới nữa.
Như
một con ngựa dòng giống Sidhu lại còn cho ăn uống sung sức.
Như
một căn phòng hương lại sắm sanh vật dụng bằng các loại gỗ hương.
Như
chiếc thuyền đi đúng hướng lại có thêm chiếc buồm no gió.
Như
cánh diều chắc bền lên cao lại được nới thêm giây. Như lối đến một vườn hoa lại
được mở ra một rừng kỳ hoa dị thảo!
Ai
tu tập thêm ba giới nữa, một ngày, một đêm là tập sống như một vị tỳ-khưu một
ngày một đêm!
Ai
giữ thêm được ba giới nữa hai ngày hai đêm là tập sống giải thoát như Phật, như
chư vị A-la-hán hai ngày hai đêm! Phải kiên quyết thu xếp tất cả mọi chuyện bận
bịu vướng mắc của gia đình để thọ trì 8 giới một tháng 6 ngày,
8 ngày là quý vị đã gieo duyên chánh tâm, chánh trí, chánh kiến...
không còn bao giờ bị đi đọa vào các cảnh giới đau khổ, lạc vào tà kiến, ngoại
đạo nữa!
Tóm
lại, năm giới, tám giới kia - là chiếc phao phước báu kiên cố, vững bền - chư
vị phải biết nắm chắc, hãy cố mà leo lên và hãy ráng dùng sức tay, nghị lực, ý
chí mà quẫy, mà bơi!
Hãy
bỏ bờ khổ đến bờ vui,
Bỏ
bờ ngu sang bờ trí,
Bỏ
bờ mê sang bờ giác!
Không
ai có thể cứu chúng ta, nếu chúng ta không ra sức tự cứu!
Bài
pháp của tôn giả Ānanda đã làm cho cử tọa thính chúng như một con bệnh được
uống một liều thần dược, khí huyết chuyển động rào rào. Họ như được tiếp thêm
niềm tin và ánh sáng cho lối đi, thêm dinh dưỡng sức khỏe cho tâm và trí... họ
cất vang lời tán thán “ lành thay! lành thay!” vang động cả
rừng cây trầm mặc. Hoa nẩy hương. Cành đơm lá. Đá mọc mầm. Và cận sự Nam nữ
Sākya thơ thới, an vui bước đi bên sau gót chân xuất trần của giáo đoàn thanh
tịnh. Rất nhiều căn cơ bất thối.
Sau
thời pháp, tôn giả Ānanda được đức Phật, hai vị đại đệ tử và các hàng trưởng
lão khen ngợi; được hai giáo hội tăng ni quý trọng, tín phục và được cả thiện
tín hai hàng, cả kinh thành kính yêu và cảm mến!
Sa môn đầu trọc
Càng
ngược Tây Bắc chừng nào thì khí hậu, thời tiết nghe lại càng dễ chịu hơn. Đức
Thế Tôn và đại chúng đã rời Kapilavatthu một ngày đường, chừng hai ba hôm nữa
thôi là họ sẽ đến Sāvatthī nước Kosala. Vật thực kiếm được bên các xóm làng
cũng tương đối đầy đủ cho một hội chúng quá đông. Tuy nhiên, đức Phật đã thận
trọng bảo các vị trưởng lão phân chia cách quãng từng đoạn, từng đoạn hoặc rải
rác những lộ trình khác nhau. Hai vị đại đệ tử năng động lúc xuất hiện nơi này,
lúc xuất hiện nơi khác để chăm sóc hội chúng. Lúc nào cũng có kẻ cảm đau bất
ngờ, người nằm nghỉ dọc đường do yếu mệt hoặc chúng sa-di tuy khỏe khoắn nhưng
thường ham chơi, nghịch ngợm tắm sông, tắm suối... lạc mất hội chúng là chuyện
bình thường!
Đất
nước Kosala nổi tiếng là giàu mạnh và tươi đẹp, vượt trội các tiểu quốc và các
nước hùng cường phương Nam, nhưng nhìn chung thì những thôn làng giáp biên vẫn
quạnh vắng và tiêu điều. Nạn cướp đường vẫn thường hay xuất hiện trên lộ trình
thương mãi này, không thể tảo trừ tận gốc được. Các nhà xã hội học thường giải
thích tệ trạng này là do còn nghèo đói, bất công; tuy nhiên, theo giáo pháp của
Phật, được nhìn xuyên suốt qua các kiếp sống của chúng sanh, thì nguyên nhân
kia tuy đúng, nhưng nó chỉ là phần ngọn; còn cái phần gốc, cái căn cội sâu xa
là do tâm, chủng nghiệp mà sinh ra.
Thật
không thể làm gì được, tốt đẹp hơn cho thế gian này bằng sự tu tập và truyền bá
giáo pháp cho chúng sinh tự thấy biết nhân quả, nghiệp báo, sợ hãi việc xấu ác
và làm những việc lành tốt; cuối cùng là giữ được tâm trí trong lành, mát mẻ,
an tịnh là tạo được hạnh phúc cho đời này và nhiều đời sau...
Đi
bên bờ Nam của một con sông Aciravatī nước cạn, đục lờ, đường sá, nhà cửa trông
đã xuống cấp, vài ba ngôi thành bỏ hoang, dân cư thưa thớt, thấp thoáng xa gần
là những đàn bò, đàn dê mỏi mệt gặm cỏ, gặm cây lá trên những đám đất khô
vàng... đức Phật bước chậm lại, ngoảnh nhìn phía sau. Nhìn những đoàn sa-môn
đầu trọc, nối tiếp nhau, lố nhố, thấp thoáng sau các hàng cây... đức Phật chợt
mỉm cười, nụ cười rất lạ. Đi cạnh bên, thấy được vậy, tôn giả Ānanda thưa hỏi
lý do nụ cười.
Đức
Phật nói:
-
Tại chỗ này, vùng này, cả một miền sông núi, thung lũng có vẻ xơ xác, hoang tàn
này - thuở xưa có ai ngờ được rằng, là một thị trấn hữu danh, với lâu đài, dinh
thự, nhà cửa khang trang, sông trong, cây lành, trái ngọt, trù phú, thạnh mậu -
có tên là Vebhalinga, có một vị Phật ra đời đấy, này Ānanda!
-
Nhưng mà nó có liên hệ gì nụ cười đâu?
Đức
Phật leo lên một ngọn đồi nhỏ ven đường, ngồi nghỉ dưới bóng cây, lấy tay chỉ
từng đoàn tỳ-khưu lố nhố gần xa - rồi nói:
-
Ông có thấy những chiếc đầu trọc, kế tiếp những đầu trọc, trông rất vui mắt kia
chăng?
Tôn
giả Ānanda mỉm cười khi thấy đức Thế Tôn nói đến những cái đầu trọc!
-
Dạ có thấy!
-
Vì những cái đầu trọc ấy, mà Như Lai liên tưởng thuở đức Phật Kassapa ở thị
trấn này, có một chàng thanh niên ngổ ngáo đã từng gọi vị Phật ấy là “sa-môn
đầu trọc” nên Như Lai mỉm cười!
Thấy
trời đã xế chiều, có lẽ đêm nay sẽ tạm cư ở đây, đức Phật cho triệu tập đại
chúng, rồi kể lại tích truyện xưa liên hệ đến sa môn đầu trọc!
“- Thuở ấy, tu viện của đức Phật Kassapa ỏ gần đâu đây, trong vùng
này, để giáo hóa chư tăng. Ngài có môt vị đàn tín đệ nhất là người thợ làm đồ
gốm, tên là Ghaṭīkāra. Mặc dầu nhà nghèo lại sanh thuộc hạ cấp, Ghaṭīkāra rất
được sự ưu ái của Thế Tôn Kassapa - vì ông ta đã thành tựu được lòng tin bất
thối với Tam Bảo, đã đoạn trừ được năm hạ phần kiết sử [i], và đang sống trong giới luật của bậc thánh.
Bạn thân với Ghaṭīkāra là thanh niên Jotipāla, thuộc giai cấp
bà-la-môn nhưng lại không có lòng tin với tôn giáo. Đã rất nhiều lần, người thợ
gốm Ghaṭīkāra khuyên bảo bạn mình đến nghe pháp hầu giúp bạn tiến hóa nhưng đều
bị Jotipāla từ chối, lại còn nói: “ Đến với cái ông sa-môn đầu trọc ấy mà làm
gì?”
Chẳng giận, chẳng buồn, chẳng nhụt chí - người thợ gốm vẫn với tâm
từ ái và nhẫn nại sâu xa, quyết tâm tìm cách khuyến hóa bạn mình cho bằng được.
Một lần nọ, sau khi chu tất việc cơm nước phụng dưỡng cho cha mẹ
mù lòa, Ghaṭīkāra đến thăm bạn với trang phục bình dị nhưng dung sắc rạng rỡ
được toát ra từ một nội tâm không lúc nào là không thanh tịnh lạc trú.
Thấy Ghaṭīkāra, thanh niên Jotipāla cười cười:
- Có phải bạn sẽ mở lời quen thuộc: “Này bạn! Hôm nay trời đất
thật là trong sáng, mỹ diệu, thù thắng, không một mảy bụi. Hoa nở rộ. Hương
thơm ngát. Từng con đường cũng trong sáng, thù thắng, mỹ diệu, không một mảy
bụi. Thế Tôn Kassapa đang ngụ cư trong một tu viện gần đây, không bao xa, ta
hãy cùng đến đảnh lễ ngài, nghe pháp; rồi ta sẽ hưởng được phúc lạc tối
thượng!”
Biết bạn là người thông minh, đã nói câu chặn họng, nhưng
Ghaṭīkāra không chấp, vẫn mỉm cười, dịu dàng nói:
- Dòng sông mùa xuân trong xanh, mỹ diệu, tuyệt vời, không một mảy
bụi. Thật là thoải mái, mát mẻ cho ta được bơi lội ở nơi ấy, được hít thở không
khí trong lành, không một mảy bụi; được chà xát thân thể bằng bột tắm và đồ gãi
lưng. Này bạn! Hãy cầm đồ gãi lưng và bột tắm, ta sẽ đi ra sông!
Thanh niên Jotipāla ngạc nhiên, nhưng rồi đã gật đầu lia lịa:
- Thế mới phải chứ! Đấy là điều mà ta mong ước, này thiện hữu!
Đến bờ sông, Ghaṭīkāra dẫn bạn mình đi xa một tí, đi xa một tí
nữa...
Thanh niên Jotipāla dừng phắt lại:
- Chỗ này nước xanh và trong, sao không tắm ở đây, lại đi xa hơn
năm đòn gánh, mười đòn gánh? À, hóa ra, bạn đã cố ý dẫn ta đến gần tu viện của
sa-môn đầu trọc ấy?
Biết không thể qua mặt cái ông bạn có đầu óc sắc bén, tinh tế này
- Ghaṭīkāra bèn dừng chân lại.
Sau khi tắm xong, Ghaṭīkāra nắm chặt tay Jotipāla như cái móc sắt,
nói rằng:
- Thật hy hữu thay khi có một đức Thế Tôn, đại A-la-hán, Chánh
Đẳng Giác ra đời. Làm thân người đã khó, làm thân người Nam khó hơn, làm thân
người Nam mà toàn hảo ngũ quan càng khó hơn nữa. Lại sinh nhằm thời có đấng
Pháp Vương vô thượng lại càng hy hữu. Hãy đi! Chớ có chần chờ, chớ có trì hoãn!
Hãy đến yết kiến ngài và nghe pháp! Đừng có cứng đầu nữa!
Sau một hồi vùng vẫy bằng sức mạnh của mình, thoát ra được, thanh
niên Jotipāla cười ha hả:
- Thôi mà ông bạn! Vừa rồi! Đủ rồi! Chán cả cái lỗ tai rồi! Yết
kiến sa-môn đầu trọc ấy mà làm gì, an lạc gì, lợi ích gì! Thôi! Đừng có nói
nữa!
Người thợ gốm, lần này, khởi lên sự cương quyết tối thượng, sức
mạnh được sử dụng định lực để tập trung tối thượng - nắm chặt chỏm tóc của
thanh niên Jotipāla, cất giọng uy nghiêm:
- Này ông bạn thân! Thế Tôn Kassapa ở gần đây, không có bao xa.
Lần này bạn không thể thoát đi đâu được. Ta sẽ nắm chặt, sẽ lôi và kéo bạn đến
yết kiến đức Thế Tôn ấy! Dầu tay ta có bị đốt bằng lửa, có bị chặt bằng dao,
bạn đừng nghĩ rằng ta sẽ thả tay ra. Ta sẽ không bao giờ thôi nắm chỏm tóc của
bạn nếu chưa đạt được ý nguyện!
Nghe lời nói có thép, có lửa - thanh niên Jotipāla chợt dựng tóc
gáy, thần sắc thay đổi, một ý nghĩ khởi sanh: “ Thật là kỳ diệu! Thật là hy
hữu! Bạn thân của ta, thợ gốm Ghaṭīkāra tuy sanh thuộc hạ cấp, lại dám nắm chặt
búi tóc của ta bằng cả hai tay? Lại còn hăm dọa sẽ lôi, sẽ kéo ta đi - dẫu ta
vừa mới gội đầu, dẫu ta sanh thuộc giai cấp thượng đẳng? Việc này chắc chắn
không phải tầm thường mà phải có lý do trọng đại? Lại nữa, bạn ta còn nói, đẫu
bị đốt bằng lửa, bị chặt bằng dao, y cũng không buông ra? Việc ấy sẽ có lợi gì
cho y mà y khổ tâm đến thế? Thôi! Đúng rồi! Rõ ràng là y đã có tâm từ ái đối
với ta chứ không phải là có ác ý! Ồ, mà bạn ta có ác ý với ai bao giờ dù cả với
con sâu, cái kiến!”
Nghĩ thế xong, thanh niên Jotipāla mềm mỏng nói:
- Ta hiểu rồi! Ta hiểu ý tốt của bạn rồi! Nhưng đến yết kiến ông
sa môn đầu trọc kia, có cần thiết phải dùng cả hai tay nắm chặt chỏm tóc, lại
còn hăm dọa lôi và kéo nữa?
- Cần thiết lắm chứ - người thợ gốm gật đầu cương quyết - vô cùng
cần thiết nếu bạn không chịu đi, không chịu đến yết kiến đức Đại Tôn Sư!
Thấy thần sắc nghiêm nghị của bạn, Jotipāla nghĩ thầm: “ Chưa một
lần nào, y bỡn cợt với ta! Chưa một lần nào mà ta thấy y lẫm lẫm uy nghiêm như
thế! Dẫu ta có sức mạnh của tượng vương, dẫu ta có uy mãnh như sư tử vương - y
vẫn lôi và kéo ta đi như thường, không có thối thất, không có nhụt chí!”
- Thôi! Hãy thả tay ra đi, ông bạn hiền thiện! Thanh niên Jotipāla
thở ra một hơi dài, có vẻ thua cuộc - Ta hứa ta sẽ đi yết kiến đức Thế Tôn, bậc A-la-hán,
Chánh Đẳng Giác của bạn.
Khi họ cùng đến nơi, người thợ gốm cung kính đảnh lễ đức Phật
Kassapa còn thanh niên Jotipāla chỉ mở lời chào lấy lệ rồi ngồi một bên.
Ghaṭīkāra giới thiệu bạn của mình rồi khẩn thiết yêu cầu đức Thế
Tôn ưu ái thuyết cho Jotipāla nghe một thời pháp.
Thế rồi, quán căn cơ xong, đức Phật, với pháp thoại đã làm cho
người thợ gốm cùng chàng thanh niên đều thích thú, phấn khích. Họ hoan hỷ tín
thọ lời dạy của đức Thế Tôn.
Như vừa được hóa sanh từ giáo pháp, với hỷ và lạc đầy ắp trong
tâm, với tín và trí ngời sáng trong mắt - trên đường về, thanh niên Jotipāla
nói với người thợ gốm:
- Quả thật là tôi rất ngạc nhiên - là tại sao khi nghe được những
thời pháp vi diệu, thù thắng như thế mà bạn lại không từ bỏ gia đình, sống
không gia đình, xuất gia theo giáo pháp của đức Tôn Sư?
Thợ gốm Ghaṭīkāra dừng lại, nắm chặt hai tay bạn:
- Phải lắm! Với thời pháp tối thượng ấy, ai là người có tai, có
trí đều xa lìa thế gian cát bụi để sống đời trong lành, vô nhiễm.
Thanh niên Jotipāla xoay người lại, nắm cổ tay của người thợ gốm
với sức mạnh chưa từng được thấy:
- Vậy tại sao bạn không xuất gia? Hay là tôi sẽ nắm chặt búi tóc
bạn rồi kéo, rồi lôi bằng thần lực của trăm con voi to, ngàn con voi to?
Ghaṭīkāra phì cười:
- Coi kìa! Bạn phấn khích quá mà quên hoàn cảnh của tôi rồi! Tôi
còn cha mẹ mù lòa ở nhà cần phải có người phụng dưỡng chứ!
- Ờ, xin lỗi! Thật tình xin lỗi! Còn tôi, ngay ngày mai, sẽ xuất
gia thôi, không chần chờ một ngày nào nữa.
Thế rồi, thanh niên Jotipāla được xuất gia, thọ đại giới vào ngày
hôm sau, bước vào đời sống phạm hạnh dễ dàng và thuận duyên như cá bơi trong
nước...
Trời
đã tối. Đức Thế Tôn mới kể đến ngang đây, đang ngừng hơi - thì tôn giả Ānanda
cảm thán:
-
Cái căn cơ của chàng thanh niên sao mà bén nhạy và sâu dày đến thế? Chỉ một
thời pháp đã xoay ngược toàn bộ tri kiến, từ cái câu khinh mạn “ sa-môn
đầu trọc” qua câu tôn kính “ đức Tôn Sư” chỉ có mấy
nháy mắt!
Đức
Phật mỉm cười:
-
Đừng tưởng thanh niên ấy là ai, là Như Lai đấy! Và cũng đừng tưởng người thợ
gốm ấy là ai, chính là phạm thiên Sahampati - người đã phương tiện thỉnh mời
Như Lai xuống núi độ sinh tại Bhodhigayā độ nào!
Sự
tiết lộ của đức Phật làm đại chúng tròn mắt, rồi xì xào bàn tán. Nghe nói rằng,
đức Đạo Sư đã từng phát nguyện Chánh Đẳng Giác từ thời đức Phật Dīpaṅkāra, đã
tu tập ba-la-mật đến 4 a-tăng-kỳ và trăm ngàn đại kiếp. Lẽ ra, năng
lực công phu ấy nó sẽ tiềm tàng trong dòng nghiệp, dòng tâm. Làm sao có thể
quên được mà lại phát ngôn mạo phạm một vị Phật kia chứ?
Đức
Phật biết cái thắc mắc ấy nên ngài nói:
-
Ừ, các thầy nghi ngờ là đúng! Quả thật có một ác nghiệp ngăn che. Một kiếp nọ,
có một vị vua trông coi một quốc độ phồn vinh nhưng lại bị tà giáo lộng hành,
đâu đâu cũng là những đạo sĩ giả hiệu lập giáo nơi này, lập giáo nơi kia, ma mị
bòn rút của dân. Trăm trăm ngàn ngàn tu sĩ cạo trọc đầu sống đời biếng nhác
kiếm ăn đủ mọi cách xảo trá, bất chánh. Thế là kỷ cương, phép nước được đặt ra.
Vị vua kia bèn cho quân đội lùng sục các nơi - bắt bọn trọc đầu kia phải hoàn
tục về nhà làm ăn sinh sống - hoặc đuổi ra khỏi nước. Vị vua kia bị
ám ảnh... bị ám ảnh “ những cái đầu trọc” từ độ ấy; rồi nó còn
ăn lan qua kiếp thứ hai, kiếp thứ ba lúc làm một vị quốc sư, lúc làm một quan
tổng trấn.
Ồ,
các thầy đừng tưởng vị vua ấy là ai, là Như Lai đấy. Tuy nhiên, cũng nhờ căn tu
sâu dày, sự che ám ấy chỉ cần một người bạn lành, một người bạn tốt - như phạm
thiên Sahampati nhắc nhở là Như Lai trở lại đường xưa lối cũ ngay!
Đại
chúng thở phào do hiểu được sự vận hành kỳ lạ của nhân quả nghiệp báo.
Đến
ngang đây thì giữa hư không chợt sáng rực rồi vọng xuống tiếng nói:
-
Đức Thế Tôn căn cơ thâm hậu, mẫn tiệp gấp triệu triệu lần đệ tử! Nếu không nhắc
nhở - thì đức Tôn Sư vẫn trở lại với dòng tâm, dòng trí của mình như thường!
Cái dòng ba-la-mật ấy cuồn cuộn, với năng lực tối thượng thì vài hòn sỏi, hòn
sạn đâu có mấy hơi sức mà đòi ngăn trở!
Đức
Phật cũng cất giọng phạm âm:
-
Này phạm thiên Sahampati! Ông bạn có thuận cho Như Lai kể lại hành trạng tối
thượng của người thợ gốm ấy cho đại chúng nghe chăng?
-
Đức Thế Tôn tùy nghi! Nhưng theo đệ tử hiểu - là đức Thế Tôn nên lựa chọn một
hội chúng khác, có lẽ tại Sāvatthī, có đầy đủ vua quan cùng hai hàng cận sự Nam
nữ thì lợi ích thù thắng hơn nhiều!
-
Ừ, đúng là vậy!
-
Thôi, Thế Tôn hãy nghỉ ngơi! Đệ tử vấn an sức khỏe đức Tôn Sư và xin được cáo
biệt!
Ai
cũng háo hức muốn nghe tiếp nhưng đức Phật đã ngừng chuyện kể. Họ âm thầm đảnh
lễ đức Phật rồi mỗi người tự tìm lấy một gốc cây, một bãi trống, một hang đá
nào đó tùy nghi qua đêm.
Núi
rừng như đi vào thiền định.
[i] Thân kiến, hoài nghi, giới cấm thủ, tình
dục, bất bình.
Hóa độ Bà La Môn
Nhẩm
tính thời gian, đức Phật biết là ngài sẽ ở lại Jetavana không được lâu. Sắp đến
mùa an cư thứ chín, ngài sẽ có nhân duyên phải trở xuống Bārāṇasī rồi sang
Kosambī. Sáng ngày khi rời ngọn đồi, đức Phật lại không đi vào thành Sāvatthī
mà ở đó, chư tăng cũng như hai hàng cư sĩ mong mỏi - lại đi chệch sang một ngôi
làng bà-la-môn hữu danh.
Từ
lâu, đức Phật chưa muốn nhập hạ ở Kỳ Viên vì ngài biết rằng, xứ sở này có rất
nhiều bà-la-môn uy tín lớn, kéo theo hằng ngàn đồ chúng tín mộ. Ngày nào mà
chưa “mở mắt” được những vị bà-la-môn trưởng thượng này - thì
Kỳ Viên chưa phát triển, hưng thịnh được. Lại nữa, ở đây đã được đức vua
Pasenadi bảo trợ, lại sẵn có nhiều vị trưởng lão - còn những nơi khác thì lực
lượng mỏng hơn, phải ưu tiên cho các quốc độ biên địa!
Tôn
giả Sāriputta rất rộng kiến văn:
-
Đại bà-la-môn Pokkharasādi nổi tiếng nhiều quốc độ. Ông ta là ngọn đèn, là con
mắt sáng cho giới cấp bà-la-môn, nghe đâu, ông ta đang ở tại Ukkattha - một chỗ
dân cư đông đúc, cây trái, ao hồ, ngũ cốc phong phú, vốn là một lãnh địa ân tứ
của đức vua Pasenadi - ông ta được hưởng một phần lợi tức.
Đức
Phật gật đầu:
-
Đúng vậy! Nơi này dân cư thưa thớt, khất thực khó
khăn cho cả một đại chúng đông đảo như thế này. Vậy các vị trưởng lão tùy nghi phân phối đi nhiều đường - buổi chiều hoặc tối sẽ gặp nhau tại khu rừng thuộc ngôi làng Icchānankala, gần Ukkattha. Tối nay chúng ta sẽ qua đêm ở đấy.
khăn cho cả một đại chúng đông đảo như thế này. Vậy các vị trưởng lão tùy nghi phân phối đi nhiều đường - buổi chiều hoặc tối sẽ gặp nhau tại khu rừng thuộc ngôi làng Icchānankala, gần Ukkattha. Tối nay chúng ta sẽ qua đêm ở đấy.
Nghe
tin đức Phật và đại chúng đang vân hành đến hướng Icchānankala, bà-la-môn
Pokkarasādi đã được chúng đệ tử báo tin. Đồng thời, tin đồn về đức Phật như thế
nào về huyết thống, dòng dõi, sở học, sự chứng đắc và cả sự rầm rộ sinh hoạt
của một tôn giáo mới này đã tràn vào tai họ từ lâu. Ai cũng xôn xao muốn đi
chiêm bái, xem thử hư thực ra sao!
Bà-la-môn
Pokkharasādi nói với đệ tử thân tín:
-
Này Ambattha! Ngươi đã được ta trao cho tất cả mọi sở học, đặc biệt, chú thuật
thượng đẳng ta cũng không che giấu. Vậy, hãy thay mặt ta, đến gặp sa-môn
Gotama, nghe nói là tại khu rừng cách đây không bao xa. Đối thoại được thì đối
thoại. Tranh luận được thì tranh luận, xem thử kiến văn, sở học của ông ta ra
sao. Và điều quan trọng nhất là xem thử ông ta có đầy đủ 32 tướng của bậc đại
nhân không?
Thanh
niên bà-la-môn Ambattha hiểu - theo nhân tướng học truyền đời - nếu có đủ 32
tưiớng của bậc đại nhân, thì một, là làm chuyển luân thánh vương, hai là đắc
quả Phật!
Vâng
lời, Ambattha đem theo một số đông thanh niên bà-la-môn khác, lên xe ngựa kéo
đến khu rừng. Họ hỏi nơi tịnh chỉ của đức Phật.
Một
vị tỳ-khưu biết Ambattha, sau khi chỉ chỗ đức Phật, nói với bạn hữu:
-
Hắn ta là môn đệ ưu tú của bà-la-môn Pokkharasādi, hữu danh đấy, trưởng tràng
đấy! Lạ gì mấy cái chú ngựa non háu đá này! Gặp đức Tôn Sư chắc ngài sẽ dạy cho
y một bài học thú vị đây!
Nói
thế xong, tai truyền tai, miệng truyền miệng, chư tăng kéo đến, ngồi đứng xa
xa, cách một quãng vừa phải - gốc cây si to lớn, mát mẻ - nơi đức Phật đang an
tọa.
Đến
chỗ Thế Tôn, các thanh niên bà-la-môn mở lời chào hỏi xã giao rồi ngồi xuống
nơi thích hợp. Riêng thanh niên Ambattha thì không thèm chào hỏi, cứ đi qua đi
lại, cất lời ỡm ờ, tiếng được tiếng mất, không rõ ràng...
Đức
Phật nói:
-
Này Ambattha! Có phải các bà-la-môn trưởng thượng đã dạy cho ngươi rằng, khi
gặp một người có tuổi tác chú cha, các bậc giáo sư, tổ sư, các bậc tôn
trưởng - thì không thèm chào hỏi, cứ đi lui đi tới như thế, thốt lời
ỡm ờ, tiếng được tiếng mất như thế chăng?
-
Không phải vậy, này Gotama! Phải đi mà nói chuyện với vị ấy, khi vị ấy đang đi!
Phải ngồi mà nói chuyện với vị ấy khi vị ấy đang ngồi. Các oai nghi khác cũng
thế! Đấy là điều mà tôi đã được học, phải biết xử sự cho đúng lễ phép ở đời -
đối với những bậc trưởng thượng thật sự. Còn ông là gì nào? Hở ông Gotama? Ông là
một sa-môn hèn hạ, trọc đầu, đê tiện, đen đui, sanh ra từ nơi chân của một bà
mẹ hạ liệt - nên ta phải nói chuyện như đối với một người hạ liệt!
Biết
là bị thanh niên phỉ báng, chọc tức nhưng đức Phật chưa cần thiết phải phản
ứng; ngài chỉ nói một cách rất nghiêm túc:
-
Này Ambattha! Như Lai chưa rõ ngươi đến đây với dụng ý gì? Hãy khéo tác ý cho
đúng với mục đích khiến ngươi tới đây do bà-la-môn Pokkharasādi giao phó! Hãy
cẩn thận giữ gìn tư cách và tác phong - đừng sử dụng ngôn ngữ của một tên du
đãng vô học, vô giáo dục như thế!
Nghe
cụm từ “ tên du đãng vô học, vô giáo dục” - thanh niên
Ambattha tức giận đến sôi gan, cất lời thóa mạ:
-
Này Gotama! Thô bạo là dòng họ Sākya! Ác độc là dòng dõi Sākya! Khi mạn là dòng
tộc Sākya! Hung dữ, đê tiện cũng là giống dòng Sākya! Cái dòng Sākya hạ liệt,
xuẩn ngốc, đê tiện của ông lại cả gan không kính nhường, không lễ bái, không
tôn trọng, không cúng dường bà-la-môn! Vậy là không hợp lẽ, không đúng pháp!
Đức
Phật vẫn bình tĩnh, hỏi lại cho ra lẽ:
-
Này Ambattha! Dòng họ Sākya đã làm gì ngươi mà ngươi phỉ báng họ đến tận cùng
như thế?
-
Có chứ, này Gotama! Một thời, có công việc do thầy ta ủy nhiệm, ta đã đi đến
Kapilavatthu, vào trong hội trường của dòng họ Sākya. Lúc ấy, một số đông thanh
thiếu niên Sākya đang ngồi chơi trên ghế cao tại hội trường. Thấy ta, chúng
không thèm chào hỏi, không mời ngồi - lại còn đùa bỡn, lấy những ngón tay thọc
lét nhau rồi cười ha hả, cười hi hi - làm ta tức lộn ruột, vì ta chính là mục
tiêu của sự bỡn cợt ấy, chứ không phải ai khác!
Đức
Phật vẫn ôn tồn:
-
Này Ambattha! Ngươi có thấy những con chim cáy không? Đấy là những con chim cáy
con - chúng có thể tự ca, tự hát, tự chơi đùa thỏa thích trong cái tổ của
chúng. Đấy là sự thường thôi. Ngươi có thấy là ngươi đã phật lòng vì một chuyện
nhỏ mọn, rồi đi mà phỉ báng, nhiếc mắng cả một dòng họ, có xứng đáng không, có
đúng với tư cách của một người hiểu biết không?
Thanh
niên Ambattha lại sừng sộ:
-
Hiểu biết cái gì? Chính ông là người không hiểu biết. Ông không hiểu biết rằng,
trong bốn giai cấp - thì giai cấp bà-la-môn là trên trước, là thượng đẳng. Các
giai cấp kia, sát-đế-lỵ, vệ-xá, thủ-đà-la phải có bổn phận tôn trọng, đảnh lễ,
cúng dường, hầu hạ bà-la-môn hay sao?
Đức
Phật thấy đã ba lần thanh niên này mạt sát dòng tộc Sākya. Nó ngu si và chấp
kiến một cách lì lợm. Và sự ngu si, chấp kiến ấy đã ăn sâu trong truyền thống.
Vậy phải vạch trần sự sai lầm cả truyền thống ấy cho nó thấy, cho thầy nó thấy
và cả cho toàn thể bà-la-môn trên toàn cõi châu Diêm-phù-đề này nữa!
Đức
Phật, bắt đầu hỏi gốc nguồn của “tên bà-la-môn” này trước:
-
Dòng họ ngươi là gì, này Ambattha?
-
Dòng họ ta là Kaṇhāyanā!
-
Này Ambattha! Nếu theo phụ mẫu hệ của ngươi về quá khứ - thì dòng họ Sākya là
thầy của ngươi. Và ngươi chính là con cháu hằng chục đời của một nữ tỳ dòng họ
Sākya. Chắc dòng dõi của ngươi đều biết rằng, tiên tổ của dòng họ Sākya là đức
vua Okkāka đệ tam. Do ông ta muốn trao vương vị cho vị hoàng tử, con của một bà
hoàng hậu được sủng ái - mà chín người con, 4 trai, 5 gái phải lên rừng để kiến
tạo vương quốc mới. Và họ là những người rất dũng cảm, đã làm được điều như họ
muốn. Vì muốn bảo vệ huyết thống cho khỏi phai loãng, 8 anh chị em họ kết thành
vợ chồng, cô công chúa trưởng đứng làm chủ hôn.
Hôm
kia, đức vua Okkāka đệ tam hỏi các đại thần, là không biết các hoàng tử và công
chúa giờ như thế nào? Được họ trả lời là rất giỏi, rất tài, những bàn tay và
những khối óc ấy đã gầy dựng được một vương quốc tuy nhỏ bé nhưng rất giàu
mạnh! Vua hân hoan quá, thốt lên: “Họ đúng là những Sākya [i] xuất chúng!”. Từ đấy dòng họ Sākya ra đời! Và Okkāka đệ
tam chính là tiên tổ của dòng họ Sākya.
Này
Ambattha! Rồi câu chuyện được tiếp tục như sau. Đức vua thương yêu một cô nữ
tỳ, tên là Disā, và họ có sinh một người con, da rất đen và rất xấu xí. Vừa mới
sinh, cậu bé đã nói với mẹ: “ Này mẹ! Con đen và xấu xí quá, mẹ hãy tắm
cho con, hãy gội cho con, hãy tẩy sạch tất cả mọi bất tịnh ở nơi con. Rồi con
sẽ giúp cho mẹ được nhiều việc lắm”. Người mẹ buồn phiền vì ai thấy
mặt nó đều nói là “ kaṇha, kaṇha” - là đen, là xấu, là
ác, là ác quỷ - từ đó thành tên. Dòng họ của ngươi, tiên tổ của
ngươi “ Kaṇhāyanā” là từ đây mà phát sanh. Như thế, theo phụ
mẫu hệ của ngươi từ quá khứ, tiên tổ của ngươi là con một nữ tỳ dòng họ Sākya!
Ngươi đã không biết thân, biết phận là dòng dõi thấp kém, hạ liệt lại đi phỉ
báng, nguyền rủa dòng dõi Sākya - thầy của ngươi - là thấp
kém, hạ liệt!
Đức
Phật ngưng nói - vì khi ấy những thanh niên đi theo Ambattha la ó lên:
-
Này Gotama! Chớ có phỉ báng quá đáng tiên tổ Ambattha là con một nữ tỳ! Thanh
niên Ambattha sinh vào quý tộc, con nhà danh giá, là bậc đa văn, là nhà đại
hùng biện, là nhà bác học! Ambattha có thể biện luận, có thể tranh luận với sa-môn
Gotama về vấn đề này!
Đức
Phật mỉm cười, gật đầu:
-
Nếu quả các ngươi đã tin tưởng Ambattha là như thế - thì các ngươi hãy im lặng,
đứng sang một bên để Ambattha đối thoại với Như Lai được chăng?
-
Thưa vâng, Gotama!
Đức
Phật nói với Ambattha:
-
Này Ambattha! Như Lai có một câu hỏi hợp lý, đúng đắn, dầu không muốn, ngươi
cũng phải trả lời. Câu hỏi như sau: Ngươi có nghe các bà-la-môn trưởng lão, tôn
túc, giáo sư hoặc tổ sư của ngươi - nói đến gốc nguồn của dòng họ Kaṇhāyanā hay
không? Ai là tiên tổ của dòng họ Kaṇhāyanā?
Nghe
đức Phật hỏi câu hỏi ấy, do hổ thẹn nên Ambattha không trả lời. Lần thứ hai,
Ambattha vẫn im lặng.
-
Này Ambattha! Như Lai báo cho ngươi biết rằng, bất cứ ai trên thế gian này, nếu
khi Như Lai hỏi ba lần một câu hỏi hợp lý, đúng đắn - mà không trả lời hoặc cố
ý lấp lửng, tìm cách tránh né sang một bên; hoặc im lặng, hoặc bỏ đi - thì ngay
tại chỗ, cái đầu của hắn sẽ bị bể ra làm bảy mảnh! Đây là lần thứ ba: Ai
là tiên tổ dòng họ Kaṇhāyanā?
Lúc
bấy giờ, trời Đế Thích đang nắm trong tay cái chùy kim cương (Vajirapāni) to
lớn, sáng chói, đỏ rực đứng trên đầu Ambattha, nói nhỏ vào tai y rằng: “
Ta là Sakka thiên chủ, là thần hộ pháp của đức Thế Tôn - nếu ngoan cố không
chịu trả lời thì cái đầu của ngươi sẽ vỡ đúng 7 mảnh, không thừa một, không
thiếu một!”
Hình
ảnh và câu nói ấy của Đế Thích chỉ có đức Phật và Ambattha nghe, thấy mà thôi.
Sợ hãi quá, Ambattha hoảng hốt, tóc dựng ngược, liền cúi rạp mình xuống, lắp
bắp trả lời:
-
Thưa...thưa...tôn giả Gotama! Con...quả có nghe, đúng...như điều mà tôn giả đã
nói. Chính... từ câu chuyện ấy mà phát sanh nguồn gốc dòng họ Kaṇhāyanā. Vị ấy
chính là tổ phụ của dòng họ Kaṇhāyanā!
Nhóm
thanh niên đi theo lại la hét ồn ỉ:
-
Hóa ra Ambattha là dòng dõi tiện sanh...
-
Hóa ra nó mạo danh quý phái...
-
Tổ phụ của nó là con một nữ tỳ dòng dõi Sākya!
-
Đúng là dòng dõi hạ liệt rồi!
-
Trên đời này chưa nghe ai nói sa-môn Gotama không nói lời chân thực!
-
Chuyện này thì chúng ta phải tin sa-môn Gotama!
-
Chính y đã thú nhận mình là dòng hạ tiện!
Đức
Phật tự nghĩ: “Chừng ấy đủ rồi! Sợ rằng Ambattha sẽ không chịu nổi! Bây
giờ, ta sẽ cứu Ambattha, sẽ giải tỏa sự sỉ nhục ấy và lấy lại thể diện cho
Ambattha!”. Rồi ngài cất tiếng phạm âm với 8 chất giọng tuyệt hảo:
-Này,
các ngươi hãy im lặng, nghe Như Lai nói đây! Chớ có phỉ báng Ambattha quá đáng
như thế! Kaṇha, tiên tổ của Ambattha là một ẩn sĩ vĩ đại!
Lời
tuyên bố của đức Phật làm cho nhóm thanh niên phải chăm chú lắng nghe.
Đức
Phật nói tiếp:
-
Kaṇha có cha là sát-đế-lỵ, mẹ là chiên-đà-la; vậy thì dòng máu của y vẫn là
sát-đế-lỵ!
Còn
nữa, lúc lớn lên, Kaṇha chịu khó tầm cầu học hỏi và đã sở đắc các chú thuật
phạm thiên, trở thành một ẩn sĩ vĩ đại! Trở lại kinh đô, ẩn sĩ Kaṇha bảo đức
vua Okkāka đệ tam phải gả công chúa Khuddarūpi cho y.
Đức
vua nổi giận, mắng rằng:
“- Ngươi dẫu là con ta, nhưng mẹ ngươi là nữ tỳ, không biết thân
phận hay sao mà đòi cưới con gái xinh đẹp của ta?”
Nói
xong, đức vua lắp mũi tên vàng vào cung, giương thẳng, nhắm bắn vào Kaṇka. Vị
đại ẩn sĩ niệm chú rồi cười lạt:
“- Cứ bắn đi! Rồi ngươi sẽ đứng yên như thế, cánh tay nguyên như
thế, cung và mũi tên cũng nằm yên như thế. Tất cả sẽ bất động!”
Đức
vua sợ hãi khi thấy toàn thân không nhúc nhích được. Các quan đại thần xúm lại
năn nỉ, cầu khẩn xin ẩn sĩ Kaṇha tha mạng cho đức vua.
Kaṇha
gật đầu:
“- Ta tha! Nhưng mũi tên đã lắp vào cung rồi thì phải bắn!”
Các
quan đại thần lo sợ hỏi:
“- Bắn ai? Bắn đi đâu?”
Kaṇha
cất giọng đầy uy lực:
“- Ta không biết! Nhưng mũi tên này, nếu bắn xuống đất thì toàn
thể quốc độ của nhà vua trong bảy năm sẽ bị khô cháy, hạn hán!”
Ai
cũng lạnh cả người.
“- Nếu bắn lên trời?”
“- Thì bảy năm trời sẽ không mưa!”
Triều
thần và cả thái tử lại quỳ sụp xuống van xin...
Kaṇha
cất giọng ráo hoảnh:
“- Vậy thì hãy quay sang bắn thái tử - nhưng ta hứa, một sợi lông
của thái tử cũng sẽ an toàn!”
Đức
vua lúc này tay chân đã cử động được, nhưng ông nỡ nào bắn thái tử? Đột nhiên,
vua cảm thấy tay mình không còn tự chủ được, đã tự động giương cung nhắm bắn về
phía thái tử. Mũi tên vàng vun vút lao đi. Đức vua nhắm mắt lại. Có tiếng người
đau xót la thét lên. Nhưng thái tử vẫn an toàn, vì mũi tên chợt dừng lại rồi
biến thành một đóa hoa sālā tươi thắm rơi nằm trên đất. Mọi người thở dài nhẹ
nhõm.
Đức
vua Okkāka đệ tam sợ hãi, khiếp đảm sự trừng phạt của đứa con trai tạp giống,
đồng thuận gã công chúa Khuddārūpi cho Kaṇha.
Kể
xong, đức Phật kết luận:
-
Vậy này các thanh niên bà-la-môn! Chớ phỉ báng Ambattha một cách quá đáng,
Ambattha là dòng dõi của một ẩn sĩ vĩ đại!
Nghe
rõ đầu đuôi câu chuyện, đám thanh niên không còn dám khinh rẻ Ambattha nữa. Còn
Ambattha thì đưa mắt nhìn đức Phật ra chiều cảm kích.
Bây
giờ lại quay sang Ambattha, đức Phật hỏi:
-
Một thanh niên sát-đế-lỵ cưới một thiếu nữ bà-la-môn; cuộc hợp hôn này, một
chàng trai sanh ra. Ngươi có thấy trường hợp này không, Ambattha?
-
Thưa có! Và chuyện ấy vẫn thường xảy ra.
-
Và khi ấy, những người bà-la-môn ấy đối xử với chàng trai kia ra sao?
-
Thưa, vẫn được đối xử đồng đẳng.
-
Nghĩa là vẫn có chỗ ngồi, mời nước, dự tiệc, vật cúng dường, tặng phẩm, dạy chú
thuật, được phép cưới thiếu nữ bà-la-môn?
-
Thưa vâng!
-
Thế giai cấp sát-đế lỵ có chịu làm lễ, để cho chàng trai kia trở thành một
sát-đế-lỵ không?
-
Thưa, họ không cho! Người sát-đế-lỵ bảo rằng - vì mẹ nó là bà-la-môn, không
cùng giới cấp nên không được phép.
Đức
Phật mỉm cười nói:
-
Vậy, tự ngươi đã nói ra, “có vẻ” như sát-đế-lỵ tự coi mình cao
sang hơn bà-la-môn đấy!
Ambattha
giật mình. Mà nhóm thanh niên bà-la-môn bây giờ mới biết rõ sự thật.
Đức
Phật tiếp tục hỏi:
-Này
Ambattha! Ngược lại, một thanh niên bà-la-môn cưới một thiếu nữ sát-đế-lỵ, một
chàng trai sanh ra. Trường hợp này, giới bà-la-môn có kỳ thị y không?
-
Thưa không, vẫn được đối xử đồng đẳng!
-
Vậy, giới sát-đế-lỵ có chịu làm lễ cho thanh niên kia trở thành một sát-đế-lỵ
danh chính, ngôn thuận chăng?
-
Thưa, họ không cho, họ bảo rằng, vì cha không phải là sát-đế-lỵ!
Đức
Phật lại mỉm cười:
-
Như vậy, cả hai trường hợp, theo truyền thống giai cấp và cả xã hội, sát-đế-lỵ
vẫn ở trên trước, vẫn coi thường bà-la-môn! Sát-đế-lỵ là ưu, bà-la-môn là liệt
- các ngươi có thấy rõ như vậy chưa?
Không
ai có thể tranh luận với đức Phật về sự thực ấy.
Đức
Phật còn muốn đi xa hơn:
-
Này Ambattha! Ví như có một bà-la-môn vì tội trọng thế nào đó mà bị các
bà-la-môn trưởng thượng cạo trọc đầu, bị đánh bằng bị tro, tẩn xuất người ấy -
thì các bà-la-môn khác đối xử ra sao?
-
Thưa, cũng tẩn xuất luôn, không còn là bà-la-môn nữa!
-
Ngược lại, có một sát-đế-lỵ cũng bị tội trọng như trên, bị cạo trọc đầu, bị
đánh bằng bị tro, bị tẩn xuất ra khỏi giới cấp - thì các bà-la-môn sẽ đối xử
với y ra sao?
-
Thưa, họ không có kỳ thị gì!
-
Nghĩa là vẫn được chỗ ngồi, mời nước, dự tiệc, vật cúng dường, tặng phẩm, dạy
chú thuật, vẫn được phép cưới thiếu nữ bà-la-môn?
-
Thưa vâng!
Đức
Phật lại mỉm cười:
-
Vậy, hóa ra một sát-đế-lỵ hạ liệt vẫn được đồng đẳng với chúng bà-la-môn! Hóa
ra, trường hợp nào đi nữa thì sát-đế-lỵ vẫn ưu thắng, và bà-la-môn vẫn là hạ
liêt - vậy các ngươi tự hào cái nỗi gì!
Cả
đám thanh niên và cả Ambattha ngồi im thin thít.
Chưa
dừng lại ở đó, đức Phật tiếp:
-
Này Ambattha! Như Lai nghe ngươi là bậc đa văn, bác học, vậy ngươi có biết câu
kệ hữu danh này do ai thuyết không - rồi ngài đọc: “ Phàm một chúng
sanh nào, tin tưởng vào giai cấp, tối thắng ở nhân gian, chính là sát-đế-lỵ.
Phàm một chúng sanh nào, tin tưởng vào tối thắng - giữa chư thiên, loài người:
Là giới hạnh, trí tuệ!”
Ambattha
tỏ ra là một thanh niên có rộng kiến văn:
-
Thưa, bài kệ ấy do phạm thiên SaNam Kumāra thuyết!
Đức
Phật gật đầu:
-
Và phạm thiên Saham Kumāra là bậc có học hiểu vĩ đại, chú thuật vĩ đại, bậc
thầy vĩ đại của giai cấp bà-la-môn?
-
Thưa, đúng vậy!
-
Và tất cả bà-la-môn trí thức đều có học bài kệ ấy?
-
Thưa vâng!
Đức
Phật im lặng một lát để cho hội chúng tự suy gẫm đoạn đối thoại ấy. Các thanh
niên bà-la-môn thì đã thấy rõ, các thầy của họ từ lâu đã che giấu sự thật. Họ
thở dài.
Ambattha
nói:
-
Nhưng tôi chưa rõ chính xác giới hạnh và trí tuệ trong câu kệ ấy như thế nào?
-
Giới hạnh và trí tuệ ấy chỉ có mặt trong giáo hội của Như Lai mà thôi!
Sau
khi biết cả hội chúng đều muốn nghe, đức Phật thuyết về giới - thế nào là giới
của tại gia cư sĩ, thế nào là giới của bậc xuất gia phạm hạnh. Rồi đức Phật
xoay quanh chữ “phạm hạnh” này - và nhấn mạnh rằng, chỉ có ai thực hiện được
những giới luật của tỳ-khưu trong giáo pháp của Như Lai mới xứng đáng được gọi là
phạm hạnh - tức là brāhmacariyā - chứ không phải chỉ là cái tên suông brāhmaṇa
hoặc brāhmaṇi!
[i] Cứng như lõi cây sồi!
Rồi đức Phật nhấn mạnh:
- Thành tựu giới luật phạm hạnh mới được gọi là thành tựu giới
đức. Từ giới đức mới có khả năng thành tựu trí đức. Nơi nào có giới đức, nơi ấy
có trí đức, này Ambattha!
- Vậy thế nào là trí đức, thưa sa-môn Gotama?
- Muốn có trí đức phải tu tập theo lộ trình minh sát để thấy tam
tướng - giác ngộ khổ, không, vô ngã - lần lượt chứng đắc tứ đạo, tứ quả và
niết-bàn, chấm dứt vô lượng sầu bi ưu não trên cuộc đời - được gọi là thành tựu
vô thượng trí đức; và không có sự thành tựu nào khác siêu việt hơn, cao thượng
hơn sự thành tựu trí đức này! Bậc thành tựu vô thượng trí đức ấy không có luận
nghị đến thọ sanh, không có luận nghị đến giai cấp, không khởi sanh ngã mạn để
nói “ ta bằng người hay người không bằng ta!” Vậy những ai
trên đời còn chấp trước lý thuyết thọ sanh, chấp trước lý thuyết về
giai cấp, còn ngã mạn - thì họ rất lâu xa, hay muốn nói là không thể,
không bao giờ có được vô thượng trí đức - này Ambattha!
- Xin sa-môn Gotama giảng rộng cho chúng tôi nghe chỗ này!
- Này Ambattha! Có bốn loại người chỉ chuốc lấy thất bại chứ không
thể nào thành tựu vô thượng trí đức được. Thứ nhất, có người mang theo bên mình
những vật dụng của một đạo sĩ, đi vào rừng và nguyện: “Ta chỉ ăn trái
cây rừng để sống”. Người này chỉ tập sống theo tập quán của loài khỉ
vượn, vô thượng trí đức làm sao đến được với người ấy! Thứ hai, có người mang
theo cuốc và giỏ rồi đi vào rừng sâu và nguyện: “ Ta chỉ ăn củ, rễ và
trái cây rụng để sống”. Người này có vẻ khổ hạnh hơn một chút, nhưng
vô thượng trí đức đâu phải chỉ có chút xíu khổ hạnh ấy mà đánh đổi được? Thứ
ba, có người chưa thấu đạt pháp “ ăn trái cây rừng”,chưa thấu đạt
pháp “ ăn củ rễ và trái cây rụng”; chỉ đi đến cuối làng, góc
rừng - nhen một đống lửa và đọc lên câu chú thờ thần lửa! Người này dẫu cho có
đọc chú trăm năm, ngàn năm - thì vô thượng trí đức cũng không từ đâu giữa hư
không mà rơi vào tâm trí cho ông ta được! Thứ tư, có người dựng giữa ngã tư
đường một ngôi nhà chất đầy vật thực và nguyện: “ Ta sẽ cúng dường tất
thảy sa-môn, bà-la-môn nào từ bốn phương đến đây!” Người này dù có tấm
lòng, biết bố thí, cúng dường nhưng cũng chỉ xứng đáng làm thị giả theo hầu bậc
vô thượng trí đức mà thôi!
Ngưng hơi một lát, đức Phật hỏi:
- Này Ambattha! Ngươi và thầy ngươi có được xem là thành tựu vô
thượng trí đức không?
- Thưa, không thể hoặc còn rất xa mới nói đến cụm từ thiêng liêng
ấy!
- Tuy ngươi và thầy ngươi chưa thành tựu được vô thượng trí đức ấy
- nhưng ngươi và thầy ngươi có đi vào rừng và nguyện “ ăn trái cây” hoặc “chỉ
ăn củ, rễ và trái cây rụng” để sống không?
- Thưa không!
- Thế ngươi và thầy ngươi có đốt một đống lửa để “niệm chú
cầu thần lửa” hoặc giả làm “một căn nhà giữa ngã tư đường để
bố thí cho sa-môn, bà-la-môn” chăng?
- Thưa không!
- Như thế, ngay như bốn pháp chỉ chuốc lấy thất bại khi muốn nói
đến thành tựu vô thượng trí đức ở trên - ngươi và thầy ngươi cũng chưa làm
được; nghĩa là ngươi và thầy ngươi chỉ xứng đáng làm kẻ hầu người hạ cho 4 đạo
sĩ thất bại kia. Thế nhưng, ngươi và thầy ngươi - bà-la-môn
Pokkharasādi - lại dám cả gan thốt lên: “ Những hạng sa-môn
giả hiệu, đầu trọc, đê tiện, đen đui, sanh nơi chân bà con ta - là ai, mà có
thể đàm luận với những bà-la-môn tinh thông ba tập vệ-đà?” Thì thử
hỏi, ngươi và thầy ngươi lầm lỗi như thế nào, có tự biết không?
Ambattha và nhóm thanh niên hổ thẹn, cúi đầu.
Đức Phật lại tiếp tục vạch trần sự thật, không khoan nhượng:
- Thầy của ngươi - bà-la-môn Pokkharasādi - mặc
dầu được ân tứ của đức vua Kosala, nhưng đức vua ấy cũng không cho thầy ngươi
diện kiến. Nếu lúc nào cần phải nói chuyện, đức vua ấy chỉ tiếp thầy ngươi qua
một tấm màn! Như thế chứng tỏ trong con mắt của nhà vua, thầy ngươi đã là gì
đâu - mà ngươi và thầy ngươi lại coi thường người khác, khi rẻ người khác, phỉ
báng người khác?
Còn nữa, như đức vua Pasenadi nước Kosala cùng với các hoàng thân,
vương tử, đại thần, tướng lãnh luận bàn quốc sự. Một người hầu cận đứng một bên
nghe được nội dung toàn bộ cuộc nghị luận ấy rồi vui miệng, y kể lại cho bạn
bè, thân hữu nghe. Dẫu người hầu ấy nói lại lời nói của vua, lặp lại câu nói
của các quan đại thần - người hầu ấy có thể được xem là vua không,
có được xem là một vị quan đại thần không, này Ambattha?
- Thưa, thật không thể nào!
- Cũng tương tợ như thế. Thuở xưa, những vị ẩn sĩ bà-la-môn, những
tác giả các chú thuật, những nhà tụng tán các chú thuật - đã sưu tầm, đã hát
lên, đã nói lên những thánh cú - thì hiện nay, các bà-la-môn cũng hát lên, cũng
nói lên giống như các vị ẩn sĩ thuở trước. Dẫu ngươi và thầy ngươi có thể
nói: “ Ta là đệ tử, đã học thuộc lòng những chú thuật của các vị ấy!”- thì
có thể được xem là vị ẩn sĩ hay đã chứng địa vị của một ẩn sĩ hay không, này
Ambattha?
- Thưa, không thể xem vậy được!
- Thế ngươi có nghe các vị bà-la-môn trưởng lão, tôn
túc, giáo sư, tổ sư nói đến đời sống thường nhật của các vị ẩn sĩ ấy không?
Những vị ấy có khéo tắm, khéo chải chuốt, tóc và râu khéo sửa soạn, trang điểm
với vòng hoa và ngọc, mặc toàn đồ trắng với lụa là kasī thượng hảo hạng, tham
đắm và tận hưởng năm món dục lạc - như ngươi và thầy ngươi hiện nay không?
- Không có vậy, thưa sa-môn Gotama!
- Các vị ẩn sĩ ấy có dùng cơm nấu từ gạo trắng thơm thượng hạng -
với các hạt đen, hạt tấm được gạt bỏ ra? Có ăn canh, ăn cháo... cùng các loại
sơn hào hải vị như ngươi và thầy ngươi không?
- Không có vậy, thưa sa-môn Gotama!
- Có có những thiếu nữ non trẻ, xinh đẹp với đường eo và thắt lưng
có tua - hầu hạ như ngươi và thầy ngươi không, hở Ambattha?
Đến ngang đây thì Ambattha không dám trả lời nữa, chỉ cúi gằm mặt
xuống!
Đức Phật vẫn tiếp tục:
- Hay là các ẩn sĩ ấy đi trên những chiếc xe sang trọng do những
con ngựa cái có bờm kéo, đuôi được bện công phu rồi xoa dầu, xoa hương. Còn chủ
nhân thì dùng cây roi bịt vàng, chiếc gậy dài bằng gỗ chiên đàn như ngươi và
thầy ngươi hiện nay không, này Ambattha? Hay các vị ấy sống được che chở trong
những thành lũy có những chiến hào bao bọc, có những cửa thành hạ xuống từ trên
cao, có những chiến sĩ mang gươm dài túc trực, hộ vệ ngày đêm như ngươi và thầy
ngươi hiện nay không?
Ambattha ủ rũ, im lặng. Các thanh niên cũng ủ rũ, im lặng.
Đức Phật kết luận:
- Như vậy, ngươi và thầy ngươi không phải là ẩn sĩ, không có học
hạnh ẩn sĩ và cũng không sống đời của một ẩn sĩ. Ngươi và thầy ngươi mạo danh
bà-la-môn, không học hạnh bà-la-môn, không sống đời phạm hạnh thật sự của một
bà-la-môn! Ngươi và thầy ngươi chỉ là một cư dân bình thường ở trên đời, sống
hưởng thụ ngũ dục tầm thường và hạ liệt, chẳng có gì là thanh tịnh, cao sang,
quý phái để mà tự hào, hãnh diện; lại còn không có bất kỳ một giới hạnh và trí
tuệ nào để có thể dạy dỗ người khác... Phải tự hiểu như vậy!
Nói xong, đức Phật đứng dậy, đi kinh hành lui tới.
Cả Ambattha và nhóm thanh niên lén nhìn tăng chúng lặng lẽ, yên
tĩnh xung quanh các cội cây, cảm giác như tất cả mọi nền móng, lâu đài của
bà-la-môn đều sụp đổ. Tan hoang, thảm thương. Tất cả đều bị phơi bày trần trụi
trước tâm và trí, giới và tuệ của sa-môn Gotama này! Thanh niên Ambattha chợt
đưa mắt quan sát, nhìn ngắm từng tướng một của đức Thế Tôn. Là một nhà tinh
thông tướng pháp học, Ambattha đếm được 30 tướng.
Đức Phật thấy và biết, ngài tự nghĩ: “ Chúng bà-la-môn này
thường không dễ thuyết phục họ, giáo giới họ bằng sự thật, bằng chánh pháp.
Nhưng mà nếu ta hiện ra đủ 32 tướng của bậc đại nhân thì chúng có lòng tin
ngay!” Thế rồi, đức Phật sử dụng thần thông, làm cho hiện ra thêm 2
tướng nữa - đó là tướng “ mã âm tàng” và tướng lưỡi
rộng dài.
Khi thấy đủ 32 tướng rồi, Ambattha nói lời từ giã. Sau đó, y về kể
lại toàn bộ câu chuyện cho thầy của y, là bà-la-môn Pokkharasādi nghe.
Sau một hồi chưởi mắng, rầy trách thậm tệ đệ tử của mình,
bà-la-môn đích thân ghé thăm đức Phật. Và như học trò của mình, khi thấy đủ 32
tướng của bậc đại nhân, y khởi phát đức tin, cung thỉnh đức Phật và tăng chúng
đặt bát cúng dường tại tư gia.
Tại đây, đức Phật đã thuyết pháp cho ông nghe; và bà-la-môn
Pokkharasādi liền có được đôi mắt sáng, nhận chân được sự thật. Thế là toàn thể
đồ chúng, bạn hữu, vợ con, thuộc hạ đồng xin quy y Tam Bảo, trọn đời quy
ngưỡng.
Lại nhiếp hóa Bà-la-môn nữa
Trở
lại Kỳ Viên, đức Phật chưa có thì giờ nghỉ ngơi thì giới bà-la-môn xôn xao kéo
đến. Tin đồn đức Phật chủ trương cả 4 giai cấp đều thanh tịnh làm họ bất mãn,
phẫn nộ. Lại nữa, bà-la-môn Pokkharasādi hữu danh, uy tín cùng tất thảy đồ
chúng, thuộc hạ, vợ con đều đã quy y sa-môn Gotama càng như một tiếng sấm sét
vang động giữa trời mưa, ai có tai đều phải nghe.
Họ
chừng khoảng năm trăm bà-la-môn từ nhiều quốc độ, đến kinh thành Sāvatthī vì
một số công việc - nghe tin đồn như thế, suy nghĩ rằng: “Ai là người có thể
tranh luận với sa-môn Gotama để lấy lại uy tín, địa vị, danh vọng cho giới cấp
bà-la-môn? Ai là người không những thông hiểu ba tập vệ-đà, lại còn quảng văn,
quảng kiến, lợi khẩu, biện tài... có thể đối thoại với sa-môn Gotama với
thế thượng phong?”
Sau
khi tìm kiếm, lựa chọn giữa ngàn người, họ đến nhà thiếu niên Assalayana - vốn
đang nổi danh bác học thần đồng ở Sāvatthī rồi nêu lên yêu cầu và sở vọng của
họ.
Thiếu
niên Assalayana trẻ tuổi, đẹp trai, đầu cạo trọc, khuôn mặt sáng và dịu như
trăng rằm - trang nghiêm và kính cẩn lắng nghe tự sự - từ việc đối thoại của
đức Phật với thanh niên Ambattha, chủ trương 4 giai cấp thanh tịnh đến việc
bà-la-môn Pokkharasādi quy giáo như thế nào. Nghe xong, thiếu niên Assalayana
nghiêm túc nói:
-
Vậy là sa-môn Gotama đã nói rất đúng pháp, thưa các bậc trưởng thượng!
Hội
chúng bà-la-môn ngỡ ngàng, tuy vậy, sau đó họ lại yêu cầu Assalayana hãy vì
danh dự của giới bà-la-môn mà ra tay tranh luận.
Thiếu
niên Assalayana lắc đầu:
-
Không thể đâu, chư tôn giả! Với những ai nói đúng pháp thì ta không thể bài bác
được. Lại nữa, đừng nói sa-môn Gotama, mà hằng chục đệ tử thượng thủ của vị ấy
chúng ta cũng không có khả năng tranh luận được! Vậy, tôi là ai mà lại dám thảo
luận với sa-môn Gotama?
Đến
khi hội chúng năn nỉ lần thứ ba, thiếu niên Assalayana khó lòng từ chối, đành
miễn cưỡng nói:
-
Thật tình tôi không chấp nhận sự thỉnh cầu của chư tôn giả. Tuy nhiên, tôi sẽ
đi theo yêu cầu. Nhưng tôi biết rất rõ rằng, với những bậc nói đúng pháp, có
giới hạnh và trí tuệ toàn hảo như sa-môn Gotama - cuộc thảo luận ấy càng đưa ta
đến chỗ thất bại thảm thương mà thôi!
Thế
rồi, cuộc tranh luận xảy ra.
Thiếu
niên Assalayana với cung cách rất lễ độ, toát ra tư cách của người có học, đưa
câu tiền đề:
-
Thưa tôn giả Gotama! Theo truyền thống thì bà-la-môn là giai cấp tối thượng,
các giai cấp khác là hạ liệt. Vì sao vậy? Vì chỉ có bà-la-môn là nước da trắng
sáng, các giai cấp khác màu da đen điu hoặc không được trắng sáng như thế! Lại
nữa, chỉ có giai cấp bà-la-môn là thanh tịnh, các giai cấp khác là bất tịnh.
Tại sao vậy? Vì bà-la-môn là con chính thống của phạm thiên, được sanh ra từ miệng
phạm thiên, do phạm thiên tạo ra, là con cháu thừa tự của phạm thiên! Chẳng hay
tôn giả Gotama nghĩ sao về quan niệm truyền thống ấy?
Đức
Phật mỉm cười:
-
Này Assalayana! Như Lai chỉ hỏi lại ngươi, ngươi thấy quan niệm ấy có đúng
không?
Thấy
thiếu niên im lặng, có vẻ lúng túng nên ngài tiếp:
-
Như Lai là sát-đế-lỵ, nhưng trong giới bà-la-môn có ai có nước da trắng sáng
như Như Lai không? Rồi, còn có cả hằng trăm đệ tử của Như Lai thuộc sát-đế-lỵ,
thuộc vệ-xá - nước da họ cũng trắng sáng, ngời ngời không thua gì bà-la-môn
đâu, có phải thế không, Assalayana?
-
Thưa, đúng vậy! Nước da của đức Thế Tôn chưa có ai trong giới bà-la-môn sánh
bằng. Các tôn giả khác, rất nhiều, và tôi cũng đã từng thấy.
-
Vậy thì tự hào nước da trắng sáng không thể lập?
-
Còn nữa, các nữ bà-la-môn họ có kinh nguyệt, mang thai, sanh con và cho con bú.
Các nữ sát-đế-lỵ, vệ-xá, thủ-đà-la cũng có kinh nguyệt, mang thai, sanh con và
cho con bú. Vậy thì có sự khác biệt gì giữa các giới - mà bà-la-môn lại thanh
tịnh, các giai cấp khác là bất tịnh, ngươi xác định cho Như Lai xem với nào?
- Sự
thanh tịnh kia cũng không thể lập nữa rồi!
-
Con người, thuộc thai sanh, đều ở trong thai bào rồi được sinh ra từ âm căn cả
thảy. Các bà-la-môn có thể chứng minh sự thực cho Như Lai thấy - là họ khác, họ
được sinh ra từ miệng phạm thiên? Họ là nhân vật thượng đẳng nên họ không nằm
trong bọc nước ối dơ uế, bẩn thỉu và tối tăm ấy?
-
Thật đúng vậy rồi! Nên sinh ra từ miệng phạm thiên cũng không
thể lập!
Đến
đây thì hội chúng la ó, phản đối:
-
Assalayana của chúng ta nói ăn theo!
- Y
không có lập trường!
- “Miệng
phạm thiên” là lập ngôn có tính chất ẩn ngữ, nghĩa bóng; là nghĩa tư
tưởng và triết học!
Thiếu
niên chợt nghiêm sắc mặt:
-
Vậy thì chư tôn giả hãy tranh luận với sa-môn Gotama? Chư tôn giả mà có thể đặt
được một bàn chân lên mặt chiếu tranh luận, có thể nhúc nhích, cựa quậy dẫu tí
chút - thì tôi sẽ nhường cho chư vị, và tôi sẽ xin rút lui!
Hội
chúng im lặng.
Thiếu
niên Assalayana thủng thỉnh nói:
-
Chư vị tôn giả tưởng tôi không hiểu nghĩa bóng, nghĩa tư tưởng, nghĩa triết học
hay sao? Chỉ một thoáng sát-na tư duy, tôi thấy rõ rằng, chúng ta mà
lôi nghĩa ấy ra, chúng ta lại càng thất thố, càng bị bẻ mặt, càng bị xấu hổ!
Tại sao vậy? Nếu chúng ta có đời sống thanh tịnh, giới luật thanh tịnh, hành
trì theo phạm hạnh thanh tịnh - thì khi ấy mới dám tự hào là dòng dõi thanh
tịnh, được sinh ra từ miệng phạm thiên, là con cháu thừa tự phạm thiên! Còn
hiện tại, xin lỗi chư tôn giả, chúng ta có xứng như thế không? Làm sao tôi lại có
thể nói sai sự thật được!
Thấy
thiếu niên đã trấn áp được hội chúng, đức Phật nói tiếp:
-
Có một số quốc độ ở biên địa xa xôi, chưa ảnh hưởng truyền thống và tín ngưỡng
bà-la-môn - họ chỉ có 2 giai cấp: Chủ nhân và đầy tớ! Ai giàu là chủ nhân, ai
nghèo là đầy tớ. Nếu người đầy tớ kia mà giàu liền thành chủ nhân. Nếu chủ nhân
kia phá sản, nghèo đói lại trở thành đầy tớ. Vậy thì ai hơn ai? Ai thù thắng,
ai hạ liệt - có thể phân định được không? Hay là chúng ta lấy lúa gạo, tiền bạc
để đánh giá trị một con người, hở Assalayana?
-
Không thể! Cái thước đo giá trị phải là tư cách và phẩm chất con người!
-
Đúng vậy - đức Phật gật đầu - Chẳng thể nào chỉ có những người
sát-đế-lỵ, người vệ-xá, người thủ-đà-la mới sát sanh, trộm cắp, tà hạnh trong
các dục, nói dối láo, nói hai lưỡi, nói ác khẩu, nói phù phiếm, có tâm tham,
tâm sân, tà kiến... còn giới bà-la-môn thì không làm vậy, họ đều có giới hạnh
trắng sạch như vỏ ốc, hở Assalayana?
-
Thưa, không thể có điều đó!
-
Vì nhân xấu ác, bất thiện như thế nên ba giai cấp kia bị sanh vào cõi dữ, ác
thú, đoạ xứ, địa ngục - còn bà-la-môn thì ngoại lệ, họ được sanh thiên, thiện
thú, thiên giới?
-
Thưa, không thể như vậy được!
-
Vậy thì bất kể giai cấp nào, nếu làm việc lành tốt, thiện pháp thì được sanh
thiện thú, thiên giới; nếu làm việc xấu ác, bất thiện thì bị đọa lạc, ác thú,
địa ngục - và quả báo ấy là bình đẳng?
-
Dĩ nhiên rồi, thưa sa-môn Gotama!
-
Người bà-la-môn có thể tu tập từ tâm, không hận, không sân - thì ba giai cấp
kia cũng có thể tu tập được như thế?
-
Thưa vâng!
-
Và nếu bà-la-môn tu tập từ tâm, không hận, không sân thì sẽ hoá sanh cộng trú
với phạm thiên - ba giai cấp kia cũng tu tập từ tâm, không hận, không sân - thì
họ cũng được cộng trú với phạm thiên chứ?
Cả
hội chúng bà-la-môn im lặng phăng phắc. Cả thiếu niên Assalayana cũng thế. Đức
Phật đã có lối lý luận vững chắc, hợp với nhân quả - nhưng đưa đến sự thực như
thế thì không một ai ngờ tới. Không chấp nhận, không được; và nếu chấp nhận -
thì sự cao thượng, thù thắng của giới bà-la-môn không có một kẽ hở để xen vào!
Đức
Phật biết vậy nhưng ngài cũng chưa dừng lại ở đó.
-
Một người bà-la-môn cầm cái cào lưng và bột tắm ra sông, kỳ cọ mình mẩy và tẩy
sạch uế bẩn - thì ba giai cấp kia cũng làm được như thế chứ? Hay chỉ có
bà-la-môn mới làm được như thế thôi?
-
Thưa, việc ấy thì ai cũng làm được!
-
Một người bà-la-môn cầm cái quay lửa bằng cây sālā hay cây sālāla. Một người
sát-đế-lỵ cầm cái quay lửa bằng gỗ cây sen hay cây chiên-đàn. Một người vệ-xá
cầm cái quay lửa bằng gỗ cây elanda, gỗ cây sồi. Một người đổ phân cầm cái quay
lửa bằng gỗ máng heo ăn, máng chó ăn. Sau một hồi quay, gỗ khô cọ xát với gỗ
khô, lửa và sức nóng hiện ra. Chẳng lẽ nào chỉ có lửa và sức nóng từ tay quay
gỗ của bà-la-môn mới dùng được, mới nấu ăn được - còn lửa của ba giai cấp kia
không có ngọn, không có màu sắc, không có ánh sáng, không có sức nóng, hở
Assalayana?
-
Tôi hiểu rồi, thưa sa-môn Gotama!
-
Vậy thì từ cái gốc, cái thể cho đến cái tướng dụng - thì trong bản chất, chúng
là đồng đẳng - chẳng có giai cấp nào thanh tịnh, ưu thắng, cao thượng hơn giai
cấp nào?
-
Đúng vậy, thưa tôn giả!
-
Vậy thì chúng ta hãy bỏ qua một bên về cái được gọi là dòng dõi, giai cấp -
được chưa?
-
Thưa vâng!
-
Này Assalayana! Một Nam tử sát-đế-lỵ, cưới một nữ nhân bà-la-môn, một bé trai
hoặc một bé gái được sanh ra. Bé trai và bé gái ấy được gọi là sát-đế-lỵ hay
bà-la-môn?
-
Chúng giống cha nó mà cũng giống mẹ nó nên người thì gọi sát-đế-lỵ, người thì
gọi bà-la-môn - đều được cả!
-
Ngược lại, một Nam tử bà-la-môn cưới một nữ nhân sát-đế-lỵ, một bé trai hoặc
một bé gái được sanh ra. Bé trai, bé gái ấy được gọi là bà-la-môn hay
sát-đế-lỵ?
-
Như trường hợp trên, gọi là bà-la-môn hay sát-đế-lỵ đều được cả!
-
Này Assalayana! Trường hợp khác. Một con ngựa cái giao phối với con lừa - một
con vật được sanh ra. Con vật ấy cũng giống cha nó, cũng giống mẹ nó - sao
người ta không gọi là con ngựa hay con lừa mà gọi là con la?
-
Đây là trường hợp giao phối khác giống nên có sự sai khác như thế. Tuy nhiên,
nếu phân tích cho kỹ - thì con la ấy chỉ là cái tên thôi, tự bản chất, nó cũng
giống cha nó là con ngựa, cũng giống mẹ nó là con lừa!
-
Chính xác - đức Phật gật đầu - Tự bản chất, chẳng có sai biệt
gì! Vậy chúng ta đừng bàn về huyết thống nữa nhé?
-
Thưa vâng!
-
Này Assalayana! Có hai anh em bà-la-môn đồng mẹ khác cha. Một người thông hiểu
vệ-đà, đọc tụng thánh điển và chấp trì mọi nghi thức tế lễ đúng như truyền
thống. Còn người kia không thông, không biết, không đọc tụng gì cả. Trong hai
người ấy, người ta sẽ tiếp đón, tôn trọng, cúng dường vị nào?
-
Dĩ nhiên là người thông hiểu vệ-đà...
-
Thế giả dụ người thông hiểu vệ-đà ấy hành ác giới, ác pháp, sát sanh, trộm cắp,
dối láo, bất thiện - còn người không thông hiểu vệ-đà lại sống lành tốt, trì
giới, hành thiện pháp - thì người ta sẽ tiếp đón, tôn trọng, cúng dường ai?
-
Dĩ nhiên là cho người lành tốt, trì giới, hành thiện pháp!
Đến
đây, đức Phật kết luận:
-
Thế là chúng ta đã đi từ sanh chủng, dòng dõi. Bỏ sanh chủng, dòng dõi, ta đi
qua huyết thống. Bỏ huyết thống, ta đi qua thánh điển. Cuối cùng, bỏ thánh điển
- chúng ta đã đi về sự thanh tịnh của bốn giai cấp như Như Lai đã từng tuyên
giảng đó đây!
Cả
hội chúng bà-la-môn im lặng, ủ rũ, co vai, cúi đầu, sững sờ - không ai mở miệng
ra được, huống hồ là phản bác. Chỉ riêng thiếu niên Assalayana biết sự thực là
như vậy, nên chàng rất tỉnh táo, lặng lẽ gật đầu, tiếp thu sự chỉ giáo của bậc
đại sa-môn.
Đức
Phật tiếp tục nói chuyện với chàng:
-
Quan niệm truyền thống ấy có gốc nguồn từ một thuở rất xa xưa, này Assalayana!
Nếu muốn nghe, Như Lai sẽ nói.
-
Vâng, thưa tôn giả Gotama!
“- Thuở xưa có 7 ẩn sĩ bà-la-môn sống trong một ngôi rừng, họ có
công hạnh lớn, chú thuật lớn, uy lực lớn. Hôm kia, họ cùng tự mãn, tự hào, tự
tán tụng nhau - rồi khởi lên ý nghĩ: “ Trên đời này, chỉ có bà-la-môn là ưu
thắng, cao thượng, tối thượng; là dòng dõi huyết thống thanh tịnh bảy đời, được
sinh ra từ miệng phạm thiên, thừa tự phạm thiên - còn các giai cấp khác là thấp
thỏi, hạ liệt - chỉ là người hầu kẻ hạ bà-la-môn mà thôi!”
Tại khu rừng kế cận có bậc đại ẩn sĩ, không những công hạnh, chú
thuật, uy lực là bậc thầy của 7 vị ẩn sĩ kia - mà còn hiểu biết, thông tuệ
nhiều lãnh vực khác nữa. Tên của bậc đại ẩn sĩ này thì tràn qua tai của mọi ẩn
sĩ - đấy là Asita Devala - nhưng ai cũng nghĩ chỉ là huyền thoại hoặc là sự
thêu dệt của mọi người. Biết được sự thiển cận, ngu dốt và tà kiến của 7 vị ẩn
sĩ; và cũng muốn giáo hoá họ - đại ẩn sĩ Asita Devala sửa soạn râu tóc, đắp y
vải màu đỏ tía, đi dép với nhiều đường viền kiên cố, cầm một cây gậy bằng vàng
- với thời gian như viên lực sĩ co duỗi cánh tay, hiện ra trước những am thất
của 7 vị ẩn sĩ - đi tới, đi lui, rồi đi lui, đi tới, miệng thốt lớn:
“- Ôi! Nơi này thật là ngu ngốc! Ôi! Nơi này thật là trống rỗng!
Nơi này thật là tà kiến!”
7 vị ẩn sĩ nghe được, tự nghĩ: “ Kẻ kia là ai mà cứ đi tới, đi lui
như con bò đi vòng tròn, lại dám cả gan thốt lên lời bất nhã, trịch thượng,
dường như là ám chỉ chúng ta?” Với hận tâm, với sân tâm, với hại tâm - họ đồng
sử dụng chú thuật rồi hét to rằng: “ Hãy biến thành tro tàn hạ liệt, hỡi lão
già đê tiện kia!” Lạ lùng sao, chú thuật kia không đốt đại ẩn sĩ Asita Devala
thành tro tàn - mà ngược lại, làm cho dung sắc ông ta sáng rực lên, chói ngời
lên vô cùng đẹp đẽ, vô cùng khả ái!
Sợ hãi, hoảng hốt và cả buồn phiền, họ tự nghĩ: “Hỏng rồi! Uy lực
của chúng ta mất tiêu rồi! Trước đây, chỉ cần một người đọc chú, thì hòn núi đá
cũng tan tành; mà nay cả 7 người hợp lực, lại làm cho lão già kia đẹp đẽ, khả
ái hơn - là nghĩa làm sao kia chớ?”
Họ bước ra, chăm chăm nhìn vị đạo sĩ kỳ quái.
Đại ẩn sĩ Asita Devala tủm tỉm cười:
- Các bạn đã phục chưa? Đã chịu bỏ tâm hận, tâm sân đối với ta
chưa?
- Vâng, chúng tôi sẽ không dám thế nữa!
- Ừ, vậy là tốt! Nhưng hãy hứa đi! Nếu còn khởi tâm giết người
nữa, thì một sợi lông chân của ta cũng đưa các ngươi trở về với cát
bụi!
Nhìn ánh mắt uy nghiêm, không giận mà oai, toát ra một năng lực
phi phàm - cả 7 vị co rúm người lại, lắp bắp:
- Xin hứa, chúng tôi xin hứa!
Thấy lão già lại nở nụ cười hiền hoà, họ bạo gan hỏi:
- Vậy ngài là ai? Phạm thiên chăng?
- Cũng đúng! Ta là ẩn sĩ Asita Devala - và rồi ta sẽ cộng trú với
phạm thiên!
Hoảng hồn, họ sụp lạy.
Sau khi tìm kiếm chỗ ngồi thích hợp, ẩn sĩ Asita Devala tìm cách
giáo giới họ.
- Ta đã nghe ý nghĩ khởi sanh trong tâm của các bạn. Bây giờ ta sẽ
hỏi điều này. Các bạn có biết mẹ sanh của một bà la-môn, trước đó, bà ta giao
hợp với một bà la-môn hay phi bà-la-môn?
- Thưa, thật khó biết.
- Và có chắc chắn rằng, 7 đời tổ mẫu của họ chỉ giao hợp với
bà-la-môn chớ không phải phi bà-la-môn?
- Thưa, cũng thật khó biết.
- Cha sanh cũng thế, từ một đời cho đến 7 đời tổ phụ có chắc chắn
là chỉ giao hợp với nữ bà-la-môn chớ không phải phi nữ bà-la-môn?
- Quả có thế, không thể xác quyết được!
- Vậy thì không thể, khó biết được - tại sao các bạn lấy cái huyết
thống thanh tịnh 7 đời mà chủ trương? Nó từ đâu ra?
Cả bọn im lặng, cúi đầu. Họ đã biết mình sai.
Ẩn sĩ Asita Devala đi bước nữa:
- Có ai trong các bạn biết rõ chuyện nhập thai? Nó ra sao?
- Thưa, chúng tôi chỉ biết rằng, vào thời mà người nữ có điều kiện
thụ thai, có người Nam giao hợp và có một hương ấm (gandhabha) tìm đến. Đầy đủ
ba yếu tố ấy, sự nhập thai mới thành tựu.
- Đúng vậy! Và các bạn có thể biết rằng, hương ấm này là
bà-la-môn, hương ấm kia là sát-đế-lỵ, hương ấm nọ là vệ-xá, là thủ-đà-la chứ?
- Thưa, không thể!
- Các bạn lại nói đúng nữa! Nhưng mà này, đây là câu hỏi tối hậu -
ngay chính các bạn, các bạn có biết các bạn là ai không, từ hương ấm vô danh
đầu tiên ấy?
Họ chợt như thấy rõ được điều gì, đồng sụp lạy bên chân vị đại ẩn
sĩ:
- Quả đúng là vậy, sự tình là vậy - chúng tôi không biết chúng tôi
là ai!”
Kể
xong chuyện, đức Phật kết luận:
-
Như thế, 7 vị ẩn sĩ kia đã bị đại ẩn sĩ Asita Devala chất vấn, cật vấn, nạn vấn
về vấn đề sanh chủng, tận cùng cho đến thức tái sanh (hương ấm) -
họ đã không thể ứng đáp được, cuối cùng phải thú nhận không biết mình là ai!
Vậy thì nay, ngươi và cả hội chúng bà-la-môn này - đều là hạng cháu chít của 7
vị ẩn sĩ - lại có thể ứng đối với Như Lai, còn là bậc thầy của đại ẩn sĩ Asita
Devala kia nữa!
Tâm
phục, tín phục đến tận cùng - thiếu niên Assalayana quỳ sụp dưới chân của đức
Thế Tôn, xin được quy y Tam Bảo, làm một cận sự Nam cho đến trọn đời!
Chuyện Tỳ khưu Nanda
Sau
những buổi “tranh luận” ấy - thì uy tín, uy lực của đức Phật
và giáo pháp đã làm cho giới bà-la-môn bàng hoàng, không còn dám cựa quậy, nhúc
nhích nữa. Trí tuệ của đức Phật đã mở phơi trần trụi những bao che, phong kín
ngụy trang bấy lâu nay của giới cấp bà-la-môn! Họ chẳng còn chỗ nào để tự hào
và hãnh diện nữa. Đúng ngài là hiện thân của đức Chánh Đẳng Giác trên đời này
thực sự rồi. Cả hai buổi pháp thoại đều được truyền tụng đi khắp mọi nơi; thêm
mắm, thêm muối cho câu chuyện được đậm đà; thêm gừng, thêm ớt cho nó cay cay
hơn; thêm dấm, thêm chanh cho nó chua chua thêm một chút nữa. Chuyện đời mà.
Các giới cấp từ lâu tự xem mình là thấp kém, bây giờ cảm thấy mình được cởi
trói, được nở mày, nở mặt, được sống cho ra một con người. Họ tri ân đức Thế
Tôn về quan điểm 4 giai cấp đều thanh tịnh ấy. Thế là khí hậu của Kỳ Viên đại
tịnh xá như được thêm mưa thuận, gió hòa...
Các
trưởng lão ổn định chỗ ăn ở, sinh hoạt, tu tập cho tăng chúng, bây giờ đã trên
hai ngàn vị. Đến mùa an cư có thể còn đông hơn nữa. Hai vị đại đệ tử phải tuyển
chọn thêm một số vị giáo thọ. Đức Phật gần gũi, trao đổi chuyện với Rāhula để
xem chú có tiến bộ không. Ai cũng khen Rāhula hiếu học. Giới sa-di ở đây rất
đông, hai vị đại đệ tử lại thêm vất vả để giáo huấn, được Rāhula phụ giúp rất
đắc lực. Riêng tỳ-khưu Nanda thì khuôn mặt không được vui, trong lòng vẫn còn
bị đốt cháy bởi khối lửa tình si.
Đức
Phật chợt nói:
-
Này Nanda! Hôm nay, ông cùng với Như Lai hãy đi chơi một chuyến cho khuây khoả!
Ngạc
nhiên, Nanda tròn mắt:
-
Đi chơi?
-
Phải, lên cõi trời chơi! Tiện thể, Như Lai muốn giáo giới, nhắc nhở ông thiên
chủ Đế Thích một chút.
Nói
xong, đức Phật vận thần thông lực đưa tỳ-khưu Nanda đến cung trời Đao Lợi. Giữa
không gian, khi bay ngang qua một khu rừng vừa bị hỏa thiêu, đức Phật cốt ý để
cho Nanda trông thấy một con khỉ cái bị cháy trụi lông; tai, mũi và đuôi đều bị
sứt, đang cố ôm bám vào một thân cây trơ trọi để níu lấy sự sống.
Đến
cung điện rực rỡ của đệ nhị thiên đường, chuông gió, sáo trời dặt dìu, mê ly,
thánh thót; hoa trời nở đầy hai bên lối đi bạch ngọc, trân châu, mã não. Mấy
muôn chư thiên lấp lánh ánh sáng, phục sức cao sang và quý phái, dẫn đầu là
thiên chủ Đế Thích ra nghinh đón đức Tôn Sư. Và, ô kìa, mười muôn thiên nữ với
sắc đẹp lộng lẫy, đài các, diễm lệ, kiêu kỳ xuất hiện giữa đám mây hồng, mây
tím; nhóm vũ khúc, nhóm hát ca... có cả quần tiên càn-thát-bà tấu
nhạc như một cuộc hội trường xuân miên viễn.
Thấy
tỳ-khưu Nanda đang say sưa, mê mẩn ngắm nhìn, đức Phật nói:
-
Này Nanda! Ông hãy tuỳ nghi đi chơi đâu đó cho thỏa thích. Như Lai có công việc
với Sakka thiên chủ.
Thế
rồi, đợi Đế Thích dẫn đức Phật vừa đi khuất, tỳ-khưu Nanda đi thăm thú cảnh“non
bồng nước nhược”! Ở đâu cũng điện các trùng điệp, ở đâu cũng bảy báu
trùng điệp. Không gian sạch trong, không một mảy bụi. Rồi hý trường, công viên,
hồ cảnh, thủy tạ, đền đài, vườn cây, rừng cây với hoa trái lạ lùng chín mọng,
hương thơm diệu kỳ. Và ô kìa, tiên nữ và tiên nữ... vóc ngọc, dáng ngà chỗ này
chỗ kia thướt tha, uyển chuyển bay lượn đó đây - vẳng lại tiếng cười vui, âm
thanh trong trẻo như ngọc chạm, như pha lê reo!
Tới
chỗ nào, tỳ-khưu Nanda cũng như muốn chết sững, chân bước đi không nổi! Ở đây,
sắc trời, thanh trời, hương trời nó hấp dẫn, lôi cuốn gấp hằng triệu lần thế
gian. Cung điện Kapilavatthu huy hoàng, sang trọng - so sánh với đây thì chỉ
như cái xó bếp tối tăm, nghèo nàn thật tội nghiệp.
Bước
chân đưa đẩy, dẫn Nanda đến một tòa cung điện với 500 bảo tháp kim cương, hội
tụ giữa hư không, phản chiếu ánh sáng lấp lánh muôn màu. Bước vào giữa điện,
Nanda trông thấy một chiếc ngai khảm bảy báu, trông rất lộng lẫy, sang trọng.
Tuy chưa thấy một vị thiên tử nào ngự ở đấy, nhưng hầu quanh có 500 thiên nữ mà
cô nào cũng chim sa cá lặn, nguyệt thẹn hoa nhường - trông xinh đẹp, mỹ miều mà
thế gian thật không tưởng nổi.
Tỳ-khưu
Nanda bạo gan hỏi:
-
Chiếc ngai bảy báu trân quý thế kia, sao chưa có vị thiên tử diễm phúc nào an
ngự ở đấy - thưa quý tiên nương?
Một
thiên nữ tủm tỉm cười đáp:
-
Thưa tôn giả! Chúng thiếp chuẩn bị sẵn để chờ đợi cung nghinh một vị trong giáo
hội của đức Thế Tôn!
Tò
mò, Nanda hỏi:
-
Vị nào vậy? Quý tiên nương có biết chăng?
-
Thưa, nghe nói là tỳ-khưu Nanda! Vị ấy hiện đang hành trì, tu tập rất tinh tấn!
Ra
khỏi toà lâu đài rồi mà trái tim Nanda còn nhảy loạn trong lồng ngực.
Trên
đường trở về hạ giới, đức Phật hỏi:
-
Này Nanda! Hằng muôn tiên nữ nơi cõi đệ nhị thiên đường, cụ thể là 500 tiên nữ
nơi toà lâu đài bảo tháp kim cương - so với công nương Janapāda Kalyāni của
ông, ai xinh đẹp, mỹ miều, diễm lệ hơn?
Nanda
đỏ mặt ra đến tận mang tai, cúi đầu đáp:
-
So với họ - thì công nương Janapāda Kalyāni chỉ giống như con khỉ cái bị cháy
trụi lông, đen thui, sứt mũi, sứt tai, cụt đuôi tại khu rừng nọ.
Đức
Phật mỉm nụ cười trong tâm, nói rằng:
-
Này Nanda! Vậy hãy tinh tấn, nỗ lực! Như Lai hứa, nếu Nanda kiên trì tu tập
giáo pháp - thì một ngày kia, 500 bảo tháp kim cương, chiếc ngai vàng thất bảo
cùng 500 tiên nữ ấy sẽ thuộc về của ông!
Từ
đó, khi ở tịnh đường, lúc ở nơi liêu đơn, gốc cây, bãi trống, rừng vắng...
Nanda thiền định rất mực chuyên cần, rất mực chịu khó và nhiệt tâm.
Mọi
người biết chuyện ấy. Các bậc thánh vô học hoặc hữu học thì im lặng, bởi họ
biết phương tiện trí rất thâm sâu của đức Thế Tôn. Các vị còn phàm phu, nhất là
chư sư trẻ tuổi - thì có dịp để họ nhạo báng, đùa bỡn hoặc tạo nên những nụ
cười vui, vô hại, rất dí dỏm:
-
Nè, tôn giả Nanda biết cách “đầu tư công phu” đó nghe!
-
Ừa, chuyến buôn bán làm ăn này ông hoàng của chúng ta lãi to rồi!
-
Đừng có xía phần! Ai ăn nấy no. Ai tu nấy được!
-
Những 500 tiên nữ - “nhín” bớt cho một, hai, không được sao?
Chuyện
đến tai, Nanda cảm nghe xốn xang, khó chịu vô cùng. Ngẫm nghĩ lại, ông chợt
thấy rõ mục đích của mình tỏ ra tầm thường và thấp kém quá. Họ chế giễu là
đúng. Họ nhạo báng là họ muốn thức tỉnh mình đây!
Đức
Phật xuất hiện rất đúng lúc:
-
Này Nanda! Bỏ qua chuyện ấy đi! Hôm nay ông và Như Lai đi chơi một miền xa. Hãy
đến một cảnh giới đau khổ!
Lần
này, đức Phật lại sử dụng thần thông đưa Nanda xuống thăm một cảnh giới ở địa
ngục. Dịp này, Nanda chứng kiến tận mắt những thảm cảnh hãi hùng. Đây là một
cột trụ đồng đỏ lửa rừng rực, các tội nhân trần truồng phải bám siết để leo
lên, da thịt cháy xèo xèo. Bên kia là những con quỷ mặt trâu, đầu ngựa, cầm
những chiếc đinh ba nhọn hoắt, đâm suốt qua lưng tội nhân rồi cất những tiếng
tru ghê rợn. Nọ là những con dạ-xoa, la-sát cầm những chiếc cưa sắt nung lửa đỏ
lòm, cứ tuần tự cưa tội nhân ra từng khúc, từng đoạn, gan ruột đổ lòng thòng,
máu me chảy tràn thành vũng. Và thôi, nào là bàn chông, máy chém, máy lóc
xương... kể sao cho xiết! Tội nhân chỗ này, chỗ kia giãy đành đạch, la hét, kêu
gào... lẫn tiếng cười ghê rợn của quỷ dữ. Những cái cối đồng vĩ đại, những
chiếc chày to lớn, đưa lên đưa xuống nhịp nhàng - bên trong là tội nhân với
xương thịt bầy nhầy như cốt ý làm chả thịt người cho quỷ sứ ăn!
Nanda
rùng mình, ớn lạnh... bước sang một lò nấu người. Những chiếc vạc to lửa cháy
xanh lè, bên trong dầu sôi sùng sục. Những con quỷ mặt xanh, mũi đỏ, thò tay
quăng tội nhân vào từng chảo một. Nơi chảo khác, dầu cũng đã sôi như sóng cuộn,
lại không có tội nhân...
Ngạc
nhiên, Nanda hỏi thì được một con quỷ có vẻ lịch sự, đáp:
-
Thưa tôn giả! Cái này thì còn để dành...
-
Sao? Để dành? Cho tội nhân nào?
-
Nghe nói là một vị tỳ-khưu!
-
Ai? Vị nào vậy?
-
Cái ông không chịu tu hành; ăn cơm của đàn-na thí chủ mà đêm ngày cứ tơ tưởng
đến con gái! Là ông hoàng Nanda đấy!
Từng
chân tơ, kẽ tóc đều dựng ngược cả lên, da thịt nổi gai ốc, một luồng khí lạnh
chạy dọc sống lưng - Nanda quày quả theo đức Thế Tôn trở lại trần gian mà cả
tâm thần còn bủn rủn, cả tứ chi còn bải hoải!
Nanda
phủ phục bên chân đức Phật:
-
Xin đức Tôn Sư hãy huỷ bỏ lời hứa về chuyện 500 cô tiên nữ - đệ tử sợ hãi lắm
rồi!
Đức
Phật lắc đầu:
-
Chưa! Chưa thể! Chừng nào ông không còn bám víu vào những sự vật trần gian;
chừng nào mà ông đã vĩnh viễn viễn ly dục lạc; nội tâm hoàn toàn thanh tịnh như
viên bạch ngọc trong suốt không tỳ vết nhiễm ô - thì lúc ấy, Như Lai huỷ bỏ lời
hứa cũng không muộn gì!
Nói
thế xong, đức Tôn Sư đọc một bài kệ:
“- Đau khổ và khoái lạc
Bùn nhơ đáy mặt hồ
Hương hoa sen toả ngát
Cho người diệt si mê!
Khoái lạc và đau khổ
Xúc động tâm phàm phu
Người vĩnh ly nhiễm ái
Hoa sen thắm mặt hồ!”
Trong
lúc Nanda lắng nghe câu kệ có vẻ chú tâm - thì đức Phật đã không còn ở đấy. Vì
ngài biết, bắt đầu từ bây giờ, Nanda sẽ gạt bỏ được những tư tưởng ô nhiễm, xấu
xa để dành thời gian cho sự kiên trì tu tập. Rồi sẽ có hiệu quả tốt và không
còn lo ngại gì về ông hoàng si tình ấy nữa.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét