Hôm
kia, chợt đức Phật bảo thị giả Upavāna đi thỉnh mời tất cả trưởng lão phụ trách
ba khu lâm viên, tụ họp tại khu rừng Bhesakaḷā. Khi đã đầy đủ tất cả chư vị
thánh Tăng A-la-hán, đức Phật nói:
-
Chư Tăng Ni tại Kosambī hiện nay có gần 1000 vị, số lượng ấy không ít đâu, phàm
Tăng thì quá đông, chắc chắn nhiều việc xấu ác đã duyên khởi! Vậy, trong hai
tháng an cư mùa mưa vừa rồi, tại các khu lâm viên do chư vị đảm trách, có
chuyện gì xảy ra do các phàm Tăng gây nên, có thể đưa đến hậu quả không tốt như:
phá hòa hợp Tăng, tạo nên sự bất tịnh; hoặc khi thọ dụng tứ sự, cách sử dụng tứ
sự, cách mặc y, mang bát, dù dép, lúc độ thực, tại nhà ăn, nhà tắm hơi, nhà vệ
sinh, đi quá sớm, về quá muộn; thân cận vua quan, giới cầm quyền, nhà giàu có,
nơi có nữ nhân... làm mất đức tin của các hàng cư sĩ? Chư vị hãy phản
ánh để chúng ta cùng tìm biện pháp đối trị - để cho giáo pháp ở quốc độ Vamsā
này được toàn hảo hơn!
Đức
Phật vừa phác họa sơ khởi – thì chư trưởng lão đã biết rõ là ngài đã nắm bắt
toàn bộ vấn đề phát sanh. Quả là có quá nhiều vấn đề, chưa biết nêu vấn đề nào
trước, vấn đề nào sau – nên họ im lặng.
Tôn
giả Upāli nói:
-
Bạc đức Thế Tôn! Đệ tử đã tìm cách phân chia từng chúng từ 30 đến 50 vị; mỗi
chúng như vậy có hai vị đại đức phụ trách! Có chúng thiên về tụng đọc, ôn tập
kinh. Có chúng chứng tỏ nề nếp oai nghi giới hạnh. Có chúng chỉ thích học
Abhidhamma! Có điều rõ ràng nhất là bổn phận giữa thầy và trò, trò và thầy còn
nhiều khiếm khuyết. Bổn phận đối với kẻ trên người dưới cũng chưa có quy định
cụ thể. Đối xử trong tương quan chung cũng có nhiều việc đáng phàn nàn...
Tôn
giả Kāḷudāyi phản ánh tiếp:
-
Có một nhóm tỳ-khưu ở Vārāṇasī và Kāsī đến hôm đầu mùa an cư. Người thì trùm
đầu lùm thùm bằng vải hoa, vải xanh, vải đỏ; trùm rồi cột một góc có thắt nơ,
cột hai góc có thắt con bươm bướm; kẻ để tóc um tùm, kẻ để râu một chòm, hai
chòm, tỉa râu mép, để râu cằm và ngược lại! Chúng quăng dép lung tung, ào ào
bước vào lâm viên nhìn ngược, nhìn xuôi, chẳng chào hỏi ai; tự động đẩy cửa
liêu cốc, quăng bát, quăng y, quăng gậy lung tung...
Cách
trình bày cụ thể có hình ảnh như vậy làm ai cũng mỉm cười – và ai cũng biết đấy
là sự thật mà họ hay nhắc nhở, chỉnh đốn lại...
Tôn
giả Yasa nói:
-
Đấy là lỗi tại tôi chưa đủ thì giờ giáo hóa. Một số trong họ là các đạo sĩ lõa
thể, thờ thần lửa hoặc khổ hạnh sang. Sau khi nghe pháp, họ đồng đến đây xin
xuất gia tỳ-khưu - chứ chưa phải là tỳ-khưu.
Tôn
giả Anuruddha nói:
-
Chuyện của trưởng lão Yasa nói – thì còn khả thứ được; nhưng có một số trường
hợp, đã là tỳ-khưu rồi mà con đeo hoa tai, đeo dây chuỗi ở cổ, đeo vòng ở
tay... lại còn đeo nhẫn vàng, nhẫn bạc, nhẫn ngọc nữa chứ! Còn nữa, không những
tóc để quá hai ngón tay – mà còn chải tóc với sáp ong, với dầu nước óng ánh. Có
một số vị lấy dầu thoa mặt, phấn thoa mặt, vẽ mắt bằng bột phấn đỏ, bột phấn
vàng. Có vị còn hát ca lí lố, ỏng ẹo nhảy múa... Còn nữa, lúc trời lạnh, họ sắm
áo choàng bằng lông chồn, lông cừu, lông thỏ... thật là quái dị làm sao!
Tôn
giả Bhaddiya mỉm cười tiếp:
-
Những việc mà chúng ta đã chấn chỉnh ở Trúc Lâm, ở Đại Lâm, ở Kỳ Viên... bây
giờ đang xảy ra ở đây. Chư vị trưởng lão biết không, thật không thể
tưởng tượng được. Tôi đã loáng thoáng thấy chỗ này và chỗ nọ, các vị tỳ-khưu
vừa từ ngoại đạo sang; đi bát, họ lấy cái bầu đựng nước, cái hũ đựng nước, cái
âu chứa đồ dơ; và khiếp nhất, quỷ sứ cũng phải bỏ chạy – khi vị tỳ-khưu nọ đi
bát bằng cái sọ người, bằng cái đầu lâu người chết!
Tiếng
cười nhè nhẹ thoảng qua.
Rồi
nhiều vị khác tiếp tục nêu ra sự thực, đại lược như sau:
-
Sử dụng dao có cán bằng bạc, bằng vàng, có nạm ngọc...
-
Mùng mền, thảm len, gối kê tay, gối kê chân, gối nằm... đều rắc dầu thơm...
-
Ngủ chung một giưòng, chung một tấm trải, ăn chung một đĩa, uống chung một
cốc...
Tôn
giả Ānanda phát biểu:
-
Hôm tại Kỳ Viên, tôi vắt đại y trên vai để đi trì bình khất thực. Mới được một
đổi đường thì gặp một cơn gió lốc cuốn bay tấm đại y; rồi y nội, y ngoại rơi
rớt tùm lum. Một tay tôi túm chặt y bát, một tay lượm đại y, vội vã trở về Kỳ
Viên để sửa sang lại. Buổi chiều, tôi tường trình sự việc cho đức
Thế Tôn nghe. Ngài dạy: “ Này Ānanda! Như Lai cho phép chư tỳ-khưu phải
sắm dây lưng chắc bền để cột y nội và đại y để tránh trường hợp tương tự xảy
ra!” Thế rồi, sau đó, một số tỳ-khưu đã sắm giây lưng, giây buộc để
trang điểm cho mình. Vị thì dùng giây tơ, sợi len bện lại thành từng vòng xoắn;
cái thì giống hình con rắn nước, cái giống sợi dây xích. Chưa thôi, họ còn bày
trò làm khóa thắt lưng bằng vàng, bằng bạc, cột nơ, thắt bướm hai đầu - để dài
lòng thòng bảy hoặc tám lóng tay. Có vị cài bằng những hột nút ngà, nút sừng,
nút vàng, nút bạc... Chưa thôi, áo lót thì quấn tùy tiện như vòi voi, vắt lên
như đuôi cá, có tua, có ren...hẳn hòi...!
Tôn
giả Vappa nói:
-
Cũng tương tợ vậy. Một lần nọ, tại Vesāli, có một tỳ-khưu bị bệnh, không có
gậy, không bước đi được, không có giây cột bát, không ôm bình bát nổi. Chuyện
đến tai, đức Thế Tôn đã cho phép sắm gậy và giây cột bát. Thế rồi, một số vị
tỳ-khưu lấy cớ ấy, sắm đủ mọi loại gậy cầu kỳ bằng kim loại quý, bằng mắt tre,
bằng kỳ mộc, quái mộc, bằng gỗ trầm hương, chạm trổ công phu đủ mọi dạng hình
rồng rắn, sư tử, cọp beo, chuột chồn, công hạc...các loại. Giây cột bát cũng
vậy - đều là cái cớ để họ trang sức cho mình! Rồi lại còn sắm thêm một túi đeo,
hai túi đeo... ở cổ, ở vai, quanh lưng nữa...
Tôn
giả Assaji nói:
-
Có vị tỳ-khưu có tật nhai lại thức ăn. Cứ hễ chiều đến là vị ấy “ựa” lại
thức ăn buổi trưa để nhai lại – cho nên miệng ông ta cứ nhóp nhép hoài. Đức
Phật đã vén mở quá khứ của vị ấy rồi nói rằng: “Do nghiệp quá khứ, ông
ta là điền chủ, đã bóc lột, đã bóp túi, nặn hầu... mấy chục người tá điền nô lệ
- nên phải bị đọa làm trâu cày, trâu kéo liên tục mấy chục kiếp trâu để trả nợ.
Do thói quen nhai lại, nghiệp còn dư sót... nên ông ta phải nhai lại thức ăn
như trâu. Vậy Như Lai cho phép được nhai lại đối với những ai có tật nhai lại”. Sự
thực là vậy. Nhưng tôi đã từng thấy nhiều vị tỳ-khưu, buổi chiều, ban đêm không
chịu tọa thiền, kinh hành, học hỏi kinh, luật, Abhidhamma... mà miệng thì cứ
nhóp nhép, nhóp nhép! Khi biết ra – thì hóa ra đấy là thức ăn chùng, thức ăn
vụng được cất giấu sau buổi trưa. Không thế thì nhai tỏi, nhai gừng, nhai quế,
nhai cam thảo, nhai hương hồi, nhai vỏ nhựa ngọt, nhựa thơm...
Rồi
lần lượt, chư trưởng lão có mặt như Devadatta, Kimbila, Bhaggu, Nandiya,
Nadīkassapa, Gayākassapa đều có phát biểu, kể ra một số trường hợp xoay quanh
những việc bất ổn xảy ra tại nhà kho, nhà bếp, phòng tắm hơi, nhà tắm, hồ tắm,
nhà vệ sinh - tiểu tiện, đại tiện, các hầm rác, hố rác... Và cuối cùng, chư vị
trưởng lão đề nghị cấm hẳn tất thảy các trò chơi, không chỉ của sa-di mà còn là
của các tỳ-khưu nữa, đó là: trò chơi cờ tám ô vuông, mười ô vuông, đánh gậy,
ném xúc xắc, thổi kèn bằng lá cây, uốn dẻo, nhào lộn, bắn cung, đố chữ, nhái
điệu bộ hát kịch, phường tuồng, huýt sáo, vật lộn...
Thấy
chư vị trưởng lão đã bao quát trọn vẹn mọi việc đã xảy ra, đang xảy ra... Tôn
giả Sāriputta vốn là bậc có sẵn duệ trí, ngài dường như tóm tắt lại:
-
Bạch đức Thế Tôn! Đúng là có quá nhiều vấn đề - mà đệ tử biết rằng, chư vị
trưởng lão ở đây cũng đã khổ tâm không ít! Và chính quý ngài cũng đã nhắc nhở,
giáo giới rồi. Đối với bậc trí, kẻ đã thấy – một hạt bụi cũng thấy - thì mọi
giới điều, giới luật đều có sẵn trong tâm và trí của mình; nói cách khác, mọi
biểu tướng, biểu hiện ở bên ngoài của quý ngài đã là giới điều, luật nghi!
Nhưng đối với kẻ ngu, người không thấy – núi Tu-di cũng không thấy – thì chúng
ta phải đưa ra, điều một này, điều hai này, nói một lần này, nói hai lần này,
nói ba lần này; việc này nên làm này, việc kia không nên làm này... nói mãi mãi,
nói hoài hoài như thế... thì may ra, lâu ngày chầy tháng, một tí bụi sương cũng
dính được trên đầu ngọn cỏ Kusa! Chư vị trưởng lão vốn sẵn có từ, có
nhẫn, có xả... nên đã làm như vậy, đã làm được điều kỳ diệu như vậy trong thời
gian gần đây tại các khu lâm viên. Tuy nhiên, giáo pháp của đức Tôn Sư là toàn
cõi châu Diêm-phù-đề; rồi còn phải tồn tại 5000 năm nữa; vậy nên, những quy
định, những chế định – dù bất thành văn – nhưng cũng phải được bố cáo rộng rãi,
từng điểm một, từng trường hợp một - hầu quảng bá sâu rộng cho 7 chúng tu học[i]! Đóa hoa đức hạnh, giới hạnh phải mãn khai, khi ấy, khu vườn
giáo pháp mới ngát ngào hương sắc được...
Nhìn
quanh chư vị trưởng lão, cảm giác ai cũng đồng thuận, tôn giả tiếp:
-
Hiện tại, dường như chưa có điều đáng tiếc, hệ trọng xảy ra - vậy chúng ta nên
gói gọn vấn đề mà đưa ra một số điều về thanh quy - gồm những việc cấp thiết
như sau:
Một, tư cách và trách
nhiệm của thầy đối với trò.
Hai, tư cách và bổn
phận của trò đối với thầy.
Ba, thái độ xử sự lúc
giao tiếp với đức vua, triều thần, quan lại, giáo chủ và đồ chúng các tôn giáo
bạn; giới trí thức, danh gia, triệu phú, người của các giai cấp.
Bốn, tư cách, thái độ
xử sự với các vị trưởng lão, vị cao hạ đối với vị thấp hạ và ngược lại, tỳ-khưu
đối với sa-di và ngược lại; với tỳ-khưu-ni, sa-di-ni; với
thiện Nam tín nữ.
Năm, những việc cần làm
khi đến, lúc đi khỏi rừng, cội cây, nghĩa địa, lâm viên, tu viện, tịnh xá...
Sáu, thời khắc và cung
cách đi vào phố, vào làng, vào xóm để khất thực và trở về - cùng cách thức mặc
y, mang bát... cái gì được phép và cái gì không được phép...
Bảy, công việc nơi trú
xứ; những việc cần phải làm để mang lại lợi ích chung; ví dụ quét dọn liêu cốc,
vườn tược, phơi phóng sàng tọa, y và bát, cất đặt, sắp xếp bàn ghế, dọn dẹp nhà
giảng, nhà hội; làm đầy các ghè nước nơi này và nơi kia...
Tám, cách xử sự và
những việc cần phải làm, phải ý thức tại nhà ăn, hồ tắm, phòng tắm hơi, nhà vệ
sinh - đại tiện, tiểu tiện, hố rác, hầm rác...
Chín, biết rõ giờ đức
Phật thuyết pháp, giáo giới; giờ chư trưởng lão tập hợp khi có công việc
chung...
Mười, sắp đặt thì giờ -
đâu là tập thể, đâu là cá nhân, để việc trì bình khất thực, chư thí chủ thỉnh
mời, kinh hành, tọa thiền, nghỉ ngơi không ảnh hưởng đến sinh hoat chung...
Kính
bạch đức Thế Tôn! Đấy là mười nhóm công việc khá cần thiết ở trong lúc này – có
thể áp dụng cho cả tỳ-khưu và tỳ-khưu-ni - vì chúng sẽ ổn định được đời sống
nội bộ, kiện toàn tư cách, phẩm hạnh của hàng Tăng Ni; đồng thời tạo uy tín đối
với quần chúng, thêm đức tin cho cư sĩ tại gia!
Khi
tôn giả Sāriputta dứt lời, chư vị trưởng lão đồng tán thán. Tôn giả Ānanda thì
nhiệt tình nhất:
-
Thật tuyệt vời thay là trí tuệ của bậc Tướng quân chánh pháp! Tung một nắm hoa
lên trời, lúc rơi xuống – là vị anh cả của chúng ta biết rõ cánh nào rơi trước,
cánh nào rơi sau – trong một thứ lớp, trật tự không chê vào đâu được!
Đức
Phật mỉm cười:
-
Ừ, Như Lai cũng thấy như thế! Và Như Lai cũng chấp thuận cả 10 điều, cả 10 nhóm
công việc. Vậy, các vị trưởng lão hãy tùy nghi sắp xếp thì giờ để thảo luận
từng điểm một, chế định từng điểm một. Nhưng phải lưu ý là phải dựa trên từng
trường hợp cụ thể, đã xảy ra, đang xảy ra và sẽ xảy ra...
Thế
rồi, tại lâm viên Ghositārāma, dưới sự chủ tọa của tôn giả Sāriputta, suốt bảy
ngày, chư vị trưởng lão đã sơ thảo được một thanh quy khả dĩ đáp ứng được nội
dung, nhu cầu đề cập. Đức Phật chuẩn y. Tôn giả Upāli nhờ được tiếng giới hạnh
uy nghiêm, quy củ, mẫu mực tỏa sáng trong giáo hội bấy lâu nay nên được đại hội
đề cử làm bậc thượng thủ tối cao giám sát thanh quy này! Tôn giả Ānanda do trí
nhớ tốt đã tuyên đọc lại ba lần. Ai cũng hoan hỷ. Sau đấy, chư vị trưởng lão
trở về trú xứ của mình để giáo giới chư tỳ-khưu còn non nớt, vụng về hoặc bừa
bãi, phóng túng, thiểu trí... đi vào nề nếp. Tôn giả Sāriputta và Ānanda còn đi
sang khu rừng trầm hương để phổ biến cho trưởng lão Ni và Ni chúng ở đây.
Hiện Tại Pháp Lạc
Sau
hạ thứ tám, chư vị trưởng lão phân bố đi các nơi để tuyên thuyết một số giới
điều liên hệ đến mười nhóm thanh quy đã chấn chỉnh tại lâm viên Ghositārāma.
Riêng Ni chúng tại khu rừng trầm hương thì chỉ giữ lại chừng 30 người; số còn
lại, trưởng lão Ni Gotamī, Yasodharā dẫn họ về Koliya và Sākya để thành lập Ni
viện ở quê nội và quê ngoại. Đi theo giúp đỡ có bốn vị trưởng lão cùng bản quán
– đó là Bhaddiya, Kimbila, Kāḷudayi, Devadatta. Đức Phật cũng gật
đầu mỉm cười cho Rāhula dẫn theo một số sa-di về thăm quê! Riêng ngài thì chỉ
giữ lại tôn giả Sāriputta, Ānanda, thị giả Upavāna và có thêm Nanda nữa.
Khi
mọi người đã ra đi hết rồi, đức Phật nói chuyện với tôn giả Sāriputta:
-
Kỳ Viên, Trúc Lâm, Đại Lâm... là quan trọng nhất vì số lượng Tăng đông nhất nên
các vị trưởng lão phải trở về đó. Tại Vamsā này, ba cơ sở ở Kosambī tạm thời đã
đặt được nền móng. Các vị giáo thọ ở đây, tuổi đạo, kinh nghiệm cũng như trình
độ giáo pháp đều còn non trẻ; sau này, chúng ta sẽ quan tâm nhiều hơn. Gần đây,
còn có hai bộ tộc, đó là Kuru và Aṇga – chúng ta phải gieo duyên ở đấy.
Đầu
tiên, đức Phật dẫn theo chừng 200 vị tỳ-khưu còn non yếu nhất đến Kuru, một bộ
tộc nhỏ, đa phần là bà-la-môn giáo. Là nơi mà đức Phật vừa độ cho vợ chồng gia
chủ bà-la-môn Māgaṇḍi chứng quả A-na-hàm rồi xin xuất gia. Khi hai vợ chồng
khẳng khái từ bỏ gia sản, tặng không cho người em trai Cūḷamāgaṇḍi rồi theo
đoàn sa-môn – đã làm cho thị trấn bàn tán không ngớt. Chuyện cô gái Māgaṇḍiyā
xinh đẹp tuyệt trần mà “ông ta” không dám sờ chạm vì ghê tởm,
dầu đụng bằng chân - họ cũng đã được nghe và dư luận ấy hiện đang còn nóng hổi.
Ông em trai của vợ chồng Māgaṇḍi nghe xốn tai quá - khi quần chúng có vẻ cười
nhạo, sỉ nhục cháu mình; tức giận tràn hông, mấy ngày hôm sau, ông cho cô gái
phục sức sang trọng, diễm lệ vào triều đình, dâng cho đức vua Udena! Dung nhan
cô gái đã làm xiêu lòng đức vua tửu sắc, ông tức khắc phong cho cô ta làm thứ
phi. Chuyện này, nhân dân cũng đang bàn tán. Bây giờ, nghe tin “ông
Phật ấy” lại đến, làm cho mọi người ai cũng tò mò!
Đức
Phật và hội chúng ngụ trong một khu rừng vắng, không gần mà cũng không xa thị
trấn Kanumāsadhamma bao nhiêu; buổi sáng, trước lúc xuống xóm làng để khất
thực, đức Phật dặn bảo tôn giả Sāriputta, Ānanda:
-
Như Lai nhờ hai ông kiểm soát toàn bộ tóc, râu, y và bát của tất cả tỳ-khưu
này. Ai không đúng cách, phải chỉnh sửa lại. Toàn bộ phải đi chân đất, không
được mang theo dù, dép, gậy, đeo đãy nào trên vai, trên cổ. Phải tập tành, chỉ
vẻ cho họ cách đi dọc đường, từng bước đi chánh niệm, tỉnh giác ra sao. Khi đi,
không nhìn qua, nhìn lại, mắt hơi cúi xuống, nhìn đằng trước chừng một đòn
gánh. Khi đứng trước cửa mọi nhà, xoay nghiêng người và bình bát ra sao, nhận
vật thực phải im lặng như thế nào; nếu cần, chỉ đọc một câu kệ phúc chúc là đủ.
Người đặt bát dẫu là ai, cũng đừng nhìn ngắm! Nhớ đừng nắm giữ tướng chung
-Nam nữ, trẻ già; đừng nắm giữ tướng riêng - những chi tiết về thân thể,
tay chân, mặt mũi; lúc nào cũng phải lắng nghe hơi thở của mình - bình hòa,
vắng lặng và mát mẻ...
Nhờ
được hướng dẫn tốt, nên khi đoàn sa-môn có đức Phật, tôn giả Sāriputta, Ānanda,
Nanda, Upavāna dẫn đầu - đều trông đẹp như Phạm thiên; lại trông rất có trật
tự, kỹ cương - quần chúng trông, ai cũng thích, ai cũng phát tâm hoan hỷ. Một
số ngoại đạo cũng phải phát tâm tín mộ, đặt bát cúng dường...
Buổi
chiều, nhân dân quanh vùng, có rất đông đồ chúng bà-la-môn tìm đến khu rừng để
chiêm ngưỡng “ông Phạm thiên đẹp đẽ” cùng nghe pháp. Đức Phật
biết dân chúng ở đây thật thà, chất phát, tâm và trí họ còn khá trong sáng chưa
bị vấy nhiễm nhiều bụi cát như tại các kinh thành lớn – nên ngài phương tiện,
ân cần giáo giới dịu dàng với giọng phạm âm như người mẹ hiền. Đồng thời, cũng
do đức tin sai lạc nhiều đời, với quá nhiều thần linh bà-la-môn huyễn hoặc, ru
ngủ - họ rất sợ thánh thần phạt tội, “không cấp giấy thông hành lên
nước trời”- nên đức Phật cũng biểu tỏ một vài uy lực thần thông cho họ
thấy, họ tin. Và sau đó, ngài mới nói đến các cảnh trời, nhân và quả, tâm và
cảnh từ thấp lên cao... Các ngày hôm sau, người ta kéo đến đông hơn nữa. Thế
rồi, ngài lại giao cho tôn giả Sāriputta, Ānanda thuyết pháp. Và rõ ràng, vị
nào thuyết cũng dịu dàng, lưu loát, rõ ràng, phân minh, khúc chiết... với những
đoản ngôn, ví dụ dễ nghe, dễ hiểu. Những ngày hôm sau nữa, một số bà-la-môn trí
thức, một số doanh gia, phú hộ tìm đến. Ai cũng được thỏa mãn. Ai cũng cảm thấy
rất hài lòng, rất có đức tin đối với tôn giáo mới này! Người ta quy y rất đông.
Một số cư sĩ trí thức chứng quả Tu-đà-hoàn! Một số thanh niên của nhiều giai
cấp xin xuất gia. Thế rồi, khu rừng này lại biến thành một khu lâm viên nữa với
một số cốc liêu, nhà giảng, các công trình phụ...
Đặc
biệt, thời gian ở đây, đức Phật giảng nói cho chư tỳ-khưu về Tứ niệm xứ -
là bài kinh quan trọng cho tất thảy mọi người, không kể xuất gia hay tại gia.
Đối với các vị tỳ-khưu trẻ, sơ tu - lại càng quan trọng – vì nhờ vậy, họ mới
biết chính xác niệm thân, thọ, tâm, phápra sao...
Đức
Phật giảng rất chi ly, giản dị, dễ hiểu từ thấp lên cao, từ cạn vào sâu. Ngài
nói:
-
Này các thầy tỳ-khưu! Đây là con đường độc lộ, độc đạo, độc nhất đưa đến an
vui, thanh tịnh cho chúng sanh; vượt thoát sầu não, diệt trừ khổ ưu, hướng đến
chánh trí, thành tựu tuệ giác, đạt được tự do tối thượng, an vui tuyệt đối,
chứng ngộ Niết-bàn. Đó là Bốn niệm xứ.
Này
các thầy tỳ-khưu! Thế nào là Bốn chỗ niệm, Bốn lãnh vực cần phải chú tâm, soi
chiếu, minh sát, quán niệm? Đấy là thân, thân thể,
thân sắc; thọ, cảm giác; tâm, các
trạng thái tâm lý; và pháp, đối tượng của tâm.[i]
Bây giờ
nói về cái cần phải chú tâm, quán niệm thứ nhất là thân. Là
cái thân này, từ lúc sanh ra cho đến lúc bị thiêu xác hoặc bị quăng bỏ nơi
nghĩa địa – nó sinh diệt liên tục, biến đổi liên tục từ hài nhi, ấu thơ, thiếu
niên, trung niên, già lão rồi tử vong. Thanh xuân thì trẻ trung, đẹp đẽ; già
lão thì suy yếu, nhăn nheo, xấu xí. Đấy là sự thật, là tất yếu. Nó lại còn chứa
đầy vật bất tịnh. Nhưng chúng sanh thì không biết, không thấy sự thật ấy – nên
yêu mến, đam mê, luyến ái cái thân này một cách quá đáng. Muốn nó ăn cho no,
cho ngon, cho sướng. Mặc cho nó đẹp, nó sang, nó oai! Trang điểm cho nó kiểu
cách, mỹ miều, lộng lẫy! Xoa dầu thơm, tẩm hương liệu, bôi cao dưỡng da cho nó
mỡ màng, non tơ, láng lẫy nữa! Chưa thôi - lại còn làm sao cho mắt, tai, mũi,
lưỡi, thân được thỏa mãn tất thảy mọi dục lạc ở đời. Thỏa mãn rồi còn muốn thỏa
mãn nữa, thỏa mãn nữa... Dục lạc càng thỏa mãn càng thiếu, càng uống càng khát,
nên cuộc chạy đuổi, săn tìm ấy không thể dừng lại, suốt đời không thấy dấu hiệu
dừng lại! Trên đường tìm kiếm ấy, thức tri của nó bị tham, sân, si, tà vạy, bất
chánh chi phối... nên nó tạo tác các nghiệp ác, bất thiện pháp – nói chung là
mười nghiệp bất thiện [ii]- để rồi bị quả báo đau khổ, đọa sanh vào 4 con
đường dữ là địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh, a-tu-la! Vậy, đầu tiên, ta phải để ý
đến cái thân vì nó thô thiển, dễ thấy; vì nó phải ăn uống, đi đứng, ngồi nằm,
co vào, duỗi ra, hít thở...; vì nó ở bên ta suốt ngày, suốt đêm; vì nó cùng ở
chung căn nhà với ta, nó chở mang ta từ lúc sinh đến lúc chết. Và nếu chúng ta
không thấy rõ nó, không kiểm soát được nó thì nó sẽ vọng động tạo tác ác nghiệp
ngay tức khắc.
Vậy,
cái gọi là niệm thân – nghĩa là ghi nhớ cái
thân, chú tâm nơi cái thân, chánh niệm nơi cái thân - sẽ có hai lợi
ích. Thứ nhất ta sẽ kiểm soát được nó, làm chủ được nó; và khi kiểm soát được
nó, làm chủ được nó – thì nó không còn vọng động để tạo tác các ác nghiệp. Đây
là lợi ích thuộc về tục đế, tục thể, thế gian – nó là nhân sanh thiện pháp,
phước báu của nó là cõi người và cõi trời, không còn đọa vào những cảnh giới
đau khổ nữa. Lợi ích thứ hai thuộc về bình diện tuệ giác, xuất thế - là khi
thấy thực cái thân, là tổng hợp sắc, nó chỉ là sắc; là sắc sanh, sắc già lão,
sắc tàn lụi, sắc hoại diệt; thật sự thấy rõ bản chất vô thường, vô ngã, dukkha
của chúng - chẳng còn rơi vào chấp thủ, vào các khái niệm phạm trù nữa, ta sẽ
có được cái thấy chân đế, như thực – là cánh cửa mở vào cõi siêu thế, Niết-bàn,
chấm dứt tất cả khổ.
Này
các thầy tỳ-khưu, hãy tập sự niệm thân! Hãy chăm chú, quan sát, chú tâm, nhìn
ngắm nó khi đi đứng nằm ngồi, co tay, duỗi chân, khi mặc y, mang bát, đi trì
bình khất thực, khi đang ăn, đang uống, đại, tiểu tiện... Suốt ngày, ba thời,
sáu khắc - ý thức, trực thức phải được thắp sáng lên như ngọn đèn để nhìn ngắm
tất thảy mọi oai nghi cử động của nó. Phải liên tục, miên mật chánh niệm, tỉnh
giác. Còn khi tọa thiền, kinh hành – các thầy phải chú tâm vào hơi thở. Hơi thở
nó dài ngắn, thô tế ra sao thì phải được ghi nhận trung thực, như thực. Phải
thấy rõ hơi thở cụ thể như thực bằng tuệ tri - chứ không phải thấy hơi thở bằng
tưởng tri hay thức tri. Cái thấy bởi tưởng tri, bởi thức tri và tuệ tri giống
nhau ra sao và khác nhau ra sao, các thầy cũng phải thấy, phân biệt cho thông
tỏ.[iii]
Này
các thầy tỳ-khưu! Tưởng tri, thức tri, tuệ tri đều là thấy,
chức năng thấy giống nhau. Ví dụ như thấy hình tướng, hình dáng, hình sắc, âm
thanh, mùi, vị... một cách khái quát, tổng quát, thoáng qua... gọi là tưởng
tri (tri giác). Thấy qua kinh nghiệm, kiến thức, hiểu
biết; phân biệt rõ ràng màu sắc, hình dáng, các chi tiết... là cái thấy
của thức tri (thức, tâm vương). Chỉ có thấy rõ thực tánh, bản
chất như thực của các pháp mới sử dụng tuệ tri (thấy như thực thấy). Một
đứa trẻ chỉ có tưởng tri còn thức tri thì muội lược, yếu ớt, nhỏ nhiệm. Lớn
lên, trưởng thành do học hỏi, do kinh nghiệm - thức tri mới được vun bồi, huân
tập. Tất cả mọi trí trên thế gian đều thuộc về thức tri, trí năng –
cho dẫu là thắng trí [iv] (ngũ trí thần thông) thì vẫn còn là phàm phu, tại thế. Chỉ có
ai tu tập tuệ quán, quán chiếu - mới sử dụng tuệ tri để thấy rõ sự vô thường,
vô ngã và dukkha của các pháp - nhờ vậy mới mở hé được cánh cửa
Niết-bàn, siêu thế, chấm dứt tất cả khổ.
Này
các thầy tỳ-khưu! Cũng là cái thân, nhưng với ai quá nhiều tham dục – thì phải
biết nhờm gớm cái thân này, nó đầy đủ 32 thể trược. Nói cách khác, chẳng có gì
đáng quý, đáng đam mê, đáng ái luyến cái thân này cả; nó chỉ là nước, sức nóng,
đất, không khí... kết hợp mà thành; nó gồm có tóc, râu, lông, móng, răng, da,
xương, thịt, gân, tủy, ruột non, ruột già, mồ hôi, đàm, mủ, phân, mồ hôi, nước
tiểu... mà thôi! Cứ quán tưởng như thế, niệm tưởng như thế để tham dục, ái
luyến cái thân một cách quá đáng sẽ yên lặng đi, giảm nhẹ đi! Trường hợp này
cũng nên ra tận nghĩa địa lấy cái tử thi mà làm đề mục. Hãy quan sát, nhìn ngắm
cái tử thi từ khi mới chết - một cô gái hoặc một chàng trai tuổi đang còn thanh
xuân. Qua vài ngày, cái thây sẽ trương phình, hôi thối - những ai tham thích
hình dáng, khi thấy cái thây trương phình ấy thì chẳng còn mê gì cái hình dáng
nữa! Ngày hôm sau, cái thây sẽ bầm xanh, bầm tím, rỉ nước – ai tham thích màu
da sẽ không còn tham thích màu da nữa. Cái thây sẽ dần dần thối rữa, xú uế nồng
nặc – ai tham thích xông ướp hương hoa cho cái thân sẽ bắt đầu thấy ghê tởm cái
thân. Rồi cái thây sẽ đứt lìa, nối với nhau bởi những sợi gân, bầy
nhầy máu thịt - sẽ đối trị với những ai yêu thích sự săn chắc của cơ bắp. Cái
thây bị thú vật như kền kền, quạ, diều hâu, chó rừng... mổ, cắn, khới,
gặm - để đối trị với những ai yêu thích mông, ngực. Các chi tiết, bộ
phận của tử thi rã rời, đứt khúc nằm ngổn ngang - để đối trị với người thích
nhìn ngắm tay chân nõn nà, ngọc chuốt! Cái thây bị phân hủy, nát nhừ, vương vãi
đây kia – thích hợp với người ưa trang điểm cho thân thể được đẹp đẽ, diễm
kiều! Tướng sâu trùng, giòi bọ, kiến ruồi.. đục khoét, bấu rúc.. sẽ đối trị với
người thích sở hữu, chấp thủ cái thân của mình. Rồi còn đống xương khô, phơi
bày trắng hếu giữa nắng mưa – dành cho ai thích hàm răng đẹp! Như thế, khi hành
giả quán sát thực, thấy thực 10 tướng của tử thi như vậy – sẽ quán tưởng
rằng: Thật vậy, sự thật là như vậy, thân này cũng y như thế ấy, cũng
cùng một bản chất như vậy, cũng trở thành như vậy và sẽ không thể tránh khỏi
trạng thái ấy! Nhờ vậy, dần dà tâm đam mê, ái luyến để tìm thỏa mãn
cho cái thân sẽ đi đến giảm trừ, muội lược, chấm dứt hẳn; không còn bám víu,
chấp thủ vào cái thân, không còn nô lệ cho cái thân nữa!
Này
các thầy tỳ-khưu! Cái thứ hai cần phải chú tâm, quan sát, quán niệm là thọ, tức
cảm giác. Cảm giác có hai, là cảm giác ở nơi thân và cảm giác ở nơi tâm. Cảm
giác ở nơi thân, là cảm giác thuộc về cơ thể vật chất, thuộc sinh lý. Khi
một cái gì, một đối tượng nào tác động lên thân để ta có cảm giác dễ chịu, sảng
khoái, thích thú - đấy được gọi là lạc! Cái gì đó, một
đối tượng nào đó, tác động lên thân để ta bị đau, nhức, tê, ngứa... đưa đến cảm
giác khó chịu, bực bội - đấy được gọi là khổ. Còn những
khi không có lạc hay khổ mà có cảm giác trung tính, được gọi là xả! Cảm
giác ở nơi tâm thì thuộc về tâm lý – tức là một loại cảm giác đã tác động vào
tâm. Khi ta thấy sung sướng, an vui, hạnh phúc... có vợ đẹp, con xinh;
thành đạt danh vọng, tiền tài, sản nghiệp, địa vị; được may mắn, được khen
ngợi... thì ta khoái thích, sung sướng, mãn nguyện - gọi là hỷ. Những
khi ta thất bại, thua thiệt, rủi ro, bị chê bai, phỉ báng; vợ chồng, con cái
bất hòa, ly tán; sản nghiệp tiêu vong, mất mác; xa người mình thương, ở gần
người mình ghét... tất thảy đưa đến đau khổ, buồn chán, sầu não, ưu phiền...
đấy được gọi là ưu! Còn những khi không có hỷ hay ưu
thì có xả. Hỷ, ưu, xả - đấy là ba cảm thọ của tâm. Vậy,
hành giả khi quán niệm, theo dõi, chú tâm vào các cảm thọ, dù ở nơi thân hoặc ở
nơi tâm thì đều phải được ghi nhận rõ ràng, vô tư, khách quan, trung thực.
Những cảm thọ ở nơi thân như nhức răng, đau mắt.. thì dễ ghi nhận vì nó có đối
tượng cụ thể - gọi là thô tháo; những cảm thọ ở nơi tâm thì vi tế hơn, phát
sanh nhanh hơn nên cần sự chú tâm nhiều hơn. Một hành giả chú tâm, minh sát các
cảm thọ có công phu liên tục, miên mật có thể thấy rõ cả ba giai đoạn lúc cảm
giác sanh, lúc cảm giác tồn tại và cả lúc cảm giác diệt mất. Tức là sanh, trụ
và diệt. Ở đây, không cần thiết phải tinh tấn, nỗ lực gì một cách cường liệt,
căng thẳng; mà cũng chẳng cần khởi dậy một ý niệm tịnh hóa, loại trừ, chối bỏ
hay phủ nhận - cứ lắng nghe nó một cách trung thực, định tĩnh, sáng suốt thì nó
sẽ tự động sinh, tự động diệt theo đúng bản chất của nó. Nói cách khác, các cảm
giác là những ngọn gió hoặc cơn cuồng phong sẽ lay động thân, lay động tâm; và
lưu ý, xem chừng là nó sẽ làm cho lửa tham, lửa sân bùng lên, bốc cháy, thiêu
đốt thiện pháp. Vậy nên – không chỉ khi đi đứng nằm ngồi, ăn uống, mặc y, mang
bát, tắm rửa, đại tiểu tiện, tọa thiền, kinh hành – mà phải công phu suốt ngày,
suốt đêm - ngoại trừ lúc có giấc ngủ sâu!
Này
các thầy tỳ-khưu! Cũng từ cảm giác, cảm thọ - đi sâu thêm một chút nữa, là quan
sát, minh sát, quán niệm tâm. Tâm đây gọi chung là tâm ý hay là các trạng thái
tâm lý. Cái tâm thì rất vi tế. Thường thường, chúng sanh không thấy được tâm ý
của mình – vì bản chất của tâm nó chập chờn, dao động luôn; nó như chú ngựa ham
thích dong ruỗi, như khỉ vượn mải mê níu nhánh, vin cành. Nó khởi quá nhanh mà
hành tung thì bất định. Lại mù mờ như khói như sương. Chỉ những hành giả nào
niệm thân, niệm thọ lâu ngày mới bước sang được giai đoạn niệm tâm. Không dễ gì
ta thấy được ta đang tham hay ta đang sân. Tại sao thế? Vì khi ta đang nhìn
ngắm một cô gái đẹp, một đóa hoa đẹp hay một cảnh sắc đẹp - do bị đối tượng thu
hút nên ta đã mải mê nhìn ngắm hình dáng, màu sắc, các chi tiết bộ phận... mà
không biết tâm ưa thích, tham muốn, ái luyến khởi lên lúc nào! Sân cũng vậy.
Khi nghe một tiếng chửi mắng, một lời phỉ báng – thì ta liền tá hỏa tam tinh,
nổi sừng, nổi sộ ngay. Nói cách khác, khi một đối tượng là một sắc, một
thanh... làm ta khó chịu, ta bị nó cuốn theo không biết lúc nào! Có người nửa
chừng mới biết. Có người rời khỏi đối tượng rồi mới biết. Có người, lúc tưởng
nhớ lại mới biết. Chỉ hành giả có công phu thâm sâu mới biết rõ nó khi vừa khởi
sanh, đang chi phối tâm và cả sau khi nó ra đi! Vậy, niệm tâm đi sau niệm thọ
là bước chuẩn bị, là hành trang nội lực cần thiết. Lúc niệm tâm phải cần trang
bị chánh niệm, tỉnh giác cao độ. Tâm, khái quát có cả thảy 16 loại tâm - cần
phải nhìn ngắm rõ ràng, vô tư, trong sáng và chân thực:
Tâm
có tham tức là mọi tham muốn, ưa thích, đam mê, ái luyến - phải biết rõ, thấy
rõ như vậy.
Tâm
không có tham - phải biết rõ, thấy rõ như vậy.
Tâm
có sân tức là các trạng thái tâm nóng nảy, bực bội, giận dữ, sân hận - chúng ra
sao thì phải biết rõ, thấy rõ như vậy.
Tâm
không có sân - phải biết rõ, thấy rõ như vậy.
Tâm
có si tức là các trạng thái tâm đần độn, mê mờ, tối tăm, si mê - phải biết rõ,
thấy rõ như vậy.
Tâm
không có si - phải biết rõ, thấy rõ như vậy.
Tâm
có thu nhiếp tức là tâm có tập trung, có thu thúc - phải biết rõ, thấy rõ như
vậy.
Tâm
bị tán loạn nghĩa là tâm phóng dật, vọng tưởng, thất niệm, bất giác, hỗn loạn,
bối rối...[v] - phải biết rõ, thấy rõ như vậy.
Tâm
quảng đại là tâm rộng lớn [vi] - phải biết rõ, thấy rõ như vậy.
Tâm
không quảng đại [vii]- phải biết rõ, thấy rõ như vậy.
Tâm
hữu hạn là tâm có giới hạn, có biên độ...[viii] - phải biết rõ, thấy rõ như vậy.
Tâm
vô thượng [ix]- phải biết rõ, thấy rõ như vậy.
Tâm
có định [x] - phải biết rõ, thấy rõ như vậy.
Này
các thầy tỳ-khưu! Quán niệm tâm là như thế, những trạng thái tâm có mặt trong
hiện tại như thế nào phải được nhìn ngắm đúng như vậy - đừng bao giờ xen dự vào
đấy một phản ứng chủ quan nào, chồng lên chúng một tưởng một tư nào. Và các
trạng thái tâm ấy cũng phải được nhìn ngắm xuyên suốt cả ba giai đoạn sanh
khởi, tồn tại và diệt tận của chúng nữa.
Cuối
cùng là niệm pháp. Pháp ở đây là gì? Pháp rất rộng nghĩa, chỉ giới hạn pháp với
nghĩa là đối tượng của tâm trên hành trình tu tập.
Này
các thầy tỳ-khưu! Đầu tiên là 5 triền cái [xiv],
tức là 5 pháp nó vấn, nó quấn chặt, nó che lấp sự tịnh định và trong sáng của
tâm trí: Hôn trầm, thụy miên – hoài nghi – sân – phóng tâm - dục.[xv] Bất
cứ ai chưa tu tập cũng bị 5 pháp này chi phối; người đang tu tập cũng bị chúng
chi phối. Vậy khi nào có những pháp chướng ngại này phát sanh, phải nhìn cho rõ
mặt mày của chúng. Phải chú tâm, phải biết rõ, phải thấy rõ (tuệ tri) hôn
trầm, thụy miên qua ba giai đoạn sanh, trụ và diệt. Các pháp chướng ngại khác
như nghi, sân nhuế, trạo hối, tham dục cũng được nhìn ngắm như thế. Và như vậy,
chỉ cần đối trị như vậy, đừng nên gia cố thêm một ý niệm nào khác – vì trong
chú tâm và tuệ tri đã có đầy đủ tinh tấn, chánh niệm và tỉnh giác [xvi].
Đấy là cách loại trừ, diệt tận, bứng nhổ 5 triền cái bởi tuệ quán. Còn nếu sử
dụng định để đối trị thì ta phải tự tìm một đề mục thiền định (trong 40
đề mục) thích hợp để gia công tu tập. Nếu đề mục (đối tượng) được
chú tâm liên tục, tinh cần thì những thiền chi sẽ tuần tự phát sanh. Lúc tầm
thiền chi được nung nóng, chú niệm miên mật - thì nó sẽ đối trị với
hôn trầm, thụy miên (giãi đãi, lừ đừ, mệt mỏi, buồn ngủ). Khi tứ
thiền chi phát sanh thì hoài nghi, lưỡng lự, bất nhất, bất quyết sẽ
không còn. Lúc phỉ thiền chi với 5 hiện tượng [xvii] xảy
ra nơi thân thì nóng nảy, bực bội, khó chịu, sân nhuế... sẽ ra đi. Khi lạc
thiền chi hiện khởi thì những buông lung, phóng dật, trạo cử... không
tồn tại. Và cuối cùng, khi nhất tâm thiền chi thành tựu thì
mọi tham muốn, dục lạc, khát ái, khát vọng... sẽ lặn chìm, mất bóng. Như thế có
nghĩa là khi 5 thiền chi phát sanh, được duy trì, được làm cho
sung mãn thì nó sẽ tạo ra một năng lực mạnh mẽ, khả dĩ làm cho 5 triền
cái không thể nhúc nhích được, chúng sẽ như cáu bợn được lặn chìm dưới
đáy bát nước, hoặc như một đám cỏ bị một tảng đá lớn đè lên trên... Nếu định
còn yếu, sơ khởi thì gọi là cận định; thuần thục, chín muồi, vững chắc hơn thì
gọi là an chỉ định (định sơ thiền - nơi vắng lặng các dục vật chất).
Pháp
tiếp theo mà hành giả cần phải chú tâm, thấy rõ, biết rõ - đấy là ngũ thủ uẩn [xviii],
tức là sắc uẩn, thọ uẩn, tưởng uẩn, hành uẩn và thức uẩn - mà
chúng sanh thường chấp thủ là ta, là của ta, là tự ngã của ta. Phải tuệ tri,
phải thấy rõ như thực rằng, sắc chỉ là sắc; đây là sắc sanh,
đây là sắc diệt - chẳng có ta, có ngã nào ở đấy cả. Thọ, cảm giác, cũng vậy,
phải tuệ tri, phải thấy rõ như thực rằng, cảm giác chỉ là cảm giác, đây
là cảm giác sanh, đây là cảm giác diệt - chẳng có ta, có ngã nào ở đấy cả. Quán
sát tưởng, hành và thức cũng phải được nhìn ngắm như chân, như thực như thế.
Chúng có mặt, thấy rõ chúng có mặt, chúng ra đi thấy rõ chúng ra đi. Đừng để
cho sắc chồng chất lên sắc mà thành sắc uẩn. Đừng để cho thọ chồng chất lên thọ
mà thành thọ uẩn. Tưởng, hành và thức cũng vậy. Rỗng không, rỗng rang,
vô thường, vô ngã.
Này
các thầy tỳ-khưu! Còn nữa, hành giả tu tập cần phải sống quán pháp trên các
pháp đối với 6 nội ngoại xứ. Thế nào là sáu nội ngoại xứ?
Ở
đây, mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý là 6 nội; sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp là
6 ngoại. Trong ngoài mà gặp nhau, xem chừng là chúng sẽ sanh khởi trùng trùng
phiền não, kiết sử [xix].
Ví dụ mắt thấy sắc, tai nghe âm thanh, duyên hai pháp này, tức khắc tham sân,
thương ghét sanh khởi. Vậy, phải tuệ tri như chân, như thực rằng, mắt
chỉ là mắt, tai chỉ là tai, sắc chỉ là sắc, thanh chỉ là thanh. Giả dụ
kiết sử đã sanh khởi – thì cũng thấy rõ kiết sử đã sanh khởi, đang sanh khởi,
đang tồn tại, đang diệt mất. Đối với mũi - hương, lưỡi - vị, thân - xúc, ý -
pháp cũng phải được tuệ tri, được nhìn ngắm như chân, như thực như thế, đúng
với bản tánh sanh diệt của các pháp. Chúng rỗng không, rỗng rang, vô
thường, vô ngã.
Này
các thầy tỳ-khưu! Cứ quán niệm như thế, tu tập như thế, hành trì miên mật như
thế - chư vị càng ngày càng thấy pháp sanh, pháp diệt rõ ràng, như chân như
thực. Cả 7 giác chi, 7 yếu tố giác ngộ, 7 yếu tố đưa đến giác ngộ cũng phải
được thường trực quán niệm, tuệ tri. Khi có niệm giác chi, biết
rõ, thấy rõ đang có niệm giác chi. Khi không có niệm giác chi cũng phải được
biết rõ, thấy rõ không có niệm giác chi. Khi niệm giác chi được củng cố, huân
trưởng, cụ túc, viên mãn cũng biết cũng thấy rõ ràng niệm giác chi như thế. Cứ
như vậy làtrạch pháp, tinh tấn, hỷ, an, định và xả.
Này
các thầy tỳ-khưu! Cuối cùng là Tứ diệu đế - thế nào là sống quán pháp trên các
pháp đối với Bốn Sự Thật về khổ, tập, diệt và đạo? Đây là khổ, phải như thật
tuệ tri. Đây là khổ tập, phải như thật tuệ tri. Đây là khổ diệt, phải như thật
tuệ tri. Đây là con đường đưa đến khổ diệt, phải như thật tuệ tri.
Này
các thầy tỳ-khưu! Đấy là toàn bộ bốn lãnh vực quán niệm mà các thầy phải nghiêm
túc hành trì để chấm dứt sầu bi ưu não ở trên đời – nó có công năng đưa đến an
lạc, hạnh phúc, thanh tịnh, chánh trí, giác ngộ, giải thoát... ngay trong hiện tại
này! Người nào nhiệt tình, chuyên tâm, tinh cần hành trì rốt ráo có thể đắc đạo
quả A-la-hán, không thì cũng A-na-hàm, Bất Lai. Đừng nói là bảy năm, sáu năm,
năm năm, bốn năm, ba năm, hai năm... mà chỉ cần một năm tu tập tinh mật là được
như thế. Cũng không nhất định là một năm, mà chỉ cần bảy tháng, sáu tháng, năm
tháng, bốn tháng, hai tháng, một tháng, nửa tháng cũng được như ý. Có thể có vị
chỉ cần 7 ngày là thành đạt rốt ráo cứu cánh của sa-môn hạnh, xứng đáng là một
thiện gia Nam tử xuất gia, từ bỏ gia đình cần cầu vượt thoát mọi khổ ách đa
mang trên trần thế!
Đức
Thế Tôn chấm dứt thời pháp dài. Rợn ngợp là các pháp cốt lõi, tinh yếu! Đại
chúng hoan hỷ. Một số tỳ-khưu đắc quả Nhập Lưu. Một số tăng trưởng đức tin. Một
số thấy rõ đường đi. Một số đã biết rõ mình phải tự điều chỉnh thân, khẩu, ý,
tứ oai nghi như thế nào cho xứng đáng với phẩm mạo sa-môn. Một số khác nữa, khá
đông chưa nắm bắt được, có lẽ phải còn nghe đi nghe lại rất nhiều lần qua các
vị trưởng lão.
Tôn
giả Ānanda rất hạnh phúc vì ngài đã thuộc nằm lòng không bỏ quên bất cứ một câu
nào, một đoạn nào; và rồi đây, hễ có dịp, hễ đức Thế Tôn cho phép thì tôn giả
sẽ trùng tuyên lại.
Tôn
giả Sāriputta trí nhớ cũng đâu có kém gì. Ngài chăm chú tiếp thu khái quát,
tổng hợp... như một thống kê, như một biểu đồ mà các phân đoạn, tiết, mục của
thời pháp được tóm thâu, phân chia thứ lớp rất phân minh. Nói cách khác, ngài
nắm chắc toàn bộ nội dung và ngữ nghĩa. Gặp lúc giảng thuyết lại – ngài sẽ đi
từ cái nguyên lý, cái phổ quát ấy rồi sẽ tự tìm ra phương pháp, cách thức để
phân tích và giải nghĩa các chi tiết.
Và
quả thật như thế. Những ngày hôm sau, các tỳ-khưu phương xa tìm đến, tôn giả
Sāriputta và Ānanda đã phải thuyết lại, được đức Phật khen ngợi vô cùng.
Như
tâm đắc về thời pháp Bốn lãnh vực quán niệm vi diệu, hôm kia, tôn giả Sāriputta
hỏi Phật:
-
Bạch đức Tôn Sư! Bài kinh Tứ niệm xứ tối thượng này dường như bao hàm toàn bộ
giáo pháp thoát khổ. Đệ tử an lạc cả từng chân tơ kẽ tóc khi thuyết lại cho chư
vị tỳ-khưu phương xa. Đệ tử xin được mạo muội nêu ra một ý nghĩ đã khởi sanh,
đang khởi sanh; rằng là pháp môn tu này có thể giảng nói giới hạn hay không
giới hạn cho hàng tại gia cư sĩ được chăng?
-
Được chứ, này Sāriputta! Được, đối với cư sĩ nào có căn cơ thượng trí! Đây là
giới hạn. Được, đối với cư sĩ nào có tâm hồn thuần phác chưa thấm nhiễm quá
nhiều kiến thức, danh lợi hoặc những chân lý có sẵn! Đây là giới hạn. Được, cho
phần đông sống đời có chánh niệm, tỉnh giác trong hơi thở, lúc đi đứng nằm
ngồi... để có được hiện tại pháp lạc. Đây là không giới hạn.
-
Vậy là đệ tử hiểu rồi! Bạch đức Thế Tôn! Dân chúng bộ lạc Kuru dễ thương này họ
mộc mạc, hiền lương và chân thật. Nếu đức Thế Tôn cho phép, đệ tử sẽ giảng nói
một loại Tứ niệm xứ rất dị giản, rất dễ tiếp thu cho họ nghe hiểu và thực hành.
-
Ừ! Như Lai để cho ông tùy nghi!
Đúng
là trí tuệ của bậc Đệ nhất đại đệ tử. Những thời pháp tiếp theo, tôn giả
Sāriputta đã giảng nói đến hai hàng cư sĩ. Và ngạc nhiên xiết bao, họ đã tiếp
thu khá dễ dàng rồi sau đó, đã thực hành rất tốt, đã áp dụng được Tứ niệm xứ
trong đời sống hằng ngày – mang đến kết quả lợi lạc, an vui, hạnh phúc cho cư
dân xứ này thật không kể xiết!
[i] Thân (kāya), thọ, cảm giác (Vedanā), tâm
(tâm vương - citta và tâm sở-cetasika), pháp(dhamma)..
[ii] Thân 3 (Sát sanh, trộm cắp, tà hạnh); khẩu
4 (nói dối, nói hai lưỡi,nói thêu dệt, nói ác độc), ý 3 (tham, sân, tà kiến).
[iii] Tức là tưởng (saññā), thức (viññāṇa), tuệ
(Pañña).
Về hơi thở
Ra
giêng, thời tiết có nắng nhẹ, dễ chịu - đức Phật và hội chúng tỳ-khưu rời Kuru
– hai hàng cư sĩ và quần chúng quyến luyến, sụt sùi tiễn chân dọc hai bên
đường. Tôn giả Sāriputta đi sau cùng, dừng lại thuyết cho họ nghe một thời
pháp, dạy phải biết áp dụng Tứ niệm xứ trong đời sống để vượt thoát khổ ưu,
nhất là chấm dứt được ngay những giọt nước mắt ái niệm - để có được sự an vui
trong hiện tại. Hãy trở lại với hơi thở đi thôi! Hãy an trú vào hơi thở đi
thôi!
Mọi
người đã nghe lời, ra về hết - tôn giả Ānanda hóa ra vẫn chưa chịu rời vị sư
huynh khả kính, đáng mến của mình, ngài hỏi:
-
Hơi thở! Hơi thở! Thưa tôn huynh! Thế nào an trú hơi thở có hiệu quả để được
hiện tại pháp lạc?
-
Hay lắm! Này hiền đệ! Câu trả lời này chỉ có đức Tôn Sư mới có đủ thẩm quyền để
giảng nói. Tôi là ai mà lại dám đánh trống qua cửa nhà sấm?
Khi
dừng chân tại khu rừng cây đa ven đường, độ ngọ xong, đức Phật lựa ngồi một chỗ
cao ráo dưới gốc cây; tịnh chỉ một lát rồi ngài nói với đại chúng vây quanh:
-
Đáng lý ra, về hơi thở, về an trú hơi thở trong hiện tại, Sāriputta có khả
năng, có duệ trí để trả lời cho Ānanda nghe được – nhưng do bản chất khiêm tốn,
do tôn kính Như Lai, do không dám qua mặt Như Lai; lại còn muốn cho
phần đông được nghe nên ông ta đã thoái thác như vậy đấy!
Tôn
giả Ānanda nói:
- Lành
thay! Bạch đức Thế Tôn! Chúng đệ tử muốn nghe cho rõ ràng về hơi thở, cách thở,
toàn bộ nguyên lý của nó để khả dĩ tu tập Tứ niệm xứ một cách có hiệu quả hơn.
-
Vậy thì hãy nghe đây, này chư tỳ-khưu! Như Lai sẽ giảng – Nhưng Như Lai sẽ
thuyết tóm tắt, còn Sāriputta sẽ thuyết lại bằng trí tuệ phân tích chi ly, sắc
bén của ông ta; và cũng nhờ thế, các thầy có thể đặt câu hỏi, đưa ra câu trả
lời giữa nhau như là buổi hội thoại, một cuộc pháp đàm thú vị vậy.
Rồi
đức Thế Tôn đã giảng như sau:
-
Này chư tỳ-khưu! Phép quán niệm hơi thở nó có lợi ích tối thượng, có hiệu quả
và công năng tối thượng. Người sơ cơ khi tu tập sẽ làm cho lắng dịu bất an, rối
loạn do nóng nảy, giận hờn, bức xúc, buồn chán... gì gì đó tan biến đi. Kẻ
trung căn thì giảm trừ được phóng dật, buông lung, trạo cử, vọng tưởng, thất
niệm, bất giác – do đã có chỗ để nương tựa, đã có chỗ để an trú. Bậc thượng
căn, nếu muốn định, có định, đi sâu vào các tầng thiền định; muốn tuệ, có tuệ,
từ cạn vào sâu để lần lượt chứng đắc các tầng thánh đạo quả!
Này
các thầy tỳ-khưu! Thở thì ai cũng phải thở, có thở mới sống được, nhưng mấy ai
thấy mình đang thở, biết mình đang thở và thở ra sao? Dường như ai cũng giao
phó việc ấy cho sinh lý tự nhiên của cơ thể - thở, dường như là phận việc, chức
năng của bộ phổi, ít ai để ý tới! Và quả đúng như thế, tất cả mọi người, tất cả
chúng sanh – không ai quan tâm đến hơi thở cả; cái mà họ quan tâm là làm thế
nào cho mình được sung sướng; gia đình, vợ con mình được ăn ngon, mặc đẹp, tài
sản và kho đụn – còn thế gian, mọi người, dầu cho đói khổ, thiên tai, dịch họa
họ cũng không màng quan tâm! Chuyện ấy thì chư vị biết rồi, Như Lai không cần
nhắc lại. Chỉ cho đến khi tay đã nhúng chàm, chỉ đến khi tội lỗi đã đắm sâu,
chỉ cho đến khi đau khổ, thống khổ, chán chường, tuyệt vọng... họ mới đấm ngực,
bức tóc, than cha, oán mẹ, kêu trời, kêu đất. Giáo pháp của Như Lai là giáo
pháp chỉ nói đến khổ, nguyên nhân khổ và con đường diệt khổ. Vậy những ai cảm
thấy mình đau khổ thì hãy đến với giáo pháp của Như Lai. Và tập thở, lắng nghe hơi
thở, theo dõi hơi thở, an trú vào hơi thở là bước đầu tiên của con đường nội
quán.
Này
các thầy tỳ-khưu! Trong thời pháp hôm trước, khi quán niệm thân, Như Lai có nói
đến hơi thở - như dài ngắn, sâu cạn, thô tế - chúng vào ra như thế nào, cần
phải chú niệm. Ở đây, Như Lai cũng trở lại đề tài này nhưng sẽ rộng rãi hơn,
chi tiết và có hệ thống hơn – không chỉ dành riêng cho lãnh vực thân mà cả thọ,
tâm và pháp nữa. Chúng ta sẽ có Bốn cách thở thuộc quán niệm thân, Bốn
cách thở thuộc quán niêm thọ, Bốn cách thở về quán niệm tâm và Bốn cách thở về
quán niệm pháp. Hãy lắng nghe và Như Lai sẽ giảng nói.
Này
các thầy tỳ-khưu! Thế nào là Bốn cách thở thuộc về quán niệm thân?
Ở
đây, vị tỳ-khưu khi thở vô dài, biết rõ, thấy rõ đang thở
vô dài. Khi thở ra dài, biết rõ, thấy rõ đang thở ra dài.
Khi thở vô ngắn, biết rõ, thấy rõ đang thở vô
ngắn. Khi thở ra ngắn, biết rõ đang thở ra ngắn.
Cảm giác toàn thân khi thở vô, vị ấy thực tập, lắng nghe, theo dõi, ghi nhận.
Cảm giác toàn thân tôi thở ra, vị ấy thực tập, lắng nghe, theo dõi, ghi nhận..
An tịnh thân hành khi thở vô, vị ấy thực tập, lắng nghe, theo dõi, ghi nhận.
An tịnh thân hành khi thở ra, vị thực tập, lắng nghe, theo dõi, ghi nhận..
Bốn
cách thở thuộc về thân này, Như Lai nhắc nhở các thầy chữ tuệ tri –
nghĩa là thấy rõ, biết rõ hơi thở thực, trực tiếp trên hơi thở đang vận hành
vào ra, xuống lên chứ không bởi tưởng tri hay thức tri. Cảm giác
toàn thân – là ghi nhận trực tiếp, trọn vẹn toàn thân hơi thở; phải
học, phải thực tập, phải thực hành bài học hơi thở ấy. Càng thực tập, càng chú
niệm thì hơi thở sẽ càng ngày càng nhẹ nhàng, vi tế hơn. Khi mà hơi thở nhẹ
nhàng, vi tế thì cái thân sẽ không còn thô cứng, tê ngứa hoặc nhức đau nữa – nó
đã được ổn định rồi, đã được điều phục rồi. Hơi thở an tịnh, thân cũng được an
tịnh. Chính ở đây là an tịnh thân hành khi thở vô, an tịnh
thân hành khi thở ra - phải tuệ tri điều ấy, thực tập điều ấy.
Này
các thầy tỳ-khưu! Thế nào là Bốn cách thở thuộc về quán niệm thọ?
Cảm giác hỷ khi thở vô, vị ấy thực tập, lắng nghe, theo dõi, ghi nhận.
Cảm giác hỷ khi thở ra, vị ấy cũng làm như vậy.
Cảm giác lạc khi thở vô, vị ấy thực tập, lắng nghe, theo dõi, ghi nhận.
Cảm giác lạc khi thở ra, vị ấy cũng làm như vậy..
Cảm giác tâm hành khi thở vô, vị ấy thực tập, lắng nghe, theo dõi, ghi nhận.
Cảm giác tâm hành khi thở ra, vị ấy cũng làm như thế.
An tịnh tâm hành khi thở vô, vị ấy thực tập, lắng nghe, theo dõi, ghi
nhận. An tịnh tâm hành khi thở ra, vị ấy cũng làm như thế.
Đây
là lãnh vực của cảm thọ, cảm giác nhưng đã được loại trừ khổ và ưu. Tại sao
vậy? Vì khi hơi thở đã nhẹ nhàng, thân đã ổn định, an tịnh – thì khổ và ưu
không còn tồn tại – mà chỉ có các cảm thọ hỷ, lạc trên lộ trình tu tập thiền
quán. Vậy, khi có hỷ hay có lạc - vị ấy vẫn với tuệ tri, nhìn ngắm chúng như
chân, như thực khi thở vô cũng như khi thở ra. Khi mà lạc đã thấm sâu, đến độ
sung mãn thì tâm như được thấm ướt, tẩm mát - rồi nó sẽ đưa đến sự an tịnh của
tâm. Và đây chính là an tịnh tâm hành, là pháp lạc, là
thực phẩm an lạc, nó nuôi dưỡng thân tâm trên lộ trình tu tập của mỗi người.
Này
các thầy tỳ-khưu! Thế nào là Bốn cách thở thuộc về quán niệm tâm?
Cảm giác tâm khi thở vô, vị ấy thực tập, lắng nghe, theo dõi, ghi nhận.
Cảm giác tâm khi thở ra, vị ấy cũng làm như vậy.
Với tâm hân hoan khi thở vô, vị ấy thực tập, lắng
nghe, theo dõi, ghi nhận. Với tâm hân hoan khi thở ra, vị ấy cũng làm như vậy.
Với tâm định tĩnh, khi thở vô, vị ấy thực tập,
lắng nghe, theo dõi, ghi nhận. Với tâm định tĩnh khi thở ra, vị ấy cũng làm như
thế.
Với tâm giải thoát, khi thở vô, vị ấy thực tập,
lắng nghe, theo dõi, ghi nhận. Với tâm giải thoát khi thở ra, vị ấy cũng làm
như thế.
Tâm
ở đây, nó không đơn giản là tâm thức hay tâm ý. Nó gồm cả tưởng, hành và thức.
Nó gồm tất thảy tâm vương và tâm sở. Nói cách khác, nó gồm cả 16 loại tâm trong
thời pháp quán niệm tâm. Tuy nhiên, ở đây, do thân tâm đã trở thành một khối
thuần nhất an tịnh – thì các loại tâm xấu, ác, bất thiện sẽ không còn tồn tại.
Nếu hơi thở càng được an trú thì an tịnh càng được kiên trú – theo đó, các loại
tâm lành, tốt, thiện sẽ nẩy sinh – nó chi phối, lây lan ảnh hưởng làm cho thọ,
tưởng và các tâm sở liên hệ cũng đều được thấm nhuần, thanh lương; và đó là các
loại tâm hân hoan, định tĩnh, giải thoát.
Này
các thầy tỳ-khưu! Thế nào là Bốn cách thở thuộc về quán niệm pháp?
Với vô thường tùy quán khi thở vô, vị ấy thực
tập, lắng nghe, theo dõi, ghi nhận. Với vô thường tùy quán khi thở ra, cũng y
như thế..
Với ly ái tùy quán khi thở vô, vị ấy thực tập,
lắng nghe theo dõi, ghi nhận. Với ly ái tùy quán khi thở ra, cũng y
như thế.
Với tịch diệt tùy quán khi thở vô, vị ấy thực
tập, lắng nghe, theo dõi, ghi nhận. Với tịch diệt tùy quán khi thở ra, cũng y
như vậy.
Với xả ly tùy quán khi thở vô, vị ấy thực tập,
lắng nghe, theo dõi, ghi nhận. Với xả ly tùy quán khi thở ra, cũng y như vậy.
Khi
tâm đã có được hân hoan, định tĩnh, giải thoát - nghĩa là giải thoát tạm thời
được các triền cái, kiết sử, trần cấu - thầy tỳ-khưu còn cần phải đi sâu vào
quán chiếu, minh sát các pháp để phát sanh tuệ giác, tuệ minh. Đến đây, thầy
tỳ-khưu quán sát như thực tánh thấy rõ sắc sanh sắc diệt, thọ sanh, thọ diệt,
tưởng sanh, tưởng diệt, hành sanh hành diệt, thức sanh, thức diệt. Nói gọn hơn
là danh sắc sanh, danh sắc diệt. Chúng sanh diệt rất nhanh, chúng tụ rồi tan,
chúng có rồi mất, chúng đến rồi đi. Nói cách khác, chúng sanh khởi, an trú, lụi
tàn... tức là thay đổi, biến hoại, vô thường. Nhờ vô thường tùy quán [i] ấy mà thầy tỳ-khưu không còn thấy tướng của
các hành - mở được cánh cửa thứ nhất là vô tướng giải thoát [ii].
Còn ly
ái tùy quán? Ở đây vì thấy tất cả mọi danh sắc, nghĩa là thân hành, tâm
hành đều thay đổi, biến hoại, vô thường nên thầy tỳ-khưu sẽ không khởi lên lòng
ái dục với các pháp hữu vi, với các hành [iii] nữa – nên gọi là ly ái; và cũng
nhờ ly ái tùy quán [iv] nên thoát khỏi các khổ, mở được cánh cửa
giải thoát thứ hai là vô ái giải thoát [v].
Này
các thầy tỳ-khưu! Thế nào là tịch diệt tùy quán [vi]? Tịch diệt nghĩa là vắng lặngcác hành,
nghĩa là Niết-bàn. Thật ra, hai cửa trước đã hàm
nghĩa Niết-bàn rồi - một, hai phầnNiết-bàn; nhưng chỉ có ở đây
Niết-bàn mới toàn diện hơn. Ở đây, khi thầy tỳ-khưu
thấy đượcsự vắng lặng các hành, hoặc các hành là
rỗng không như thân cây chuối không có lõi - các hành vô ngã -
đồng nghĩa thấy được không tánh của các hành trong
đạo lộ siêu thế - vị ấy mở được cánh cửa cuối cùng
được gọi là tịch diệt giải thoát hoặc không
tánh giải thoát [vii].
Cuối
cùng, này các thầy tỳ-khưu! Là xả ly tùy quán! Khi thấy
được vô tướng, vô ái, không tánh, vị ấy đã giải thoát, biết
mình đã giải thoát – nhưng không chấp thủ vào giải thoát ấy – nên được gọi là
xả ly tùy quán. Nói cách khác là để tâm rỗng rang, không dính mắc bên trong,
không dính mắc bên ngoài để tùy duyên rộng độ chúng sanh.
Này
các thầy tỳ-khưu! Đấy là nguyên lý thở; nói cách khác là toàn bộ cách thở,
phương pháp thở trong bài pháp Tứ niệm xứ! Không có, không còn một cách thở nào
khác. Hãy như thế mà thọ trì! Điều gì chưa lãnh hội, chưa khai thông - thì cứ
hãy tìm bậc Chưởng giáo của các ông mà học hỏi để tu tập cho có hiệu quả hơn.
[i] Aniccānupassī - người ta thường dịch là vô
thường tùy quán – nhưng thật ra, anupassī đồng nghĩa với anupassaka - người
đứng quan sát, là người đứng xem- là người đứng quan sát vô thường thì chính
xác hơn.Cũng có từ tương đương là Aniccānupassanā.
[ii] Animitta vimokkha: Vô tướng giải thoát. Ý nói- vì
chúng thay đổi luôn – nên các pháp vốn không có một tướng nào cả, một thực thể
nào cả.
[iii] Saṅkhāra: Hành, sự lăng xăng tạo tác - gọi
chung là 50 tâm sở - đi liền với các tâm vương để tạo tác các nghiệp bất thiên,
thiện, bất động – thành dục hữu, sắc hữu, vô sắc hữu để thọ sanh ba
cõi dục, sắc và vô sắc giới.
[iv] Virāgānupassī: Ly ái tùy quán. Thật ra
rāga ở đây hàm nghĩa cả tham, cả ái, cả dục, cả tình dục. Vì ly ái nên thoát
khỏi các khổ - nên còn được gọi là khổ tùy quán (dukkhanupassanā). Cũng có từ
tương đương là vô nguyện tùy quán (appaṇihītānupassanā).
[v] Arāgā vimokkha: Vô ái giải thoát – cùng
một nghĩa vô nguyện giải thoát (appaṇihīta vimokkha)
[vi] Nirodhānupassī: Tịch diệt tùy quán – cùng
một nghĩa với không tánh tùy quán (suññātanupassanā)
[vii] Suññāta vimokkha: Không tánh giải thoát.
Giải thích thêm: Vì thấy mọi danh pháp, sắc pháp đều duyên khởi, vô tự tính, vô
ngã – nên thấy được không tánh của các pháp.
Chỉ việc thở thôi
Bài
pháp cô đọng quá, súc tích quá – tôn giả Ānanda tuy có thể tuyên thuyết lại
được, nhưng về hàm lượng ngữ nghĩa để áp dụng vào đời sống tu tập hằng ngày thì
còn nhiều thắc mắc.
Lúc
gặp riêng bậc Chưởng giáo, tôn giả Ānanda hỏi:
-
Đầu tiên là Bốn lãnh vực quán niệm - nếu nói cạn và sâu, thô và tế thì chúng ta
nên đi tuần tự thân, thọ, tâm, pháp, có phải vậy không, hiền huynh?
-
Đúng là vậy.
-
Bây giờ cho đệ hỏi về thân. Bốn oai nghi đi đứng nằm ngồi, co tay, duỗi chân,
mặc y, mang bát, nói cười, tắm rửa, đại tiểu tiện... ta phải thường trực chú
niệm mọi cử chỉ, mọi động thái đang diễn ra, đang xảy ra, đang vận hành, đang
tương tác với ngoại giới – nghĩa là toàn bộ chúng đều được trực thức nhìn ngắm
trong hiện tại, hiện tiền - mà không nên để cho một sát-na thất niệm, buông
lung, phóng dật nào?
-
Đúng vậy!
-
Đối với những người nhiều tham dục, nhiều đam mê thân xác và tình dục - biện
pháp đối trị cho căn cơ ấy thì nên quán 32 thể trược và 10 tướng của tử thi?
-
Đúng là vậy, hiền đệ đã hiểu rất chính xác.
-
Về thân còn có hơi thở. Có cách niệm hơi thở nghiêng vào định, đi sâu vào định.
Có cách niệm hơi thở nghiêng về tuệ, phát triển tuệ giác? Tuy nhiên, cả định và
tuệ đều phải nhẹ nhàng, thanh thản, tự nhiên - đừng cố gắng thái quá, nỗ lực
thái quá; đừng bắt hơi thở phải như thế này, phải như thế kia; nghĩa là hơi thở
mình sao thì cứ ghi nhận tự nhiên, trung thực như thế. Và quan trọng nhất, là
phải thường trực thắp ở đấy một ngọn đèn!
-
Chính xác!
- Tuy nhiên,
khi mình nhìn ngắm một ngọn núi, một con suối, một rừng hoa, một dòng sông, một
con đường mòn... thì chúng ta không thể nào vừa an trú hơi
thở một cách trọn vẹn vừa nhìn ngắm đối tượng ngoại giới một cách
trọn vẹn, như thực, như chân được?
- Dĩ nhiên
là vậy, hiền đệ! Vòng tròn của một bánh xe chỉ tiếp xúc mặt đất
chỉ mộtđiểm – thì tâm ta cũng vậy, chỉ một đối tượng; khi
có đối tượng này thì không có đối tượng kia. Tâm ta không thể có hai
tư tưởng đồng hiện hữu.
- Thọ, cảm giác
nơi thân, nơi tâm cũng phải trong sáng và chân thực như thế, tự nhiên
như thế?
- Ừ !
Hiền đệ đã nắm được nguyên lý.
- Tâm sanh khởi
do duyên căn trần; nói cách khác – duyên xúc, thọ mới có ái, thủ, hữu. Vậy, nếu
cảm giác được nhìn ngắm trong sáng, chân thực – thì tâm, theo đó, cũng trong
sáng và chân thực. Từ đấy mà ta quán tâm, và ta sẽ tuệ tri các trạng thái của
tâm - phải vậy không hiền huynh?
- Đúng vậy!
- Duyên căn-trần-thức như
thế nên có pháp như thế. Rồi trên lộ trình tu tập, đâu là pháp chướng ngại,
kiết sử, phiền não, đâu là pháp thanh lương, quang sáng, vô nhiễm... cũng bởi
đó mà ta tuệ tri, chứng nghiệm trong lòng mình – có phải vậy không thưa bậc
Chưởng giáo?
- Hay lắm!
Tuyệt vời lắm! Tôn giả Sāriputta tán thán - Hiền đệ vừa có trí
đa văn, bây giờ lại có thêm trí phân tích, cô đọng rất thiện xảo nữa!
Tôn giả Ānanda
mỉm cười:
- Và đệ còn
biết nữa rằng, chỉ cần thở, chỉ cần an trú trên hơi thở - thì tất cả cái gọi là
cảm giác, tâm, pháp gì đó sẽ lần lượt hiện ra để ta tuệ tri như thực; và rồi
không chóng thì chầy – cũng nếm thưởng được hương vị của pháp bảo tận đầu
nguồn.
- Chỉ việc thở
thôi, đúng vậy – Tôn giả Sāriputta cũng mỉm cười đáp lại – Hy vọng
bậc đa văn, lợi trí của chúng ta sẽ làm được như thế, sẽ thành tựu được như
thế.
Hóa độ du sĩ Magandiya
Hôm kia, đức Phật lại ôm bát
một mình đi khất thực ở thị trấn Kammasadhamma, sau đó tìm đến một khu rừng để
nghỉ trưa. Ngài có một cuộc hẹn vào buổi chiều ở nhà người bà-la-môn thờ thần
lửa thuộc dòng họ Bharadvaja.
Du sĩ Magandiya, một biện sĩ thuộc phái hưởng
lạc, trong khi đi bộ ngao du, rong chơi đây đó, ghé nhà người bà-la-môn, thấy
đâu đó đã được dọn dẹp, sửa soạn tươm
tất; chính giữa phòng khách
thấy có một tấm nệm cỏ đẹp được đan bện công phu, tinh xảo như đang chờ đợi, để
dành cho ai đó. Ngạc nhiên, y hỏi:
- Cái chỗ ngồi chỉ là cỏ rác mà có vẻ trân
trọng thế kia, dường như được soạn sẵn cho một vị sa-môn khổ hạnh nào đó phải
chăng?
-
Là vậy mà không phải vậy - Người bà-la-môn mỉm cười, dịu dàng nói - tấm tọa cụ
là cỏ rác nhưng tâm của tôi không hề cỏ rác chút nào! Còn đức Thế Tôn đâu phải
là khổ hạnh sư, ngài là một bậc Chánh Đẳng Giác, một vị đại A-la-hán, là bậc
thầy của chư thiên và loài người.
Du sĩ Magandiya chợt cười ha hả:
- Đúng vậy rồi! Đúng
là sa-môn Gotama rồi! Ôi, thật là bất hạnh
thay, đấy là vị đã phá hoại sự sống!
- Này Magandiya! Ông hãy thận trọng lời nói! Người bà-la-môn trừng mắt - tại sao ông dám bảo sa-môn Gotama là người phá hoại sự
sống?
- Đúng vậy chứ, tôi nói khác sao được? Sa-môn
Gotama đã tự mình hành thân hoại thể; ăn, ở, mặc đều tiết chế, diệt dục - rồi
dạy cho đệ tử từ bỏ gia đình, sống không gia đình làm cho không biết bao nhiêu
mầm sống của chúng hữu tình không được mở mắt chào đời! Thế không được gọi
là hủy diệt sự sống hay sao?
Người bà-la-môn cất giọng bình tĩnh, ra đòn phản công, không
khoan nhượng:
- Thôi được rồi, tôi nói chuyện không lại với
ông. Nếu có ngon lành thì ông hãy đến đối thoại với sa-môn Gotama. Và tôi
biết chắc chắn một điều rằng,
là ông
sẽ cúi đầu, thụt lưỡi, im re, run lập cập khi mà sa-môn Gotama chất vấn ông.
Tại sao vậy? Ôi! Có biết bao nhiêu
là vua
chúa trí giả, nhiều vương tộc trí giả, nhiều bà-la-môn trí giả, nhiều danh sĩ
trí giả, nhiều đại triệu phú trí giả... đã phải quy y theo sa-môn Gotama? Ôi! Có biết bao nhiêu là du sĩ, biện sĩ,
lang thang sĩ, miệng lưỡi trơn tuột, lắc léo, trườn uốn như con lươn; biết bao
nhiêu là khổ hạnh sĩ, đạo sĩ, cuồng sĩ, ngu si sĩ... với môi mép hàng tôm, hàng
cá, đánh tráo chữ nghĩa lươn lẹo như con buôn... Họ đấy, một phần đã phải co
giò, vác cẳng, khòm lưng lủi trốn như chuột chù, chuột hôi; một phần quy giáo
sa-môn Gotama hoặc đệ tử của sa-môn Gotama.Và cũng rất đông là ngần ấy
trí thức đã xuất gia theo giáo pháp của đức Tôn Sư. Ông là gì? Là một biện sĩ lỗi lạc ư? Là một lang thang sĩ của phái hưởng lạc ư? Hãy giữ cái lưỡi cho
cứng, cái lưng cho thẳng mà đối thoại với sa-môn Gotama - một bậc
Chẳng Đẳng Giác hằng triệu triệu năm mới xuất hiện một lần. Có xứng không? Hãy chờ đấy!
- Thôi được rồi, đừng có mà tán thán kẻ
phá hoại sự sống kia một cách cuồng tín như thế. Chửi rủa và phỉ báng ta như thế là đủ rồi. Kẻ
trí không chấp nê miệng lưỡi của bọn ngu ngốc có cái tâm trí đen thui như cột
nhà cháy. Được
rồi, ta sẽ đợi – và ta sẽ làm cho sa-môn Gotama thụt lưỡi, im re cho mà xem.
Hãy chỏng tai mà nghe!
Đức Thế Tôn với thiên nhĩ thuần tịnh siêu
nhân, nghe biết cuộc đối thoại vừa rồi, ngài xả thiền đi đến nhà người
bà-la-môn thờ thần lửa. Bà-la-môn Bharadvaja tiếp đón đức Phật một cách cung kính, trong lúc du sĩ Magandiya chỉ chào
hỏi ngài có vẻ xã giao.
Ngồi trên chỗ đã được chuẩn bị sẵn, đức Phật
lướt nhìn bà-la-môn chủ nhà và du sĩ Magandiya rồi vào đề ngay:
- Có phải vừa rồi đã có một cuộc nói
chuyện thú vị - cục đất
quăng qua, cục bùn ném lại - giữa hai vị từ tấm nệm cỏ này?
Du sĩ Magandiya ớn lạnh xương sống. Bà-la-môn
lông tóc dựng ngược, thưa bạch:
- Chính vì con đã không chịu nổi cái ngông nghênh, ngã mạn của ông đạo sĩ
này nên đã có những lời khiếm nhã với y – có lẽ đã làm bẩn tai bậc thiên nhĩ
thuần tịnh. Chính vì conmuốn trình bày chuyện ấy với đức Thế Tôn,
nhưng hóa ra ngài đã biết tất
cả rồi!
Đức Phật quay sang du sĩ Magandiya:
- Sự sống, theo quan niệm
của ngươi – là như thế nào hở Magandiya?
Magandiya thận trọng, giữ sự im lặng cần thiết, xem thử có cái bẫy nào ở đấy không!
- Hay theo học thuyết có vẻ cao siêu và lọc lõi của giáo phái ngươi –
là sự trưởng thành, khôn ngoan, kinh nghiệm phải được thực hiện qua sáu
giác quan? Và suốt cuộc đời là phải làm cho sáu giác quan ấy được tích
lũy kinh nghiệm không hạn chế qua sự thỏa mãn
sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp? Và đấy chính là hạnh phúc tối thượng theo như
thánh thư của phái hưởng lạc?
- Đúng là vậy! Thánh điển của chúng tôi đã có truyền lại như thế.
- Và vì Như Lai chủ trương sống phòng
hộ sáu giác quan, nghịch với quan điểm của phái hưởng lạc nên ngươi
cho là Như Lai phá hoại sự sống?
- Đúng là vậy, thưa sa-môn Gotama.
Đức
Phật cất giọng ôn nhu, điềm đạm:
- Nhưng nếu có những người hưởng thụ năm món
dục lạc - đến một lúc nào đó cảm thấy chán mứa, cảm thấy không chịu nổi; họ muốn tìm một nơi thanh vắng, muốn xa lìa
đời sống ngũ dục – thì ngươi nghĩ về họ như thế nào hở Magandiya?
Magandiya
lửng thửng:
- Tôi không có ý kiến gì với hạng người ấy.
- Thế có một người khác, sau khi hưởng thụ
ngũ dục - thấy nó dường như càng uống thì càng khát, không bao giờ thỏa mãn được dù săn đuổi suốt cuộc đời –
nên họ cảm thấy ngũ dục là nguy hiểm – thì ngươi nghĩ về họ như thế nào hở
Magandiya?
Magandiya
vẫn ơ thờ, dấm dẳng:
- Cũng thế! Hơi đâu! Cứ mặc! Kệ chúng! Tôi vẫn không có ý kiến gì – vì quả
thật thế gian có người như vậy.
- Vậy thì năm món dục lạc - Đức Phật vẫn từ hòa, kiên nhẫn - đối với người này thì vị
ngọt, đối với người khác thì chán mứa, đối với người khác nữa là nguy hiểm – có
phải vậy không, Magandiya?
Magandiya
bây giờ mới gật đầu, có vẻ như “Chính ta cũng đồng quan điểm như vậy
đó, có gì là lạ lắm đâu!” :
- Đúng thật vậy rồi!
- Như Lai cũng thế đấy, này Magandiya! Thuở còn tại gia, Như Lai hưởng thụ đầy
đủ, hưởng thụ sung mãn năm món dục lạc; đến một lúc nào đó, Như Lai cảm thấy không còn chịu nổi,
cảm thấy nó nhiệt não, nóng bức, chán ngấy – nên Như Lai đã từ bỏ chúng, xuất
ly chúng. Nhờ từ bỏ chúng, xuất
ly chúng nên Như Lai được vô
khổ, vô phiền, an tịnh, thảnh thơi... Đấy
đâu phải là hủy diệt sự sống hở
Magandiya? Hay đấy lại là sự
sống thanh bình, mát mẻ, êm đềm, hư tĩnh, thanh cao hơn - hơn là sự sống bầy
nhầy, bì bọp trong vũng ngũ dục tối tăm, thấp hèn – như dòi bọ no nê trong đống
phẩn hôi, xác thối, cá ươn của chúng?
Magandiya nín lặng – chàng chợt toát mồ hôi
lạnh và cảm thấy mình đang bị tấn công;
và thánh
điển của mình đã bắt đầu bị lộ khuôn
mặt có nhọ đen và bùn bẩn...
- Dục lạc cõi người hạ liệt, thấp kém lắm,
này Magandiya! Một người sinh lên
cõi trời Ba mươi ba được chúng thiên nữ hầu hạ, thọ hưởng các thiên dục một
cách sung mãn - vị trời kia có khao khát trở lui thọ hưởng năm món dục lạc của cõi người nữa
không, này Magandiya?
- Thưa không – vì dục lạc cõi trời thù thắng,
vi diệu hơn cõi người.
- Ví như một người bị bệnh cùi với thân thể
lở loét, hư thối, nứt chảy, bị các loại trùng đục khoét - đang dùng móng tay
cào rách các vết thương rồi đốt chúng bởi lửa nóng - người ấy cảm thấy khoái
trá vì dịu cơn ngứa, vì đả ngứa. Nhưng một người lành
mạnh hay một người cùi đã khỏi bệnh, khi nhìn cảnh tượng ấy, có ao ước được như
người cùi ấy không, này Magandiya?
- Thưa không, không những không ao ước mà còn
thấy tình cảnh ấy là đáng sợ.
- Dục lạc thế gian cũng tương tợ như người bị
bệnh cùi với tình cảnh như vậy. Lấy móng tay cào rách các vết thương, hơ lửa
nóng để tìm sự khoái trá, đả ngứa – nghĩa là tìm vui
trong khổ, khổ thọ lại cho là lạc thọ - đấy được gọi là ngu si điên đảo tưởng, là kiến chấp hoang vu tưởng, ngươi có biết không, thầy ngươi có biết
không, thánh điển của nhà ngươi có biết không,
Magandiya?
Magandiya cúi đầu, tự nghĩ: “Vậy là, giáo thuyết của giáo
phái ta đã thật sự không còn chỗ đứng trước ví dụ cụ thể, hiện thực của sa-môn
Gotama rồi.”
- Dục là lửa nóng, dục là khổ não, dục là
đáng sợ - phải biết xa lìa. Dẫu cho lạc cõi trời, lạc của định sắc và vô sắc; chúng vi tế, thanh lương, thù thắng hơn
rất nhiều; nhưng đối
với bậc trí, họ cũng viễn ly, xa lánh để sống đời an tịnh, giải thoát, vô bệnh
– đúng như kệ ngôn:
“ Vô bệnh, lợi tối thắng
Niết-bàn, lạc tối thắng
Bát chánh là độc đạo
An ổn và bất tử”.
Nghe đến đây, du sĩ Magandiya cố gỡ gạc sĩ diện nên hoan hỷ thốt lên:
- Đúng là vậy, sa-môn Gotama đã nói rất
đúng: “Vô bệnh, lợi tối thắng. Niết-bàn, lạc tối thắng”. Các
vị tôn sư, đại tôn sư của chúng tôi cũng truyền bài kệ ấy.
- Vậy thế nào là không bệnh, thế
nào là Niết-bàn, hở Magandiya?
Magandiya lúng túng, giả vờ lấy tay xoa bóp
chân tay của mình rồi nói:
- Tôi nay cũng hoàn toàn vô bệnh, chẳng có
triệu chứng ốm đau, bệnh tật gì.
- Nói như vậy chứng tỏ ngươi không hiểu gì
cả, chứng tỏ ngươi đã bị tôn sư, đại tôn sư của ngươi lừa gạt rồi, ngươi có
biết không?
- Bị lừa gạt như thế nào, thưa sa-môn Gotama?
- Câu kệ ngôn ấy không có trong thánh điển
của giáo phái ngươi. Đấy là kệ ngôn của bậc Chánh Đẳng Giác quá khứ còn truyền
tụng giữa nhân gian, lâu quá, người ta quên mất hai câu sau. Tôn sư, đại tôn sư
của nhà ngươi, chỉ biết hai câu
trước, đọc
lên như vẹt mà không hiểu pháp ngữ của nó – mà chỉ còn hiểu
nơi thường ngữ thôi.
- Xin được nghe lời chỉ dạy.
- Này Magandiya! Có
một người mù bị lừa gạt về màu sắc – thì ngươi
cũng bị lừa gạt về vô bệnh và Niết-bàn
– hãy nghe, và Như Lai sẽ có ví dụ cụ thể.
- Thưa vâng.
- Một người sinh ra đã mù, không biết gì về
màu sắc, không có khái niệm gì về thế giới xung quanh. Hôm kia, có một kẻ vô
công rỗi nghề, lấy chuyện lừa gạt thiên hạ làm thú tiêu khiển; y lấy một tấm
vải thô dính nhọ dầu và bùn đất – đem tặng người mù, nói rằng:“Đây là
chiếc áo được sản xuất và may thêu tại xứ Kāsī, trắng như bông, lóng lánh những
sợi tơ trời, đẹp lắm, bạn hãy mặc vào đi.” Người mù, tin tưởng người
sáng mắt, mặc vào, đi tới, đi lui cảm thấy sung sướng, hãnh
diện – nhưng đâu có biết rằng, mình bị người sáng mắt chơi xỏ, lường gạt? Cũng
vậy là trường hợp của ngươi, này Magandiya. Năm món dục lạc là khổ, là nóng
bức, là nhiệt não, là cục bướu, là thấp thỏi... nhưng tôn sư, đại tôn sư của
ngươi - lại chủ trương hưởng lạc, coi khổ thọ như lạc thọ -
thì chúng đã không chơi xỏ, lường gạt ngươi là gì, này kẻ mù mắt?
Magandiya lạnh người, bàng hoàng. Lát sau, y
hỏi:
- Vậy làm thế nào để được sáng mắt, thưa
sa-môn Gotama quý kính?
- Đối với những người mù mắt - thì người ta thường làm như thế nào để chữa trị, hở Magandiya?
- Tuỳ theo bệnh mù mắt nặng, nhẹ của từng
người – có thể nhờ y khoa xét nghiệm, đểbiết có người không thể chữa trị được do quá nặng bởi mù mắt tiên
thiên, bẩm sinh; có người mù, nhẹ, do từng nguyên nhân bệnh lý khác nhau,
thì có
thể mổ xẻ hoặc có thể xức thuốc, bôi
thuốc - tùy từng trường hợp!
- Cũng tương tợ vậy, này Magandiya! Đối với người mù mắt quá nặng do tiên thiên, bẩm sinh - được ví
như người có vô minh, chấp kiến quá sâu dày, Như Lai không thể chữa trị được.
Riêng đối với người mù mắt nặng, nhẹ do các trường hợp bệnh lý khác nhau, Như
Lai sẽ chữa trị theo nhiều cách. Có người, Như Lai chỉ cho họ thấy các cảnh
giới đau khổ của tứ ác đạo và hạnh phúc nơi các cõi trời. Có người, Như Lai
hướng dẫn cho họ tu tập bố thí, trì giới. Có người, Như Lai chỉ cho họ các đề
mục về thiền định. Có người, do có căn cơ sâu dày, Như Lai sẽ mổ xẻ, phân tích
chi ly về khổ, về nguyên nhân khổ, về diệt khổ, về con đường diệt khổ. Có
người, do có rất ít bụi cát trong mắt, Như Lai chỉ nói vài câu tinh yếu, cốt
lõi của giáo pháp - tương tợ như chỉ cần một tí thuốc để xức, để bôi thì người
kia liền lành bệnh... Và khi mắt đã được chữa lành, được sáng tỏ thì người mù mắt mới biết là
mình bị lừa gạt. Khi ngươi thân cận với bậc chân nhân, ngươi mới học hiểu được
rằng dục lạc thế gian là nhiệt não, là bệnh chướng, là cái đáng kinh sợ, nhờm
gớm, xa lìa. Cái thân này chính là bệnh, là cục bướu, là cái mũi tên cần phải
nhổ đi. Đến đây, ngươi mới nghĩ được
rằng: Hóa ra, từ lâu ta đã bị phỉnh
phờ, lường gạt, dối lừa nên đã xem khổ thọ là lạc thọ, sinh ra kiến chấp điên
đảo tưởng, sinh ra chấp thủ ngũ uẩn. Bậc chân nhân dạy rằng: Do chấp thủ nên có
hữu, có hữu thì có sinh, có sinh nên có già chết. Đấy là tập khởi toàn bộ khổ
uẩn. Thấy rõ toàn bộ khổ uẩn ấy là sáng mắt, là vô bệnh.
Chấm dứt toàn bộ khổ uẩn ấy là Niết-bàn. Thực hiện con đường đến Niết bàn chỉ
có một đạo lộ duy nhất là bát chánh, là lộ trình của an ổn và bất tử vậy.
Nghe xong thời pháp, bà-la-môn thờ thần lửa
thuộc dòng họ Bharadvaja mở sáng được con mắt tuệ, có thể tự đi được bằng đôi
chân của mình. Còn du sĩ Magandiya thì xin được quy y và xuất gia, thọ đại
giới. Đức Phật bảo rằng, vì ông là ngoại đạo, cần phải biệt trú bốn tháng; thứ
nhất là để suy gẫm, gột rửa những tri kiến cũ đã đóng khói, mọc rêu trong tâm
thức truyền đời của ông; thứ hai là để học hỏi những oai nghi tế hạnh, thực tập
những pháp cănbản vào buổi đầu.
Nghe vậy, du sĩ Magandiya xin được biệt trú
bốn năm rồi hẳn thọ đại giới sau.
- Điều ấy là rất tốt, này Magandiya!
Đức Phật nói thế xong, và ngài còn biết rõ
rằng, vị du sĩ này, sau này sẽ là một vị A-la-hán.
Ôi, chàng gọi chúng em là những bà chị!
Cũng tại Kuru, tại thị trấn
Thullakoṭṭhika, đức Phật còn độ thêm một người đặc biệtnữa, đấy là chàng thanh niên Raṭṭhapāla.
Hay tin đức Phật du hành đến thị trấn
Thullakoṭṭhika cùng với hội chúng tỳ-khưu – các bà-la-môn gia chủ tìm đến rất
đông. Đức Phật đã có nhiều buổi pháp thoại khích lệ, làm cho họ thích thú, hoan
hỷ, phát khởi đức tin. Trong số đó có một
chàng thanh niên con một gia đình thượng tộc, cự phú... nghĩ rằng: “
Như đức Thế Tôn với những thời pháp thanh cao, vi diệu – ta đã hiểu được rằng,
đời sống tại gia không dễ gì thực hành phạm hạnh hoàn toàn viên mãn, trắng bạch
như vỏ ốc. Vậy ta hãy cạo bỏ râu tóc, đắp y, mang bát, từ bỏ mái gia đình đầy
những buộc ràng phiền não, xuất gia, sống đời không gia đình.” Nghĩ
thế xong, chàng đến bên chân đức Phật, xin được xuất gia.
Đức Phật nói:
- Ông đã được cha mẹ cho phép chưa, này
Raṭṭhapāla?
Khi được biết là chưa, đức Phật khuyên là hãy
trở về nhà thuyết phục sao cho gia đình bằng lòng đã.
Khi thanh niên Raṭṭhapāla vừa bước đi khuất
bóng, đức Phật nhiếp tâm một lát rồi ngài mỉm cười.
Tôn giả Ānanda đứng hầu một bên, ngạc nhiên
về nụ cười ấy, bèn thưa hỏi lý do; và vì hội chúng tỳ-khưu cũng mong muốn tìm
biết nguyên nhân; đức Phật đành phải kể khái quát chuyện tương lại:
- Thanh
niên Raṭṭhapāla này sẽ rất khó khăn mới được xuất gia. Cũng như Sāriputta trước đây, phải nhịn ăn, nhịn uống gần
chết mới thực hiện được ước nguyện của mình. Raṭṭhapāla còn khó khăn hơn Sāriputta – vì dù sao, Sāriputta có đông các em trai và gái; còn
Raṭṭhapāla lại là con trai độc nhất trong một gia đình mà
tài sản, vàng ngọc và kho đụn không biết làm gì cho hết. Lớn lên trong nhung lụa, Raṭṭhapāla được sống trong an lạc,
được nuôi dưỡng trong an lạc;
và ăn
uống, vui chơi, thụ hưởng ngũ dục một cách
đầy đủ, sung mãn – không thiếu thứ gì.
Khi biết được ý định xuất gia của con, ban đầu hai ông bà nghiêm khắc cấm đoán; rồi sau đã phải hết lời năn nỉ, van xin; đã trăm phương nghìn
cách để níu giữ chân đứa con trai thân yêu - bằng quyền lực, bằng lý lẽ, bằng tình cảm –
nhưng vô ích. Raṭṭhapāla một mực im lặng như thân tượng đá và giữ vững ý
mình: Một là chết hai là được xuất gia. Cô vợ trẻ sụt sùi, đẫm nước mắt bi lụy và đám thê
thiếp, người hầu cũng vậy. Bạn bè, thân hữu Raṭṭhapāla -những vị công tử giàu sang, con em của những gia đình khá giả cũng rủ nhau tìm
đến khuyên lơn phải trái. Tất thảy đều vô ích. Thế rồi, do bỏ ăn bỏ uống nhiều
ngày, sợ con chết, hai ông bà đành phải
bấm bụng cho Raṭṭhapāla ra đi, nhưng phải hứa là thỉnh thoảng về thăm gia
đình...
Đức Phật chỉ kể ngang đây rồi dừng
lại.
Tôn giả Ānanda nôn nóng hỏi tiếp:
- Rồi sau đó ra sao, bạch đức Thế Tôn?
- Vậy nên chúng ta phải ở lại thị trấn này
năm bảy hôm nữa, đợi Raṭṭhapāla đến đây rồi Như Lai sẽ cho ông ta thọ đại giới. Với thiện căn và túc duyên sẵn có, sau này,
Raṭṭhapāla sẽ trở thành một vị tỳ-khưu có đời sống với hạnh kiểm mẫu
mực, ưa thích độc cư, viễn ly, tinh cần thiền quán. Khi trở thành vị A-la-hán
rồi, tám năm sau, Raṭṭhapāla mới xin phép Như Lai về thăm gia đình. Và chính
chuyến đi này, với cung cách xử sự, với hành trạng vô nhiễm và vắng lặng của vị
tỳ-khưu thánh nhân - mới để lại bài học vô giá, để lại tấm gương sáng – có ấn
tượng sâu đậm trong hàng tứ chúng mai hậu.
Tôn giả Sāriputta
với bản tính khiêm cung, dầu cũng biết chuyện tương lai của vị tỳ-khưu, nhưng
vẫn thưa bạch:
- Xin đức Thế Tôn cho đại chúng được nghe.
- Ừ, Như Lai sẽ kể tiếp đây. Trở lại Kuru, về
thị trấn Thullakoṭṭhika, con
trai của Như Lai ôm
bát khất thực từng nhà một rồi đến đứng trước cửa ngôi nhà cũ của mình. Lúc ấy,
người cha của tôn giả đang đứng chải tóc, trông thấy Raṭṭhapāla, do nhiều năm xa cách, thay đổi diện mạo – ông không nhận ra –
đã nổi giận, quát lớn:
- Hãy cút đi! Hãy xéo đi cho khuất mắt! Chính vì những sa-môn đầu trọc như các
ông - bọn ăn xin đầu đường xó chợ - đã làm cho ta phải mất một đứa con trai độc
nhất trong gia đình.
Nói xong, ông giận dữ đóng cửa lại, quay lưng
bước vào trong. Con trai của Như Lai - vì là một vị
A-la-hán, không lấy thế làm điều – đứng thêm một lát nữa rồi chậm rãi bước
quành ra ngõ sau, để đến một ngôi nhà khác. Lúc ấy, người nữ tỳ trước đây
của Raṭṭhapāla, tất tả đang bưng nồi cháo
ngày hôm qua còn thừa đem đổ vào hố rác. Tỳ-khưu Raṭṭhapāla bèn dừng chân lại, nói với người nữ tỳ:
Sau khi trút cháo thừa vào bát theo yêu cầu
của vị sa-môn; người nữ tỳ sực nhớ lại giọng nói, thoáng nhìn tướng tay, tướng
chân, dáng đứng, khuôn mặt - chị ta hoảng kinh nhận ra vị cựu chủ của mình. Hớt
hải, chị ta ba chân bốn cẳng chạy một hơi vào gặp người mẹ của tôn giả:
- Chủ mẫu ơi! Chủ mẫu ơi! Mau ra mà xem! Cậu ấm, công tử của chúng ta đã trở về!
Rồi cô thuật lại chuyện xảy ra vừa rồi.
Vọt dậy, bà nói nhanh:
- Nếu ngươi nói đúng sự thật, ta sẽ cho ngươi
thoát khỏi thân phận nô tỳ.
Đến gặp chồng mình, bà la bai bải:
- Trời ơi là trời! Ông có biết không? Con trai của chúng ta! Cục cưng của chúng ta! Hòn ngọc, hòn vàng của
chúng ta đang
ăn món cháo chua mà con nữ tỳ đem đi quăng đổ đấy!Có
khổ không chứ! Ông hãy chống mắt ra mà xem kia kìa!
Trong lúc ấy, tỳ-khưu Raṭṭhipāla đang ngồi dựa
vào bức tường, an nhiên thọ thực. Cả hai ông bà ra tận nơi, nhìn kỹ, thấy rõ là
con trai yêu quý của mình.
- Này con yêu! Nỡ
lòng nào mà con lại thọ dụng cái thứ nước cháo chua đem đi quăng đổ ấy, cái thứ mà chó nhà giàu cũng không thèm ngửi? Đây là nhà của con mà! Hãy vào nhà đi con!
Tỳ-khưu Raṭṭhapāla, ngước đầu lên, nghĩ là mình phải nói những lời khách sáo để
thức tỉnh mọi người nên cất giọng điềm đạm:
- Chúng tôi là những sa-môn sống đời không
cửa, không nhà - đầu đường, xó chợ
- thì
làm gì có gia đình nào, thưa gia chủ?
- Thôi mà con! Nói gì những lời như gai đâm, như muối xát làm cha mẹ đau lòng! Hãy vào nhà đi con! Đến đây rồi thì con phải vào nhà chứ?
- Thưa gia chủ, quả thật là tôi có đến nhưng
tôi không nhận được một lời nói tử tế nào – mà chỉ nhận được những lời sỉ nhục.
- Ôi! Vì ta không nhận ra con đó thôi! Ôi! Làm sao mà cha mẹ có thể nhận ra con qua
gần mười năm xa cách? Ôi! Làm sao cha mẹ có thể hình dung một chàng trai tuấn
tú, phi phàm trước kia, bây giờ đã biến thành một sa-môn gầy gò, khắc khổ?
Nhưng mà thôi, hãy
đứng lên, vào nhà rồi cha
mẹ sẽ
cúng dường những món ăn mà con thường ưa thích thuở trước.
- Thôi vừa rồi, gia chủ. Hôm nay tôi đã thọ
thực xong.
- Vậy này con thân yêu, hãy nhận lời mời ngày mai đến thọ thực nhé.
Tỳ-khưu Raṭṭhapāla im lặng nhận lời rồi tìm đến một khu rừng vắng để tịnh chỉ, thọ hưởng lạc về thiền, thọ
hưởng lạc về quả.
Trong lúc ấy, cha mẹ của Raṭṭhapāla chuẩn bị mưu kế để dụ dỗ
đứa con trai của mình. Bao nhiêu kim cương, ngọc lục bảo, vàng khối, vàng nén, tiền
vàng to, nhỏ... trong rương tráp, nơi
này và nơi kia chất thành ba đống lớn - lấy màn hoa che lại. Lại còn chi ly cặn
kẽ bảo cô vợ trẻ và những tỳ thiếp xinh xắn trước đây của Raṭṭhapāla, phải tắm và gội đầu bằng nước thơm; ăn mặc phải thật đẹp, tế nhị, gợi cảm...
làm thế nào cho tượng đá cũng phải xao xuyến, rung động...
Sáng ngày, lúc mặt trời đã lên cao, tỳ-khưu Raṭṭhapāla đắp y, mang bát rời khỏi
ngôi rừng, thong dong bộ hành đến ngôi nhà cha mẹ của mình, được mời ngồi nơi
chỗ đã đượcsoạn sẵn, đã được tính trước.
Vừa mới yên vị, bức màn vải hoa trước mặt
được kéo lên, Raṭṭhapāla chợt thấy ba đống
châu báu chất cao, ánh sáng và màu sắc lóng la lóng lánh chói ngời. Và tiếng
của cha chàng trầm ấm, như mật ngọt rót
vào tai:
- Này con thân yêu! Đống châu báu lớn nhất là của tổ tiên
để lại. Đống ít hơn một tí là tài sản mà cha đã khổ công kinh doanh, làm ăn một
đời. Đống nhỏ nhất là của mẹ con, một đời chắt bóp, dành dụm được. Tất cả đấy
là của con, ngay từ bây giờ. Vậy con hãy hoàn tục, trở lại cuộc sống của một
gia chủ hiền thiện; vừa thụ hưởng ngũ dục sung sướng một đời – mà còn có thể
làm các công đức, bố thí cúng dường gì đó tuỳ thích...
Con
trai của Như Lai mỉm
nụ cười trong tâm, nhưng giọng nói rất bình thản:
- Châu báu nhiều thì sầu bi khổ ưu não nhiều, lại dễ kéo theo nhiều ác nghiệp do tà vạy, bất
chánh... Châu
báu ít thì sầu bi khổ ưu não ít,
nhưng mà tâm trí đâu có an ổn, nhẹ nhàng, thanh lương, trong sáng trong thế
giới tham sân và ái dục ấy? Vậy, muốn giải thoát ưu não cho mình, gia chủ hãy sắm một
chiếc xe lớn với bốn con ngựa kéo – mang ba đống châu báu này đem đổ xuống sông
Gaṅgā, có lẽ là việc làm tốt nhất cho gia chủ đấy!
Hai
ông bà bàng
hoàng. Cô vợ trẻ và những nàng tỳ
thiếp xinh như mộng - ăn mặc, trang điểm
diễm lệ từ phòng bên bước ra, vây quanh tôn giả với hoa hương thượng hạng thơm lừng. Họ
đồng thanh cất tiếng hỏi:
- Thưa phu quân! Chẳng
hay vì mục đích những vị tiên nữ có sắc đẹp như thế nào mà phu quân lại chê chúng thiếp để sống đời phạm hạnh sa-môn?
- Thưa các bà chị! Các bà chị lầm rồi! Mục đích của sa-môn phạm hạnh không phải tầm thường, hạ liệt như thế.
Các vị tiên nữ dẫu xinh đẹp như thế nào, đối với thầy tỳ-khưu viễn ly trần cấu - họ cũng chỉ được xem như là những đống thịt thối mà
thôi!
Các cô vợ cũ la lên:
- Ôi! Than ôi! Phu quân đã gọi chúng em là
những bà chị!
- Ôi! Phu quân nói thân nữ của chúng em là tầm thường, là hạ liệt!
- Ôi! Phu quân còn nói chúng em là những đống thịt thối!
Rồi họ ngã ra, bất tỉnh.
- Thôi vừa rồi, thôi đủ rồi - là những trò quyến
dụ ngây thơ và trẻ con ấy! Một ngàn lần thế, một vạn lần như thế
cũng không thể làm động tâm những đứa con trai, đệ tử của đức Tôn Sư. Nếu gia chủ không đặt bát cúng dường – thì
tôi xin được từ giã, không nên ngồi nán thêm một chút nào nữa trong cái địa ngục ái
luyến, trong cái hầm hố ái dục hạ liệt này.
Nghe vậy, cả nhà hối hả đặt bát với thức ăn
thượng vị, loại cứng, loại mềm. Thọ thực xong, rửa tay
xong, tay vừa rời khỏi bình bát, con trai của Như Lai đọc lên bài kệ nói đến “Tính chất dơ uế, khổ, vô thường của thân xác –
nhưng người đời lại muốn tô điểm, trau chuốt, phủ hương, phủ hoa ra bên ngoài
để lừa bịp kẻ ngu... Ngọc ngà, châu báu thế gian cũng tương tợ thế. Dù người
thợ săn kia có gian manh, quỷ quyệt, bỏ trong lưới sập những thức ăn
ngon, mỹ vị, mỹ hương – thì chúa loài nai
khôn ngoan vẫn không bao giờ dính bẫy đâu”.
Câu chuyện còn dài nhưng đức Phật chỉ kể đến
chỗ cần thiết nhất để khích lệ, sách tấn những
vị
tỳ-khưu sơ tu còn trẻ. Hội chúng hoan hỷ bởi pháp thoại ấy nên họ đã tinh cần
tu tập hơn.
Cô bé Visàkhà
Rời Kuru, đức Phật và hội
chúng tỳ-khưu – bây giờ đã lên đến năm trăm vị - lần lượt bộ hành đến vương quốc
Aṇga, là một bộ tộc nhỏ nhưng giàu sang, thạnh mậu. Đây cũng là một địa chỉ có
khá nhiều nhân duyên với giáo pháp.
Đức Phật chưa đến Aṅga, nhưng do giới thương
buôn loan truyền, tin tức ấy đã đến nơi này từ mấy hôm về trước. Náo nức nhất
là những người buôn bán làm ăn xa, đã có dịp nghe pháp tại Jetavanārāma hay Veḷuvanārāma. Trong số ấy có hai vợ chồng triệu phú
Dhanañjaya và Sumanā Devi. Đặc biệt là triệu phú Meṇḍaka – cha của bà Sumanā
Devi là người hoan hỷ nhất.
Lúc đức Phật dẫn đầu đoàn sa-môn trang
nghiêm, vàng rực lần lượt trì bình khất thực tại thị trấn Bhaddiya – thì tin
lành ấy đã được truyền đến tai triệu phú Meṇḍaka. Ông liền cho gọi cô bé cháu
ngoại – là Visākhā, lúc ấy mới bảy tuổi - rồi nói rằng:
- Cháu yêu quý của ông! Đức Thế Tôn và Tăng chúng đang vân du hành hóa đến quê hương của chúng ta;
ngài và hội chúng còn ở Bhaddiya ngày nào, là những ngày an vui và hạnh
phúc cho hai ông cháu chúng ta đấy, cháu biết không?
Cô bé Visākhā mở tròn mắt, ngạc nhiên, ngây
thơ hỏi:
- Tại sao thế ông ngoại? Không phải là chúng
ta cũng đang sống trong an vui và hạnh phúc đó sao?
- Ừ, đúng là vậy! Triệu phú Meṇḍaka âu yếm vuốt mái tóc cô cháu
gái – Nhưng ông đã được nghe pháp của đức Thế Tôn, ông mới hiểu
được rằng, an vui và hạnh phúc của chúng ta hiện có ở đây, không được lâu bền; nó mong manh lắm, nó mau biến hoại, đổi
khác lắm - như một đóa hoa buổi sáng nở,
buổi chiều thì tàn vậy.
- Là hoa phù dung, cháu biết rồi – Cô bé Visākhā mau mắn nói - buổi sáng màu trắng,
trưa màu hồng, chiều màu đỏ và tối thì tàn rụi. Cháu thấy rồi, và cháu
thương cảm cho nó quá.
- Cháu thương cảm nó à?
- Phải, cháu thương cảm nó! Nên cháu thường nhặt những đóa hoa
phù dung tàn ấy, bỏ trong ly nước, nhưng nó cũng không thở được, không sống được, ông ngoại à!
- Ừ, không thể sống được đâu! Ông triệu phú Meṇḍaka đăm chiêu một lát rồi
nói tiếp - Đức
Thế Tôn, các bậc Chánh Đẳng Giác cũng thương cảm chúng ta cũng như cháu thươngcảm đóa hoa
phù dung kia vậy. Do thế, đức Thế Tôn đã chỉ dạy
một con đường – cho chúng ta tìm thấy một loại an vui và hạnh phúc lâu bền hơn.
- Vậy là tuyệt! Cô bé Visākhā vỗ tay – Cháu cũng muốn nghe
sự chỉ dạy ấy của đức Thế Tôn. Nhưng ngài ở đâu, thưa ông ngoại?
- Ngài đã đến rồi! Đức Thế Tôn ấy, sáng nay cùng với hội
chúng sa-môn năm trăm vị đang đi trì bình khất thực hóa độ chúng sanh tại thị trấn Bhaddiya của
chúng ta đấy.
- Thế tại sao ông ngoại và cháu không đi
thăm, đảnh lễ và cúng dường đức Thế Tôn ấy - rồi xin được nghe lời chỉ dạy.
- Đi chứ, đi chứ! Ông triệu phú cười vui, mau mắn nói – Nhưng hẵng đợi
đến sớmmai. Bây giờ, cháu hãy chuẩn bị cho thật
trọng hậu và hoành tráng nhất; nghĩa là phải có đủ năm trăm cỗ xe có ngựa kéo
với đầy đủ tứ sự, lễ vật cùng năm trăm thị nữ, gia nhân... rồi ông cháu chúng
ta đến thăm đức Thế Tôn, có lẽ đang ở tại một ngôi rừng nào đó ở ngoại ô...
Sau khi cô bé đi lo công việc, ông triệu phú
suy nghĩ: “ Cha mẹ nó đều là bậc trí thức, hiền thiện, đã từng được
nghe pháp nhiều lần ở nơi này và nơi kia; riêng cô bé thì chưa. Nó lạ lắm. Nó
tiềm tàng những phẩm chất cao quý mà ít người có được. Khi sinh ra, nó nằm gọn
gàng trong cái bọc điều tinh khiết, trông kháu khỉnh, sáng rỡ như viên hồng ngọc,
lại còn hương trời ở đâu mà tỏa ngát, thơm lừng cả nhà nữa chứ. Càng lớn lên trông nó càng mỹ miều, duyên
dáng. Theo nhân tướng học, nó có năm vẻ đẹp quý phái, đó là xương, vóc, tóc, da
và tuổi trẻ. Tuy mới bảy tuổi, chưa phát lộ toàn diện năm vẻ đẹp ấy – nhưng rõ
ràng tóc nómượt mà, lóng lánh, dài rồi cuộn lên
như đuôi công. Cặp môi của nó đỏ hồng đi liền với nụ cười xinh xắn, dịu dàng.
Còn hàm răng của nó nữa, trắng trong, khít khao đều đặn và sáng ngời như hai
hàng bạch ngọc. Nước da cô bé mịn màng như cánh hoa sen màu vàng. Vóc nó trông
mảnh mai, nhưng tiềm tàng một sức khỏe lạ lùng; có lần nó bồng một chú bê con trông nhẹ nhàng
như ôm một bó bông! Điều đặc biệt, lúc nào, nó ăn uống đi đứng nằm
ngồi đều toát ra cái phẩm chất cao quý, dường như không hề thấy thói hư tật xấu
nào. Chỉ tiếc nó là gái, bằng không nó sẽ trở nên một bậc chí nhân, chí thiện
trên đời này. Nhưng mà không sao, phải tạo cơ hội cho cô bé này được thân cận
những bậc đại trí tuệ như đức Phật để cho nó được thăng hoa những phẩm
chất ấy.”
Thế rồi, ngày hôm sau, ông triệu phú Meṇḍaka
và cô bé Visākhā với năm trăm cỗ xe thực phẩm, lễ vật; năm trăm thị nữ, gia nhân rầm rộ, sang
trọng không thua gì vua chúa đến khu rừng ngoại ô thăm viếng đức Thế Tôn và hội
chúng tỳ-khưu.
Đức Phật biết trước chuyện này, là một nhân
duyên lớn cho giáo pháp nên sáng nay đã không đi bát, ngài ngồi dưới một gốc
cây lớn với hội chúng xung quanh.
Thấy được đức Phật, tự dưng cô bé Visākhā
phát khởi đức tin trong sạch, niềm hoan hỷ bừng bừng tỏa sáng nơi khuôn mặt, nó nói nhỏ với ông
ngoại:
- Đức Phật và hội chúng sa-môn này có cái gì
rất trong sạch, thiêng liêng – hoàn toàn khác với các đạo sĩ, du sĩ... với hình
dong, y áo, tướng mạo lôi thôi, lếch thếch mà cháu thường gặp nhan nhãn khắp
mọi nơi, khắp mọi chỗ...
- Ừ, cháu nhận xét đúng đấy! Cái đó được gọi là Tăng tướng và phẩm mạo
thánh hạnh - chỉ có được trong giáo hội của đức Tôn Sư thôi, cháu ạ!
Sau buổi đặt bát, cúng dường lớn, triệu phú Meṇḍaka và cô bé Visākhā còn được
nghe pháp. Hôm ấy, đức Phật do biết được sự suy nghĩ trong tâm của ông triệu
phú nên ngài nói về những tính xấu của con người cần phải loại bỏ, phải cần có
trí tuệ soi sáng thường trực để nhận ra những thói quen, tật xấu nằm ngủ lưu
niên lưu cữu trong dòng nghiệp của mỗi
người. Nhờ vậy, mới hiển lộ được tư cách và phẩm chất
tốt đẹp mà ai cũng sẵn có - rồi làm cho nó được thăng hoa, dần dần đưa đến toàn thiện và toàn mỹ. Muốn đi
theo con đường ấy, ban đầu phải có ngũ giới, thập thiện, biết bố thí, cúng
dường, biết mở rộng tấm lòng trong tương quan sự sống với con nguời, chúng sanh
và xã hội.
Sau buổi pháp thoại, ông triệu phú rưng rưng
nước mắt thấy đức Phật thuyết một thời pháp đúng với tâm nguyện của mình nên
ông đã có được đức tin vững chắc đối với Tam Bảo. Cô bé Visākhā, mặc dầu còn
nhỏ, nhưng tinh thần đã đến mức tiến hoá bậc cao do căn duyên nhiều đời, nên đã
chứng quả Nhập Lưu, hơn cả ông ngoại nó!
Khi về đến nhà rồi, hai ông cháu hoan hỷ quá,
cứ huyên thuyên nói chuyện với nhau. Cha mẹ cô bé Visākhā, ông bà triệu phú
Dhanañjaya và Sumanā Devi đi công việc ở xa về, nghe được, mỉm cười nói:
- Hai ông cháu thế là “bỏn xẻn” pháp,
đức Thế Tôn sẽ cười chê đấy. Hai ông cháu đặt bát một lần thì chúng tôi sẽ đặt
bát hai ba lần. Hai ông cháu được nghe pháp một lần thì chúng tôi sẽ nghe pháp
hai ba lần cho mà xem.
Ôi, niềm vui nhẹ nhàng, thanh cao của cái gia
đình hiền thiện này, ai mà không thèm muốn.
Thế là đức Phật và hội chúng phải ở lại đây
một thời gian nữa để gieo duyên với chúng sanh. Không những hai vợ chồng gia
đình triệu phú này đặt bát cúng dường mà còn bạn bè, thân hữu cùng rất đông gia
chủ ở trong thị trấn Bhaddiya nữa. Vậy là tôn giả Sāriputta và
Ānanda thỉnh thoảng phải thay mặt đức Phật để thuyết pháp đến quần
chúng tín mộ. Họ quy y rất đông.
Khi rời khỏi Kuru, đức Phật tiết lộ một chút
về tương lai:
- Cô bé Visākhā kia, sau này sẽ trở thành một
nữ đại thí chủ, mà công đức hộ trì Tam Bảo, cúng dường tứ sự đến Tăng Ni
cũng không thua gì ông triệu phú hiền thiện Cấp Cô Độc đâu đấy!
Thế nào là một Bà-la-môn chân chính?
Sớm
hôm ấy, đức Phật đắp y, mang bát rồi nói với Ānanda đang đứng bên cạnh:
-
Hãy thông báo với đại chúng, hôm nay, chúng ta phải bộ hành xa, đến thị trấn
Campā; sau khi đi trì bình khất thực, hãy đến bờ hồ Gaggara (Già-già-liên-trì) để
nghỉ trưa.
Cũng
như các lần trước, tôn giả Sāriputta biết là đức Thế Tôn muốn hóa độ một người,
một nhân vật quan trọng.
Campā
là vương quốc của một bộ tộc nhỏ nhưng có dân cư đông đúc, cây cỏ, ao nước, lúa
gạo phì nhiêu - là một lãnh thổ được sự ân tứ của đức vua Bimbisāra - một tịnh
bang tươi đẹp. Tại đây, có một trưởng lão bà-la-môn hữu danh tên là Sonadanda,
rất được các bà-la-môn trong vùng kính trọng, tôn quý. Vì dòng dõi ông
có huyết thống thanh tịnh bảy đời, là nhà phúng tụng, trì chú, thông hiểu ba
tập Vệ-đà với danh nghĩa, lễ nghi, ngữ nguyên, chú giải và lịch sử truyền
thống, thông hiểu ngữ pháp và văn phạm, biện tài về tự nhiên học. Lại nữa,
bà-la-môn Sonadanda là bậc đại phú, đại quý; đẹp lão, có tướng của bậc đại
nhân, màu da thù thắng, sắc vẻ khôi ngô tuấn tú, cử chỉ trang nhã, dáng điệu
cao thượng. Còn nữa, ông thường có lời thiện ngôn, tao nhã đối với mọi người;
giọng nói không bập bẹ, phều phào, giải thích nghĩa lý minh xác. Tôn giả hiện
là bậc tôn sư của nhiều người, đang dạy cho ba trăm thanh niên bà-la-môn từ
nhiều phương, nhiều nước đến tham học...[i]
Lúc
ấy, bà-la-môn Sonadanda bước lên lầu để nghỉ trưa, nhìn xuống đường thì thấy
rất nhiều bà-la-môn gia chủ lũ lượt đi về phía bờ hồ Gaggara; ngạc nhiên, ông
cho người xuống hỏi. Được biết là họ cùng nhau đi chiêm bái, yết kiến sa-môn
Gotama - nghe nói đấy là đức Thế Tôn, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác - mà tin
đồn về tu tập khổ hạnh, sự chứng ngộ chân lý bất tử , thành lập hai giáo hội
Tăng và Ni đã tràn qua cửa tai của muôn dân nhiều quốc độ.
-
Bảo họ hãy đợi ta - Bà-la-môn Sonadanda hối hả nói - Ta cũng
phải đích thân đi thăm viếng vị ấy.
Nghe
được vậy, các vị bà-la-môn gia chủ lão thành đồng đến can ngăn:
-
Không được đâu! Thật không xứng đáng chút nào nếu tôn giả đi yết kiến vị ấy!
-
Tại sao?
-
Nếu tôn giả đích thân đi yết kiến sa-môn Gotama thì danh tiếng ngài sẽ bị tổn
giảm và danh tiếng sa-môn Gotama sẽ được tăng thịnh. Sa-môn Gotama còn trẻ
tuổi, xuất gia chưa được bao lâu; còn tôn giả là bậc trưởng thượng, niên cao,
lạp lớn - được đức vua Seniya Bimbisāra nước Māgadha và bà-la-môn thượng thủ
Pokkharasādi kính trọng, tôn sùng, chiêm ngưỡng, trọng vọng ngài. Bởi lý do ấy
nên sa-môn Gotama phải đích thân đến yết kiến tôn giả thì có lý hơn!
-
Các vị nói rất đúng - Bà-la-môn Sonadanda mỉm cười, gật đầu - Tuy
nhiên, nếu quý vị biết rõ về sa-môn Gotama, về xuất sinh, về đại nhân tướng, về
tuổi trẻ, về xuất gia, về sở học, về kiến văn, về ngôn ngữ, về đức hạnh, về trí
tuệ, về chân lý đã được chứng ngộ, tuyên thuyết, về ảnh hưởng của vị ấy đối với
các giáo phái chủ, giáo phái sư, về sự tôn sùng, ngưỡng mộ, quy y - không những
chỉ đức vua và triều đình Māgadha, mà còn đức vua và triều đình Kosala và các
bậc đại phú, đại quý, các tiểu vương, các thủ lãnh tướng quân các nước liên
bang cộng hòa nữa... thì chính quý vị phải khuyên ta nên đi yết kiến sa-môn
Gotama mới đúng lẽ...
Nghe
nói vậy, các bà-la-môn gia chủ nín lặng. Sau đó, có vị hỏi:
-
Chẳng lẽ nào sa-môn Gotama lại hơn tôn giả về tất cả mọi lãnh vực?
-
Không những hơn tất cả - mà có lẽ trên thế gian này, hằng triệu triệu năm mới
xuất sinh được một nhân cách kỳ vĩ như thế!
Thấy
mọi người còn có vẻ hồ nghi, bà-la-môn Sonadanda thong thả nói:
-
Khi sinh ra, vị ấy có 32 quý tướng và 80 vẻ đẹp; chỉ cái tướng cách ấy thôi,
thế gian cũng không có hai người; và chính vị đại tiên Asita tiên đoán, một, sẽ
làm Chuyển luân Thánh vương, hai là đắc quả Chánh Đẳng Giác. Lớn lên trong
nhung lụa, sau khi thu thập một kiến thức và một sở học phi thường - vị ấy từ
bỏ cung vàng, điện ngọc, vợ đẹp, con xinh, chối từ cả vương vị để xuất gia tầm
đạo khi tuổi đang còn thanh xuân, tóc đang còn đen nhánh... Và chỉ chừng ấy
thôi thì ta đã không dám so sánh rồi.
Thấy
mọi người đang chăm chú lắng nghe, tôn giả Sonadanda tiếp tục:
- Ta
được mọi người tôn sùng, ngưỡng mộ do huyết thống, tư cách, ngôn ngữ, kiến văn,
sở học, ba tập Vệ-đà, chú giải cùng nhiều thứ khác nữa - nhưng so
với sa-môn Gotama thì có thấm thía gì! Ngoài lão thông, uyên bác các loại triết
học trong và ngoài truyền thống Vệ-đà, vị ấy còn thông hiểu cả hằng trăm ngôn
ngữ của các bộ tộc và hằng chục cổ ngữ khác nhau, hiện đang tồn tại hoặc đã mất
tích đâu cả ngàn năm trước! Sau sáu năm khổ hạnh đệ nhất tại dãy núi Gayā, vị
ấy đã phát lộ con đường cổ xưa rồi giác ngộ dưới cội cây Asattha bên sông
Nerañjanā. Từ đấy, vị ấy lên đường hoằng pháp với một loại giáo lý chưa từng
được nghe - đấy là một chân lý độc sáng, chưa có trong kinh điển Vệ-đà. Quý vị
thấy thế nào, một bậc như vậy có xứng đáng để chúng ta đi yết kiến, lắng nghe
và học hỏi không?
-
Quả rất xứng đáng!
-
Ta được một vị đại vương, một vị bà-la-môn thượng thủ coi trọng thì có nghĩa lý
gì! Ta có được ba trăm đồ chúng đến tham học thì có nghĩa lý gì! Chỉ mới mấy
năm gióng trống pháp bất tử, sa-môn Gotama đã có bên mình hàng ngàn tỳ-khưu,
tỳ-khưu-ni, sa-di, sa-di-ni; đã có hằng trăm ngàn cận sự Nam, cận sự nữ...
Trong số đệ tử xuất gia phạm hạnh ấy có tiểu vương, tổng trấn, thái tử, vương
tử, công tử, tiểu phú hộ, đại phú hộ, thương gia, tướng quân, nhà tư tưởng, thông
thái, biện sĩ, du sĩ lỗi lạc, bà-la-môn trưởng giáo hữu danh, chiến sĩ, công
chúa, quý phi, công nương, quận chúa, cung nga... và còn có cả giai cấp Vệ-xá,
Thủ-đà-la và cả Chiên-đà-la nữa!
Có
ai đó thốt lên:
-
Thật là kinh khiếp!
-
Chưa đâu – tôn giả Sonadanda tiếp tục - đệ tử của sa-môn
Gotama, ngoài triều đình, chánh hậu, quý phi, công chúa các vị đại vương
Kosala, Māgadha... còn có địa tiên, thọ thần, sơn thần, dạ-xoa, cưu-bàn-trà,
khẩn-na-la, kim xí điểu, rồng, càn-thác-bà, chư thiên, Tứ đại thiên vương, Đế
thích thiên chủ cùng phạm chúng thiên, phạm phụ thiên và đại phạm thiên nữa!
Mọi
người im lặng như tờ.
-
Một bậc như vậy mà phải đến yết kiến ta hay sao, quý vị thử nghĩ xem?
Họ
cúi đầu xuống, không trả lời, ngầm chấp nhận. Giọng nói của tôn giả Sonadanda
còn vọng lại bên tai họ, rất nhiều, rất nhiều chuyện nữa...
-
Quý vị biết không, tự nghĩ lại mà xem? Một số giáo chủ, giáo phái sư bà-la-môn
của chúng ta tự nhận là xuất gia, sống không gia đình, ăn rau trái cây củ hoa
lá, có vẻ như tôn trọng sự sống của chúng sinh - nhưng thật ra trong các cuộc
đại tế, trung tế, tiểu tế biết bao nhiêu là súc vật thật không kể xiết đã bị
giết hại, lấy đầu và máu để tế thần. Cũng rất nhiều vị thuyết con đường đến với
phạm thể một cách rất thanh cao, cao thượng - nhưng bản thân họ thì làm giàu từ
tài sản của thí chủ, đêm nằm trên những chiếc giường sang trọng để ôm ấp hầu
non, gái tơ - có vị cả hằng chục tỳ thiếp như thế. Họ ăn chay, nhưng một ngày
ăn ba bữa, bốn bữa cho thỏa thích, cho khoái khẩu, căng đầy da bụng! Còn sa-môn
Gotama và chúng tỳ-khưu thì sao; họ giữ giới hạnh rất nghiêm túc, hoàn toàn bần
hàn vô sản, mỗi ngày đi xin ăn và chỉ ăn một bữa. Vị Phật ấy hằng khuyên chúng
đệ tử xuất gia phải biết lánh chốn phồn hoa, đô hội; nên sống ở cội cây, rừng,
hang động, nghĩa địa, chỗ không có mái che - tùy duyên đi nơi này nơi khác để
giáo hóa chúng sanh, xa lìa tham lam, sân hận, si mê, chấp thủ, sở hữu... để
không còn một dính mắc gì nơi trần thế. Họ thuyết con đường xuất thế nhưng đã
không mệt mỏi vì cuộc đời, vì con người, vì những chúng sanh đang tối tăm, đang
đau khổ... Thử hỏi, chúng ta cao thượng ở chỗ nào, khi những vướng mắc tục lụy
như vợ, như con, như tài sản, như danh vọng, lợi dưỡng, địa vị vẫn đang còn cùm
chân tất cả chúng ta; và biết bao nhiêu người do thiếu bản lãnh, thiếu tu tập
đã đi vào đọa lạc, hạ liệt, tối tăm, thấp thỏi?
Câu
hỏi ấy rơi vào im lặng. Có một vị lão trượng chợt quắc mắt, chất vấn:
-
Sao tôn giả lại tự chê mình, khen người đến như thế được?
-
Hóa ra tôn giả Sonadanda đang ca tụng, tán thán sa-môn Gotama một cách tối
thượng?
-
Đúng thế! Một vị khác nói tiếp - Dầu cho một ai ở xa đây 100 do-tuần, nếu nghe
được lời ca tụng, tán thán ấy; có cơm đùm, gạo bới, khó khăn, vất vả thế nào
cũng phải đi yết kiến sa-môn Gotama cho bằng được!
-
Không sai, vì đấy là sự thật - Tôn giả Sonadanda gật đầu - Rồi
quý vị sẽ biết, sẽ thấy - là còn rất nhiều đức tính ưu việt của sa-môn Gotama
nữa, ông ta có vô lượng ưu điểm! Đấy là một bậc Chánh Đẳng Giác thật sự. May
mắn và hạnh phúc làm sao, khi tất cả chúng ta được cùng đi hội kiến với Người.
-
Thôi được rồi! Một vị gia chủ kết luận - Tôn giả Sonadanda đã
nói như thế, đã xác quyết như thế thì đúng là sự thực như thế, tảng đá cũng
phải gật đầu. Huống nữa, đất nước Campā tươi đẹp của chúng ta vốn rất hào sảng,
mến khách. Cho dù sa-môn Gotama không phải là một vị Phật đi nữa, nhưng ngài và
hội chúng đã đến Campā - thì họ là khách quý của chúng ta!
Thế
rồi, cả hội chúng gia chủ bà-la-môn rầm rộ lên đường, mang theo rất nhiều lễ
phẩm, hướng đến bờ hồ Gaggara. Vừa đi, trong tâm trí bà-la-môn khởi lên những
lo lắng, bất an, như sau: “ Các trưởng lão bạn hữu thâm tình của ta ở
Kosala, Māgadha, Vesāli đều cho biết rằng, không ai ở trên đời này, cho dù tôn
sư, đại tôn sư của các bậc giáo chủ có sống lại cũng không dễ gì đối thoại với
sa-môn Gotama mà không có ấn tượng như thân lau bị bẻ gãy hoặc có cảm giác như
đám cỏ bị gió thổi rạp! Ngoài ra, tâm tư của người đối thoại nghĩ gì, định nói
điều gì thì sa-môn Gotama đều thấy rõ, biết rõ cả. Ngại rằng, khi ta đặt một
câu hỏi, dù cho câu hỏi ấy ta đã suy nghĩ chín chắn, nhưng sa môn Gotama lại
nói: Này bà-la-môn, không nên đặt câu hỏi như thế, chính xác phải đặt câu hỏi
như thế này! Nếu quả có chuyện ấy xảy ra thì ta sẽ bị bẻ mặt, bị ê mặt; theo
đó, cái danh giá trí thức của ta sẽ như nước đổ sông; và hội chúng gia chủ này
sẽ không còn coi ta ra gì nữa! Không chỉ có vậy mà thôi, ta còn ngại rằng, khi
ta phải trả lời những câu hỏi của sa-môn Gotama, lại bị ông ta chất vấn, cật
vấn ráo riết với lý luận chặt chẽ, đanh thép... khi ấy ta sẽ ú ớ, ngọng nghịu
thì còn ra thể thống gì nữa? Thôi, ta chỉ mong rằng, sa-môn Gotama là bậc đại
trí, đại lượng, đừng chê cười, khinh miệt ta một cách quá đáng; đại loại như
đừng sỉ nhục ta là người ngu si, bất tài, thiểu học, dốt nát, tâm trí tối đen
như đêm ba mươi là quý lắm rồi! Vả chăng, bậc Chánh Đẳng Giác kia, chắc cũng
hiểu ta là một bà-la-môn chân chính; tuy nhiên, ta còn có gia đình, vợ con, gia
sản, đồ chúng cùng uy tín, địa vị đã được gầy dựng đổ mồ hôi, sôi nước mắt, hao
tổn tim óc suốt mấy chục năm qua... mà giữ thể diện cho ta một phần nào!”
Lúc
ấy, đức Thế Tôn và tăng chúng tỳ-khưu đã độ ngọ xong, đang ngồi tọa thiền hoặc
tĩnh chỉ trong bóng im của những tàn cổ thụ xanh mát. Hội chúng gia chủ
bà-la-môn được tôn giả Sonadanda dẫn đầu, đến chào hỏi chừng mực, lễ độ, thân
tình rồi ngồi xuống một bên. Trong số họ, có người đảnh lễ, có người chắp tay
xá, có người nói vài lời xã giao, có người không nói gì cả, tìm chỗ ngồi thích
hợp. Và khá đông đưa mắt nhìn quanh, có cảm giác như rởn cả tóc gáy khi thấy
mấy trăm tỳ-khưu yên lặng như một rừng đại định, chầu quanh đức Phật sáng rỡ
như một vị đại phạm thiên.
Thật
ra, bà-la-môn Sonadanda khỏi phải lo ngại như thế vì đức Thế Tôn đã biết rồi,
đã thấy rõ tất cả rồi, ngài nghĩ:
“Đây là một trong số ít trưởng lão bà-la-môn có đời sống mẫu mực,
trung thực. Tuy sống giữa cát bụi danh vọng và lợi dưỡng nhưng tự bên trong tâm
hồn, một góc nhỏ nào đó vẫn còn một đền thờ tâm linh thiêng liêng luôn rực cháy
một ngọn đèn! Quý hóa thay, vậy ta sẽ hỏi những câu hỏi thuộc về kinh điển, về
sở trường, liên hệ với một số đức tính mà ông ta hiện có!”
-
Trưởng lão Sonadanda quý mến! Hôm nay, thật là vinh hạnh thay cho Như Lai và
hội chúng của Như Lai, khi hành hóa đến đất nước Campā tươi đẹp, thịnh mậu và
phú cường này; đã chưa đi thăm viếng các gia chủ, lại được chư vị gia chủ đáng
kính đồng đến thăm viếng đông đúc với lễ lạt trọng hậu!
-
Không dám! Tôn giả Sonadanda khiêm tốn nói - chúng tôi chỉ
muốn làm tròn bổn phận của một gia chủ và chúng tôi xem sa-môn Gotama và hội
chúng tỳ-khưu như những bậc thượng khách!
-
Đúng là ngôn ngữ khả ái của một bà-la-môn hữu danh - Đức Phật mỉm cười,
đi vào đề ngay - Chẳng hay, xin trưởng lão cho Như Lai được biết, một
vị bà-la-môn phải gồm đủ bao nhiêu đức tính, để có thể nói, tôi là một
bà-la-môn chơn chính - mà không phải là vọng ngữ, vọng ngôn?
Tôn
giả Sonadanda nghe mát óc, mát ruột, tự nghĩ: “ Lời chào hỏi, cách dụng
ngữ của sa-môn Gotama đã làm cho lỗ tai của ta rất hoan hỷ. Bây giờ, lại hỏi ta
một câu hỏi thuộc về sư truyền về ba tập Vệ-đà, thuộc về kiến thức chuyên môn
của ta; rõ là vị sa-môn này thấy biết cả tim óc người ta rồi!”
-
Thưa sa-môn Gotama! Ông ngồi thẳng lưng, chững chạc; hoàn toàn lấy lại
niềm tin và tư cách mô phạm cố hữu của mình - Có năm đức
tính để có thể tựu thành một bà-la-môn chơn chính, để khi tự xưng, tôi
là một bà-la-môn - thì lời nói ấy là chân thực, không phải vọng ngôn,
vọng ngữ!
-
Thưa, thứ nhất là thiện sanh mẫu và phụ hệ, huyết thống thanh
tịnh bảy đời; không bị gièm pha, không bị nghi ngờ, bị một vết nhơ nào về huyết
thống thọ sanh ấy. Thứ hai, phải thông hiểu ba tập Vệ-đà, biết
phúng tụng, trì chú, lễ nghi, ngữ nguyên, chú giải, ngữ pháp, văn phạm...Thứ
ba, vị ấy phải có dung sắc, khôi ngô tuấn tú, khả ái trong dáng điệu,
cử chỉ và ngôn ngữ... Thứ tư, phải có đức hạnh, giới hạnh, đức
độ cao dày. Thứ năm là phải thông minh, sáng suốt, có trí tuệ
khả dĩ là người đệ nhất hay đệ nhị cầm muỗng đổ bơ trong các lễ tế thần. Thưa
sa-môn Gotama! Đấy là 5 đức tính để khả dĩ được gọi là một bà-la-môn
chơn chính còn lưu truyền trong thánh điển tự ngàn xưa.
-
Đúng vậy, thật là rõ ràng, mạch lạc - thưa vị trưởng lão khả kính! Nhưng cho
Như Lai được hỏi, trong 5 đức tính ấy, ta có thể bỏ bớt một đức tính nào, chỉ
còn 4 đức tánh thôi - cũng có thể tựu thành một bà-la-môn chơn chính mà vẫn
thấy không hề khiếm khuyết?
-
Được, thưa sa-môn Gotama! Chúng ta có thể bỏ bớt dung sắc, tức là bỏ điều thứ
ba. Tại sao vậy? Vì trên đời này có biết bao nhiêu người hảo tướng, dung sắc
đẹp đẽ, tuấn tú, khôi ngô; thái độ, cử chỉ, ăn nói đều dịu dàng, nhu nhuyến,
khả ái - nhưng mà tâm địa không được tốt; đôi khi còn là bụng lang dạ sói nữa.
Vậy bỏ điều ba, còn lại bốn điều thôi vẫn là một bà-la-môn chơn chính như thường!
-
Hay lắm, chính xác lắm! Như Lai rất là đồng tình lối nghị luận ấy. Nhưng mà
này, trong bốn đức tính kia, có thể bỏ bớt thêm một điều nào đó nữa, chỉ còn ba
thôi, mà vẫn không là lạm xưng một bậc bà-la-môn chơn chính?
-
Có thể được, thưa sa-môn Gotama! Bỏ chú thuật, tức là bỏ tất cả nội dung của
điều thứ hai. Tại sao vậy? Tại tôi đã từng thấy rất nhiều vị thiên kinh, vạn
quyển, lão thông rất nhiều môn học, lại giỏi về phúng tụng, chú thuật, lễ
nghi... nhưng họ có đời sống sa đọa, thọ hưởng quá quắt năm món dục lạc từ đống
tài sản cúng dường của những thí chủ thiện tâm. Đấy là bất chính, là thấp thỏi,
là hạ liệt. Vậy, bỏ điều thứ hai đi, chỉ còn lại ba đức tính, vẫn thủ đắc là
một bà-la-môn chơn chính như thường!
Đến
ngang đây thì hội chúng gia chủ đi theo - họ xôn xao, bàn tán, có nhiều người
thốt lên, giọng xen kẽ nhau:
-
Vị tôn giả đáng kính của chúng ta đã bước vào tròng của sa-môn Gotama rồi!
-
Chỉ một vài câu hỏi khôn ngoan, sa-môn Gotama đã như một nhà huyễn sư hoặc một
nhà thôi miên đã làm cho tôn giả của chúng ta lú lẩn, mụ mẫm mất rồi!
-
Ai đời lại tự bác bỏ kiến thức sư truyền của mình để công phá trực diện, tấn
công từng điểm một trong 5 đức tánh tựu thành bà-la-môn từ ngàn xưa!
-
Thôi vừa rồi, thôi đủ rồi, này các gia chủ! Bà-la-môn Sonadanda đứng dậy, quắc
mắt nhìn quanh một vòng - Nếu quý vị thấy tôi không đủ trí năng, kiến thức để
hầu chuyện với sa-môn Gotama - thì ai ở đây có đủ tư cách ấy, hãy bước ra, tôi
xin sẵn sàng nhường vai trò đại diện cho vị ấy!
Thấy
mọi người im lặng, tôn giả tiếp:
-
Chư vị biết không, với cách hỏi lạ lùng như thế ấy, rồi chư vị sẽ thấy là
sa-môn Gotama đã dùng lưỡi gươm tuệ sắc bén để chặt bỏ tất cả mọi lau lách, lùm
bụi bao che bên ngoài, để phát lộ cho chúng ta thấy cái đức tính chân thật
nhất, tối thượng nhất của mọi đức tính!
-
Đúng vậy! Đức Phật gật đầu - Cứ tuần tự như thế thì trong ba
điều còn lại, cái chúng ta cần lượt bỏ tiếp theo, chính là thọ sanh với cái
huyết thống thanh tịnh bảy đời, có phải vậy không, trưởng lão Sonadanda?
-
Phải rồi, thọ sanh mà làm gì, lý lịch bảy đời thuần chất huyết thống mà làm gì!
Chỉ cần một con người có đạo đức, có giới hạnh, hiền thiện, thông minh, sáng
suốt, có trí tuệ xứng đáng là đệ nhất hay đệ nhị cầm muỗng đổ bơ trong các lễ
tế thần là xứng đáng được gọi là ba-la-môn chơn chính rồi!
Hội
chúng lại la ó, phản đối:
-
Hết rồi! Bà-la-môn trưởng lão của chúng ta đã khinh bác dung sắc, hảo tướng,
khinh bác phúng tụng, chú thuật, lễ nghi, bây giờ lại khinh bác luôn cả thọ
sanh nữa - thật sự, Sonadanda đã làm quân cờ xung kích cho sa-môn Gotama rồi!
-
Hai đức tính trước, phủ bác, còn nghe được; nhưng cái thọ sanh, cái huyết thống
thanh tịnh bảy đời là phẩm chất đáng tự hào của dòng dõi bà-la-môn mà trưởng
lão của chúng ta cũng phủ bác luôn - thì còn đâu là bà-la-môn nữa mà gọi bà-la-môn,
là bà-la-môn chơn chính?
Tôn
giả Sāriputta đang đứng hầu một bên, muốn phụ giúp bà-la-môn Sonadanda một vài
lời, nên nói với hội chúng gia chủ:
-
Xin lỗi, nếu chư vị nghĩ rằng bà-la-môn Sonadanda không phải là bậc đa văn,
không phải là nhà hùng biện, không phải là nhà bác học, không phải là nhà nghị
luận có gang có thép - để có thể nói chuyện với đức Tôn Sư của chúng tôi - thì
xin ngài Sodananda hãy đứng qua một bên và để chư vị đại diện làm người đối
thoại? Bằng ngược lại - thì xin chư vị giữ cho sự im lặng cần thiết - vì cuối
buổi pháp thoại, chắc chắn chư vị sẽ thấy rõ sự thật, sẽ thâu hái được nhiều
điều lợi ích.
Mọi
người im lặng. Bà-la-môn Sonadanda đứng dậy, nói:
-
Rất cảm ơn bậc Chưởng giáo, nhưng không cần thiết ngài phải tổn hơi. Để chính
tôi, phải, cứ để tôi nói chuyện với hội chúng này bằng chánh pháp.
Rồi
ông nhìn quanh một vòng, cất giọng trầm tĩnh:
-
Thật ra, chư vị đã hiểu lầm khi bảo tôi phủ bác, khinh bác những đức tính kia
rồi ngã theo quan điểm của sa-môn Gotama. Không, tôi chỉ ngã theo chánh pháp
thôi.
Lúc
ấy, bên cạnh ông, có người thanh niên bà-la-môn tên là Angaka. Bà-la-môn
Sonadanda nắm tay chàng đứng dậy giới thiệu, rồi nói chuyện với mọi người:
-
Đây là cháu tôi, là thanh niên Angaka! Quý vị có thấy không, thanh niên Angaka
rất tuấn tú, đẹp trai, đệ nhất về dung sắc, khả ái về ngôn ngữ, thái
độ, cử chỉ; ở đâu cũng toát ra chất thanh cao, tao nhã. Dường như ai ở đây cũng
không thể so sánh với y về dung sắc, có lẽ ngoại trừ sa-môn Gotama. Này các
bạn, thanh niên Angaka là nhà trì chú, phương thuật, thông hiểu ba tập Vệ-đà,
chú giải cùng những kiến văn liên hệ. Angaka còn là thiện sanh phụ và mẫu hệ,
huyết thống thanh tịnh bảy đời. Chính tôi dạy cho nó và tôi biết rõ cha mẹ nó.
Này các bạn, Angaka ưu việt đấy chứ? Nhưng mà, nếu Angaka sát sanh, giết hại
các loài hữu tình, trộm cắp, lấy của không cho, đi tư thông, tà hạnh, tà vạy
với vợ con người, nói dối, nói láo, uống rượu say sưa - thì dung sắc
kia để mà làm gì? Học thông hiểu rộng, phương thuật, chú thuật để làm gì? Huyết
thống thanh tịnh để làm gì? Ba đức tính ấy có làm nên một con người tốt đẹp
không, một bà-la-môn chơn chính không - khi không có giới hạnh, đạo đức?
Hội
chúng lại im lặng, dường như họ bắt đầu hiểu những lý lẽ, dẫn chứng của
bà-la-môn Sonadanda là chính xác. Có rất nhiều sự đồng tình:
-
Quả thật vậy!
-
Không có giới hạnh thì quả là con người bỏ đi!
-
Ba đức tính kia dẫu là vàng ròng cũng không thể làm sang trọng được, che lấp
được những hành động xấu xa!
-
Cảm ơn chư vị đã hiểu! Bà-la-môn nói tiếp - Vậy, theo tôi, khi
một bà-la-môn có giới hạnh, hiền thiện, đạo đức cao dày, mà vị ấy lại thông
minh, sáng suốt, có trí tuệ, xứng đáng đệ nhất hay đệ nhị trong những người cầm
muỗng - người như vậy, chỉ cần hội đủ hai đức tính ấy, thì đúng là một
bà-la-môn chơn chính!
Đức
Phật mỉm cười, hỏi tiếp:
-
Thế trong hai đức tính còn lại ấy, có thể bỏ bớt một được không? Có thể bỏ bớt
một đức tính mà vẫn được gọi là một bà-la-môn chơn chính?
-
Không thể được, thưa sa-môn Gotama! Trí tuệ được giới hạnh làm cho thanh tịnh;
giới hạnh được trí tuệ làm cho thanh tịnh. Chỗ nào có giới hạnh, chỗ ấy có trí
tuệ. Chỗ nào có trí tuệ chỗ ấy có giới hạnh. Người có giới hạnh nhất định có
trí tuệ. Người có trí tuệ nhất định có giới hạnh. Chúng liên hệ thiết cốt với
nhau, cần thiết cho nhau như bàn tay này rửa bàn tay nọ, bàn chân này rửa bàn
chân kia. Vậy, giới hạnh và trí tuệ được xem là tối thắng ở trên đời, thưa
sa-môn Gotama!
Đức
Phật tán thán:
-
Lành thay, này trưởng lão bà-la-môn! Chúng ta đã cùng dẫn nhau đến sự thấy biết
chơn chánh, đến cái lõi, cái tinh yếu của mọi đức tính, ấy là giới hạnh và trí
tuệ. Nhưng mà này, thưa trưởng lão, vậy thế nào là giới hạnh, thế nào là trí
tuệ, ngài có biết không?
-
Thưa, tôi chỉ biết có vậy. Cái biết của tôi về vấn đề ấy, ngang chỗ đó là tột
bực. Lành thay, nếu sa-môn Gotama giải thông cho chúng tôi nghe rành rẽ về mọi
ý nghĩa liên hệ.
Rồi,
đức Thế Tôn với giọng phạm âm, tuần tự giảng nói cho bà-la-môn nghe về đời sống
của một sa-môn từ khi cạo bỏ râu tóc, xuất gia, sống đời không gia đình, một
bát, ba y xin ăn từ cửa mọi nhà không phân biệt giàu nghèo, sang hèn như thế
nào. Ăn, mặc ngủ phải vừa đủ. Vị tỳ khưu ấy phải thọ trì những điều học, luật
nghi như thế nào, giới nhỏ, giới lớn như thế nào. Rừng, cội cây, nghĩa địa,
ngôi nhà trống, động vắng, miếu hoang... là chỗ ẩn cư lý tưởng để tu tập thiền
định, các tầng thiền định từ thấp lên cao, từ thô đến tế. Khi nội tâm đã thuần
tĩnh, đã nhất như, đã làm sạch tất cả mọi cáu bợn, vị ấy bước qua tu tập thiền
quán, nhìn ngắm, quan sát, theo dõi, để nhìn đúng thực tướng của các pháp, vượt
qua tất thảy mọi phạm trù ý niệm và khái niệm. Phải miên mật, tinh cần, công
phu ngày đêm mới mong có được tuệ nhãn như thực tánh, có được trí tuệ tối hậu,
chấm dứt tất cả khổ, giải thoát vô lượng ách phược đeo mang trên trần thế. Vậy
này, trưởng lão bà-la-môn! Đấy là lộ trình giới, ấy là lộ trình định, ấy là lộ
trình tuệ trong giáo pháp của bậc thánh; chỉ hiện hữu trong giáo hội của Như
Lai, không có mặt ở đâu trên cõi đời này, trong các tôn giáo khác!
-
Ôi, nhiêu khê đến vậy, sâu xa đến vậy, thưa sa-môn Gotama! Nhưng lộ trình ấy,
trong giáo hội cao thượng này, có được mấy người đi đến nơi đến chốn?
-
Đứng nói một, hai người, trăm người, mà phải nói là cả ngàn, cả hằng ngàn đệ tử
của Như Lai, xuất gia và tại gia đạt được các quả vị và giải thoát tối hậu.
Trong số họ, còn biết bao nhiêu là người chứng được thắng trí một thông, hai
thông, ba thông, bốn thông, năm thông, đệ nhất biện tài, đệ nhất phân tích, đệ
nhất đầu-đà, đệ nhất độc cư, đệ nhất trí tuệ, đệ nhất được chư thiên ái kính,
đệ nhất ngôn ngữ, đệ nhất trì luật, đệ nhất thiền định... thật không kể xiết
đâu!
Bà-la-môn
nghe đến rợn ngợp nhưng lòng ông hoan hỷ, mát mẻ; ông thú nhận là mắt ông đã
được sáng, đã được vén lớp mây mù... nên ông xin được quy y Tam Bảo, được
làm một người thiện Nam từ nay cho đến trọn đời.
Đức
Phật biết được tâm địa nhu thuận, quy hướng của bà-la-môn Sonadanda nên làm lễ
quy y cho ông. Và sau đó, ngài im lặng nhận lời, cùng với đại chúng, ngày mai
đến trang viên của ông để nhận sự đặt bát cúng dường của gia chủ.
Dịp
này, sau khi thọ trai, đức Phật còn thuyết cho bà-la-môn một thời pháp nữa, nói
về bổn phận của một gia chủ, bổn phận của một bậc trưởng giáo, bổn phận của một
cư sĩ trong việc mưu cầu an lạc, hạnh phúc cho mình và cho mọi người. Ngài cũng
giảng nói đến, tuần tự, thứ lớp những an lạc hạnh phúc cao hơn, các cảnh trời
và sự thanh bình nội tâm của các tầng thiền định...
Trước
khi tiễn đức Phật và tăng chúng ra về, ông bắt một chiếc ghế thấp, ngồi xuống
một bên, chấp tay thành kính, tâm sự:
-
Bạch đức Thế Tôn! Hiện giờ đệ tử là trưởng giáo, là bậc thầy của nhiều người;
và miếng cơm, manh áo cũng được phát sanh từ đấy. Đệ tử đang sống trong thế
giới cát bụi, phải đeo mang những hư vị, những danh vọng hảo huyền, đành phải
tuân thủ những quy ước của thế gian. Vậy, sau này, lúc nào, trong hội chúng,
gặp đức tôn sư, đệ tử chấp tay vái chào, đấy là cái lễ thành kính của đệ tử.
Lúc nào, gặp đức tôn sư, giữa hội chúng, đệ tử tháo khăn đầu, đấy là đệ tử đã
kính lễ với cái đầu của đệ tử. Khi nào, giữa hội chúng, khi đệ tử đi trên xe,
gặp đức tôn sự, đệ tử sẽ hạ cán roi xuống, đấy là sự kính lễ của đệ tử...
Đức
Phật mỉm cười:
-
Ừ, Như Lai sẽ giữ thể diện cho ông; danh tiếng ông mà bị tổn giảm thì mọi vinh
quang liên hệ trên cuộc đời đều phải bị tổn giảm theo. Tuy nhiên, Như Lai hy
vọng rằng, đến một lúc nào đó, chính ông sẽ thấy rõ như thực rằng, tất thảy
chúng đều là phù phiếm, rỗng không, thoáng qua, vô ngã, vô thường, như đốm
nắng, như giọt sương, như giấc mộng đêm qua...
-
Nhất định như vậy rồi, bạch đức tôn sư!
Bà-la-môn
Sonadanda đăm đăm nhìn theo bóng đức Phật như nhìn theo một cái gì linh thiêng.
Ông kính trọng, yêu thương những gót chân xuất thế xiết bao, nhưng chính ông
lại chưa thể đi theo được. Đôi mắt ông chợt đọng long lanh hai giọt sương, nhìn
cho kỹ, trong đó phản ảnh một bầu trời trong vắt!
[i] Trường bộ kinh, tập I, tr.204.
Bà phu nhân xinh đẹp
Đức Phật trở lại
Veḷuvanārāma khi trời đang còn tiết xuân trong lành và mát mẻ. Thoáng nhìn
quang cảnh đó đây, ngài biết là có một vài dấu hiệu sa sút về chất lượng, phẩm
hạnh của một số đông tỳ-khưu - sau khi vắng ngài
cũng như thiếu vắng những bậc thượng thủ
A-la-hán.
Tuy nhiên, công việc chấn chỉnh nội bộ cũng
không có gì cần được nhắc đến vì tôn giả Sāriputta và Ānanda đã lo việc ấy. Còn
đức Phật thì hầu như phải thường
xuyên thuyết pháp vào mỗi buổi chiều vì hai hàng cư sĩ rất khát khao học hỏi.
Kết quả thật đáng ngạc nhiên là rất nhiều Nam cư sĩ, nữ cư sĩ đắc quả Nhập Lưu.
Đặc biệt có một trưởng giả tên là Visākha đắc quả Bất Lai!
Cuối
buổi giảng, đức Phật nói với đại chúng:
-
Hôm nay Như Lai rất vui mừng vì khá nhiều người đã bước vào dòng bất tử; lại
còn có người đạt được quả vị bất thối... Từ đây, lộ trình của họ là lộ trình
của an lạc và hạnh phúc, không bao giờ còn rơi đọa vào bốn con đường đau khổ
nữa!
Sau
lời tuyên bố của đức Phật, số cư sĩ ấy chợt đứng dậy, đến đảnh lễ gần bên chân
đức Phật với niềm vui tươi mới, có kẻ sụt sùi nước mắt. Riêng trưởng giả
Visākha thì muốn xin xuất gia.
-
Chưa phải lúc, này Visākha! Đức Phật nói - Đúng thời, Như Lai
sẽ để cho ông tròn sở nguyện. Hiện tại, ông có pháp học vững chắc, tròn
đủ tín, giới, văn, thí, tuệ - nên trong hình tướng cư sĩ, ông còn
đem đến lợi ích rất nhiều cho gia đình, bà con quyến thuộc cũng như bè bạn gần
xa.
Về
nhà, trưởng giả Visākha lặng lẽ bước lên lầu, tìm chỗ yên tĩnh tọa thiền. Đến
giờ cơm chiều, phu nhân xinh đẹp của ông là bà Dhammadinnā dịu dàng đến bên,
đặt tay lên vai, âu yếm nói:
-
Đến giờ cơm rồi, thưa phu quân! Đợi giấc tối, giấc khuya hãy tiếp tục công phu.
Xả
thiền, trưởng giả Visākha nhẹ nhàng nắm tay bà đặt ra ngoài rồi ân cần nói:
-
Bắt đầu từ hôm nay, ta hoàn toàn không muốn nắm bàn tay xinh đẹp của nàng nữa;
xin nàng hãy thông cảm cho ta.
-
Chàng ghê sợ bàn tay của thiếp sao?
-
Không phải vậy! Rồi ta sẽ nói chuyện với nàng sau.
Yên
lặng một lát, bà Dhammadinnā nói:
-
Thôi, bây giờ đi rửa mặt, rửa tay rồi xuống dùng cơm; cả nhà đang đợi.
-
Cũng không cần thiết phải ăn nữa! Ăn một bữa là đủ nuôi sống cái thân rồi.
Lại
yên lặng.
-
Hay thiếp đã có làm việc gì sai trái, có lỗi với chàng?
-
Không, không có! Trưởng giả Visākha lắc đầu - Nàng là người
đàn bà tài sắc vẹn toàn; và còn hơn thế nữa, còn cả giới hạnh và đức độ mà
người ở gái xấu tính nhất cũng kính yêu và cảm mến.
-
Đừng nói lời rào đón hoa hương ngọt mật như vậy nữa - Bà Dhammadinnā
giận dỗi -Hay là chàng chán thiếp rồi, chán cái thân xác núc ních đã chảy
tràn những thịt và mỡ và nơi nào cũng đầy dẫy những xú uế và bất tịnh này?
Trưởng
giả quay sang nhìn bà vợ yêu quý, thổ lộ, tâm sự:
-
Nàng đừng nói hơi quá như vậy - nó làm rơi mất nghĩa tình tốt đẹp bấy nay. Ta
không có lỗi mà nàng cũng không có lỗi. Ta nói thật cho nàng nghe. Số là sáng
nay nghe được pháp từ đức Đạo Sư - tâm trí ta đã chìm vào rất sâu với giáo
pháp. Nói rõ hơn - là ta hiện đang sống, hiện đang thở với giáo pháp ấy. Trạng
thái tinh thần của ta hiện nay chỉ khế hợp với cái gì thanh lương, cao sáng,
tĩnh lặng. Ở đấy, nó không còn có chỗ cho những tình cảm vợ chồng, nhu cầu bản
năng thân xác cũng như những cái gì thuộc dục lạc ngũ trần...
Bà
Dhammadinnā yên tĩnh, chăm chú lắng nghe.
Trưởng
giả Visākha tiếp tục:
-
Vậy, cái duyên tơ tóc mặn nồng của chúng ta từ nay nên gác lại. Tài sản mấy trăm
triệu đồng tiền vàng - ta để lại cho nàng hầu hết, cứ tùy nghi sử dụng. Ta chỉ
cần một phần năm tài sản ấy để nuôi thân và bố thí, cúng dường cho đến khi đủ
duyên xuất gia mà thôi. Nàng có thể cai quản gia sản, tùy ý. Nàng có thể lấy
hết mang về nhà cha mẹ, cũng tùy ý. Nàng có thể lấy một tấm chồng khác, cũng
tùy ý luôn! Thú thật với nàng là nàng còn trẻ, còn đẹp; hơn thế nữa, cái nữ
tính đằm thắm, dịu dàng của nàng còn lôi cuốn, hấp dẫn biết bao nhiêu bậc vương
tôn, công tử trên đời này! Đừng vì tự ái vẩn vơ mà nói những lời làm trái tim
của ta đau xót...
Bà
Dhammadinnā chợt cất giọng ráo hoảnh:
-
Chàng nói đã xong chưa?
-
Xong rồi!
-
Vậy thì cho thiếp được phát biểu chính kiến, được chăng?
-
Sẵn sàng!
-
Vậy thì sau khi liễu ngộ giáo pháp, sống từng hơi thở với giáo pháp - chàng cảm
thấy người vợ đầu gối tay ấp của mình, gia sản mấy trăm triệu đồng tiền vàng
của mình, đều là vật ngoại thân, là thứ không nên dính mắc, quyến niệm; nói rõ
hơn là đáng viễn ly, quăng bỏ - có phải thế chăng?
Trưởng
giả Visākha nhìn sâu vào mắt bà:
-
Về gia sản thì đúng vậy!
Bà
Dhammadinnā cất giọng cứng cỏi:
-
Đáng quăng bỏ có nghĩa là cái mà chàng đã bỏ đi, đã mửa ra - thì xin nói thẳng
- thiếp cũng cương quyết không nhận những vật mà chàng đã bỏ đi, không nuốt
những vật mà chàng đã mửa ra!
Trưởng
giả Visākha sững sờ:
- Ý
nàng như thế nào?
-
Chàng hãy cho thiếp được xuất gia!
Trưởng
giả Visākha tưởng tai mình nghe lầm:
-
Nàng nói sao?
-
Chàng quăng bỏ được thì thiếp cũng quăng bỏ được! Hãy cho thiếp xuất gia.
Trưởng
giả Visākha lặng người vì hoan hỷ! Cái hoan hỷ nó chảy rần rần như mọc ốc cả
người, nghẹn ngào chưa nói được lời nào - thì bà Dhammadinnā có vẻ trầm tư, xa
vắng rồi cất giọng thủ thỉ:
-
Đã lâu lắm rồi, thưa phu quân! Kể từ khi gá nghĩa, se duyên cùng chàng, thiếp
sống rất hạnh phúc. Hạnh phúc vì có được người chồng tốt: tốt tướng, tốt nết,
tốt bởi tâm đại lượng, tốt trong thái độ khu xử và tốt cả những ngôn lời nhã
nhặn, lịch thiệp, dịu dàng... Chẳng có người đàn bà nào gặp được phúc duyên
trọn hảo, tuyệt mỹ như thế. Tuy nhiên, có một cái cảm giác, ồ không, là một cảm
thức - lúc nào nó cũng chờn vờn, mơ hồ như sương như khói; rằng là, đây là kiếp
sống ăn gởi, ở nhờ, tạm bợ và phù du. Có cái gì đó không chắc thật, không vững
bền. Dường như là phải có một thế giới khác, một cảnh giới khác - nó rất thân
thuộc, lại nằm sâu đâu đó trong ký ức xa xăm! Có một tiếng gọi. Có một tiếng
gọi đò từ bên kia sông vẳng lại. Có một cánh tay đưa vẫy đâu đó ở cuối con
đường, bên kia dốc núi! Đã có nhiều đêm, nhiều đêm thiếp đã thao thức, thao
thức một cõi về vĩnh cửu nào đó, mà thiếp không dám thổ lộ với ai, kể cả chàng,
thưa phu quân!
-
Đúng, rất đúng! Chính ta trước đây, đôi lúc cũng có cảm giác như vậy, cảm thức
mơ hồ như vậy!
-
Hay là nhiều kiếp trước đây, đâu từ xa xăm, chúng ta đã từng sống đời xuất gia
phạm hạnh? Và những cảm thức kia là những nhắc nhở để trở về, đừng có lang
thang, phiêu dạt nữa?
-
Cảm ân phu nhân! Và chợt như mới phát hiện, trưởng giả Visākha nhận xét
- Thật là kỳ lạ! Sống đã lâu với nàng, mà cho đến hôm nay, ta mới phát
giác là nàng nói hay quá. Hay ở ngôn ngữ, hay ở cung bậc, nhịp độ và hay ở âm
thanh truyền cảm nữa! Đúng là nàng phải xuất gia mới tỏ lộ hết đạo hạnh, trí
tuệ và tài năng!
Bà
Dhammadinnā vui mừng nói:
-
Cảm ơn phu quân!
Ngay
ngày hôm sau thôi, trưởng giả Visākha hoan hỷ đưa vị phu nhân xinh đẹp của mình
- bà Dhammadinnā - đến Ni viện trên cái kiệu vàng. Đức vua Seniya Bimbisāra hay
tin chuyện hy hữu nên đã cùng bà chánh hậu Videhi và hoàng tử A-xà-thế cùng đến
dự lễ.
Đức
Thế Tôn đã biết chuyện này nên đã cùng các vị trưởng lão - sang chứng minh và
cho bà thọ cụ túc giới trước khá đông đủ Tăng Ni hai viện. Trưởng giả Visākha
làm thí chủ buổi lễ; và sau đó, đặt bát cúng dường Tăng Ni lưỡng viện suốt một
tuần lễ. Cũng suốt một tuần lễ ấy, đức Phật và các vị trưởng lão thay nhau
thuyết pháp, đôi ngày lấn sang cả đêm vì nhu cầu nghe pháp quá đông. Rải rác
trong thời gian ấy, khá đông các công nương, các cô tiểu thư, các cô gái đủ mọi
thành phần trong xã hội xin xuất gia tỳ-khưu-ni. Trong số họ, sau này, có nhiều
bậc trượng ni làm nơi y chỉ vững chắc cho ni chúng!
Chuyện
bà phu nhân xinh đẹp đột ngột quăng bỏ tài sản, không nuốt vật đã mửa ra - là
mấy trăm triệu đồng tiền vàng - để xin xuất gia, trong lúc ông chồng, trưởng
giả Visākha, được đức Phật ngầm xác chứng đắc quả Bất Lai - lại chưa được đức
Phật cho phép đi theo giáo hội, được Tăng Ni bàn tán thảo luận nơi này và nơi
khác.
Hôm
kia, có mặt đầy đủ Tăng Ni hai viện, hai hàng cư sĩ áo trắng, cả đức vua
Bimbisāra - đức Phật thấy là phải thời, nên vén mở bức màn quá khứ:
“- Bà Dhammadinnā từ thời Phật Padumuttara là một cô ở gái nghèo
hèn, hôm ấy đi múc nước, trông thấy tướng hảo thanh tịnh của trưởng lão Sujāta
- đại đệ tử của đức Phật - phát tâm hoan hỷ cúng dường một chiếc bánh ngọt.
Thấy căn duyên sau này của cô gái, trưởng lão đã ngồi xuống và thọ dụng chiếc
bánh ngay tại chỗ. Cô vô cùng sung sướng, thỉnh ngài về nhà và đặt thêm vật
thực cúng dường nữa. Ông bà chủ thấy tính hạnh của cô gái, rất vừa lòng nên đã
chọn nhận cô làm con dâu trong gia đình. Sau đó, cô thường cùng với cả gia đình
đi nghe đức Phật Padumuttara thuyết pháp. Trong một lần cúng dường lớn đến đức
Phật và chư tăng, lúc ngài đang tuyên dương một vị tỳ-khưu-ni tối thắng đệ nhất
về hạnh thuyết Pháp, hoan hỷ quá, cô thầm nguyện sau này mình cũng sẽ được như
vậy. Biết tâm tư của cô gái, đức Phật Padumuttara đã thọ ký cho cô sẽ thành đạt
nguyện vọng ấy vào thời đức Phật Sākya Gotama, chính là Như Lai hiện nay. Vào
thời đức Phật Kassapa, cô gái sinh vào gia đình hoàng tộc, tại Bāraṇāsī, công chúa
con vua Kikī, tên là Sudhamma. Họ có bảy chị em. Cô trưởng công chúa thuở
trước, bây giờ là tỳ-khưu-ni Khemā. Cô công chúa út, chính là cô bé Visākhā,
tại Bhaddiya, mới 7 tuổi đã đắc quả Nhập Lưu. Còn cô công chúa thứ sáu, chính
là tỳ-khưu-ni Dhammadinnā - mà sau này, theo với ước nguyện cũ đã được đức Phật
Padumuttara thọ ký, sẽ trở thành một vị tỳ-khưu-ni tối thắng đệ nhất về hạnh
thuyết pháp trong hàng ni chúng”.
Thuyết
đến ngang đây, đức Phật mỉm cười:
-
Này, tỳ-khưu Dhammadinnā! Cô có nhớ ước nguyện cũ khi quỳ bên chân đức Phật
Padumuttara không?
Vị
tân tỳ-khưu-ni cúi đầu, đáp lí nhí:
-
Dạ, đệ tử do quá khứ che ám nên không nhớ gì, không biết gì cả, bạch đức Tôn
Sư!
-
Là hạnh đệ nhất về thuyết pháp đấy! Vậy hãy cố gắng mà nghe
pháp, suy tư pháp, chiêm nghiệm pháp - kết hợp với công phu nghiêm túc hành
trì, tu tập - rồi đến lúc cô sẽ thỏa được ước nguyện.
-
Tâu vâng, bạch đức Thế Tôn!
Chợt
đức Phật hỏi giữa hội trường:
-
Tỳ-khưu-ni Khemā, con gái của Như Lai đâu rồi!
Đại
chúng hoảng kinh, vì khi đức Phật gọi con trai hay con gái - là ngài đã xác
chứng vị ấy đã đắc quả A-la-hán rồi. Nên khi tỳ-khưu-ni Khemā bước ra, ai cũng
chăm chú nhìn. Trước đây, bà nổi tiếng về sắc đẹp; bây giờ, dẫu mặc y hoại sắc,
phá tướng - nhưng nét kiều diễm, duyên dáng xưa vẫn không phai mờ. Trong mắt
một số người, thì bây giờ, cái đẹp ấy được phủ bên ngoài một lớp đức hạnh và
trí tuệ nữa, nên đã vượt xa phàm sắc thế tình, thiêng liêng và mỹ toàn hơn!
Riêng
đức vua Bimbisāra thì cảm giác một hạnh phúc tràn đầy, chất ngất!
Đức
Phật hỏi:
-
Vào thời đức Phật Kassapa, cô là trưởng công chúa, con của đức vua Kikī, cô đã
nhớ chưa?
-
Bạch, đệ tử nhớ rồi!
-
Vị tân tỳ-khưu-ni Dhammadinnā, cũng là công chúa, em gái thứ 6 của cô, cô vẫn
còn nhớ chứ?
-
Bạch, đệ tử nhớ. Đệ tử còn nhớ cô em gái út - mà bây giờ là cô bé Visākhā nữa.
Ngoài ra, đệ tử còn biết rằng, 4 cô em còn lại, trước sau cũng tao ngộ chánh
pháp.
-
Như Lai xác nhận như vậy - và như để tuyên dương công hạnh của
tỳ-khưu-ni Khemā, đức Phật hỏi tiếp - Mấy năm nay, con gái tu tập ra
sao?
-
Bạch Thế Tôn! Có lẽ do duyên phúc cổ xưa dày dặn nên sau khi xuất gia xong, đệ
tử tìm cách thích ứng ngay với hoàn cảnh mới, đời sống mới. Hãy thôi đi thượng
vị loại cứng loại mềm. Hãy thôi đi xiêm lụa mịn màng, thơm tho với chất liệu và
đo may tuyệt hảo. Hãy thôi đi giường nệm, gối kê, gối đỡ êm ái, cao sang. Hãy
thôi đi tới lui xe ngựa kẻ hầu người đón, kẻ quạt, người nâng! Hãy thôi đi vào
ra kiểu cách, quý phái tự khoe, tự hào về sắc đẹp của mình! Từ rày, ăn, mặc,
ngủ - gì cũng được, gì cũng xong! Tuy ban đầu thật là khó khăn, vất vả; nhưng
cứ cố gắng, cố gắng, cứ tâm niệm mãi, riết rồi cũng quen, cũng vô vi, vô sự như
ai! Khi đã thích ứng được rồi thì có được niềm vui tinh thần vô cùng lớn lao!
Niềm vui này nó rất nhẹ nhàng, rất thanh khiết, nó lâng lâng hỷ lạc cả ngày!
Hôm kia, vào khoảng tháng thứ bảy sau khi xuất gia, đệ tử nhìn ngọn đèn dầu lạc
với tim và bấc, nó cháy sáng như thế nào rồi dần dần lụi tắt như thế nào. Dựa
trên nền tảng có điều kiện, sinh diệt ấy; đệ tử quán tưởng cái thân được kết
hợp hữu vi này. Từ đó, đệ tử đi sâu vào cảm thọ, tâm hành... thì thấy chúng
cũng rỗng không, sinh diệt, vô tự tính. Khi thấy rõ danh sắc sinh diệt quá
nhanh đệ tử bắt đầu nhàm chán các dục, các ái - chứng nghiệm sâu xa các trạng
thái vắng lặng, tịch tịnh, thanh bình của tâm trí. Ôi! Quả thật là hạnh phúc!
Rồi cũng từ đấy, đệ tử dễ dàng đi sâu vào định, vào tuệ, vào tuệ phân tích cùng
các thắng trí! Thế là việc lớn, đệ tử đã làm xong, gánh nặng tử sinh đệ tử đã
đặt xuống, bạch đức Thế Tôn!
Chợt
đức Phật nói với tôn giả Sāriputta:
-
Con gái của Như Lai đã nói lên sự tu tập của mình, định, tuệ, tuệ phân tích và
các thắng trí - vậy ông có cách gì để cho đại chúng được thấy, được biết là con
gái của Như Lai đã thuần thục trong các định, tuệ, đắc Tứ vô ngại giải và tự
mình thành thục, thông suốt cả Abhidhamma (A-tỳ-đàm)?
-
Thưa vâng, bạch đức Thế Tôn!
Thế
rồi, bậc Tướng quân chánh pháp bước ra, mỉm cười, nhẹ nhàng đặt ba câu
hỏi về sắc, ba câu hỏi về danh, ba câu hỏi về uẩn, ba câu hỏi về xứ, ba câu hỏi
về giới, ba câu hỏi về tâm, ba câu hỏi về tâm sở, ba câu hỏi về sắc pháp, ba
câu hỏi về Niết-bàn. Câu hỏi nào cũng ngắn gọn nhưng trọng lượng cả
ngàn cân. Câu hỏi nào cũng hàm tàng kiến thức về giáo pháp nhưng nghiêng trọng
ở kinh nghiệm, thực nghiệm tu chứng nội tâm. Cả pháp đường yên lặng phăng phắc.
Một con ruồi bay cũng nghe được tiếng vo ve. Rồi tuần tự, trầm tĩnh và chín
chắn, tỳ-khưu-ni Khemā lần lượt trả lời, giải minh; không bập bẹ, không phều
phào, không ấp úng, không gián đoạn - mà nó lưu loát, gãy gọn, sáng sủa, liền
lạc. Nó trôi chảy như lượng nước của trăm con sông dài. Cũng không chỉ có vậy,
nó như nước chảy ra tự nguồn, cái nguồn suối trong vắt được tích lũy đâu tự
ngàn xưa. Như sợi dây đàn căng đúng độ, chỉ cần một va động nhẹ là phát ra âm
thanh... Tỳ-khưu-ni Khemā đã trả lời xong tất thảy mọi câu hỏi.
Tôn
giả Sāriputta sau khi khảo nghiệm, đưa ra kết quả:
-
Bạch đức Thế Tôn! Đệ tử không hỏi về thắng trí vì biết vị tỳ-khưu-ni ưu hạng
này đã có đủ 6 thông. Còn về Tứ vô ngại giải và thông suốt Abhidhamma - đệ tử
dám tuyên bố là trong hàng ni chúng chưa có người thứ hai!
Đức
Phật tán thán:
-
Đúng là vậy! Quả là hy hữu thay! Này con gái! Lời nguyện xưa, khi quỳ bên chân
đức Chánh Đẳng Giác Padumuttara, cô đã thành tựu rồi đấy. Trước hội chúng Tăng
Ni và cư sĩ hai hàng, hôm nay, Như Lai tuyên bố, tỳ-khưu-ni Khemā là
bậc đệ nhất, tối thắng về trí tuệ trong hàng ni chúng!
Không
có vinh hạnh nào hơn, vinh quang nào hơn - khi lời tuyên bố ấy được nói ra từ
đức Chánh Đẳng Giác!
Đức
vua Seniya Bimbisāra chợt thực hiện một hành động rất đẹp - là sau lời tuyên bố
của đức Phật, ông đã bước ra từ chỗ ngồi danh dự, đến đảnh lễ đức Phật với năm
vóc sát đất. Rồi ông cũng làm như thế trước tỳ-khưu-ni Khemā với thái độ vô
cùng tôn kính, chậm rãi nói rằng:
-
Trước đây, nàng là bà hoàng, là bậc quý phi vô cùng trân quý của trẫm, nhưng
nay thì khác rồi! Nay thì nàng đã là bậc xuất gia phạm hạnh, còn là bậc đệ nhất
về trí tuệ qua xác chứng của đức Tôn Sư và bậc Tướng quân chánh pháp! Vậy, từ
rày về sau, trẫm với tâm phục, khẩu phục xin làm bổn phận của một đệ tử, một
thiện Nam ngoan ngoãn và thuần thành nhất!
Cả
giảng đường lớn rộng rộ lên lời tán thán, ca ngợi không ngớt, lâu sau mới yên
lặng được.
Đức
Phật nói lời cuối cùng, khép lại buổi giảng:
-
Vậy là đã rõ, ở đây cũng là duyên xưa lối cũ nữa! Nhân, duyên
và quả ấy thật là sâu thẳm, thật là nhiệm mầu. Hãy ngẫm mà xem! Thế ra, đôi khi
chỉ một cành hoa, một tí bột hương, một miếng cơm, một muỗng canh, một cái bánh
ngọt, một cây kim, một sợi chỉ, một ngọn đèn, một hình bóng y vàng thoáng qua,
một khung cảnh thanh tịnh của am môn, một lời kinh, một câu pháp, một tình, một
nghĩa... đã gieo ươm ở đâu đó, trong chợt thoáng nào đó, trong một kiếp phù du
trôi nổi bọt bèo nào đó - mà chúng có mất đi đâu! Tất thảy, tất thảy hằng sa vạn
tượng, khi một nhân đã gieo, một duyên hỗ trợ, đã gặp gỡ, đã gắn kết... thì nó
sẽ trùng trùng duyên khởi, duyên sở duyên... để trước sau, sớm muộn cũng tao
ngộ chánh pháp, đặt được bàn chân bất tử trong giáo pháp của chư Chánh Đẳng
Giác! Các người hãy ghi tâm, khắc cốt lời của Như Lai hôm nay.
Cả
pháp đường vang lên “ Sādhu, lành thay!”.
Bài học về vườn
Lâu
quá, đức Phật chưa ghé thăm khu vườn xoài của Jīvaka và núi Linh Thứu. Hôm ấy,
sau khi đi trì bình khất thực ở Vương Xá, đức Phật chậm rãi bộ hành nhắm theo
hướng Nam, đi mãi ra ngoại ô, đến vườn xoài của thánh y Jīvaka. Rải rác đây đó
có một số cốc liêu mà trước đây thánh y Jīvaka đã dâng cúng. Chư tăng nơi này
thấy đức Phật đột ngột xuất hiện, họ đến tiếp bát, dâng nước rửa tay và chân,
dọn dẹp và sắp xếp một chỗ tươm tất và sạch sẽ nhất để ngài an tọa.
Độ
thực xong, đức Phật lựa tìm một gốc cây để tĩnh chỉ vào buổi trưa. Đến giờ phải
lẽ, đức Phật bước ra ngoài vườn thuốc, đứng nhìn ngắm hằng trăm loại cây loại
lá mà thánh y Jīvaka đã thuê người chăm sóc, tưới tắm, vun quén công phu. Đức
Phật ngồi xuống nơi một bụi cây, thò tay nắm và nâng lên một cành, hỏi vu vơ:
-
Ai biết cây thuốc này chữa bệnh gì?
Có
vị tỳ-khưu đáp:
-
Bệnh viêm xoan mũi, bạch đức Thế Tôn!
Đức
Phật đưa tay chỉ cây khác, nằm trong luống khác:
-
Cây kia dường như trị cảm, phải chăng?
-
Tâu vâng!
Rồi
tuần tự, đức Phật bước đi quanh một vòng vườn thuốc, tay sờ lá này, tay đụng
nhành kia... để hỏi chữa bệnh gì, chữa bệnh gì... Trong số chư vị tỳ-khưu đi
theo, có người biết về thuốc nên họ lần lượt trả lời, nào là trị ho, tiêu đờm,
ngăn tả lỵ, chữa chứng đầy hơi, sáng mắt, trị đau bụng quặn...
Trở
về chỗ ngồi đã được soạn sẵn, đức Phật nói:
-
Này các thầy tỳ-khưu! Giáo pháp Như Lai cũng là một vườn thuốc như vườn thuốc
của Jīvaka vậy. Các thầy hãy nghe để Như Lai giảng nói.
“ -
Này các thầy tỳ-khưu! Khu vườn này thật là đẹp. Cây lá tươi xanh, các lối đi,
quanh các gốc cây đều được dọn dẹp sạch cỏ và rác; những cành khô, nhánh yếu,
nhánh gầy đều được cắt tỉa thông thoáng, công phu. Hoa nở rộ, lác đác những
chùm trái bắt đầu xuất hiện; hứa hẹn một mùa trái bội thu! Các thầy có biết tại
sao được như thế không?
Một
số vị đã trả lời:
-
Nhờ đất tốt.
-
Nhờ giống tốt - do đã được chọn lựa kỹ càng.
- Nhờ
phân nước và công chăm sóc.
-
Nhờ thời tiết nắng mưa thuận lợi
-
Nhờ biết cách cắt tỉa nhánh cành, sạch cỏ, sạch rác...
Một
vị tỳ-khưu trước đây là người làm vườn, từng chăm sóc khu vườn này cho thánh y
Jīvaka, mỉm cười nói:
-
Cộng lại tất cả những điều kiện ấy là chúng ta đã có một khu vườn xoài tươi
tốt. Tuy nhiên, có một yếu tố quyết định - làm cho ngôi vườn này sây quả, vượt
trội các nơi khác - ấy là yếu tố tâm, là tấm lòng, là có cái
tâm thương yêu, cảm ứng vào đấy nữa, bạch đức Thế Tôn!
-
Hay thay là yếu tố tâm! Đức Phật khen ngợi, đưa mắt một vòng,
ngài nói tiếp - Vậy, ai có ý kiến gì về khu vườn của mình nữa không?
-
Dạ thưa có, bạch đức Thế Tôn! Mảnh đất tốt chính là đức tin, có đức tin vững
vàng rồi ta sẽ trồng cây giống tốt lên trên ấy. Cây giống tốt chính là tất cả
mọi thiện pháp. Phân và nước chính là những công phu hành trì để tưới tắm thêm
cho những thiện pháp ấy. Công chăm sóc chính là nỗ lực, tinh cần, cố gắng, chăm
chuyên tu tập - đừng có lười biếng, dễ duôi, giải đãi. Thời tiết nắng mưa thuận
lợi chính là tạo thêm những duyên lành; duyên lành ấy có thể là nghe pháp, có
thể là lựa chọn bạn lành, tìm trú xứ thích hợp như núi rừng, hang động, xa chốn
thị thành huyên náo; gần gũi thiện hữu trí thức, tu tập tứ vô lượng tâm... Biết
cắt tỉa những cành nhánh vô dụng, khô cỗi - chính là trí tuệ; bởi trí tuệ có
khả năng cắt bỏ, đốn bỏ, đoạn lìa những gai chướng, những trở ngại; biết dọn
sạch cỏ rác ở trong tâm - Đấy chính là khu vườn của những tỳ-khưu biết tu tập,
bạch đức Thế Tôn!
-
Khá lắm - đức Phật khen ngợi - Ai có thể nghe được khu vườn
này nói với chúng ta điều gì nữa không?
Mọi
người im lặng. Đức Phật dạy tiếp:
-
Một vị tỳ-khưu tu tập trong giáo pháp của Như Lai cũng phải biết cách săn sóc
một khu vườn xoài tương tợ như thế - mới đạt được thành tựu cuối cùng: cứu cánh
của sa-môn hạnh. Nếu khu vườn cho ta thâu hái một mùa bội thu - thì thầy
tỳ-khưu cũng thâu hái được tứ quả và tứ thánh! Vậy thì các thầy hãy chú tâm
lắng nghe, Như Lai sẽ thuyết giảng thêm chút nữa, cũng về ngôi vườn ấy nhưng được
nói theo hình tượng khác, ngữ nghĩa khác.
Này
các thầy tỳ-khưu! Đức Phật nói tiếp - Giáo pháp của Như Lai có
mặt giữa cuộc đời là giáo pháp của trí tuệ và từ bi; nói cách khác là một giáo
pháp y cứ trên sự thật, sự thấy biết sáng suốt minh nhiên mà nói ra, mà giảng
thuyết. Giảng thuyết cho ai? Cho bất cứ ai có tai để nghe, có trí để tìm hiểu.
Giáo pháp ấy được quảng bá nơi này và nơi kia là bởi tấm lòng đối với cuộc đời,
bởi tình thương quảng đại, vô vị lợi, là bởi những tâm từ vô lượng mong cho tất
thảy chúng sanh đều được nghe pháp, biết tu tập để lắng dịu khổ đau, phiền não,
đem hạnh phúc, an vui đến cho mình. Và quả thật - đấy là mảnh đất rất tốt. Tuy
nhiên, mảnh đất tốt thì phải có hạt giống tốt được chọn lựa kỹ càng. Cái giống
tốt ấy - chính là những người hữu duyên với giáo pháp, có căn cơ sâu dày sẵn -
ví như những con trai của Như Lai! Còn nữa, ở đây có những vị tỳ-khưu có mầm
giống tốt, tức là có căn duyên từ nhiều đời kiếp, gặp được mảnh đất tốt, được
xuất gia trong giáo pháp này. Nhưng người mới được xuất gia ấy, phải làm như
thế nào để cho lộ trình phạm hạnh của mình được thông suốt, sự tu tập mau tiến
bộ, phát triển và thăng hoa? Đấy có phải là phân và nước cho cái cây kia không?
Một
người đáp:
-
Thưa phải! Như vậy, phân nước theo nghĩa rộng, chính là đức tin, có giới hạnh,
biết nghe pháp, biết học hỏi, biết chiêm nghiệm...
Một
người bổ túc:
-
Ừ, đúng đấy! Nhưng còn thiếu! Nếu có tín, giới, văn, tư mà
không có pháp để hành trì, không có đề mục tu tập phù hợp với căn duyên, tâm
tánh mình - thì làm sao mà thành tựu được?
-
Đúng vậy! Một người thêm ý kiến - Nói chung là tất thảy mọi
thiện pháp...
Đức
Phật thuyết giảng tiếp:
-
Mảnh đất tốt, cây giống tốt cũng có nghĩa là những cây cỏ, những lùm bụi cũng
theo đó mà mọc lên, những cành nhánh ăn theo cũng theo đó mà phát triển. Vậy,
người có trí phải biết đốn bỏ những cây si, cây sân, cành tham, lùm bụi gai độc
chúng cũng cộng cư, hỗn cư ở đấy nữa! Tất cả mọi duyên lành hỗ trợ từ bạn lành,
trú xứ, tri túc trong vật thực, y áo, sàng tọa, thuốc men sẽ làm cho các bất
thiện pháp khó phát sanh.
Đưa
mắt nhìn một vòng, đức Phật cất giọng từ hòa:
-
Các thầy lựa chọn trú xứ ở nơi này, với những hiểu biết, liên tưởng về khu vườn
như vậy là đúng đắn, là chánh đáng. Hãy học những đức tính của khu vườn! Hãy nỗ
lực, tinh cần để khu vườn kia được xanh tươi cây lá, sum suê hoa quả
Tứ thánh!
Bậc chư thiên ái kính
Rời
vườn xoài, đức Phật nhắm hướng núi Linh Thứu - có một số đông tỳ-khưu tháp
tùng. Chậm rãi từng bước một, ngài đưa mắt ngắm nhìn quang cảnh núi non tịch lặng,
thanh bình. Mùa xuân, cỏ cây tươi xanh, phơi phới, suối chảy róc rách, mây nước
trong lành... Hóa ra có rất đông tỳ-khưu đã tìm đến đây ẩn cư trong các hang
động hoặc các cốc liêu sơ sài, rải rác dọc theo các triền núi, bờ khe...
Buổi
chiều, sau khi xuất định, đức Phật rời hang động, ngồi trên một tảng đá bằng
dưới bóng có lùm cây che im mát, rồi giáo giới chư tỳ-khưu ở xung quanh đến
thăm. Trong câu chuyện, đức Phật tỏ ý khen ngợi hạnh độc cư, an tĩnh ở núi rừng
để tu tập. Cuối cùng, đức Phật nhấn mạnh:
-
Một vị tỳ-khưu có giới hạnh, tinh cần tu tập ở thành phố, thị trấn, dù hành trì
rất tốt nhưng Như Lai vẫn lo ngại. Một vị tỳ-khưu độc cư ở núi rừng, dẫu giải
đãi, dẫu hay ngủ ngày nhưng Như Lai vẫn ít lo ngại hơn. Tại sao? Vì vị tỳ-khưu
ở thành phố, thị trấn kia không biết sẽ sa ngã lúc nào - vì chốn phồn hoa có
rất nhiều sự cám dỗ. Vị tỳ-khưu ở núi rừng dầu giải đãi, dầu ngủ ngày - nhưng
nếu có tâm tu tập thì sự trong lành, an tĩnh của núi rừng cũng làm cho cho tâm
y vắng lặng hơn; rồi một lúc nào đó, chán ngủ thì y sẽ hành thiền!
Sau
buổi giảng, rất nhiều người nhắc đến những câu chuyện liên hệ đến tỳ-khưu
Subhūti đang nổi danh về hạnh độc cư, ly dục, viễn ly phố thị - được rất nhiều
chư thiên có oai lực ngưỡng mộ và quý kính. Subhūti [i] là ai?
Subhūti
là em trai của trưởng giả Sudatta (Cấp Cô Độc), đã được đức Phật cho thọ giới
cụ túc sau chuyến thăm Kỳ Viên đại tịnh xá lần thứ nhất. Rời Sāvatthī, đại đức
được tháp tùng đức Phật trở lại Trúc Lâm. Sau khi được đức Phật giáo giới tóm
tắt con đường của sa-môn hạnh, tỳ-khưu Subhūti xin phép ngài và xin phép vài vị
thượng thủ của giáo hội - đi vào núi rừng, tìm ẩn nơi các hang cốc
để tu tập. Vốn là bậc thượng trí, thượng căn - tỳ- khưu Subhūti dễ dàng thu xếp
nếp sinh hoạt tương xứng với phẩm hạnh của mình. Ngoài việc trì bình khất thực
ở mấy xóm nhà ven chân núi cùng mấy ngôi làng thuộc ngoại thành của thành Vương
Xá; tỳ-khưu Subhūti để dành hết thì giờ cho thiền định và thiền quán. Thân như
tường vách, tâm như mặt hồ tĩnh lặng; tỳ-khưu Subhūti tuần tự đi vào các tầng
thiền định, từ cạn vào sâu, từ thấp lên cao. Không nôn nóng, không vội vã; như
con tằm thứ lớp dệt nên chiếc kén cho mình, tỳ-khưu Subhūti lần lượt thuần thục
các định; đặc biệt, rất viên mãn là định tâm từ và định tâm bi. Khi tâm đã vắng
lặng, trong suốt, vững chắc; ngài quay sang quan sát danh sắc, thấy rõ vô
thường, dukkha, vô ngã của các pháp cấu tạo này, của danh sắc này; lần lượt đoạn
trừ các kiết sử, chứng đắc các thánh quả. Kể thì nhanh, nhưng đấy lại là thành
quả của nhiều năm tháng miệt mài, tinh cần, công phu, khổ hạnh... Nắng cũng như
mưa, nóng hay lạnh, ngày hay đêm, sớm hay chiều; tỳ-khưu Subhūti không mấy lưu
ý! Tâm và trí ngài luôn gắn chặt với đề mục trong từng bước đi, trong từng hơi
thở. Thân xác tuy có khô gầy nhưng đôi mắt thì sáng lấp lánh như hai ngôi sao,
biểu hiện sức mạnh tinh thần đã được phát tiết cao độ.
Suốt
mấy năm ròng rã, tỳ-khưu Subhūti thỉnh thoảng có về Trúc Lâm đảnh lễ các vị
trưởng lão, ngoài ra, ngài không giao tiếp với ai. Khi vào thành khất thực,
tỳ-khưu Subhūti thường bỏ qua các ngôi nhà, xóm nhà quá nghèo khổ; chỉ dừng
chân và đứng bát nơi xóm nhà trung lưu hoặc giàu có. Và lúc nào ngài cũng trú
định tâm từ. Những ai có cơ duyên đặt bát cho ngài đều cảm thấy mát mẻ và an
lành suốt buổi.
Tin
đồn về vị tỳ-khưu kỳ lạ này - tốt có, xấu có - đến tai đức vua Bimbisāra. Tốt,
là hạnh độc cư, ưa thích núi rừng, tu hành tinh tấn, có tâm từ vô lượng. Xấu,
là không thèm giao tiếp với ai; chỉ đi bát hạng trung lưu và hạng giàu có, còn
người nghèo khổ thì không! Cho người dò hỏi, tìm hiểu - chiều hôm kia, đức vua
cùng vài quân hầu dong xe vào rừng. Tại nơi không còn đi được, bậc quân vương
len lách qua những lùm bụi, mệt mề bước qua các dốc đá cheo leo - rồi cũng tìm
được nơi cần đến. Vị tỳ-khưu kia đang an tĩnh tọa thiền trên một tảng đá chênh
về hướng tây một hang động. Ngồi nghỉ cho ráo mồ hôi, không dám làm kinh động
vị sa-môn, đức vua hiền thiện của chúng ta nhè nhẹ bước đến hang động. Hóa ra
là chỉ có hai tảng đá nhỏ úp lại, nằm khuất dưới một lùm dứa dại có hai cây ổi
rừng phủ bóng mát! Bên trong chỉ có một chiếc bát đất, một cây gậy, một ống tre
đựng nước và vài vật dụng khác của thầy tỳ-khưu. Chẳng có giường chõng, vật
nằm, vật đắp gì cả. Đức vua nghe cay cay lòng mắt. Nghèo khổ đến tận cùng. Vô
sản, bần hàn cũng đã đến tận cùng. Đức vua còn biết được rằng, người thanh niên
này, vốn là em ruột của trưởng giả Cấp Cô Độc, trước khi xuất gia cũng đã là
một vị phú thương, một doanh gia, có một tài sản kếch sù! Vậy đấy! Khi đã phất
tay rũ bỏ là rũ bỏ đến tận cùng! Ôi! Đáng kính, đáng trọng thay!
Tỳ-khưu
Subhūti đã xả thiền. Đức vua bước đến tham vấn. Và họ có một đoạn đối thoại như
sau:
-
Trẫm là Bimbisāra...
-
Tôi biết, tâu đại vương! Chẳng hay, hôm nay có việc gì mà bậc vương giả lại lặn
lội đến chốn khỉ ho cò gáy này!
-
Trẫm nghe được cái hạnh tinh tấn của đại đức...
Tỳ-khưu
Subhūti mỉm cười:
-
Gọi là sa-môn, là tỳ-khưu thì ai cũng phải tu tập tinh tấn như vậy cả, tâu đại
vương!
-
Đại đức còn nổi danh về hạnh độc cư, ưa thích núi rừng; đến đây, trẫm còn thấy
rõ, đại đức còn sống đời thiểu dục, tri túc nữa!
-
Cũng bình thường, chẳng có gì đáng để tự hào hay hãnh diện, tâu đại vương! Tôn
giả Mahā Kassapa và đệ tử của ngài cũng sống như vậy với lạc thú thanh cao
trong lòng mình - không có ngũ dục nào trên thế gian có thể lôi cuốn, cám dỗ họ
được.
Đức
vua đọc được thái độ khiêm nhu, vắng lặng trong thái độ và ngôn ngữ của
vị sa-môn ẩn sĩ - nên tự nghĩ: Không còn một chút xíu nào là
ngã ái, ngã niệm - huống gì là ngã mạn nơi vị tỳ-khưu hiền thiện này!
-
Nghe nói, đại đức chỉ đi bát nơi các hạng trung lưu hoặc gia đình khá giả - mà
không tạo cơ hội, duyên phước cho những người nghèo khổ?
-
Cũng không hẳn là thế, tâu đại vương! Nó có một duyên sự như sau. Hôm kia, tôi
đứng bát nơi một gia đình nghèo khổ. Tôi đứng như vậy, yên lặng và rải định tâm
từ. Một người đàn bà chiên-đà-la vừa chuẩn bị xong một bát cháo loãng định cho
con ăn. Thấy tôi, bà nhìn quanh một lát, rồi đưa tay lục tìm chỗ này, chỗ nọ...
Có lẽ thấy không còn vật thực nào khác nữa, bà bước ra, đổ hết bát cháo vào bát
của tôi. Đứa bé khóc ngăn ngắt. Tôi bàng hoàng cả người, nói với người đàn
bà: “Thí chủ không còn gì! Cả cho mình và cho đứa trẻ. Thọ nhận thì tôi
đã thọ nhận rồi. Vậy hãy lấy cháo này cho trẻ nó ăn”. Nói ba lần như
thế, người đàn bà cũng không chịu, nói rằng: “Thân phận con thấp hèn.
Thấy ngài, con cảm giác như cọng cỏ khô mà hớp được một chút sương; như giữa sa
mạc, một mầm xanh nhỏ nhoi lại được nhú lên! Ngài đừng lấy đi chút hy vọng cuối
cùng của con trên cuộc đời này!” Nghỉ hơi một chút, tỳ-khưu Subhūti
nói tiếp - Thuở ấy, tôi mới tu tập sơ cơ, chưa có tuệ quán - nên tôi đã chảy
nước mắt và người đàn bà cũng chảy nước mắt. Quả thật, tôi đã không kham nhẫn
được khi nhận vật thực nơi những người quá nghèo khổ; tôi có cảm giác như tước
đoạt hoặc bớt xén vào cái phần vật thực đã quá ít ỏi của họ! Tôi không đành
lòng, tâu đại vương!
Đức
vua cúi đầu xuống, mắt ngài cũng hoen lệ:
-
Đúng là vậy! Có lẽ trẫm cũng không đành lòng!
Nói
thế xong, đức vua quay sang nói với hai quân hầu:
-
Chút nữa, các ngươi hãy thưa hỏi đại đức, chỗ ngôi nhà của người nghèo khổ ấy.
Trẫm sẽ ban thưởng xứng đáng, hậu hĩ; không chỉ là một giọt sương mà có thể là
cả một cơn mưa rào!
Tỳ-khưu
Subhūti hoan hỷ mỉm cười, chỉ chỗ xóm chiên-đà-la, chòi lá lụp xụp, thứ ba,
phía trái con đường đất đầu tiên, phía ngoại thành như vậy, như vậy... Rồi,
ngài trú định tâm từ, một năng lượng mát mẻ chợt tuôn tràn ra xung quanh... cố
ý ban rải phước lành cho đức vua hiền thiện.
Khi
chấp tay vái chào từ giã, đức vua nói:
-
Sắp đến kỳ an cư mùa mưa rồi, trẫm sẽ sai người đến đây, dựng cho đại đức một
liêu cốc tương đối, sắm sanh một vài vật dụng cần thiết - cốt để giữ gìn sức
khỏe thôi - xin đại đức cho trẫm được làm một chút phước sự nhé!
Ông
vua có tâm tịnh tín đẹp đẽ này còn hứa một chuyện với 4 vị tỳ-khưu khác nữa.
Năm
kia, tại khu vườn rừng cây bàng tại Kapilavatthu, 4 ông hoàng thuộc vương tộc
Malla được xuất gia tỳ-khưu, sau đó nghe lời đức Phật, về Trúc Lâm để hành đạo.
Đó là 4 vị tỳ-khưu Godhika, Subāhu, Valliya và Uttiya. Sau khi lắng nghe vị
trưởng lão giáo thọ ở Trúc Lâm giảng giải cặn kẽ lộ trình thiền định, thiền
quán - cả 4 vị đều xin được vào ẩn cư trong rừng. Từ đấy, họ có một đời sống mẫu
mực, phạm hạnh, rất được đông đảo cư sĩ kính trọng, tín mộ, nhiều nhất là giới
hoàng gia. Vốn dòng dõi hoàng tộc Malla, trước đây, 4 vị đã có quen
biết khá nhiều một số hoàng thân quốc thích triều đình Rājagaha - nên thỉnh
thoảng họ tới lui thăm hỏi, vấn an 4 vị. Chuyện dễ hiểu thôi, là đức vua
Bimbisāra sau đó hay tin, tò mò tìm đến thăm viếng. Đến khu rừng, bên cạnh khu
rừng của tỳ-khưu Subhūti, đức vua rất cảm động vì họ sống dưới những cội cây,
những hốc đá, nắng mưa không có chỗ che thân. Đức vua tức tốc cho người làm bốn
liêu thất để dâng cúng chư vị... Chuyện đang tiến hành, chưa xong, lại sắp đến
mùa mưa - 4 vị tỳ-khưu, lúc này đã là 4 bậc A-la-hán, họ cũng không lấy thế làm
điều. Họ không để tâm.
Thế
là có hai lời hứa, một gần xong, một chưa thực hiện.
Về
triều, đức vua nhận liên tiếp nhiều tin báo về sự bất ổn, bất an ninh từ các xứ
ngoại biên. Việc thứ nhất, ranh giới giáp nước chư hầu Vamsā của tiểu vương
Udena, quan tổng trấn ở đấy đã không quản chế được nhóm binh lính của mình ở
biên trấn - chúng đã tràn qua biên giới để cướp bóc, nhũng nhiễu dân lành. Việc
thứ hai, một bọn tướng cướp mấy trăm tên, bị càn quét, truy đuổi các nơi, bây
giờ về núp trốn trong mấy cánh rừng giáp biên địa Campā, lâu lâu lẻn sang các
thị trấn thuộc Māgadha để cướp bóc của cải, lương thực, săn lùng gái về làm tỳ
thiếp, hầu hạ chúng! Đức vua đã cử hai vị tướng tài, có uy, có đức với hai đội
quân thiện chiến, tinh nhuệ đi thảo phạt một tháng trường mới dẹp yên. Một vị
sứ giả của triều đình sang Vamsā, nghiêm khắc răn đe vị tiểu vương (vốn
hiếu chiến và đam mê tửu sắc) này, đã không quán xuyến được đất nước
mình; phải biết cách xử lý, nghiêm trị thuộc hạ, cách chức viên tổng trấn. Vua
Udena nhất nhất nghe theo, ra vẻ sợ hãi; sau đó, cử một đoàn sứ giả mang phẩm
vật, lễ phẩm sang Vương Xá triều cống, tạ tội. Về phía Campā, đức vua thương
các thôn làng này ở quá xa xôi, nghèo khổ - sau khi dẹp yên bọn cướp, đã cử một
đại đội quân tình nguyện đến trợ cấp lương thực, thực phẩm, thuốc men, vải vóc,
hạt giống cùng dụng cụ sản xuất. Rồi đại đội thiện chí này cùng ở với dân, vừa
giữ gìn an ninh, vừa xây dựng nhà cửa và phụ giúp mọi người cày cấy, trồng
trọt. Họ lại còn đắp những con đê, đào những con mương để dẫn nước vào ruộng,
vào vườn... Nhân dân vui mừng không xiết kể, họ lạy trời, lạy đất, tạ ơn đức
sáng của vua...
Việc
thứ ba, liên hệ đến các nước cộng hòa Licchavī. Số là trong đợt cứu trợ nạn đói
tại Vesāli, không kể hai ngàn tấn lương thực, tặng không, còn có một ngàn tấn
lương thực cho vay không lấy lãi - lúc nào đủ sức hãy trả! Thế nhưng, nhiều năm
qua, các nước cộng hòa này luôn được mùa, lương thực dồi dào, nhưng cứ hẹn rày,
hẹn mai, cứ khất nợ hoài. Năm nay, tại kinh thành, thời tiết chuyển đổi thất
thường; có vùng, đang mùa mưa mà cả tháng nay lại không mưa; biết đâu đây là
triệu chứng sẽ mất mùa, đói kém trong tương lai? Biết phòng xa, mặc dầu kho lẫm
còn đầy, đức vua cho sứ giả sang Vesāli đòi nợ. Họ cũng lần khân không chịu
trả! Cương quyết ra oai tạo áp lực, đức vua cho đổ những đội quân lớn, rầm rộ
ngày đêm, vận chuyển quân nhu, khí giới đến trấn thành Pāṭaligāma, sát bờ bên
này sông Gaṇgā. Tiếp theo, vua ra lệnh cho quan tổng trấn ở đây, rục rịch đóng
thuyền bè, diễu binh, bắn tin hành lang là: “Đang chuẩn bị lực lượng
quân bị chỉ để bảo vệ danh dự và uy tín của quốc gia, không để cho bất cứ nước
nào coi khinh, xem thường!”
Māgadha
và Kosala vốn là hai cường quốc, thay nhau trấn thủ hai phương, bá chủ chư hầu,
đặt nền thống trị và ban ân tứ cho cả hằng chục tiểu quốc. Nên khi Vesāli trông
thấy con rồng thần kia đã nổi giận, không dám chậm trễ, ba vua nước cộng hòa và
hội đồng tướng lãnh Licchavī tức tốc hội họp, cử đoàn sứ giả đến Vương Xá khấu
đầu tạ tội, đồng thời trả một ngàn tấn lương thực mà họ nợ đã lâu.
Khi
mọi việc quốc gia đã yên ổn trở lại, đức vua Bimbisāra đặt tay lên trán, suy
nghĩ:“Cái đức của ta suy giảm rồi sao? Triều thần của ta chẳng lẽ đạo đức đã
bắt đầu suy đồi rồi sao? Đức Thế Tôn có dạy rằng, hạn hán mất mùa, lũ lụt, đói
kém, dịch bệnh, sâu rầy...xảy ra ở nước nào - thì cần phải xét đến đức hạnh của
vị vua đương triều tại đấy! Ở kinh thành, tuy chỉ có một vùng, suốt một tháng
không mưa, tuy chưa nguy hại gì - nhưng chắc chắn đã có dấu hiệu gì bất ổn! Vậy
thì ta đã có làm gì bất kính với chư thiên, thiện thần? Ta đã có làm gì đụng
chạm đến đức Thế Tôn cùng các vị thánh tăng A-la-hán?” Nghĩ đến đây,
đức vua Bimbisāra chợt giật thót mình: “Chết rồi! Phụ cấp vật liệu làm
nhà, lương thực và một số tiền bạc cho người đàn bà nghèo khổ tội nghiệp - thì
hôm đó, quân hầu đã làm ngay. Nhưng việc ta có hứa làm 4 cái thất cho 4 vị
tỳ-khưu không rõ đã xong chưa? Rồi còn cái thất cho vị tỳ-khưu trong hang núi,
vậy mà do công việc triều đình quá bận rộn, ta đã quên khuấy đi mất? Ta phải
làm sao để chuộc lại lỗi lầm này! ”
Đang
suy nghĩ như thế thì đột nhiên, trước mắt đức vua chợt sáng rực lên, tôn giả
Mahā Moggallāna xuất hiện, mỉm cười nói:
-
Có đúng một phần đấy, tâu đại vương! Sám hối là đúng! Chuộc lỗi là đúng! Một
tháng trời không mưa, một vùng, ở xung quanh hang núi - nơi có 5 bậc A-la-hán
ngụ cư - là do tình cảm bất minh, thiên vị của một số vị trời có oai lực. Tôi
sẽ kể hầu cho đại vương nghe đầu đuôi sự việc: “ Bốn cái thất cho bốn
vị tỳ-khưu dòng dõi hoàng tộc Malla, tường vách thì xong nhưng chưa lợp mái,
bạn bè thân hữu của 4 vị cho người lợp rồi, việc ấy không bàn nữa. Đặc biệt là
tỳ-khưu Subhūti - một bậc thánh A-la-hán - người mà đại vương có hứa làm một
cái thất để vị ấy an cư mùa mưa - có rất nhiều phẩm tính làm cho rất nhiều vị
trời ái kính. Ngoài cái đức khả ái ly dục, khả ái độc cư, khả ái viễn ly đô thị
- vị ấy luôn đầy tràn ra không gian xung quanh tâm từ, tâm bi... và cả tâm rỗng
không giải thoát nữa! Chư thiên, sơn thần, thọ thần ở đấy luôn được hạnh phúc,
an lạc. Vị ấy còn có cái hạnh lạ lùng - là khi đã vào định rồi thì không ngại
chuyện nắng mưa. Ngày này sang ngày khác, ngoài trời cũng như trong hang cốc,
vị ấy vẫn điềm nhiên trú định, đi sâu vào định, hoặc để biến mãn tứ vô lượng
tâm hoặc phát triển các thắng trí! Có những ngày trời mưa tầm tã, chư thiên rất
nóng ruột, sợ vị tỳ-khưu mà mình kính mộ bị cảm hàn - họ bàn cùng nhau tìm cách
ngăn mưa lại. Thế là từ đó, họ luôn làm việc ấy để che chở vị thánh tăng suốt
một tháng trời ròng rã. Đức Thế Tôn lúc ấy đang ở Kỳ Viên, tận Sāvatthī nhưng
ngài biết chuyện này. Dùng thần thông, đức Phật dạy tôi - tôn giả Mahā
Moggallāna kể tiếp - lúc ấy đang ở tận ngoài Nam đảo nước Avantī - hãy
lên thông báo chuyện này cho trời Sakka (Đế Thích) rõ! Thiên chủ Sakka hoảng
kinh, cho triệu tập Tứ Đại thiên vương, bảo phải đích thân điều tra sự việc -
tại sao có vị trời nào dưới quyền, do thiên vị, do tình cảm thiếu trong sáng,
đã ngăn một tháng không mưa, làm cho cả một vùng núi thuộc kinh thành Vương Xá
suýt rơi vào thảm họa? Bây giờ, mấy vị trời phạm tội đã bị Tứ Đại thiên vương
tìm biện pháp xử lý thích đáng! Vậy, đại vương hãy làm những gì - theo với lời
hứa của mình - để chuộc lỗi, để cho vùng núi kia được yên ổn!”
Kể
chuyện xong, tôn giả Mahā Moggallāna biến mất.
Đức
vua Bimbisāra tóc dựng ngược trên đầu, cấp tốc cho người đến làm ngay một cái
thất cho tỳ-khưu Subhūti cùng cung cấp một số vật dụng cần thiết. Khi vị
tỳ-khưu này vừa an tọa trong mái che - thì trời liền đổ mưa xối xả. Do không
hướng tâm đến mọi việc xung quanh, vị tỳ-khưu này vẫn vô tư, thốt lên bài kệ
rằng:
“- Am thất khéo lợp xiết bao
Bên ngoài ngăn chặn mưa rào, gió lay
Lạc an một cõi tâm này
Mưa thì cứ mặc, dẫu ngày hay đêm
Chừ ta tịnh định trú thiền
Thế
là chuyện của tỳ-khưu Subhūti được đồn đãi, thêu dệt tràn qua cửa tai của mọi
người, khắp kinh thành, đến quốc độ này sang quốc độ khác. Khen có, chê có, nói
giễu có. Người ta khen hạnh độc cư thanh tịnh, biến mãn tâm từ, bậc xứng đáng
được cúng dường - được chư thiên ái mộ. Người ta chê, đã là A-la-hán rồi, tại
sao không biết chuyện, vì mình, vì an lạc định thiền của riêng mình, mà làm cho
cả kinh thành mang họa theo? Người ta nói rằng, ông Mahā Kassapa, vị đại đầu-đà
khổ hạnh, chỉ đi bát hóa độ cho người nghèo, tuy có tâm thiên vị, đánh mất tính
bình đẳng nhưng tấm lòng ấy rất đáng cảm động, ái mộ! Còn tỳ- khưu Subhūti, chỉ
đi bát để hóa độ cho người giàu! Người ta đã giàu, do có tâm bố thí, cúng dường
bậc thánh vô lậu, biến mãn tâm từ, thì kiếp sau họ lại càng thêm cao sang,
quyền quý hơn nữa, là tại làm sao hử? Người ta nói giễu, không phải đâu, đi bát
người giàu là kiếm được thực phẩm thượng vị, loại ngon, loại ngọt, loại bổ,
loại béo - chứ bọn nhà nghèo có gì? Nước cháo chua hoặc cơm tấm thiu lẫn với
tro trấu bẩn tạp hay sao? Họa là đồ ngu! Ai dại gì!
Nói
gì thì nói, tỳ-khưu Subhūti bình tâm như vại; ngài đi bát vẫn cứ rải tâm từ,
độc cư, an tĩnh ở núi rừng. Khi gặp duyên, thuyết pháp, ngài không nói nhiều,
chỉ một câu duy nhất:“Hãy làm lành, lánh ác, giữ tâm trong sạch!” Rồi
ngài trú định tâm từ, rải tâm từ như một năng lượng mát mẻ tràn ra xung quanh.
Thỉnh thoảng, ngài trú tâm rỗng không, giải thoát. Và lúc nào, chư thiên cũng
ái kính, ngưỡng mộ, rải hoa, tán thán, ca ngợi, âm vang xuyên thấu Tứ đại thiên
vương, Đao Lợi, Đẩu Suất... và đến cả cõi Phạm thiên.
[i] Các kinh điển Đại thừa, ngài Subhūti , tức
Tu Bồ Đề được đặt vào một vị trí và chức năng đặc biệt; biểu tượng
ngài là Tuệ Tánh Không, lúc thuyết pháp - thuyết vô ngôn - không nói gì cả mà
chư thiên ái kính rải hoa. Nikāya thì ngài thường trú định tâm từ, thỉnh thoảng
cũng trú tuệ không và chư thiên cũng rất ái kính, ngưỡng mộ. Có điểm giống
nhau: Ngài chỉ đi bát, nhận vật thực từ người giàu và trung lưu,
không nhận vật thực của người nghèo - ngại sớt bớt cháo cơm đã quá ít ỏi của
cháu con họ.
Bài học về rừng
Chiều ấy, tỳ-khưu Subhūti đang ngồi trên một tảng đá để vá y. Nghe tin đức Phật đã về Trúc Lâm, chẳng lẽ nào lại mặc chiếc y rách nát này để đến thăm ngài, chắc sẽ bị quở trách. Từng mũi kim cẩn trọng xuyên qua xuyên lại mấy mảng vải đã mục, vị tỳ-khưu mỉm cười. Cái thân của chúng sanh trong các kiếp sinh tử cũng tương tợ vậy, cứ vá tới, vá lui mãi. Kiếp nào có nhiều phước báu thì những tấm vá được lành lặn, đôi khi lại sang quý nữa. Kiếp nào ít phước báu, hoặc quá thiếu phước thì có khác gì chiếc y này đâu?
Chiều ấy, tỳ-khưu Subhūti đang ngồi trên một tảng đá để vá y. Nghe tin đức Phật đã về Trúc Lâm, chẳng lẽ nào lại mặc chiếc y rách nát này để đến thăm ngài, chắc sẽ bị quở trách. Từng mũi kim cẩn trọng xuyên qua xuyên lại mấy mảng vải đã mục, vị tỳ-khưu mỉm cười. Cái thân của chúng sanh trong các kiếp sinh tử cũng tương tợ vậy, cứ vá tới, vá lui mãi. Kiếp nào có nhiều phước báu thì những tấm vá được lành lặn, đôi khi lại sang quý nữa. Kiếp nào ít phước báu, hoặc quá thiếu phước thì có khác gì chiếc y này đâu?
Tỳ-khưu
Subhūti chưa đi đảnh lễ đức Phật mà ngài đã đến nơi rồi. Có cả tôn giả Mahā
Moggallāna và số đông tỳ-khưu nữa. Đứng trên một ngọn đồi, không xa hang núi
của tỳ-khưu Subhūti, đức Phật đưa tay chỉ, mỉm cười:
-
Các thầy có thấy không? Con trai của Như Lai đang vá y đấy! Cái hình ảnh ấy
trông đẹp làm sao!
-
Thưa vâng, bạch đức Thế Tôn!
-
Có cả nhàn hạ, thảnh thơi và vắng lặng nữa! Tôn giả Mahā Moggallāna tiếp lời -
Đúng là Bậc xứng đáng được cúng dường!
Đức
Phật đưa mắt ngắm nhìn chiếc lưng cong, cái đầu cúi của tỳ-khưu Subhūti trong
trạng thái chăm chú trên đầu mũi kim, sợi chỉ - ngài nói:
-
Một động thái nhỏ, con trai của Như Lai cũng chăm chú, định tâm. Vì quá chăm chú,
quá định tâm nên ông ta không thấy, không biết chuyện gì xảy ra xung quanh. Như
Lai và các thầy đang đứng ở gần đây mà ông ấy cũng không hay biết. Vậy, do định
thiền mà vị ấy không cần biết trời mưa hay nắng là điều dễ hiểu hay khó hiểu,
này các thầy tỳ-khưu?
-
Bạch, rất dễ hiểu ạ!
-
Con trai của Như Lai cũng không thèm biết, chư thiên ái mộ, kính ngưỡng mình
nên đã che mưa suốt một tháng trường, ảnh hưởng thời tiết, khí hậu cả một vùng
- vậy ông ta có tội hay không có tội?
-
Vì không cố ý nên không có tội, bạch đức Tôn Sư!
-
Ừ, chính xác! Đức Phật nói - Chính tư tác (cetanā), chính
cố ý, cố tình mới tạo nên nhân, tạo nên nghiệp - là trọng tâm giáo pháp của Như
Lai. Tuy nhiên, trong trách nhiệm liên đới, nhân duyên trùng trùng - con trai
của Như Lai có đóng góp vào đấy một duyên xấu, theo cái hiểu của thế gian là
liên đới trách nhiệm đấy! Khi nhập định, vị tỳ-khưu cần phải khởi tâm quán xét!
Hội
chúng không hiểu. Chỉ có tôn giả Mahā Moggallāna là hiểu nên ngài xin được trả
lời:
-
Đức Tôn Sư từng dạy rằng, một vị tỳ-khưu nhập định diệt thọ, tưởng bảy ngày -
nếu không quán xét những sự việc xảy ra; ví dụ có chuyện trọng đại về tăng sự
trong thời gian ấy, vị ấy sẽ bị đức Tôn Sư hoặc các bậc thượng thủ A-la-hán
khiển trách! Do thế, thường xuyên định tâm không, chưa đủ, phải thường xuyên
tuệ quán nữa!
Đức
Phật góp thêm ý:
-
Một vị tỳ-khưu có định thâm sâu, có tuệ giải thoát không chưa đủ. Khi cần,
trong tuệ có định, trong định có tuệ. Nếu tỳ-khưu Subhūti thuần thục cả hai,
định và tuệ đều viên mãn - thì khi vào định, nếu cần, có thể dùng tuệ để quan
sát tất thảy những gì xảy ra xung quanh. Trường hợp như Sāriputta và Mahā
Moggallāna, ngồi định ở đây nhưng hai vị còn có thể biết việc xảy ra cả nhiều
ngàn thế giới, nếu vị ấy muốn!
Chư
vị tỳ-khưu đi theo được mở sáng mắt, họ rùng mình. Có những bàn tán nho nhỏ:
-
Nghiêng quá về định cũng không được.
-
Không quan sát xung quanh, trên dưới, gần xa; đôi khi lửa cháy rừng không biết
thì nguy to!
-
Tuy không trực tiếp tạo duyên xấu, nhưng chỉ cần thả chút tuệ rà soát xung quanh
thì chắc chắn, hiện tượng trời không mưa cả tháng kia sẽ không xảy ra.
Tôn
giả Mahā Moggallāna đi thụt lùi ra sau, gật đầu:
-
Khá khen chư hiền đã rất tiến bộ!
Lần
bước theo lối đá và con đường mòn nhỏ xuống đồi, đức Phật và hội chúng đến gần
nơi am thất của tỳ-khưu Subhūti.
Đức
Phật chợt nói:
-
Hãy dừng chân đây một lát, đợi thầy tỳ-khưu của chúng ta vá y xong cái đã!
Rồi
câu chuyện còn được tiếp tục.
Đức
Phật hỏi xung quanh:
-
Đức vua Bimbisāra có hứa kiến tạo liêu thất, nhưng sau đó, do bận rộn quốc gia
đại sự mà quên đi - vậy, vị đại vương của chúng ta có tội hay không có tội?
Chư
tỳ-khưu lại bàn thảo. Kẻ bảo có chút ít, nhưng do bận việc lớn, đem lại sự yên
ổn cho nhiều người nên có thể khoan giảm. Người nói, đây là vấn đề nhân, duyên
và quả chứ đâu có như luật pháp thế gian mà luận bên này để châm chước cho bên
kia? Một vị khác, đức vua của chúng ta có khiếm khuyết, bất toàn thế nào đó về
trí não nên bị cái tội hay quên; nếu có trí nhớ tốt thì chỉ cần ra một khẩu
lệnh thì quân hầu lo liệu xây liêu thất được ngay; việc này không liên hệ đến
chuyện ổn định biên giới! Vị khác nữa, hay đây là cái tội thiếu định tâm tu
tập?
Đức
Phật nói với tôn giả Mahā Moggallāna:
-
Ông hãy nói rõ điều đó cho họ nghe đi, con trai!
-
Dạ thưa vâng, thầy tỳ-khưu khi thuần thục định tứ thiền, nếu vị ấy muốn có túc
mạng thông, tức là thắng trí nhớ lại các kiếp sống trong quá khứ - đầu tiên họ
nhớ đến một ngày, hai ngày... nhớ lui cho đến giai đoạn vừa sinh ra, trong thai
bào, đến kiếp sống trước đó. Cứ thế, cứ thế, và cứ thế, vị ấy nhớ một kiếp, hai
kiếp... ; vậy, cho đến trăm ngàn kiếp cũng còn nhớ, huống hồ gì là trong ngày!
Trường hợp đức vua của chúng ta là thiếu chánh niệm. Người có
chánh niệm tinh minh, thuần thục thì đi đứng ăn nói, cử chỉ, thái độ, ý nghĩ
bất cứ nơi đâu, lúc nào - nói chung, hoạt trạng của thân hành, khẩu hành và ý
hành bất cứ nơi đâu, lúc nào đều được thấy rõ, biết rõ, nhớ rõ!
Đến
ngang đây thì mọi người đều đã hiểu. Tỳ-khưu Subhūti cũng đã vá y xong và vị ấy
đã thấy đức Phật, tôn giả Mahā Moggallāna cùng chư vị tỳ-khưu đến thăm. Ngài
không ngờ có được sự vinh hạnh hiếm có này.
Đức
Phật rất giản dị, ngài lựa tìm một chỗ ngồi trên tảng đá có tấm tăng-già-lê gấp
bốn, quay mặt về hướng cánh rừng xanh xanh trước mặt. Tỳ-khưu Subhūti đến đảnh
lễ rồi ngồi xuống nơi phải lẽ. Đức Phật nói:
-
Chắc ông đã học được bài học về chuyện đức vua Bimbisāra rồi chứ?
-
Dạ thưa vâng, có ạ!
-
Bài học đó như thế nào, con trai?
-
Thưa, đệ tử cũng vừa suy ngẫm, chiêm nghiệm từ rừng - và học được bài học đó từ
rừng!
-
Hãy nói cho Như Lai nghe với nào?
-
Ban đêm rừng ngủ, nhưng rừng vẫn luôn luôn sống động, luôn luôn tỉnh thức, bạch
đức Thế Tôn! Thế nên, vị tỳ-khưu khi vào định, ngoại trừ định sâu, cũng phải
luôn luôn tỉnh thức sống động như rừng vậy!
-
Hay lắm! Vậy là trong định có tuệ - ông hãy tu tập cho thuần thục điều mà rừng
đã gợi ý cho ông. Vậy, ông còn học được gì từ rừng nữa không, Subhūti?
-
Thưa, đệ tử chỉ mới suy ngẫm điều ấy nhưng chưa thực tập về điều ấy!
Đức
Phật bèn nói với hội chúng xung quanh:
-
Rừng không những chỉ có một đặc tính như tỳ-khưu Subhūti vừa kể. Nó có cả thảy
10 điều, hãy nghe và Như Lai sẽ giảng nói.
-
Thưa vâng, bạch đức Thế Tôn!
Rồi
đức Phật quay qua nói với tôn giả Mahā Moggallāna đang đứng gần bên:
-
Thời pháp này Như Lai nói về rừng nhưng không thuần túy chỉ nói về rừng thôi,
mà còn những ý nghĩa khác quan trọng hơn nữa. Vậy ông hãy nhiếp tâm, sử dụng
thần thông lực - mời thỉnh tất cả các vị trưởng lão, các vị thượng thủ A-la-hán
có thắng trí ở tại Vương Xá và xung quanh Vương Xá, qua không gian, hãy đến đây
- cùng lắng nghe thời pháp này!
Vâng
lời, tôn giả Mahā Moggallāna ngồi xuống, trú định, vào định tứ thiền, xuống cận
định, sử dụng đồng lúc tha tâm thông, thiên nhãn thông để gởi tư tưởng theo lời
dạy của đức Phật. Chỉ một lát sau đó thôi, chư vị trưởng lão, thượng thủ
A-la-hán từ khắp các phương như những cánh chim ưng vàng từ trong những đám mây
trắng, đồng vân tập, xuất hiện, đảnh lễ đức Phật một cách rất ngoạn mục. Chư
tỳ-khưu phàm tăng trố mắt, sững sờ. Lại càng ngạc nhiên hơn nữa, trong một
khoảng rừng, góc núi nhỏ - thế mà chư vị thánh tăng vẫn thừa chỗ ngồi, lặng lẽ
xung quanh đức Phật mà không gian dường như cũng không lớn rộng thêm ra? Ôi!
thật là phúc lành hy hữu cho chư vị tỳ-khưu này!
Đức
Phật tiếp tục buổi giảng, như sau:
-
Này các thầy tỳ-khưu! Như Lai nhắc lại, rừng có mười đặc tính; vậy mỗi vị tỳ
khưu hãy học hỏi 10 đặc tính ấy để đem đến lợi lạc cho mình và cho giáo pháp.
Thứ nhất, rừng
luôn luôn tỉnh thức - vậy một vị tỳ-khưu phải luôn luôn tỉnh thức, bất luận
ngày hay đêm. Thứ hai, rừng ẩn trong lòng mình rất nhiều loại
gỗ quý; cũng vậy, vị tỳ-khưu phải phát hiện những đức tính quý báu trong tâm
của mình. Thứ ba, rừng là nơi hằng trăm hằng ngàn chủng loại
động vật, thực vật cộng cư - cũng vậy, trong tâm của chúng sanh cũng đang có
hằng triệu, hằng triệu chủng tử tốt có, xấu có từ vô lượng kiếp đến nay đang
sinh sống ở đấy. Thứ tư, trong lòng đất của rừng có nhiều mỏ
vàng, mỏ bạc, mỏ kim cương - cũng vậy, trong tâm một vị tỳ-khưu cũng có những
kho báu, đó là những thắng trí, những khả năng phi thường - nếu biết đào xới
những vỉa quặng ấy. Thứ năm, cây cối trong rừng dù to, dù nhỏ,
dù cao, dù thấp - thường nương nhau mà tồn tại - cũng vậy, trong giáo hội của
Như Lai: tỳ-khưu, tỳ-khưu-ni, sa-di, sa-di-ni, ưu-bà-tắc, ưu-bà-di - người lớn,
người nhỏ, người tốt, người xấu phải nương nhau mà tu tập. Thứ sáu, rừng
là nơi giữ nước, là nơi tươm rỉ những dòng suối trong xanh - từ đó, tuôn chảy
ra sông ngòi, ruộng vườn - nuôi sống muôn sinh. Cũng vậy, giáo hội của Như Lai
là nơi lưu giữ chánh pháp, phát triển chánh pháp - những dòng giáo pháp trong
xanh, tinh khiết, vô nhiễm - đổ tràn ra thế gian để đem đến hạnh phúc, an vui
cho trời và người. Thứ bảy, rừng sợ nhất bị chặt phá, bị đốt
cháy - cũng vậy, giáo pháp của Như Lai kỵ nhất là sự phá hoại từ nội bộ, bị đốt
cháy bởi tham lam, dục vọng của một số tỳ-khưu tầm cầu danh vọng và lợi
dưỡng. Thứ tám, rừng có thứ tự - cây cao, cây lớn, cây thấp,
cây nhỏ và có cả cây nương nhờ - cũng vậy, trong giáo hội của Như Lai, mọi
người phải biết tôn trọng hạ lạp, tuổi tác lớn nhỏ, đồng thời phải đùm bọc, che
chở những người đang nương nhờ mình. Thứ chín, rừng là nơi
điều hòa nhiệt độ cho trái đất - cũng vậy, giáo hội của Như Lai phải là nơi
điều hòa sự an vui và hạnh phúc cho nhân quần, xã hội. Thứ mười, rừng
hút bụi bặm, ô nhiễm trong không gian - rồi nhả hơi nước, tạo không khí trong
lành để phụng hiến vô vị lợi cho đất trời; cũng vậy, chư vị tỳ-khưu, tỳ-khưu-ni
sống giữa cuộc đời, phải gánh chịu, nhẫn chịu vào lòng tất cả mọi đắng cay, sự
phỉ báng, sự dèm pha, mọi tiếng lời thị phi, tâm địa bất trắc, khó lường của
chúng sanh - rồi ban rải tứ vô lượng tâm đến cho họ, cho thế gian nhiều khổ, ít
vui này!
Đức
Phật kết luận:
-
Trước khi chưa thành đạo, Như Lai chưa có pháp nào cả. Thành đạo rồi, suốt 49
ngày thọ hưởng hạnh phúc siêu thế; xuống lên, vào ra các tầng thiền cho thuần
thục; quán ngược, quán xuôi những duyên khởi cho tinh minh; đến đi, xuất nhập
các thắng trí cho tỏ suốt; ngẫm cạn, ngẫm sâu, về Tứ Đế cho tỏ tường; chẻ thô,
chẻ tế các sắc, thọ, tưởng, hành, thức cho đến chỗ chi li, tinh mật - từ đấy,
Như Lai mới có pháp, mới có rất nhiều pháp, mới có Pháp bảo! Các thầy không thể
tưởng tưởng được cái thấy biết của Như Lai về thế gian nội tâm, về thế giới vạn
hữu, về tất cả các bộ môn học thuật trên cuộc đời này đâu. Nó rộng lớn lắm. Nó
bao trùm cả hư không vô tận này. Tuy nhiên, nói hạt vi trần chia bảy mà làm gì
khi kiến giải ấy không đem lại sự chấm dứt khổ, lắng dịu phiền não? Nói về các
ngân hà, thiên hà mà làm gì - khi tri kiến ấy chỉ để mà thỏa mãn kiến thức -
một loại trí tham, trí dục - một hình thức khác của bản ngã và si mê mà thôi!
Ồ, các thầy hãy xem đây!
Rồi
đức Phật nắm một nắm lá trong tay, đưa lên rồi hỏi:
-
Các thầy thấy nắm lá trong tay của Như Lai nhiều, hay lá trong rừng nhiều?
-
Lá trong rừng nhiều hơn, bạch đức Thế Tôn!
-
Ừ, đúng vậy! Nắm lá trong tay Như Lai thật là ít ỏi so với lá ở trong rừng.
Cũng vậy, nhiều như lá ở trong rừng là thấy biết của Như Lai, là sở học, sở
tri, sở chứng, sở ngộ của Như Lai - nói chung là của chư Chánh Đẳng Giác - đã
tích lũy được qua hằng hà sa số kiếp, qua vô lượng vô biên ba-la-mật. Tuy
nhiên, nắm lá trên tay ít, nhưng vừa đủ, vừa đủ để trao truyền cho các thầy
những tinh yếu, những nguyên lý để các thầy lên đường, để mà tu tập, để mà diệt
tận khổ đau. Giáo pháp của Như Lai là giáo pháp diệt khổ, thoát khổ chứ không
phải để mà giải thích về vũ trụ, các ngân hà, thiên hà. Như Lai còn biết nữa
rằng, vào thời mà giáo pháp suy đồi, chư tỳ-khưu không còn tu tập giải thoát,
thiền định hay giới luật được nữa - chúng sẽ biến giáo pháp của Như Lai thành
một mớ triết lý, triết luận - nghe thì có vẻ hay ho, cao siêu nhưng mà rỗng
không, phù phiếm. Là cái trò chơi văn, giỡn chữ ồn ào, huyên náo ở chợ búa, ở
quán nước và ngay cả tại các giảng đường, tu viện, học viện! Một bọn khác -
cũng không còn tu học chính đính, hành trì giới luật nghiêm túc được nữa -
bèn chứng tỏ kiến văn, sở học của mình - muốn giải thích cả số lá vô
lượng, vô khả lượng trong rừng cây kia. Chúng muốn vượt qua cả Như Lai! Những
điều Như Lai im lặng, không nói vì thấy vô ích, vô bổ, phù phiếm - thì chúng
lại huyên thuyên giảng nói, không biết đâu trúng, đâu trật; chẳng biết đâu là
sở tri hữu dụng và đâu là kiến tri chỉ để lòe đời, bịp đời! Chúng họp bè, kết
phái, lập tông... để tự giương danh mình, giải thích giáo pháp của Như Lai bằng
cái kiến văn đựng trong cái vỏ ốc, vỏ hến ngu si, tối tăm nhưng đầy kiêu căng
và khoa đại của chúng! Có bọn - thì thấy giác ngộ, giải thoát, giới luật khó
quá - nên trở lại với bà-la-môn giáo thời sa đọa là luyện chú, luyện bùa, đọc
mật chú, thần chú để chữa bệnh kiếm tiền, để giúp việc mua may bán đắt, thăng
quan tấn chức, lắm vợ nhiều con, được danh đoạt lợi. Chúng còn lấy cái bí bí,
mất mật ấy... để dẫn dắt mọi người đến nơi giác ngộ, giải thoát! Cho đến, chúng
còn có khả năng siêu nhiên là dẫn dắt thần thức người
chết (phàm phu, chưa tu tập) đến các cảnh trời và cả Niết-bàn
nữa! Có bọn - chứng tỏ ứng hợp với thời đại, đã lấy kinh tế, chính trị, xã hội,
khoa học, sinh học, lý học, vũ trụ học, thiên văn học, địa lý học, số học, toán
học, cả triết, cả thơ và cả văn để giải thích giáo pháp của Như Lai! Bọn chúng
nói chỉ để mà nói, mà khoe mẻ ta đây là học giả, là bác học nhưng năm giới cũng
không giữ được, thậm chí, một giới cũng không giữ được - nói gì đến định, đến tuệ,
đến tuệ giải thoát!
Này
các thầy tỳ-khưu! Hãy tịnh định nơi hơi thở, an trú nơi hơi thở - hãy nghe cảm
giác nói gì, tri giác nói gì, tâm hành nói gì, thức tri nói gì? Khổ ở đó, lạc ở
đó mà giác ngộ giải thoát cũng ở đó. Đừng tìm hiểu Niết-bàn qua ngôn ngữ, qua ý
niệm, qua thức tri. Không tới đâu. Cũng đừng định nghĩa nó. Đừng định nghĩa
Niết-bàn. Đừng định nghĩa siêu thế. Đừng xác lập nó ở trong hay ở
ngoài trái đất. Chỉ khi nào tham sân si, phiền não hoàn toàn vắng lặng, không
còn thiêu đốt nội tâm nữa, thì lúc ấy, tuệ tri, minh tri hiện ra; giác ngộ,
giải thoát được thấy rõ, ngay tại đây, bây giờ; ngay tại cái thân dài một
trượng này cùng với cảm giác và tri giác - là thấy rõ Niết-bàn - chớ không ở
một nơi nào khác, một chỗ nào khác! Niết-bàn ấy chẳng phải “tại” mà
cũng chẳng phải “siêu”! Chẳng bờ bên này, chẳng bờ bên kia!
Tất thảy chúng: Bất lập!
Hãy
lắng nghe với tâm trí rỗng rang, vô ngã và vắng lặng! Hãy như vậy mà thọ trì -
này các thầy tỳ-khưu!
Bài
pháp thuyết xong thì trời đã tối. Đức Phật vào nghỉ trong liêu thất của tỳ-khưu
Subhūti. Đêm đó, rất đông tỳ-khưu thức ngủ, đàm đạo về giáo pháp cho đến gần
sáng; sau đó có vị kinh hành, vị tọa thiền, vị nằm nghỉ nghiêng lưng hướng đầu
về phía đức Phật.
Đêm
ấy quả thật là một đêm đậm đà hương vị giáo pháp; và, núi rừng, trăng sao như
đồng tỉnh thức trong ánh huy hoàng của đạo giải thoát.
Đại thần chú
Trở
lại Trúc Lâm, đức Phật cho họp các trưởng lão Tăng Ni hai viện, thu xếp mọi
công việc ở đây trước khi rời chân lên phương Bắc. Ngắm thời tiết, đức Phật
biết xứ này sắp đến mùa nắng nóng nhưng ở phương Bắc thì đang còn nhiều tháng
ngày mát dịu.
Đức
Phật dự định sẽ du hành một quãng đường xa; và chương trình của ngài sẽ ghé quê
hương của Sāriputta, của Mahā Kassapa, ghé Pātaḷigama, qua sông Gaṅgā, đến Vesāli,
qua thăm các xứ Videha, Vajjī - sau đó sẽ lên Malla, qua Moriya, Koliya rồi đến
Kapilavatthu xem thử những ni viện ở các xứ này như thế nào.
Trưa
hôm ấy, tại hương phòng, đức Phật nghe ngoài rừng tu viện có nhiều tiếng cười
nói. Tôn giả Ānanda cho ngài hay biết, chư phàm tăng đang từng nhóm, từng nhóm
bàn tán xôn xao, là có một đạo sĩ bà-la-môn đứt giây thần thông, rơi xuống nơi
một vùng người ta đang họp chợ, may là chỉ bị thương nhẹ nhờ rớt trên đống vải.
Đức
Phật hướng tâm đến, ngài mỉm cười.
Tại
giảng đường, sau đó, do yêu cầu của tôn giả Ānanda, đức Phật đã kể chuyện về
đạo sĩ ấy như sau:
-
Đạo sĩ ấy rồi sẽ có duyên với giáo pháp. Kể từ thời đức Phật Padumuttara, ông
ta sinh ra trong một gia đình bà-la-môn giàu có - đã có những cuộc cúng dường
trọng thể đến đức Phật và Tăng chúng. Hôm ấy, đức Chánh Đẳng Giác tuyên dương
một vị tỳ-khưu, do công hạnh tu tập, được “Chư thiên ái kính”; ông
hoan hỷ quá phát lời nguyện, là sau này, một vị lai nào đó, sẽ được xuất gia và
cũng được như vị tỳ-khưu kia vậy. Đức Phật tùy hỷ công đức và thọ ký cho ông là
vào thời của đức Phật vị lai, Sākya Gotama, ông ta sẽ được như nguyện. Vào thời
đức Thế Tôn Sumedha Niết-bàn, ông ta lại cúng dường bảo tháp, cúng dường các
bậc lậu tận... Sau nhiều kiếp làm người làm trời, nhiều kiếp làm Chuyển luân
thánh vương, đến kiếp này, sinh quán ông ở tại Sāvatthī, trong một gia đình
bà-la-môn có của dư của để. Ông tên là Pilinda, họ Vaccha. Lớn lên, chán đời
sống ngũ dục trần lụy, ông xuất gia thành một đạo sĩ du sĩ, lang thang từ nơi này
sang nơi khác để tầm sư học đạo. Nhiều năm hành trì yoga, niệm chú, luyện thần
chú trong nhiều hang động ở Tuyết Sơn, Pilindavaccha đạt được một vài khả năng
nho nhỏ như xuất hồn, biết trước một số việc về tương lai, giỏi nhịn ăn và giỏi
nhịn thở! Hôm kia, ông đang ngồi tập định yoga nơi một hóc núi - thì thoáng
thấy một đạo sĩ có bước đi như lướt gió, chốc là mất hẳn. Hình ảnh ấy lôi cuốn,
hấp dẫn quá, Pilindavaccha bươn bả chạy theo hành tung của bậc siêu
nhân. May thay, đến một sơn trấn, ông gặp được đạo sĩ đang nghỉ chân
độ thực. Lân la đến thăm hỏi rồi Palindavaccha quỳ lạy đạo sĩ xin được học phép
lạ. Đạo sĩ nhìn ông một lát, sau đó nói thật rằng: “ Nếu có tâm cần cầu
hãy đến nước Gandhāra, tìm cho ra một sơn thôn cũng có tên là Gandhāra, có một
bậc thầy siêu việt ở đấy. Cứ thăm hỏi mọi người, về một đạo sĩ già, ẩn tu trong
một hang động, ông sẽ được như nguyện. Nhưng mà một năm phải đóng 100 đồng tiền
vàng đấy. Nói thật rằng, trước đây tôi là đệ tử của thầy, do thiếu tiền đóng
học phí nên bị đuổi ra khỏi sơn môn - nên sự học của tôi chưa đến nơi đến chốn
đâu.” Thế rồi, Pilindavaccha của chúng ta về lại gia đình ở Sāvatthī,
thu góp vàng bạc, rồi đi tìm thầy học phép siêu nhân.
Sau
ba năm học nghệ, Palindavaccha đã chứng tỏ được khả năng cần cầu tu tập chí thú
ngày đêm; ông đi được vào định thâm sâu, khi hướng tâm, biết được tâm người
khác. Ngoài ra, Palindavaccha còn luyện được một loại thần chú có tên là
“ Cūlagandhāra”, sau khi niệm, là có thể bay lượn được như
chim giữa trời, mà bí thuật bà-la-môn giáo gọi là “du hành trên không”! Khi
cho xuống núi, vị thầy già mỉm cười - nụ cười có vẻ tự châm biếm mình - rồi như
tâm sự mà rằng: “ Ta dạy cho các ngươi là để kiếm cơm nuôi ba bà vợ và
12 đứa con - chẳng có siêu nhân, đạo hạnh gì như thế gian đồn đãi về ta cả. Bây
giờ, ngươi học được ít nhiều đó - cũng chỉ là cái thuật, chỉ là cái cần câu để
câu danh vọng và lợi dưỡng mà thôi. Tuy nhiên, hãy ghi nhớ lời này.
“Cūlagandhāra” mới chỉ là “Tiểu thần chú”; vậy lúc nào trên thế gian, tại địa
giới nào đó, có “Mahāgandhāra” tức là “Đại thần chú” xuất hiện - thì
Cūlagandhāra sẽ mất hết hiệu lực, sẽ không còn tác dụng nữa. Lúc ấy, tự ngươi
phải trật y vai phải, tìm đến vị có Đại thần chú ấy, đảnh lễ, cúi đầu năm vóc
sát đất để xin học hỏi, làm đệ tử của Người, sẽ mang đến lợi lạc cho ngươi thật
không xiết kể. Ta chỉ tiết lộ chừng ấy. Tuổi thọ của ta cũng đã sắp hết. Ta
thiếu phúc lành hơn ngươi nhiều đấy!”
Tuy
chưa hiểu hết những ẩn ý trong lời tâm sự của vị thầy già, nhưng cái gọi
là “Đại thần chú” ấy thì Palindavaccha không quên. Chỉ một năm
sau, Palindavaccha của chúng ta nghiễm nhiên đã là một đạo sư nổi danh khắp các
tiểu quốc và thành phố miền Tây bắc châu Diêm-phù-đề. Học trò khắp nơi tìm đến
học đạo. Khi mọi danh vọng và vinh quang đã như vầng hào quang xán lạn,
Palindavaccha về thăm quê hương với hằng trăm đồ chúng vây quanh. Muốn biểu
diễn phép lạ cho mọi người thán phục, lựa một quảng trường, Palindavaccha niệm
chú để “ du hành trên không” chơi! Lạ lùng sao, vừa bay lên là
ông ta bị rớt xuống. Lạnh toát cả người, Palindavaccha hiểu, là có chuyện
rồi, “Đại thần chú” đã xuất hiện rồi! Tuy viện cớ bị cảm đau
không thi thố thần lực để lấy lòng tin với mọi người, nhưng tự thâm tâm, ông
hiểu là “Tiểu thần chú” giờ đã hỏng! Tại thành phố này, “Đại
thần chú” đã xuất hiện! Mấy ngày sau, bí mật điều tra, Pinlindavaccha
biết rằng, tại Kỳ Viên, mấy ngày trước đây đã xuất hiện một vị Phật, một vị
Chánh Đẳng Giác! Năm ấy, ngày tháng ấy Như Lai lần thứ nhất ghé thăm Kỳ Viên.
Hóa ra - các thầy tỳ-khưu biết không, Như Lai có “Đại thần chú”; bậc
có “Đại thần chú” ấy, chẳng là ai khác mà chính là Như Lai!
Có
nhiều tiếng cười có vẻ sảng khoái, thú vị. Đức Phật nghỉ hơi một chút. Câu
chuyện hấp dẫn quá, hội chúng lại bắt đầu chõng tai lắng nghe, im lặng; và bây
giờ chỉ có tiếng ruồi kêu vo ve!
-
Hôm ấy, đức Phật kể tiếp - Như Lai biết, các bậc có thắng trí
cũng biết, nhưng thấy chưa hợp lúc, chưa đúng cơ duyên. Như Lai còn biết nữa
rằng, Pilindavaccha, sau đó, im trống, xếp cờ, lặng lẽ xuôi Nam - và bắt đầu
tìm kiếm danh vọng ở quốc độ khác, đầu tiên là ở Bāraṇāsī. Tại đây, tả và hữu
ngạn sông Gaṇgā là căn cứ địa của bà-la-môn giáo, là nơi hùng cứ của đủ mọi thứ
tà thuật, phép thuật - Pilindavaccha nổi danh như cồn. Thuở ấy, Mahā Moggallāna
có trình báo chuyện ấy cho Như Lai hay, nhưng Như Lai bảo là chưa đúng thời.
Mấy năm vừa rồi Pilindavaccha tung hoành kiếm ăn tại các tiểu quốc cực Nam...
Còn bây giờ, lát nữa thôi, Pilindavaccha sẽ đến đây để xin Như Lai học “Đại
thần chú” - các thầy hãy xem nào, dường như ông ta và đồ chúng đã xuất
hiện ở ngoài bìa rừng... Đã đúng thời, đủ duyên rồi đây!
Đức
Phật vừa nói xong thì quả đúng như thế thật, đạo sĩ Pilindavaccha với dáng đi
chững chạc của một đạo sư cùng với một số đông đệ tử đã vào đến nơi.
Pilindavaccha nhớ lại lời thầy dạy thuở trước, ông trật y vai phải, đến đảnh lễ
đức Phật với năm vóc sát đất rồi thưa:
-
Kính bạch đại sa-môn! Tôi muốn học “Đại thần chú”, xin ngài từ
bi, hoan hỷ tiếp độ!
Cả
nhóm đệ tử đi theo đều cùng khấu đầu đảnh lễ với ước nguyện như vậy.
Đức Phật mỉm nụ cười ở trong tâm, dịu dàng nói:
-
Này Pilindavaccha! Như Lai biết ông đã lâu, nhưng nay cơ duyên mới chín muồi.
Vậy, ông hãy xuất gia theo giáo pháp của Như Lai, Như Lai sẽ chỉ dạy cho ông
không những là “Đại thần chú” mà cả “Vô thượng, vô
thượng chú” nữa đấy!
Vị
du sĩ đạo sư Pilindavaccha tưởng rằng, xuất gia là bước đầu của việc học thần
chú nên ưng thuận ngay. Và sau đó, ông được các trưởng lão làm lễ xuất gia cho,
có đức Phật chứng minh.
Sau
những lời giáo giới căn bản ban đầu, đức Phật quán căn cơ, cho vị tân tỳ-khưu
một đề mục thích hợp - rồi nói rằng:
-
Hãy cần mẫn, chăm chuyên, tinh cần, chí thú ngày đêm, gắn chặt tâm trí nơi đề
mục ấy - đừng hỏi gì cả, đừng nghi gì cả - thì đại thần chú, vô thượng,
vô thượng chú sẽ xuất hiện!
Sau
khi hội chúng giải tán cả rồi, đức Phật nói với hai vị đại đệ tử và Ānanda:
-
Do gieo duyên sâu dày với giáo pháp, không lâu sau, tân tỳ-khưu Pilindavaccha
sẽ đắc quả A-la-hán; rồi sẽ đạt được nguyện vọng mà đức Phật Padumuttara đã
từng thọ ký cho ông ta - là vị tỳ-khưu hằng được chư thiên ái kính và
ngưỡng mộ như Subhūti vậy.
Thêm một gia chủ hữu danh
Hôm
ấy, đức Phật và đại chúng tỳ-khưu lại lên đường, bắt đầu một cuộc du hành về
hướng làng Nālakagāma, sinh quán của tôn giả Sāriputta - ngụ tại khu rừng
Pavarikāmba. Nơi đây cũng gần làng Mahātiṭṭha của tôn giả Mahā Kassapa, gần
làng Kolilagāma của tôn giả Mahā Moggallāna. Đức Phật lặng lẽ không nói gì -
nhưng chính là ngài đang tạo cơ duyên cho ba vị thượng thủ A-la-hán tiếp độ
thân quyến của họ. Còn đức Phật thì có việc riêng của ngài.
Đạo
sĩ Nigaṇṭhā Dīghatapassa (Trường khổ hạnh giả), sau khi khất
thực ở Nālanda, độ ngọ xong, trên đường trở về, nghe đức Phật và đại chúng
tỳ-khưu đang ngụ tại rừng Pavarikāmba - nên ông tìm đến thăm. Sau vài lời chào
hỏi xã giao, ông đứng một bên.
Đức
Phật hiền từ, lịch thiệp nói:
-
Có ghế đấy, ông hãy ngồi xuống đi!
Khi
đạo sĩ Nigaṇṭhā Dīghatapassa đã an vị, đức Phật bắt đầu vào đề:
-
Này Tapassa! Cho Như Lai được hỏi, thầy của ông, giáo chủ Nigaṇṭhā
Nāṭaputta (Ni-kiền-tử) chủ trương có bao nhiêu loại nghiệp để
tạo thành ác nghiệp, để có thể diễn tiến ác nghiệp?
-
Thưa sa-môn Gotama! Giáo chủ của chúng tôi không có thông lệ chủ trương nghiệp,
nghiệp, không nói về nghiệp; mà chỉ nói đến “phạt, phạt”. Phạt,
phạt là chủ trương của giáo chủ chúng tôi.
- “Phạt,
phạt”, nghe rõ rồi; nhưng Như Lai muốn hiểu từ “phạt” ấy,
nó mang ý nghĩa như thế nào mới đúng với quan điểm của quý giáo?
- Phạt có
nghĩa là “bắt chịu, gánh chịu, nhận chịu...” ví như một sự
thiệt thòi, một khổ cực, một cái gì bất hạnh... Nghĩa phạt ấy, chính xác là như
vậy, thưa sa-môn Gotama!
-
Như Lai hiểu rồi! Vậy thì quý giáo chủ chủ trương có bao nhiêu loại
phạt - để tạo thành ác nghiệp, để có thể diễn tiến ác nghiệp?
-
Thưa, giáo chủ chúng tôi chủ trương có ba loại phạt để tác thành ác nghiệp, để
diễn tiến ác nghiệp - đó là thân phạt, khẩu phạt và ý phạt.
-
Thế có nghĩa là thân phạt khác, khẩu phạt khác và ý phạt khác?
-
Đúng vậy, thưa sa-môn Gotama!
-
Vậy thì trong ba loại phạt ấy, loại phạt nào là tối trọng, là quan trọng nhất
để tác thành ác nghiệp, để diễn tiến ác nghiệp, này Tapasa?
- Thân
phạt là tối trọng, là quan trọng nhất, thưa sa-môn Gotama!
Đến
đây, đức Phật bèn gặng hỏi:
-
Ông nói “thân phạt” là tối trọng, là quan trọng nhất so với
khẩu phạt và ý phạt?
-
Đúng vậy!
- Thân
phạt là tối trọng thật chăng?
-
Đúng vậy!
- Thân
phạt, Như Lai không lầm lẫn đấy chứ?
-
Đúng vậy!
Nghe
đạo sĩ Nigaṇṭhā Dīghatapassa xác định ba lần thân phạt là quan trọng, là tối
trọng, đức Phật chỉ mỉm cười và không nói gì nữa.
Đợi
một hồi không nghe đức Phật đưa ra kết luận quan điểm ấy là đúng hay là sai -
nóng ruột, Tapassa hỏi:
-
Thế sa-môn Gotama có quan điểm như thế nào về điều ấy? Sa-môn Gotama chủ trương
có bao nhiêu loại phạt để tác thành ác nghiệp, để diễn tiến ác nghiệp?
Đức
Phật mỉm nụ cười nhẹ:
-
Như Lai không có quan điểm, không có chủ trương, này Tapassa!
Du
sĩ Nigaṇṭhā Dīghatapassa ngơ ngác.
Đức
Phật tiếp:
-
Có quan điểm, có chủ trương là còn ở trên bình diện giả thiết, giả định, giả
đoán, suy luận... Như Lai do thấy và biết nên Như Lai chỉ nói
lên cái thấy cái biết như thực ấy, này Tapassa!
-
Vậy sa-môn Gotama thấy và biết có bao nhiêu loại phạt?
-
Cũng do sự thấy biết ấy, Như Lai không bao giờ nói phạt, phạt, này
Tapassa! Như Lai thấy rõ nghiệp nên Như Lai chỉ nói sự
thực về nghiệp, nghiệp cùng những tương quan phát sanh của
nó.
-
Cái nghiệp ấy như thế nào hở sa-môn Gotama?
- Như
Lai thấy rõ là có ba nghiệp, ấy là thân nghiệp, khẩu nghiệp và ý nghiệp, này
Tapassa!
-
Trong ba nghiệp ấy, nghiệp nào là tối trọng để tác thành ác nghiệp, để diễn tiến
ác nghiệp?
-
Như Lai thấy rõ ý nghiệp là tối trọng!
-
Sa-môn Gotama bảo ý nghiệp là tối trọng?
-
Đúng vậy!
-
Thật không, ý nghiệp là tối trọng?
-
Đúng vậy!
- Ý
nghiệp là tối trọng, tôi nghe không lầm đấy chứ?
-
Ông không lầm đâu!
Khi
nghe đức Phật xác định ba lần ý nghiệp là tối trọng, du sĩ Nigaṇṭhā
Dīghatapassa không hỏi gì nữa, không nói gì nữa, cũng không tranh luận;
ông tôn kính khẽ chào ngài, lặng lẽ đứng dậy từ chỗ ngồi rồi
ra khỏi khu rừng. Vừa đi, đạo sĩ vừa nghĩ: “Kinh khiếp thay là vị
sa-môn này; ông cuốn hút người ta, ông hấp dẫn người ta như là có huyễn thuật
vậy. Bình thường, lúc đàm thoại, kể cả tranh luận, ta đâu có thua ai? Nhưng sao
đối với vị sa-môn này, ta cảm giác như bị lép vế, bị lấn cấn, bị run sợ... rồi
cuối cùng là bị nghiêng theo, bị ngã theo lúc nào cũng không biết! Thật là ớn
lạnh. Còn cái - Như Lai không có chủ trương, không có quan điểm - mới lạ lùng
làm sao? Ta chưa hề nghe thấy bao giờ! Dường như mọi chân lý ông đều đã thấy cả
rồi, đã kiểm nghiệm chắc thật rồi - bây giờ ông chỉ việc nói ra mà thôi? Điều
cuối cùng, không biết tại sao, ở đâu, vì cái gì không biết: Vị sa-môn này, đối
thoại với ai rồi, thì dường như có một mãnh lực, một uy lực - nó bắt mọi người
phải tôn trọng, phải kính trọng ông ta! Và quả thật, mình cũng không ngoại lệ”. Nigaṇṭhā
Dīghatapassa thấy rầu rầu trong lòng, định phải kể lại toàn bộ cuộc đối thoại
này cho giáo chủ của ông ta nghe.
Tại
ngôi làng Balāka kế cận, tại trang viên của trưởng giả Upāli, rất đông gia chủ
và giáo chúng Nigaṇṭhā đang tề tựu ở đây để nghe giáo chủ Nigaṇṭhā Nāṭaputta
thuyết pháp. Người có uy tín, lãnh đạo hội chúng gia chủ tại ngôi làng này
chính là trưởng giả Upāli.
-
Này Tapassa! Nāṭaputta cất tiếng hỏi - Ông từ đâu đến mà trông
cái bản mặt, cái vẻ mặt như đưa đám thế?
-
Đệ tử từ sa-môn Gotama mà đến đây, thưa tôn sư!
-
Thế ông có đàm luận gì với sa-môn Gotama không?
-
Thưa có, câu chuyện vừa chấm dứt xong là đệ tử đến đây ngay.
-
Vậy cuộc đàm thoại ấy có nội dung như thế nào, này Tapassa!
Du
sĩ Nigaṇṭhā Dīghatapassa kể lại.
Ông
giáo chủ khen ngợi:
-
Thật là tốt lành thay! Thật là tốt đẹp thay! Ông là một đệ tử đa văn, hiểu
biết, đã hiểu đúng đắn lời dạy bảo của ta, đã nói chính xác quan điểm của ta
cho sa-môn Gotama nghe. Làm sao mà cái ý phạt hèn kém, thấp
thỏi - lại có thể sáng chói, có đủ uy lực so với thân phạtcường đại
này kia chứ? Đúng là thân phạt mới là cái tối trọng!
Trưởng
giả Upāli cũng tán dương Tapassa:
-
Xứng đáng lắm! Xứng đáng lắm! Tôn giả Tapassa đã làm nở mày, nở mặt chúng ta!
Trước một đối thủ đáng gờm như sa-môn Gotama mà tôn giả vẫn giữ vững được lập
trường của đức Tôn Sư! Thật là tuyệt vời!
Đạo
sĩ Dīghatapassa đứng một bên, nghe ca tụng mình cảm thấy khó chịu quá, như có
cái gì đâm trong óc; nhưng ông ta không thể nói xen được một câu nào - vì mọi
người đang phấn khích và đang sôi nổi nói chuyện quá ồn ào!
Trưởng
giả Upāli thì đang trên đà hưng phấn, thưa với giáo chủ Nāṭaputta:
-
Bạch Tôn Sư! Hãy cho đệ tử được đi luận chiến với sa-môn Gotama! Đệ tử sẽ chơi
trò chơi như nắm chặt con cừu lông dài mà vặt trụi nó như vặt trụi kiến thức
của sa-môn Gotama vậy. Đệ tử sẽ chơi trò chơi quần tới, dặc lui, vần quanh làm
cho lý luận của sa-môn Gotama tắt hơi, ngất xỉu luôn! Đệ tử sẽ chơi trò chơi
lắc qua, lắc lại làm cho chữ nghĩa của sa-môn Gotama xây xẩm, mệt đừ! Đệ tử sẽ
chơi trò chơi của con voi phun nước làm cho mọi chủ trương, lập trường của
sa-môn Gotama không còn có chỗ nào mà đón đỡ! Hãy cho đệ tử được đi luận chiến
với sa-môn Gotama một trận!
Nāṭaputta
cười ha hả, gật đầu lia lịa, đắc ý nói:
-
Phải! Phải! Trong hội chúng này chỉ có ta, ông và Tapassa mới có đủ khả năng
luận chiến với sa-môn Gotama mà thôi!
Nghe
giáo chủ đồng ý theo yêu cầu của trưởng giả Upāli, du sĩ Dīghatapassa chợt can
ngăn:
-
Đệ tử thật không an tâm chút nào khi Tôn Sư đồng thuận cho trưởng giả Upāli
luận chiến với sa-môn Gotama!
Nāṭaputta
nhăn mày hỏi:
-
Tại sao? Tại sao hử? Tại sao thế, Tapassa? Ta nghĩ rằng, sẽ không có trường hợp
Upāli của ta thua cuộc rồi làm đệ tử sa-môn Gotama đâu! Phải hiểu ngược lại mới
đúng. Sa-môn Gotama sẽ bị hạ đo ván rồi ông ta sẽ cam tâm làm đệ tử của Upāli
cho mà xem! Hãy chống mắt cho to ra!
Dīghatapassa
vẫn giữ ý mình:
-
Nói gì thì nói, đệ tử cũng không an tâm! Đệ tử không bao giờ đồng thuận việc
này.
Khi
giáo chủ gặng hỏi mãi lý do, Dīghatapassa bèn phải nói ra cảm nhận của mình.
Với giọng chậm rãi, điềm đạm, ông lim nhim mắt như hồi ức rồi nói:
-
Đệ tử cảm giác sâu sắc rằng, sa-môn Gotama là một con người không phải tầm
thường. Không nói đến tướng mạo đoan trang, nghiêm chính một cách lạ kỳ. Không
nói hào quang trí tuệ dường như tỏa sáng xung quanh, tỏa sáng nơi vừng trán,
đôi mắt và cả nơi từng ngón tay. Không nói đến ngôn ngữ, âm thanh - mà có lẽ
lần thứ nhất trong đời, đệ tử cảm giác nghe được tiếng nói vi diệu không phải
của nhân gian trần tục. Đệ tử chỉ nói đến cái cách sa-môn Gotama thiện xảo
trong cách sử dụng ngôn ngữ và cách đặt vấn đề. Chỉ sơ sẩy, lơ là một chút là
lập trường tư biện của ta sẽ bị mất tích vào nội dung luận chứng của ông ta
ngay lập tức mà không hề hay biết...
Cả
hội chúng rúng động. Im lặng.
Dīghatapassa
thủng thỉnh nói tiếp:
-
Cái ấy tuy ghê vậy nhưng chưa quan trọng...
Mọi
người dồn dập hỏi:
-
Vậy cái gì quan trọng hơn?
-
Thưa, chính là sự hấp dẫn, cuốn hút! Khi đối thoại, đệ tử vừa cảm nhận một từ
trường rất an lành, mát mẻ tỏa khắp châu thân - đồng thời như bị say mê cuốn
hút vào trong - mà không có cách chi cưỡng lại được...
Nói
đến ngang đây, Dīghatapassa nhìn mọi người, cất giọng có vẻ thành khẩn, kết
luận:
-
Sa-môn Gotama còn là một huyễn sư - sử dụng huyễn thuật vô hình lôi cuốn cả
hằng ngàn, hằng ngàn đồ chúng ở khắp mọi nơi, trên khắp các quốc độ! Hai vị đại
vương đại đế của châu Diêm-phù-đề và cả triều đình đều là đệ tử của ông ta.
Biết bao nhiêu là trí thức, đại trí thức của thiên hạ đổ xô tìm về quy giáo.
Hằng chục, hằng trăm hoàng thân, vương tôn, công tử, danh gia, đại danh gia,
thủ lĩnh tướng quân, đại thần, quan tổng trấn, triệu phú, đại triệu phú, công
chúa, công nương, vương phi, quận chúa, tiểu thư... đều trở thành thuộc hạ tứ
chúng trong giáo hội độc thân vô tiền khoáng hậu ấy! Chúng ta phải lưu ý như
vậy! Xem thường đối thủ sẽ thất bại đấy! Mà đối thủ này là ai kia
chứ? Người ta bảo là vị Phật đấy, không lầm đâu! Một đức Chánh Đẳng Giác chính
thị con nai vàng đấy, không phải thứ giả đâu! Xin mọi người hãy tự biết mình!
Xin mọi người hãy cẩn trọng!
Giáo
chủ bàng hoàng cả người, nhưng ông ta là người trấn tỉnh sớm nhất, cất giọng
lớn:
-
Thế là ông bị hớp hồn, cuốn hút vào ngôn ngữ, âm thanh của sa-môn Gotama - rồi
cảm nhận bậy bạ, đưa ra những nhận xét cảm tính chủ quan! Sa-môn Gotama chỉ dụ
dỗ được những người yếu bóng vía, ba cái thứ tôm tép lắt nhắt lăng nhăng mà
thôi!
Rồi
nhìn Upāli, ông nói to:
-
Ông có sợ không, Upāli?
-
Không sợ - trưởng giả Upāli rắn rỏi đáp - Không vào hang hùm
làm sao bắt được cọp con?
-
Phải vậy!
Rồi
mọi người cùng cười ha hả với nhau. Riêng Dīghatapassa thì trông cứ vẫn đăm
chiêu, rồi cảm thấy buồn đau ở trong lòng, tự nghĩ: “Cả một đám hổ lốn,
ngu si, ngốc nghếch, chợ búa, ồn ào, tự mãn như vậy mà đòi đi đối thoại với bậc
thiện trí thức trên đời này! Than ôi!”
Trưởng
giả Upāli, sau đó, tức khắc đi đến rừng xoài Pavarika, vào gặp đức Phật và sau
đó đã xảy ra cuộc đàm thoại như sau.
-
Thưa sa-môn Gotama! Có phải vừa rồi, trong cuộc nói chuyện với đạo sĩ Tapasa,
đức Thế Tôn có xác định, trong ba nghiệp, ý nghiệp là quan trọng nhất, hơn cả
thân và khẩu?
-
Đúng vậy, này trưởng giả Upāli!
-
Làm sao, cái ý nghiệp nhỏ nhiệm, mơ hồ, vô hình lại có thể có năng lực, có tác
động mạnh hơn hai nghiệp kia, nhất là thân nghiệp cụ thể và cường đại này?
-
Này trưởng giả Upāli! Ông có thể y cứ nơi sự thật để cùng đàm luận với Như Lai
được chăng?
-
Có thể được, thưa sa-môn Gotama!
-
Này Upāli! Giáo chủ của ông có khi nào nhắc đến một cảnh giới có tên là Manosattakhông?
-
Dạ thưa có!
-
Cảnh giới ấy tại sao lại có tên là Manosatta [ii], ông có biết không?
-
Thưa biết, cảnh giới ấy do chấp trước ý, do ý sanh nên
gọi tên là chúng sanh do ý sanh!
- Ông bảo là do ý sanh, nói cách khác là do ý nghiệp (Manokamma) sanh?
-
Thưa vâng, ý nghiệp sanh!
Đức
Phật mỉm cười, nhìn ông trưởng giả, điềm đạm nói:
-
Do chấp trước ý, do ý sanh, do ý nghiệp! Hay lắm! Gia chủ, khi
trả lời như thế ông đã suy nghĩ kỹ càng, thận trọng chưa? Ông không sợ lời nói
sau của mình đã phủ nhận lời nói trước của mình hay sao?
Trưởng
lão Upāli lặng người, tái mặt. Lát sau, định tĩnh lại, ông vẫn nói:
-
Dầu thế nào, tôi vẫn với quan điểm thân nghiệp mới là tối trọng - mong rằng vẫn
có thể tiếp diễn cuộc đối thoại này chứ, thưa sa-môn Gotama?
-
Có thể được, này Upāli, nếu ông vẫn y cứ trên sự thật!
-
Thưa vâng!
-
Như Lai biết rằng - đức Phật tiếp tục - Một đạo sĩ Nigaṇṭhā
phòng hộ 4 loại cấm giới rất cẩn trọng. Có người vừa đi vừa quét con đường
trước mặt, sợ đạp nhằm giun dế, kiến, các loài côn trùng. Có người chỉ uống
nước khi đã nấu chín. Có người uống nước ao hồ sau khi đã lọc ba lần. Như thế
nào hở ông gia chủ? Các vị ấy có đảm bảo rằng, trong gió, trong hư không, khi
hít thở vào lại không có chúng sanh? Có đảm bảo rằng dưới bước chân đi, trong
chỗ ngồi, nằm, trong những gáo nước đã uống ấy lại không sát hại những sinh vật
li ti nhỏ bé mà mắt thường không thấy được?
-
Có thể lắm! Nhưng, không cố ý là không có tội!
-
Nếu cố ý thì sao?
-
Là có tội, thưa sa-môn Gotama!
- Vậy
chỗ quan trọng hóa ra là ý, cũng là ý nghiệp?
-
Đúng là ý nghiệp!
Đức
Phật lại mỉm cười nữa:
- Không
cố ý, không có tội, cố ý, có tội, ý nghiệp! Hay lắm! Câu trả lời này
ông có thấy là ông đã tự phủ nhận lập luận của mình, quan điểm của mình chăng?
Trưởng
giả Upāli không tái mặt nữa. Qua hai đoạn đối thoại, qua hai ví dụ cụ thể y cứ
trên sự thực của đức Thế Tôn, ông đã nhìn ra vấn đề, đã thấy rõ vấn đề. Tuy
nhiên, vì muốn học hỏi, ông vẫn giữ quan điểm đối lập.
-
Tuy hay lắm, đúng lắm; nhưng vẫn chưa thuyết phục được tôi, thưa sa-môn Gotama!
-
Thôi được - đức Phật gật đầu - Như Lai cũng kiên nhẫn đưa thêm
vài ví dụ cụ thể nữa, được chăng?
-
Thưa vâng!
- Ở
vùng này, dân cư có vẻ đông đúc lắm, phải không trưởng giả Upāli quý mến?
-
Dạ, đông lắm!
-
Nếu có một người điên, hung khí nổi lên, sát khí nổi lên - cầm vũ khí sáng ngời
trên tay, y nói với mọi người rằng: “ Chỉ trong một thoáng khắc, một
sát-na, với thanh kiếm này, tôi sẽ làm cho tất cả mọi người trong vùng này
thành một đống thịt, thành một khối thịt?” Lời của người điên ấy, sẽ
thành hiện thực không, khi chỉ với một cây kiếm, trong thời gian một thoáng
khắc, một sát-na?
-
Thưa, không thể! Dẫu là một kiếm sĩ, kiếm vương, với một thanh kiếm trong thời
gian một thoáng khắc, một sát-na - thì giết vài người đã không được, mười người
lại càng không thể, huống hồ dân cư đông đúc cả một vùng!
-
Thế nhưng, này gia chủ! Nếu có một đạo sĩ có uy lực, có đại uy lực do thành tựu
đại chú thuật - với tâm sân hận, y nói rằng: “Ta sẽ giết hết tất cả mọi
người trong mấy ngôi làng này, chỉ trong một thoáng khắc, một sát-na mà thôi! ”Lời
của đạo sĩ ấy không biết có thể trở thành hiện thực được không? Trong một
thoáng khắc, một sát-na, với tâm sân hận, y có làm được thế chăng, Upāli?
-
Có thể được, thưa sa-môn Gotama! Với tâm sân hận, với đại uy lực do đại chú
thuật, trong một sát-na - y không những giết hết mọi người trong mấy ngôi làng,
mà còn nhiều hơn thế nữa cũng được đấy!
Đức
Phật lại gật đầu, mỉm cười:
-
Ông trưởng giả vừa xác nhận là một người, với một thanh kiếm - trong một
sát-na, sức hủy diệt của nó không đáng kể gì - so với một đạo sĩ có đại chú
thuật, có đại uy lực?
-
Thưa vâng!
-
Thế ra, cái sức mạnh của thân, thân lực - không thể nào so sánh được với sức
mạnh của ý, ý lực?
-
Nhất định vậy rồi!
Nói
thế xong, trưởng giả Upāli biết mình không thể nào đứng vào thế đối lập được
nữa - ông phụ họa theo:
-
Các khu rừng lớn, các khu rừng có tên có tuổi - như rừng Daṇḍaka, Kaliṇgā,
Mejjha, Mātaṅgā... bị thiêu hủy, mà hiện giờ ai ai cũng không quên được là do
tâm sân hận của các đạo sĩ độc ác đấy, thưa sa-môn Gotama!
-
Ừ, đúng vậy! Đức Phật nói - Hóa ra ông đã hoàn toàn đồng ý với
Như Lai là ý nghiệp có sức mạnh tối thắng hơn là thân nghiệp?
Trưởng
giả Upāli chợt quỳ xuống, năm vóc sát đất, vô cùng cung kính đảnh lễ đức Phật
rồi thưa rằng:
-
Bạch đức Thế Tôn! Chỉ với ví dụ đầu tiên “rất ngắn gọn, rất minh nhiên,
y cứ trên sự thật” của ngài về “ Ý trước thiên” - đệ
tử đã hiểu ra toàn bộ, đã vô cùng thỏa mãn, hoan hỷ. Nhưng vì đệ tử còn muốn
học hỏi, còn muốn hiểu rõ sâu cạn, xa rộng của vấn đề nên đã tự trấn tỉnh mình,
đứng vào thế đối lập - có vẻ ngu si và cố chấp - xin đức Thế Tôn đại bi xá tội
ấy cho đệ tử.
Vị
gia chủ đảnh lễ một lần nữa rồi chấp tay, nói tiếp:
-
Ôi! Thật là vi diệu thay! Thật là rõ ràng, minh bạch thay! Đức Tôn Sư đã bi mẫn
và nhẫn nại dùng nhiều phương pháp trình bày, ví dụ, giải thích - như trao cho
đệ tử một ngọn đèn, một đôi mắt sáng để thấy rõ cái cốt lõi của giáo pháp. Vậy
nay đệ tử xin quy y Thế Tôn, quy y Chánh pháp, quy y chúng tỳ-khưu Tăng. Mong
đức Thế Tôn nhận đệ tử làm người cư sĩ từ nay cho đến mạng chung, trọn đời quy
ngưỡng.
Trưởng
giả Upāli đảnh lễ một lượt nữa.
Đức
Phật nói:
-
Từ từ đã, này gia chủ! Hãy suy nghĩ cho chín chắn trước khi phát nguyện quy y.
Chín chắn trong suy tư là một cái gì rất tốt đẹp đối với một trưởng giả có học
thức, hiểu biết và hữu danh như ông.
Trưởng
giả Upāli lại gập đầu, kính cẩn nói:
-
Câu nói ấy của đức Thế Tôn, đúng là phẩm cách của bậc chí nhân, chí thiện và
đại trí trên đời này; đệ tử lại càng quy ngưỡng hơn nữa. Sự nương tựa của đệ tử
lại càng thêm tịnh tín và bất động.
-
Này gia chủ! Như Lai nói rất thật lòng, không có chỗ nào là đãi bôi, khách sáo
và hư ngụy ở đây cả. Hiện tại, nhà ông là cái giếng nước đầy tràn giữa ngã tư
đường cho các Nigaṇṭhā; là cả một suối nguồn tuôn chảy không bao giờ khô
cạn cho các Nigaṇṭhā. Quy y với Như Lai, các Nigaṇṭhā sẽ bảo rằng, Như Lai là
một huyễn sư đã sử dụng chú thuật, huyễn thuật để quyến dụ ông, đã cướp đi
miếng cơm manh áo của họ. Vậy, không cần thiết phải quy y Như Lai! Hãy trở về
với giáo chủ của ông và hãy làm trọn phận sự của một đệ tử thuần thành y như
trước đây, là hãy chăm lo bố thí, cúng dường đến cho họ, này gia chủ!
Trưởng
giả Upāli nghe đức Phật nói như thế, tâm tư ông tràn đầy an vui và mát mẻ, nói
rằng:
-
Từ lâu, các tôn giáo khác, cụ thể là các ông Ni-kiền-tử - họ đã nói với mọi
người và đồ chúng rằng: Hãy đến đây mà quy y với ta, ta mới chính là đạo sư,
chân sư, minh sư trên đời này! Hãy đến đây mà bố thí cúng dường đến ta và đệ tử
của ta; bởi như vậy mới có được công đức lớn, phước báu lớn; bố thí cúng dường
đến người khác, các tôn giáo khác sẽ chẳng có được lợi lạc gì đâu! Ôi! chỉ có
đức Thế Tôn mới nói những lời làm cho đệ tử hoan hỷ tâm, hoan hỷ trí đến như
vậy. Đệ tử không quy y sao được, không tìm chỗ nương tựa thích đáng, chân chính
cho đời mình sao được, bạch đức Thế Tôn!
Biết
được Upāli là người trí thức, đã có sự sáng suốt và tự do trong việc lựa chọn
của mình nên đức Phật thuận theo cơ duyên, thuyết cho ông nghe một thời pháp. Đầu
tiên, ngài nói về thí, về giới, các cảnh trời - sau đó mới nói đến sự thấp
thỏi, hạ liệt, nhiễm ô và sự nguy hiểm của các dục; sự an vui và hạnh phúc của
sự lìa thoát, bước ra khỏi chúng. Khi biết Upāli trí rất nhạy bén, tâm đã sẵn
sàng - đức Phật bèn tiếp tục giảng nói cái cốt lõi nhất của Tứ diệu đế. Không
ngờ do phúc dày, duyên đủ - nghe xong, Upāli lìa bỏ được tri kiến cũ, nắm bắt
ngay được tri kiến mới, chứng được pháp nhãn thanh tịnh, thảnh thơi
với những bước chân đầu tiên dẵm lên mảnh đất bất tử.
Với
những giọt nước mắt ràn rụa, không nói nên lời, trưởng giả Upāli dập trán mình“lộp
độp” xuống đất đến rướm máu với sự tri ân vô hạn. Đức Phật làm lễ quy
y cho ông trước sự chứng kiến và sự hoan hỷ của các hàng trưởng lão.
Tại
trang viện, sớm hôm sau, trưởng giả Upāli tập họp vợ con, hầu thiếp, mọi người
trong nhà, cả hằng trăm gia nhân - rồi trịnh trọng tuyên bố như sau:
-
Từ rày trở đi, các người ghi nhớ lời này: “ Hãy đóng cửa đối với các
Nam Nigaṇṭhā, các nữ Nigaṇṭhā; và hãy mở rộng cửa, tất cả các cửa chính để trân
trọng nghinh đón, mời nước, dọn chỗ ngồi đối với các tỳ-khưu, tỳ-khưu-ni,
sa-di, sa-di-ni, Nam nữ cư sĩ trong giáo hội của đức Thế Tôn Sākya Gotama!”
Các
bà vợ ngạc nhiên, cất tiếng hỏi:
-
Sao có việc lạ lùng đến vậy, phũ phàng đến vậy đối với giáo chủ và đồ chúng
Nigaṇṭhā mà trước đây ông đã bắt chúng tôi cung phụng họ không mệt mỏi? Vậy nếu
nhỡ họ đến thì phải ăn nói làm sao?
Trưởng
giả Upāli cất giọng to:
-
Đừng ngại gì cả! Đừng sợ gì cả! Cứ nói như thế này: “ Thưa các tôn giả,
các tôn giả đừng có bước vào! Gia chủ Upāli bây giờ không còn là đệ tử của các
Nigaṇṭhā nữa; ông ta đã là đệ tử của đại sa-môn Gotama rồi!”
-
Thế không cúng dường vật thực cho họ nữa hay sao?
-
Có! Có! Đức Tôn Sư của ta có dạy bảo là nên cúng dường cho họ. Nhưng trong
trường hợp ấy, hãy yêu cầu họ đứng bên ngoài, và các người hãy mang vật thực ra
tận nơi mà đặt bát! Hãy nhớ như vậy!
Du
sĩ Dīghatapassa khi nghe đồn trưởng giả Upāli đã quy giáo đức Phật, ông tự nhủ
rằng: “Đúng là vậy rồi, không thể sai trật!” rồi vội vã đến báo tin ấy cho giáo
chủ của mình hay. Niganṭḥā Nāṭaputta không tin:
-
Ngược lại mới đúng, này Tapassa! Có lẽ sa-môn Gotama quy giáo thiện Nam tử
Upāli của ta - mà thiên hạ nghe nhầm đấy!
Dīghatapassa
nói đến ba lần và cả ba lần ông giáo chủ cũng lặp lại nguyên ý cũ, lại còn bảo:
-
Nếu không tin, ông hãy đến trang viên thiện Nam tử của ta mà xem!
Dīghatapassa
nói:
-
Đi thì đi, nhưng đệ tử biết chắc như đinh đóng cột rằng là, Upāli đã vĩnh viễn
từ bỏ Nigaṇṭhā của chúng ta rồi!
-
Tại sao? Ông giáo chủ quắc mắt - Tại sao ông lại nói lên điềm
gở ấy?
-
Tại sao ư? Vì đệ tử biết rõ Upāli người có trí - mà sa-môn Gotama lại là bậc
đại trí! Thế thôi!
Thấy
Nāṭaputta gườm gườm có vẻ tức giận, Tapassa bước nhanh ra ngoài, tìm đến trang
viện của Upāli. Ông bị người ta chặn ở cửa:
-
Xin tôn giả chớ có bước vào!
-
Tại sao?
-
Gia chủ Upāli bây giờ đã là đệ tử của sa-môn Gotama rồi. Nếu muốn, tôn giả cứ
đứng ở đây, chúng tôi sẽ đặt đầy vật thực.
-
Ta không cần đồ ăn!
Tapassa
bước lui và đi liền một mạch về kể lại sự thực cho giáo chủ Ni-kiền-tử.
Muốn
hỏi cho ra lẽ, Nāṭaputta triệu tập đồ chúng, kéo đến trang viện của Upāli. Họ
cũng bị viên gia nhân chặn ở cửa, không ngoại lệ.
Tức
giận quá, Nāṭaputta quát to:
-
Hãy báo cho Upāli biết, là giáo chủ Nāṭaputta đang đứng ở ngoài cửa, muốn gặp
ông ta.
Khi
gia nhân vâng lời đi vào trong thưa báo, giáo chủ Nāṭaputta tự nghĩ: “
Tapassa và thiên hạ nói đúng sự thật rồi. Trước đây, khi ta đến, vị gia chủ này
đi đón ta xa ngoài ngưỡng cửa, đầu cúi thấp, một tay chấp lại, một tay rải hoa
rải hương thơm ngào ngạt. Vào trong, nơi chỗ ngồi tối thượng, tối tôn, tối cao,
tối thắng như vua chúa - ông ta còn lấy thượng y quý phái của mình mà lau chỗ
ngồi cho ta nữa. Còn nay thì sao? Còn nay thì một tên gia nhân, lại dám đóng
sập cửa trước mũi của ta!”
Khá
lâu sau, thấy cửa chính được mở ra; và ông quản gia tóc bạc dẫn họ vào một căn
phòng lớn, sang trọng. Các chỗ ngồi đâu đó đã được soạn sẵn. Tại chỗ trân trọng
nhất - có một lò trầm và một bình hoa tươi thắm đặt trên chiếc bàn phủ nhung đỏ
- ở đấy là nơi mà ông giáo chủ thường ngồi, thì nay là Upāli trong phục sức của
một trưởng giả phú quý trong địa vị là một gia chủ đang đợi khách!
Upāli
cất giọng cười to, đưa bàn tay ra:
-
Quý hóa quá! Hân hạnh có tôn giả ghé thăm! Các chỗ ngồi đã được soạn sẵn, nếu
muốn, tôn giả cứ lựa tìm chỗ ngồi ở nơi phải lẽ!
Ông
giáo chủ nổi giận đùng đùng:
-
Ông thật là điên cuồng, này gia chủ! Ông thật là ngu si, này gia chủ! Ông xin
ta được đi luận chiến với sa-môn Gotama; nói hay, nói ho, nói đẹp, nói khéo; nói
có hình tượng... nào là sẽ vặt, sẽ vần, sẽ dặc, sẽ chơi trò chơi phun nước; sẽ
buộc chặt ông ta, trói ké ông ta trong màn lưới luận nghị vô phương vùng vẫy.
Bây giờ thì sao nào? Ông đi với hai hòn cao hoàn, khi về, cả hai hòn cao hoàn
đều bị sa-môn Gotama thiến trụi! Ông đi với hai con mắt, khi về, cả hai con mắt
đều bị sa-môn Gotama khoét tiệt! Thật sự, ông đã bị huyễn thuật của sa-môn
Gotam dụ dỗ, lôi cuốn rồi! Tự mãn cái gì? Tự đắc cái gì mà huênh hoang vênh váo
thế kia?
Trưởng
giả Upāli cười sảng khoái:
-
Hay lắm! Tuyệt lắm! Và lại càng vi diệu hơn nữa là trò huyễn thuật của sa-môn
Gotama! Nếu bà con huyết thống thân yêu của tôi mà được huyễn thuật này lôi
cuốn thì an lạc và hạnh phúc cho họ xiết bao! Nếu các người sát-đế-lỵ mà được
huyễn thuật này hấp dẫn thì an lạc và hạnh phúc cho họ vô cùng! Cũng vậy là các
bà-la-môn, vệ-xá, thủ-đà-la! Cũng vậy là chư thiên, ma vương, phạm thiên, loài
người, các sa-môn, đạo sĩ... mà được huyễn thuật của sa-môn Gotama thì thật là
đại hạnh cho ba cõi! Là môn đệ của đức Tôn Sư ấy, Upāli tôi xin được
cảm ơn tôn giả đã dùng từ huyễn thuật rất chính xác vậy!
Ông
giáo chủ cứ “hừm, hừm”, giận quá nên không nói được lời nào
cả.
Trưởng
giả Upāli thản nhiên tiếp tục:
-
Cũng xin cảm ơn tôn giả đã đưa ra hai ví dụ về hai hòn cao hoàn bị thiến và hai
con mắt bị khoét! Thật là hình tượng lắm, mà miệng lưỡi cũng cay chua, độc địa
lắm! Tôi cũng có hai ví dụ xin được kể hầu tôn giả đây. Có một ông phú hộ nọ
mắt lé, chân thọt, cưới mụ vợ cũng mắt lé, chân thọt; khi sinh ra một cô tiểu
thư cũng mắt lé, chân thọt. Thế nhưng, ông ta hãnh diện lắm, nghĩ trên trần
gian này, người nào mắt lé, chân thọt đều đẹp cả; ai có được ngũ quan toàn hảo
thì ông cho là xấu. Từ đó, ông nhìn cuộc đời bằng cái khuôn “mắt lé,
chân thọt”. Và “quan điểm mắt lé, chân thọt” ấy là
giáo pháp của tôn giả, thưa tôn giả kính mến. Cái giáo lý ấy thật là kỳ hình dị
dạng nhưng tôn giả cho là toàn mỹ, tuyệt bích; ai không tu theo tôn giả thì tôn
giả cho là xấu, là sai! Bao nhiêu năm qua, tôn giả đã biến tôi từ một con người
bình thường, một tâm và một trí bình thường - thành một con người có mắt lé và
chân thọt. Tôi đã nhìn thế gian bằng đôi mắt lé, xiên xẹo, nghiêng lệch - không
còn thấy đâu là cái chính đính, trung chính, đúng đắn, như chân như thực nữa.
Còn lộ trình tu tập thì tôi bước đi bằng đôi chân thọt, lập đập, nghiêng bên
này, ngã bên kia... theo cái lộ trình sai lầm, ngu si, điên đảo của tôn giả.
Đến với sa-môn Gotama, một giáo pháp như chân như thực, đã trả lại cho tôi một
con người như chân như thực; tôi như được sống lại, tôi như được vén mở hằng
triệu đêm tăm tối để thấy được ánh sáng mặt trời - thưa tôn giả kính mến! Đấy
là ví dụ thứ nhất.
Tuy
biết ông giáo chủ đã giận lắm rồi, nhưng hôm nay trưởng giả Upāli quyết ăn
miếng trả miếng, đòi lại cái món nợ “thiến cao hoàn và khoét mắt” nên
thủng thỉnh nói tiếp:
-
Có một người thợ nhuộm thiện xảo về nghề nghiệp của mình. Ông ta là vua màu sắc
và vua thợ nhuộm: cái gì ông nhuộm cũng được cả. Trong cái xưởng của ông, không
những vải vóc, áo quần... mà bàn ghế, giường tủ, vật dụng gì gì ông cũng nhuộm
cả, sắc màu tự ông nghĩ ra. Hôm ấy, vợ ông mua về một con khỉ để cho đứa con
nhỏ của ông chơi. Ngắm nghía con khỉ, tự dưng, thích thú quá, ông mỉm cười. Sau
đó, ông pha chế sắc màu và nhuộm con khỉ theo ý nghĩ của mình. Thế rồi, tay
chân, mặt mũi, lưng bụng gì của con khỉ cũng bị nhuộm cả với rất nhiều sắc màu
khác nhau. Thế là con khỉ nhảy múa, leo trèo gì trông cũng vui vẻ như một vũ
điệu về màu sắc. Đứa trẻ con ông thích thú quá, cười sặc sụa. Nhìn đứa trẻ,
thấy chẳng giống con khỉ chút nào - ông bèn nghĩ cách nhuộm đứa bé cho giống
con khỉ để chúng chơi với nhau. Bà vợ bước vào, không còn nhìn ra đứa bé con
của mình nữa, bà chết giấc! Thưa tôn giả, giáo pháp của tôn giả là ông thợ
nhuộm thiện xảo ấy. Tôn giả muốn nhuộm cả thiên hạ cho giống con khỉ kia! “Con
khỉ chẳng ra con khỉ là quan điểm, là triết học, là nhân sinh quan” của
tôn giả! Tôi đến với tôn giả, tôn giả đã nhuộm tôi như nhuộm đứa bé sao cho
giống con khỉ, chẳng nhìn ra con người là ở đâu nữa. May thay mà cũng phúc lành
thay, tôi đến với sa-môn Gotama - và tôi đã hoàn thân lại con người với mặt mũi
tay chân, tâm trí gì cũng là con người cả! Được trở lại làm người! Đấy là ví dụ
thứ hai!
Nghỉ
hơi một lát, trưởng giả Upāli nói:
-
Để kết luận, và đây cũng là lời cuối cùng, trang viện này, từ nay, đóng cửa đối
với các Nam, các nữ Nigaṇṭhā, và tôn giả cũng không loại trừ, thưa tôn giả giáo
chủ kính mến!
Nói
thế là đã “cạn tàu, ráo máng”, thế nhưng, vị giáo chủ của
chúng ta còn cố vớt vát, hỏi câu cuối cùng:
-
Thế gia chủ làm đệ tử sa-môn Gotama thật sao?
Trưởng
giả Upāli chợt cười ha hả, đứng bật dậy, trật y vai phải, quỳ xuống, hướng đến
khu rừng Pavarikāmba - nơi đức Phật đang ngự - đảnh lễ năm vóc sát đất rồi cũng
ra oai bắt chước tiếng rống của “tiểu sư vương”:
“- Khi mặt trời đã lên rồi, thì các ngọn đèn, những con đom đóm
biết thắp sáng cho ai nữa? Mặt trời ấy là đại sa-môn Gotama, là bậc chân sư, là
đạo sư của tôi! Thảm thương thay là những cái lắt lay, leo lét của các ngọn
đèn, của những con đom đóm mà dám so với ánh sáng mặt trời! Khi hải triều âm đã
vọng lên rồi, thì còn đâu nữa tiếng vỗ của suối, của sông, tiếng reo của lá
gió, của muôn phương gầm rú, của khỉ vượn cọp beo? Hải triều âm kia là chánh
pháp của đại sa-môn Gotama, là chân sư, là đạo sư của tôi! Khi đỉnh Himalaya đã
cất cao đầu, thiết lập vị trí thống lãnh, đầy uy lực làm vua vạn sơn - thì núi
lớn, núi nhỏ, những gò, những đống kia, sao không biết tự thẹn mà còn dám danh
xưng thế này thế nọ? Đỉnh Himalaya kia là sự chứng ngộ của đại sa-môn Gotama, là
chân sư, là đạo sư của tôi! Ôi! Vị ấy có trí sáng, có tâm vô biên, có giới đức,
có tuệ đức, có định đức, bậc điều ngự, vô thượng sĩ, đại ngưu vương, đại long
vương, đại sư vương, thầy ba cõi, bậc thiện thệ, đấng đại giác, đại giải
thoát...Và đức Thế Tôn ấy là chân sư, là đạo sư của tôi, tôi là đệ tử Người!”
Nghe
trưởng giả Upāli tán thán đức Phật hết ngôn ngữ, hết hình ảnh như thế, Nigaṇṭhā
không còn chịu đựng nỗi nữa, ông thổ huyết nóng tại chỗ, các đệ tử đi theo phải
dìu ông trở về.
Đạo
sĩ Dīghatapassa đứng lại một lát, ông mỉm cười nhẹ rồi nói với gia chủ Upāli:
-
Trưởng giả đã sáng suốt lựa chọn con đường cho mình, điều ấy là rất tốt và là
việc cần làm! Nhưng trả đũa đến độ làm cho giáo chủ chúng tôi bị thổ huyết - ấy
là việc hơi quá đáng, không nên làm!
-
Tôi đã biết lỗi lầm của mình rồi!
Nhìn
vẻ mặt có vẻ ăn năn của gia chủ Upāli, Dīghatapassa trấn an ông:
-
Nhưng vì giáo chủ của chúng tôi đưa ví dụ cái “cao hoàn” ra mà
nói chuyện lại càng quá đáng hơn! Lỗi về phần ông ấy! Ngưng một lát,
thở dài, nhìn Upāli, rồi ông nói như tâm sự - Trước sau gì tôi cũng
phải đi theo bước chân của trưởng giả, tôi sẽ xin xuất gia trong giáo pháp của
sa-môn Gotama! Sống với kẻ trí, dù có ngu dốt tới đâu, ta cũng học được một vài
lợi ích! Con đường tu học, nếu mà lựa chọn sai lầm, sẽ khổ đau trong nhiều đời
kiếp, có hối cũng không còn kịp nữa!
-
Xin cảm ơn đạo sĩ!
-
Đừng cảm ơn tôi! Tôi phải cảm ơn gia chủ đã làm cho giáo chủ chúng tôi thức
tỉnh một phần nào!
Họ
từ giã nhau rất thân thiện.
Trong
lúc đức Phật cảm hóa Dīghatapassa - thì các vị tôn giả Mahā Moggallāna Mahā
Kassapa tiếp độ thân bằng quyến thuộc của mình. Riêng tôn giả Sāriputta thì dẫn
được hai cô em gái là Cālā và Upacālā đi theo về Vesāli rồi sẽ cho xuất gia tại
đó.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét