Một bài thơ lạ về thân phận Việt
Trong tư cách số đặc biệt về thơ, Việt số
1 (Australia) đã có nhiều bài sáng tác, lý luận và thẩm định gây ấn tượng, gợi
mở suy nghĩ và khai mở thêm các kênh, mạch suy tư về thơ và không chỉ về thơ.
Những bài viết hay dịch đều có một định hướng chung: chiêm ngưỡng, thực thi và
giải minh cái mới trong thơ. Bài viết của Hoàng Ngọc Tuấn giới thiệu bài thơ
SCHEMA của Dan Graham lại nỗ lực nối kết những câu chữ vốn bị coi là phi thơ với
cội nguồn nhân bản của thơ là khát vọng truy tìm những bí ẩn kỳ thú của tự
nhiên trong con người, cố gắng giải mã cái cơ chế cám dỗ của bài thơ quái dị
này. Những bài viết của T.S. Eliot, R.M Rilke, Richard Kostelanetz, W.J.T
Mitchell là những cú đấm lý luận vào những cặp mắt đọc thơ cũ kỹ...
Bài viết này là kết quả hôn phối của những
xúc động và ấn tượng khi đọc bài thơ "Đọc bài Con cò mà đi ăn đêm" của
Trần Lộc Bình với những hứng khởi lý luận tìm kiếm bảo vệ và hỗ trợ cho cái mới
được gợi lên bởi những bài viết của Nguyễn Hưng Quốc, Thường Quán, Ngu Yên và
Hoàng Ngọc Tuấn.
Con cò - Một biểu tượng về thân phận Việt
Giáo sư Phan Ngọc cho rằng văn hoá Việt Nam
được đặc trưng bởi bốn thành tố: Tổ quốc, gia đình, thân phận và diện mạo. Đây
là một nhận định chính xác và sâu sắc. Bốn thành tố trên có liên quan với nhau,
là điều kiện cho nhau và trong một chừng mực nào đó là bổ sung và đối trọng của
nhau. Mặc cảm thân phận có thể coi là một mẫu số chung nhạy cảm. Người Việt
không chỉ bị ám ảnh và suy tưởng về thân phận cá nhân liên quan đến diện mạo
trong cộng đồng, mà còn xót xa với thân phận gia đình và Tổ quốc trong những diễn
biến trầm luân của nó. Khảo sát văn hoá Việt Nam mà không quan tâm đúng mức đến
mặc cảm thân phận thì sẽ khó giải mã được những biểu hiện tinh tế, phức tạp của
tâm thức văn hoá Việt.
Mặc cảm thân phận xuyên suốt và ám ảnh trong
nhiều hình tượng văn học và biểu tượng văn hoá, trong đó, bài ca dao "Con
cò mà đi ăn đêm" là một trong những biểu hiện đậm nét nhất. Đó là tiếng
nói của thân phận nông dân Việt nói riêng và người Việt nói chung nhắn gửi ông
Trời và con cháu. Hình tượng con cò trong ca dao Việt Nam mang tính chất một biểu
tượng văn hoá, một hiện thân của thân phận người Việt và một biểu trưng của
tính thơ. Trong tư cách là biểu tượng văn hoá, con cò là nhân vật đại diện chất
thơ truyền thống Việt, đối trọng với con cóc là đại diện cho tính chất phi thơ.
Sự đối trọng này không phải là ngẫu nhiên. Đối chiếu hai hình tượng này ta thấy
rõ chúng đối trọng nhau, tương phản nhau đến từng chi tiết:
Con
cò Con
cóc
Trắng, đẹp, mượt Đen,
xấu xí, sần sùi
Trên cánh đồng mênh
mông Trong
hang chật chội
Bay lả bay
la Ngồi
đấy, nhảy
Yếu ớt, hiền lành dịu
dàng, Khoẻ,
nghênh ngáo, cộc lốc
Hành động khó khăn, phức tạp Hành
động dễ dãi, giản đơ
Có mục đích nhỏ, cụ thể thiết thực Vô
mục đích/ mục đích lớn
Không bị châm biếm Bị
châm biếm
Qua sự đối chiếu này ta thấy con cò là
biểu tượng của thân phận con người lao động bình thường, nhỏ bé, an phận, giàu
tình cảm và mơ mộng; con cóc là hiện thân của lớp người mạnh mẽ, giàu lý trí và
ý chí, không chấp nhận thực tại - đó là những nông dân khởi nghĩa đòi
đổi thay số phận và giới trí thức, quan lại giàu ý chí và lý trí. Nếu con cò và
những hình tượng nằm trong hệ thống mô típ trữ tình kiểu con cò được coi là có
chất thơ, hợp với tần số trữ tình của văn hoá Việt, thì con cóc hiển nhiên phải
là hiện thân của cái phi thơ.
Ở đây, xét từ góc độ ý thức về thân phận thì con cò được người Việt xưa này thương cảm vì nó tỏ ra "biết thân biết phận", dùng thơ con cò ru con có thể giáo dục cho con trẻ trở lên ngoan ngoãn, biết điều, không gây hấn mà năn nỉ van xin kẻ mạnh nới tay giữ cho mình một chút danh thơm trong sạch trong tư thế kẻ yếu, kẻ sa cơ lỡ vận, kẻ bị oan. Bài thơ con cóc không được đem ru con chắc là vì cha ông ta sợ nhồi vào trí não trẻ con những thái độ nhâng nháo, không biết thân biết phận (?!) Song, cả con cò và con cóc đều là những biểu tượng văn hoá phức tạp mang trong nó những chiều hướng khác nhau của tâm thức văn hoá Việt đầy nghịch lý, đều là những biểu hiện rõ nét của mặc cảm về thân phận bé nhỏ của người Việt với những biến tướng tự tôn và tự ti, khuất phục và phản kháng, kiêu hãnh và tủi hổ, lì lợm, bất cần và năn nỉ, cầu cạnh v.v...
Ở đây, xét từ góc độ ý thức về thân phận thì con cò được người Việt xưa này thương cảm vì nó tỏ ra "biết thân biết phận", dùng thơ con cò ru con có thể giáo dục cho con trẻ trở lên ngoan ngoãn, biết điều, không gây hấn mà năn nỉ van xin kẻ mạnh nới tay giữ cho mình một chút danh thơm trong sạch trong tư thế kẻ yếu, kẻ sa cơ lỡ vận, kẻ bị oan. Bài thơ con cóc không được đem ru con chắc là vì cha ông ta sợ nhồi vào trí não trẻ con những thái độ nhâng nháo, không biết thân biết phận (?!) Song, cả con cò và con cóc đều là những biểu tượng văn hoá phức tạp mang trong nó những chiều hướng khác nhau của tâm thức văn hoá Việt đầy nghịch lý, đều là những biểu hiện rõ nét của mặc cảm về thân phận bé nhỏ của người Việt với những biến tướng tự tôn và tự ti, khuất phục và phản kháng, kiêu hãnh và tủi hổ, lì lợm, bất cần và năn nỉ, cầu cạnh v.v...
Từ bao đời nay, tiếng kêu cứu của con cò
trong bài ca dao "Con cò mà đi ăn đêm" là lời tự thú, thanh
minh và than thở của thân phận người nông dân Việt Nam, là lời khẩn cầu được cứu
vớt cả thể xác và linh hồn. Nhu cầu giải phóng linh hồn xuyên qua cả cái chết.
Người Việt Nam chấp nhận trả giá, chấp nhận sự trừng phạt, chấp nhận cái chết
dù đó là cái chết oan, nhưng đòi hỏi kẻ mạnh phải tôn trọng, phải đối xử với
cái chết của mình bằng những hình thức tương xứng với con người lương thiện.
Trong một khía cạnh nào đó, lời khẩn cầu "có xáo thì xáo nước trong" còn
có ý nghĩa biện minh cho một tội lỗi con người mắc phải trong tình thế ("đi
ăn đêm","lộn cổ xuống ao").
Chỉ với sáu câu lục bát thôi, bài ca dao đã
ghi chép tất cả cái tinh tuý của hồn Việt với ý thức về thân phận và khát vọng
vượt lên thân phận nhược tiểu, lệ thuộc bằng sự tìm kiếm khôn nguôi những ý
nghĩa cao cả, những giá trị đạo đức và văn hoá.
Thi pháp mới và những hiệu quả tư tưởng thẩm
mỹ mới
Bài thơ "Đọc bài con cò mà đi ăn
đêm" của Trần Lộc Bình thoạt nhìn có vẻ một trò đùa, nhưng càng đọc kỹ,
càng ngẫm nghĩ, càng thấy bài thơ gây xúc động và gợi nhiều suy tưởng về thân
phận người Việt trong thế giới hiện đại. Những dấu khoanh vòng, những đường nét
nối kết tìm kiếm những liên hệ ngôn ngữ trong bài thơ gây ấn tượng trực quan về
sự mổ xẻ, phanh phui, xét nét và tàn nhẫn cái biểu tượng về thân phận Việt Nam.
Bài thơ bị băm ra, những đường đứt đoạn gạch chéo gợi lên hình ảnh những mũi chỉ
khâu bài thơ lại, dấu vết của một sự giải phẫu.
Thế giới hôm nay lắng nghe, tiếp nhận tiếng
kêu cứu truyền đời của người Việt chúng ta theo phương thức của thời hiện đại -
không đón nhận bằng quả tim đôn hậu thuần phác cổ điển của ngày xưa nữa, mà tiếp
nhận nó từ các chiều kích khác nhau của lý trí khoa học và lý trí quyền lực.
Tiếng kêu cứu bị giải mã, bị đưa vào hệ nhìn
của tin học để lập hồ sơ, phân tích thành các yếu tố thông tin về cấu trúc và dữ
liệu. Những thành tố văn hoá, những run rẩy thân phận, những khát vọng ngàn đời
chỉ còn là những thông số kỹ thuật: "Bằng bằng, trắc trắc, bằng bằng
trắc bằng" như các bảng properties trong computer. Những
tiếng gọi thất thanh trong lịch sử "Ông ơi", những lời lẽ nhún
nhường "Cò con" từng mang biết bao nhiêu thông điệp về thân
phận và văn hoá của người nông dân Việt Nam bé nhỏ, giờ đây chỉ được tiếp nhận
như những đại từ "Ngôi thứ nhất" "Ngôi thứ hai"
"Ngôi thứ ba". Ngôn ngữ và ý thức về ngôn ngữ dường như nổi bật
hơn con người với cảnh ngộ, tư thế và đức hạnh của nó. Phương tiện giao tiếp của
con người được người ta quan tâm hơn bản thân số phận con người. Đó chẳng là
tâm thế và bi kịch của thời đại hôm nay đó sao? Con cò xưa bị mất đối tượng để
cầu cứu, gọi "ông ơi" không được nữa, phải quay sang gọi "bà
ơi". Tội nghiệp. Nhưng tiếng kêu lại không được hồn nhiên đón nhận như
ngày xưa. Con người hiện đại đầy hoài nghi không tin vào những lời nói, những
thông điệp mà nó nghe thấy. Nó chất vấn lại:
Vô tình đậu phải cành mềm... xuống ao?
Nếu tôi mà có lòng nào... xáo măng?
Xáo thì xin xáo nước trong?
Những lời chất vấn ấy thêm vào thật đắt, nó gợi
về sự thờ ơ, sự hoài nghi, sự mỉa mai và vô cảm trong con người hiện đại trước
lời kêu cứu cấp bách kia gây ấn tượng về sự mất đi khả năng giao cảm và mất đi
tính cấp bách của chủ nghĩa nhân văn trong đời sống hôm nay. Mặt khác, nó gợi cảm
giác về sự thận trọng của computer luôn luôn hỏi lại ta, án ngữ ta, ngăn chặn
những lỡ lầm và những phiêu lưu, mạo hiểm. Cuối cùng, những chữ khoanh tròn, những
ghi chú về ngôi thứ, những câu hỏi hoài nghi trước lời khẩu cầu gấp gáp còn gợi
ấn tượng về thái độ lạnh lùng, hoạch hoẹ, tác phong phê chuẩn của quan lại
trong một thế giới quan liêu, bất cận nhân tình. Trọn vẹn mối quan tâm của thời
đại nằm gọn trong những gạch đít, khoanh vòng (ghi nhận, lưu ý, phê chuẩn, đánh
dấu) ấy thôi! Người ta không để ý đến những đòi hỏi nhân đạo, cao thượng
("vớt tôi nao" và "xáo nước trong") mà người
ta chỉ khoanh vòng chú ý đến hiệu quả thực dụng ("xáo"), nhấn mạnh đến
ngôi thứ ("ông", "con") mà thực chất là tính toán
về sự khác biệt về tầng lớp của con cò và kẻ mà nó cầu cứu.
Những đường kẻ dọc bài ca dao không chỉ ghi dấu
sự lấn áp của kỹ thuật vào hồn người, mà còn tạo biểu tượng thập giá của Thiên
Chúa giáo và thập ngoặc của chủ nghĩa phát xít. Khi được nối lại với nhau bằng
những liên hệ cấu thành biểu tượng, chữ bỗng mang một hàm nghĩa khác vượt thoát
khỏi trường ngữ nghĩa vốn có của bài ca dao. Hai chữ "lòng" ở
hai đầu dường kẻ dọc được đối trọng với hai chữ chữ "xáo" ở
hai đầu đường kẻ ngang và hai chữ "xáo" ở đầu thập ngoặc, gợi
những suy tưởng về tương quan giữa cái thiện và cái ác, giữa lý tưởng và thực tế
với những ý nghĩa triết học và lịch sử rất thâm trầm, sâu sắc:
1- Trong chiều dọc lý tưởng người ta vươn tới
tấm "lòng", tới tình người, tới chủ nghĩa nhân văn, nhưng trong chiều
ngang thực tế người ta lại "xáo" thịt đồng loại, đối xử với con người
như đối với con vật, không hơn.
2- Lương tâm, tình người, chủ nghĩa nhân văn
("lòng") dù ở bậc cao siêu như đức từ bi, vị tha của tôn giáo, hay ở
bậc dưới thông thường như tình cảm yêu thương giữa những con người cụ thể đều bị
vây hãm trong những vòng chật chội. Trong khi đó những cái ác, sự giết chóc, bạo
lực và thực dụng ("xáo") thì quần tụ nhan nhản và hoạt động tự do,
không hề bị nhốt trong vòng kim cô, hay trong những vành khuyên lưu ý của ngòi
bút các quan.
3- Cái thân phận cò con, thân phận Việt Nam
trong bài ca dao kia giờ đây phải vác trên vai cây thập giá lịch sử, bị đóng
đinh vào đó nhưng đến bao giờ mới được phục sinh? Càng suy ngẫm, càng xót xa với
gánh nặng của những "sứ mệnh lịch sử", những "lương tâm nhân loại".
Con cò tội nghiệp sẩy chân xuống lãnh địa của những ông chủ độc ác, tàn nhẫn,
còn cố ngoi lên vác cây thập giá đạo lý để cứu chuộc cho mình và cứu chuộc thế
gian!
4- Tác giả lưu ý ta rằng, ở đầu mút của thập
ngoặc, thập giá (ảo tưởng văn hoá, thân phận văn hoá) là những tên gọi thật và
nguy cơ thật (thân phận thực tế). Người ta chỉ nhìn thấy trong những thông điệp
đạo đức, văn hoá tâm linh của người Việt chúng ta những yếu tố sinh vật (con cò)
có tính thực dụng (xáo) và những liên hệ thứ bậc (ông, con) mang tính lệ thuộc.
Chúng ta không phải là Hitler tàn phá thế giới, không phải Jesus cứu chuộc thế
giới mà có khi chỉ là một thứ thực phẩm lắp bắp đạo đức mà thôi! Tác giả, vô
tình hay cố ý đã làm hiển thị một cái nhìn với thân phận Việt, một nguy cơ với
văn hoá Việt.
Sáu câu thơ lục bát không còn là một chỉnh thể
nữa, những lời chất vấn, bình luận giải mã làm cho lời kêu cứu của con cò càng
trở nên bé nhỏ và yếu ớt. Những lời xen ngang "bằng, trắc, ô, a, nào, nao,
ao..." những câu nhại phụ hoạ, "ăn theo" còn gây cảm giác có sự
đùa giỡn của một kiểu hề chèo tếu táo chỉ biết pha trò, trêu chọc, không quan
tâm đến những đau khổ hay những khát vọng của đối tượng. Nỗi đau bị châm biếm.
Đám đông ào vào bài thơ cô quạnh, cười nói huyên thuyên, bình luận nhảm nhí,
máy móc, nhưng không thấy có ai quan tâm vớt con cò đang chới với trong nguy khốn
với nỗi đau kép của thể chất và của tinh thần.
Tất cả những ấn tượng trên, cùng một lúc đập
vào trực giác và suy tưởng của ta, làm hiện lên một cảnh ngộ bi thương của thân
phận Việt, văn hoá Việt trước những thờ ơ, đe doạ và tàn nhẫn của lịch sử, của
khoa học, kỹ thuật, của thói quan liêu hành chính, của thói thực dụng, hư vô về
văn hoá, cợt nhả quay lưng với những đau khổ và khát vọng truyền đời của tổ
tiên ta. Tất cả những cảm giác, và suy tưởng đó kết đọng lại trong một ấn tượng
thống nhất là ấn tượng về sự tàn nhẫn của những cách nhìn vô cảm về văn hoá và
thảm trạng của văn hoá truyền thống Việt Nam trong những diễn biến lịch sử hôm
nay.
Sự hình thành cơ cấu bày tỏ mới
Bài thơ được viết bằng một thi pháp nước đôi
khơi gợi, pha trộn nhiều phương thức tạo thông điệp và truyền thông điệp. Bài
ca dao xưa trở thành cái bệ cho những biểu tượng mới giáng sinh từ "sự
chăm chú" nhìn vào "cái quen thuộc" của nhà thơ trong tư cách kẻ
đọc bài ca dao đó như chữ dùng của Robert Pack [1].
Song, cái chăm chú nhìn vào một đối tượng quen thuộc để bừng ngộ một chân tướng
mới của sự vật là cái chăm chú có bản chất Thiền học mà một số xu hướng hậu hiện
đại ở Phương Tây khai thác nhằm thoát khỏi những nếp nghĩ, nếp cảm duy lý, tuyến
tính dẫn dắt người viết và người đọc đến những ý nghĩa và ấn tượng cổ điển. Ở
đây, tác giả Trần Lộc Bình tuy đã nhìn chăm chú vào vài điểm trong bài ca dao để
làm được hai việc mà Robert Pack đã coi là có giá trị đó là: đào sâu vào cái
quen thuộc và biến chính bài thơ thành đối tượng nghiên cứu, tạo ra những biểu
tượng đa nghĩa, nhưng bài thơ vẫn là sự đào sâu, nâng cao và mở rộng những
thông điệp nhân văn truyền thống, vẫn tiếp tục lần tìm ra được những đầu mối
quan trọng để gỡ búi tơ rối, chưa phải là nhát dao chặt chéo búi tơ rối để giải
thoát người đọc khỏi nhiệm vụ mỹ học cũ.
Nhưng cái mới, cái hay, cái lạ, cái dân tộc
tính của bài thơ "Đọc bài Con cò mà đi ăn đêm", lại nằm trong
chính sự dung hợp, đong đưa giữa mới và cũ ấy. Trong bài thơ tác giả Trần Lộc
Bình không chỉ kết hợp thơ với phê bình - bài thơ còn là sự pha trộn táo bạo giữa
thơ, phê bình thơ, vẽ kỹ thuật, sân khấu, hội hoạ và trò chơi, tạo nên một bản
giao hưởng thẩm mỹ phức hợp, tạo ấn tượng mạnh hơn và sâu hơn về số phận con cò
truyền thống, số phận văn hoá Việt và thân phận Việt trong cảnh ngộ bị giải phẫu,
căng xé, phanh phui, nghi hoặc và bỡn cợt. Ta thấy hình tượng con cò với những
ý nghĩa tượng trưng truyền thống của nó trở nên bi thảm hơn, tội nghiệp hơn và
đau đớn hơn. Đó là hiệu quả thẩm mỹ của thi pháp mới với tính chất cắt dán,
trích dẫn kết hợp trong thi pháp cái biểu hình và cái chất liệu, cái bình dân
và cái cao siêu, cái sáng tỏ và cái tối tăm - những đặc trưng thẩm mỹ của chủ
nghĩa hậu hiện đại.
Thêm một lần những quan niệm truyền thống về
thơ bị thách thức. Thơ, không còn chỉ là nghệ thuật của ngôn từ thuần tuý, thơ
còn là sự cắt xé ngôn từ, sự bình luận ngôn từ, sự khám phá cấu trúc bên trong
của tác phẩm thơ để tạo nên tầng ý nghĩa thứ hai, thứ ba..., tức là làm cái việc
bắt ngôn ngữ "phải suy nghĩ về chính bản thân", bổ sung cho nhà thơ
tư cách nhà phê bình, nghiên cứu trong bản thân tư duy sáng tác để hướng tới trả
lời câu hỏi: "Cái này được làm ra như thế nào?" như Roland Barthes đã
đề nghị [2].
Nói cách khác, thơ không chỉ là hồn vía của ngôn ngữ, là vỏ âm thanh hình ảnh
trong ngôn ngữ, mà còn là xương cốt kỹ thuật, hành chính và ngữ pháp của ngôn
ngữ như những liên hệ ở ranh giới của kỹ thuật và thẩm mỹ, giữa hình thức và cấu
trúc. Bài thơ "Đọc bài ca dao Con cò mà đi ăn đêm" đứng
chênh vênh trong ranh giới giữa cá tính và phi cá tính, chủ thể và phi chủ thể,
quan điểm và phi quan điểm. Nhà thơ, ở đây, giống như nhện giăng tơ đã giăng mắc
những liên tưởng thơ và siêu thơ của mình trên những chất liệu đã định hình chủ
thể và quan điểm. Sự can thiệp này vừa phá huỷ vừa không phá huỷ, nó chập chờn
giữa phá huỷ và sáng tạo, giữa cũ và mới, giữa đùa giỡn và nghiêm túc, giữa định
hình, sáng tỏ và khuất khúc, tối tăm.
Nhà thơ sử dụng chất liệu vốn có để tạo ra một
chỉnh thể nghệ thuật mới giống như nghệ sĩ điêu khắc sử dụng gốc cây làm chất
liệu tạo hình tạo nên những hình tượng chập chờn giữa biểu hình và chất liệu.
Song, cái chất liệu truyền thống, khi được nhà thơ sử dụng như một cái nền để
triển khai sự đọc của mình trên đó đã không còn giữ nguyên cái sắc thái thẩm mỹ
quen thuộc xưa kia nữa - nó đã dược lạ hoá giống như trên sân khấu Bertolt
Brecht, bởi tác giả đã sử dụng một loạt các thao tác lộn trái, căng ra và tô nhấn
để xếp chồng những biểu tượng văn hoá khác lên cái biểu tượng cũ có tính nền tảng
và tính chất liệu này. Cụ thể:
1- Lộn trái: Những câu chất vấn, lập
hồ sơ tác giả thêm vào bài ca dao không chỉ gây ấn tượng thờ ơ, máy móc, hoài
nghi như đã phân tích ở trên mà còn là cách thẩm vấn những giá trị và những
phương thức cơ bản trong truyền thống. Thử phân tích một câu hỏi đầu tiên, ta
thấy rõ cái "mưu toan" muốn lộn trái những nếp cảm, nếp nghĩ và nếp
phát ngôn trong truyền thống để lạ hoá nó, giúp ta nghĩ sâu tìm ra bản chất:
Con cò mà đi ăn sương
Con cò nhưng đi ăn đêm
Đậu phải cành mềm lộn cổ xuống ao
Bằng bằng trắc trắc bằng bằng trắc bằng
Vô tình đậu phải cành mềm... xuống ao?
Cái ý đồ lộn trái, lật tẩy, gây hoài nghi được
tiến hành kín đáo trong những vi chỉnh mang dáng vẻ tu từ vô tư, thiện chí: lặp
lại cả một câu chỉ tráo đi một chữ ("ăn đêm" thành "ăn
sương"), tiếp tục gợi ý gần hơn bằng chữ "nhưng", rồi lại nguỵ
trang trong những chữ đánh trống lảng nghi binh (bằng bằng trắc trắc) giống như
con chim bói cá lượn xa con mồi để rồi cuối cùng bổ nhào xuống nó trong một đường
bay bất ngờ, quyết liệt:
Vô tình đậu phải cành mềm... xuống ao?
Bỗng nhiên đặt ra vấn đề "vô tình"
hay "cố ý" đậu cành mềm? Dù muốn hay không tác giả đã chỉa sự cật vấn
vào sự lựa chọn của truyền thống, kích thích ta nhìn sâu trong vô thức cộng đồng
để tìm câu trả lời cho câu hỏi bâng quơ mà hiểm hóc kia. Một chữ "ăn
sương" đã lái cái nhìn của ta về phía hoài nghi, giờ đây, thêm chữ "vô
tình?" đầy nghi hoặc, mỉa mai, ta không thể không băn khoăn suy ngẫm
về nếp cũ.
Quả thực là, tuy ý thức được thói đời "mềm
nắn rắn buông", người Việt vẫn có truyền thống thích "đậu
cành mềm", đề cao tính hiệu quả và sự an toàn của những thái độ
"mềm": "Lạt mềm buộc chặt", "mát nước thối
đá", "nước chảy đá mòn", "tránh voi chẳng xấu mặt
nào", "nói ngọt lọt đến xương", v.v... Trong ngoại giao,
người Việt có truyền thống uốn lượn mềm mại giữa các cường quốc, nếu có lúc buộc
lòng phải dùng vũ lực chống xâm lược thì sau khi chiến thắng vẫn phải tiếp tục ứng
xử mềm mang tính chất đóng thuế về danh dự cho kẻ thù (rải chiếu hoa cho chúng
rút về, cống nạp thường xuyên). Trong trang phục, âm nhạc, sân khấu, hội hoạ và
kiến trúc người Việt cũng thường thích những đường cong uyển chuyển, những giai
điệu vũ điệu uốn lượn mềm mại và êm ả, có thể dễ dàng chuyển hoá sang nhau. Rõ
ràng, cái mềm là một sở thích thường trực, một lựa chọn thường xuyên, hơn thế nữa,
là một lựa chọn mang tính định mệnh của dân tộc chúng ta. Lựa chọn đó, theo cái
lôgic oái oăm của lịch sử, lại hay dẫn đến những trả giá vì những lấn lướt và
phản trắc của kẻ mạnh, những cú "lộn cổ xuống ao" mà lịch sử
dân tộc không thiếu gì dẫn chứng. Như vậy, nói "vô tình đậu phải cành mềm
lộn cổ xuống ao" sao được?
Vậy là, những câu hỏi mới được tác giả Trần Lộc
Bình đan cài vào bài ca dao đã dồn những biểu tượng truyền thống vào chân tường,
bắt nó phát lộ cái bản ngã văn hoá truyền kiếp bấy lâu nay vẫn an nhiên trôi
trượt trong dầu nhớt của một chủ nghĩa trữ tình mùi mẫn, yếu ớt và cam phận.
2- Căng ra, cắt dán và tô nhấn: Nếu để
nguyên trạng bài ca dao thì nhà thơ không thể tạo được biểu tượng thập giá với
hai chữ "lòng" và bốn chữ "xáo" ở những đầu mút. Những câu
hỏi, những câu nhại, những câu mang tính hệ thống hoá, lập hồ sơ được thêm vào
bài ca dao không chỉ có tác dụng gây ấn tượng từ nhiều phương diện, mà còn có
chức năng căng bài ca dao ra để có thể thiết lập những biểu tượng thập
giá, thập ngoặc bằng những siêu liên kết vượt thoát khỏi những liên hệ ngữ pháp
và ngữ nghĩa thông thường. Điều thú vị là, ở đây, nhà thơ cũng đã vô tình hay cố
ý tiến hành một nghi binh, một kế đà đao để bất ngờ chộp được những chữ cần thiết
từ biểu tượng cũ để đưa vào biểu tượng mới y như bắt tù binh vậy.
Thoạt đầu, nhà thơ làm ra vẻ muốn đóng xiềng
ngữ pháp cho bài ca dao bằng cách cột nó vào các ngôi thứ của các đại từ nhân
xưng "ngôi thứ nhất", "ngôi thứ hai", "ngôi thứ
ba". Tiếp sau đó, nhà thơ dần dần đưa xen kẽ những "đội quân"
ngôn ngữ của mình vào để khéo léo dồn đuổi cấu trúc cũ của bài ca dao xa dần
các liên hệ ngữ pháp và thi pháp truyền thống, cho đến khi có thể bất ngờ úp
lên nó một lưới siêu liên kết nối liền những từ ngữ "nội gián" đặc
tuyển lại để tạo thành biểu tượng mới. Những chữ "lòng",
"xáo" khi được lảy ra từ những câu ca dao và được dẫn dắt đến một
không gian văn bản phù hợp để "nối mạng" bởi biểu tượng thập giá bỗng
trở nên những từ ngữ tự do, được giải phóng khỏi ngữ pháp của văn bản cũ, để mang
nghĩa mới trong một sứ mệnh văn hoá mới gắn liền với nội dung chiều sâu của biểu
tượng mới mà nó đã trở thành một nhân tố trong cấu trúc.
Ở đây, tác giả Trần Lộc Bình đã làm cái việc
"gây rối các trật tự biểu tượng đã thiết lập", trật tự mà
Jacques Lacan đã mệnh danh là "Luật của người cha" như cách
nói của Paul Hoover khi ông bàn về thơ hậu hiện đại [3].
Bài thơ là nhịp cầu giữa ngữ pháp và siêu ngữ pháp, vừa dùng chữ vừa dùng ký hiệu
ngoài ngôn ngữ, các loại tín hiệu và biểu tượng đều nương tựa vào nhau, giao
thoa và cộng sinh để tạo lập biểu tượng, khơi gợi và tô nhấn cho những thông điệp
nhân văn truyền thống.
Thực ra thì việc dùng những ký hiệu ngoài
ngôn ngữ trong thơ để tạo không gian thị giác cho văn bản thơ là việc làm không
mới cả về lý luận và sáng tác. Người ta đã từng nói đây đó về cái quyền thoát
khỏi chữ của thơ ca hôm nay. "Thơ chẳng lẽ chỉ biểu hiện bằng phương tiện
duy nhất là chữ? Chữ có thật sự là đã chuyên chở được nghệ thuật?" (Khế
Iêm)[4].
"Thơ hiện nay phải sống trong bối cảnh nhốn nháo của cuộc triệt thoái toàn
diện của ngôn ngữ (...) Thơ phải trở về với đời sống khi mà đây đó đã bắt đầu
vang tiếng hú vô ngôn thân thương của Thiền sư." (Đỗ Kh.)[5].
Song, ở đây, cái mới của bài thơ, cái tư cách hậu hiện đại của nó lại nằm ở chỗ nó đong đưa giữa ngôn ngữ và siêu ngôn ngữ, giữa ngữ pháp của ngôn ngữ văn chương bình dân với siêu liên kết của biểu tượng văn hoá bác học, nó trình bày được sự chăm chú của nhà phê bình giải mã chất liệu thơ ca truyền thống, đồng thời, bằng chính sự cộng sinh với chất liệu truyền thống nó phát lộ cái tâm thế hoài nghi với truyền thống, săn đuổi truyền thống, mổ xẻ thói quen và giải phóng những tập tính văn hoá cũ cho nó thăng hoa trong biểu tượng mới mang nội dung trí tuệ và thời đại.
Song, ở đây, cái mới của bài thơ, cái tư cách hậu hiện đại của nó lại nằm ở chỗ nó đong đưa giữa ngôn ngữ và siêu ngôn ngữ, giữa ngữ pháp của ngôn ngữ văn chương bình dân với siêu liên kết của biểu tượng văn hoá bác học, nó trình bày được sự chăm chú của nhà phê bình giải mã chất liệu thơ ca truyền thống, đồng thời, bằng chính sự cộng sinh với chất liệu truyền thống nó phát lộ cái tâm thế hoài nghi với truyền thống, săn đuổi truyền thống, mổ xẻ thói quen và giải phóng những tập tính văn hoá cũ cho nó thăng hoa trong biểu tượng mới mang nội dung trí tuệ và thời đại.
Tuy nhiên, bài thơ vẫn không hoàn toàn là hậu
hiện đại theo những quan niệm thông dụng vì nó đã không thực hiện triệt để "sự
giải cơ cấu của bày tỏ" (Jameson)[6] như
những bài thơ hậu hiện đại khác bởi lẽ khi nó "bắt cóc" một số từ
để thiết lập nội dung cho biểu tượng mới, nó đồng thời tiến hành hai quá trình:
giải thể cơ cấu bày tỏ cũ và thiết lập cơ cấu bày tỏ mới cao cấp hơn, nhưng vẫn
chưa giải phóng triệt để chữ khỏi vai trò công cụ bày tỏ những thông điệp, dù
là những thông điệp phi logic và phi tuyến tính.
Cái mới của bài thơ là ở chỗ, hình như là lần
đầu tiên, nhà thơ biến sự đọc, sự nghiên cứu của mình thành thơ. Và cũng
giống như trường hợp bài SCHEMA của Dan Graham (Việt số 1, trang 61), tác
giả cũng tạo ra một cơ chế rubic để độc giả tuỳ ý xoay về vô tận các cấu hình,
mỗi cách xoay lại làm hiện thêm những tương quan mới, những vấn nạn nghệ thuật
và những thế năng văn hoá mới. Song, điều đáng nói ở đây là, nếu như bài thơ
SCHEMA của Dan Graham là một bài thơ hoàn toàn phương Tây, thì bài thơ "Đọc
bài Con cò mà đi ăn đêm" của Trần Lộc Bình lại mang dáng dấp thơ
phương Đông với tính chất hàm súc, lửng lơ, nương theo khơi gợi mà không áp đặt.
Hơn thế nữa, tính chất nước đôi, giao thoa, cộng sinh, mượn hình tướng cũ để ký
thác hồn vía mới là đặc trưng của văn hoá Việt. Những chữ được khoanh vòng, đánh
dấu cũng chuyển tải tâm thức Việt: Sự quan tâm đến ngôi thứ (ngôi thứ nhất,
ngôi thứ hai...), vai trò của tình cảm (lòng) và tính hung bạo bộc
phát (xáo). Tính chất quá độ giữa tự do và xiềng xích (trong việc vừa
tô đậm những ngôi thứ ngữ pháp như muốn xiềng bài ca dao vào những luật tắc
nghiêm nhặt, vừa thả nổi ngôn từ thoát khỏi luật ngữ pháp để tham dự vào biểu
tượng mới với những luật chơi mới phá huỷ ngữ pháp kia) rất tiêu biểu cho cốt
cách lưỡng thê của người Việt và rất điển hình cho thực trạng xã hội Việt Nam
hôm nay. Kết thơ bằng một loạt chữ "bằng bằng trắc trắc - bằng bằng -
trắc- bằng" gợi không khí nhịp trống chèo (tùng tùng cắc cắc tùng
tùng cắc tùng). Có thể nói không cường điệu rằng đây là một bài thơ đậm đà tính
dân tộc, được in trên tờ Việt không phải một ngẫu nhiên.
[1] Trong
lời giới thiệu tập thơ New Poets of England and America, Pack đã viết: "Một
bài thơ hay là bài thơ đào sâu được cái quen thuộc." Và theo Paul Hoover
thì trong những quan điểm của mình, Pack đã đứng về phe với chủ nghĩa hình thức
của Phê Bình Mới (New Criticism) và có ý ám chỉ rằng những bài thơ có giá trị
duy nhất là những bài tự biến mình thành đối tượng nghiên cứu" (Xem bài giới
thiệu về thơ hậu hiện đại Hoa kỳ do Phan Tấn Hải chuyển ngữ, Tạp chí Thơ
(California) số mùa Đông1997, trang 170.)
[2] Xem
Roland Barthes, "Sự trở về của thơ ca",Tạp chí Thơ số mùa Xuân 1997,
trang 77.
[3] Xem
Paul Hoover, bài đã dẫn, Tạp chí Thơ số mùa Đông 1997, trang 188.
[4] Xem
Khế Iêm, "Thơ, chính là đời thường", Tạp chí Thơ số mùa Xuân 1997,
trang 126.
[5] Xem
Đỗ Kh., "Vần vè là chuyện vớ vẩn", Tạp chí Thơ số mùa xuân 1997,
trang 42.
[6] Xem
Paul Hoover, bài đã dẫn, Tạp chí Thơ số mùa Đông 1997, trang 176.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét