Mỗi chiếc lá như một
bông hoa đẹp vô cùng đến nỗi có một nhà văn đã gọi mùa thu là mùa xuân thứ hai
của trời đất.
Ngô đồng nhất diệp lạc
Thiên hạ cộng tri thu
Thấy chiếc lá ngô đồng
rụng mọi người đều biết là thu đã trở về…
Các văn thi sĩ Đông phương đã có một số hình ảnh diễn tả mùa thu. Những chiếc
lá vàng đã bắt đầu rơi. Một vài cánh nhạn từ phương xa bay về. Hoa cúc đã nở
bên liếp dậu thưa. Sương đã bao phủ cảnh vật và rừng phong đã xơ xác lá. Riêng
Lưu Trọng Lư đã vẽ lại một cảnh thu đầy những âm thanh.
Em không nghe mùa thu
Lá thu kêu xào xạc
Con nai vàng ngơ ngác
Đạp trên lá vàng khô
Hình ảnh con nai vàng
thẫn thờ đạp trên thảm lá khô xào xạc tạo nên những âm thanh buồn bã của mùa
thu tựa như một nỗi tiếc nhớ xa xôi…
Mùa thu của Việt Anh
không còn nữa nhưng hình ảnh thu xưa cứ làm vương vấn mãi. Vâng Không còn mùa thu ca khúc của Việt Anh qv&cb vừa thưởng thức trong giọng hát Hồng Nhung…
Ở Đông phương sự cảm
thông giữa thiên nhiên và con người thật sâu sắc. Mỗi mùa màng như một người bạn
cũ cứ đến hẹn lại về. Mỗi lần thu tới ta vẫn nghĩ rằng mùa thu năm nào của ta lại
trở về thăm ta.
Mùa thu vẫn luôn luôn
là một cái gì đó xa xôi kín đáo bình dị và mênh mông cho nên thu bao giờ cũng
xưa. Ta thấy như thu ở thời xưa mà về. Và ta cũng thấy lòng lắng dịu bình yên.
Thu từ trời mà xuống…
Bỗng dưng buồn bã không gian
Mây bay lũng thấp giăng màn
âm u
Nai cao gót lẩn trong mù
Xuống rừng nẻo thuộc nhìn
thu mới về
(Huy Cận)
Mùa thu mới về trời bớt
nóng và thêm hơi mát. Có ai thổi cơm mà khói nhẹ mơ hồ đâu đây. Chưa có sương
mù cũng chưa hẳn là sương mờ chỉ là đôi thoáng sương mơ mỏng manh như chiêm
bao… Không biết có phải sương thu mới nhóm hay đó chỉ là sự huyền ảo của chính
hồn ta?
Trong bài Ký Viễn Lý Bạch
có một câu thơ làm ta say mê xúc động
Tương tư hoàng lạc diệp
Vàng rơi từng cánh tương tư
Vì tương tư mà lá vàng
đã rơi từng cánh hay chính mỗi chiếc lá vàng đã mang mối tương tư của ta trải đầy
trong gió…
Anh yêu dấu em gửi đến
anh một chiếc lá vàng mà em nhặt được bên thềm nhà vắng như gửi về anh nỗi nhớ
nhung da diết.
Ở miền Bắc nước ta mùa
thu là mùa cưới. Không biết do tục lệ nào hay vì đó là mùa của những hạt cốm
Vòng màu xanh ngọc và màu đỏ thắm của trái hồng chín mọng mà mọi người coi như
biểu hiện của sự kết hợp lứa đôi?
Chúng ta hãy nghe Xuân
Diệu giải thích:
“Mùa thu là mùa yêu
nhau yêu nhau bằng linh hồn là mùa của những tâm hồn yêu mến nhau. Người ta
ngoan hơn dịu dàng hơn để mười hay hai mươi ngón tay đan với nhau và lắng nghe
trời xanh ôm lấy lứa đôi như một tấm áo che sương. Đó là những giờ thân mật dạo
qua hàng cây bước như ngờ ngợ hồn như giao hòa”
Xuân người ta vì ấm
mà cần tình
Thu người ta vì lạnh sắp tới
mà cần đôi
Cho nên không gian đầy những
lời nhớ thương.
Những linh hồn cô đơn thả ra
những tiếng thở dài để gọi nhau.
Và lòng ta nghe thấy tất cả
những du dương của những âm thanh diệu kỳ ấy…
Gọi mùa thu mơ một ca
khúc rất… mùa thu của Phạm Anh Dũng. Mùa thu thật mơ màng thật đẹp và lại càng
đẹp hơn với giọng hát Duy Trác cùng với nghệ thuật hòa âm của Duy Cường
qv&cb vừa nghe.
Mùa thu màu sắc đường
nét của khung cảnh bóng dáng của con người cho đến không gian thời gian… Tất cả
đều rất mơ hồ không rõ nét không xác định mà bảng lảng trong màn sương khói của
những giấc mộng và những kỷ niệm không phai.
Và rồi… không hiểu sao
buồn chở một hồn đầy?
Không gian như có giây
tơ
Bước đi sẽ đứt động hờ sẽ tiêu
BÍCH HUYỀN
NGUYỄN NAM SƠN
(sưu tập)
1. Trăng thu
Thiêm sầu ích hận nhiễu
thiên nhai.
Chiếu tha kỷ hứa nhân trường
đoạn.
添 愁 益 恨 绕 天 涯。
照 他 幾 許 人 腸 斷 。
(Bạch Cư Dị 白居易 Trung thu nguyệt 中秋月 câu 2 7)
(Nghĩa: thêm sầu thêm hận khắp
gầm trời
Trăng đã soi bao nhiều người
đứt ruột)
và lòng người lữ
khách xa nhà:
Vị tất Tố Nga vô trướng
hận
Ngọc thiềm thanh lãnh quế
hoa cô.
未 必 素 娥 無 怅
恨,
玉 蟾 清 冷 桂 花 孤。
(Án Thù 晏殊 Trung thu nguyệt 中秋月 câu 3-4)
(Nghĩa: Hằng Nga chưa chắc
dã không buồn khổ
Cóc ngọc và cây quế đều thê
lương lạnh lẽo)
Và đây là trăng cô đơn
của Đỗ Phủ:
Thu nguyệt nhưng viên
dạ
Giang thôn độc lão thân.
秋 月 仍 圓 夜,
江 村 獨 老 身 。
(Đỗ Phủ 杜甫 Thập thất dạ đối nguyệt 十七夜對月câu 1-2)
(Nghĩa: Đêm trăng thu vẫn
tròn
Xóm bên sông chỉ có một thân
già)
2. Núi thu
Sơn thu vân vật lãnh
Xứng ngã thanh luy nhan.
Nhân sinh vô kỷ hà
Tâm hữu thiên tải ưu
Thân vô nhất nhật nhàn.
山 秋 雲 物 冷,
稱 我 清 羸 顔。
人 生 無 幾 何 。
心 有 千 載 憂,
身 無 一 日 閑。
(Bạch Cư Dị 白居易 Thu sơn 秋山câu
3-4 9 11-12)
(Nghĩa: Núi mùa thu mây và mọi
vật đều lạnh
Thiệt xứng với nét mặt xanh
gầy của ta.
Đời người có gì đâu.
Lòng có mối lo ngàn năm
Thân không có được một ngày
nhàn nhã).
Núi thu cũng nhắc nhở
đến sự chia ly xa cách quê hương. Vi Ứng Vật nơi đất lạ gặp lại người bạn cũ đã
từng sống tại Lương Châu mừng mừng tủi tủi hàn huyên. Đến khi người bạn hỏi tại
sao lâu rồi không về thăm quê tác giả chỉ biết ngậm ngùi nhìn vào ngọn núi thu
lờ mờ ẩn hiện trên sông Hoài:
Hà nhân bất quy khứ
Hoài thượng đối thu sơn.
何 因 不 歸 去,
淮 上 有 秋 山。
(Vi Ứng Vật 韋應物 Hoài thượng hỉ hội Lương châu cố
nhân 淮上喜會梁川故人 câu 7-8)
(Nghĩa: Hỏi tại sao không trở
về quê
Chỉ biết trỏ vào núi thu
trên sông Hoài)
Cũng gần một hoàn cảnh
Lý Ích được gặp lại người em họ sau bao nhiêu năm ly loạn. Tác giả lại bùi ngùi
nghĩ đến ngày mai người em họ lại phải lên đường đi nơi khác:
Minh nhật Ba lăng đạo
Thu sơn hựu kỷ trùng.
明 日 巴 陵 道,
秋 山 又 幾 重?
(Lý Ích 李益,Hỉ
kiến ngoại đệ hựu ngôn biệt 喜見外弟又言別 câu 7-8)
(Nghĩa: Ngày mai lên đường về
Ba Lăng
Núi thu lại cách mấy trùng)
3. Sông thu
Thủy tinh liêm quyển cận
thu hà.
水 晶 簾 卷 近 秋 河。
(Cố Huống 顧況
Cung từ 宮詞 câu
4)
(Nghĩa: Màn thủy tinh cuốn
lên tận sông thu)
Đỗ Mục tả tâm tình người
cung nữ đêm thu ngồi một mình buồn ngắm sao giọng văn tương đối nhẹ nhàng phải
nhìn kỹ lắm chúng ta mới thấy được một chút "oán" thật kín đáo trong
dòng thơ:
Ngân chúc thu quang
lãnh họa bình
Khinh la tiểu phiến phác lưu
huỳnh
Thiên giai dạ sắc lương như
thủy
Tọa khán khiên ngưu chức nữ
tinh.
銀 燭 秋 光 冷 畫 屏,
輕 羅 小 扇 撲 流 螢。
天 階 夜 色 涼 如 水,
坐 看 牽 牛 織 女 星。
(Đỗ Mục 杜牧 Thu
tịch 秋夕)
(Nghĩa: Đêm thu ánh đuốc bạc
chiếu bình phong lạnh
Dùng quạt lụa đánh đuổi con
đom đóm.
Trên thềm đá sắc đêm trong
như nước
Ngồi nhìn 2 sao Ngưu lang và
Chức nữ)
4. Thu nhớ người nhớ quê
Mạnh Hạo Nhiên một
mình ở đất Tần (tức Kinh đô Trường An của nhà Đường) nhớ bạn là Tuệ Viễn thiền
sư đã làm một bài thơ nhớ bạn trong đó hai câu cuối nghe thật là thê lương:
Nhật tịch lương phong
chí
Văn thiền đản ích bi.
日 夕 涼 風 至,
聞 蟬 但 益 悲。
(Mạnh Hạo Nhiên 孟浩然 Tần
trung cảm thu ký Viễn thượng nhân 秦中感秋寄遠上人 câu 7-8)
Nghe tiếng ve chỉ thêm buồn)
(Ở đây xin mở một dấu
ngoặc nhỏ. Ở xứ mình tiếng ve thường dính liền với mùa hạ trong khi ở đây nó lại
được nhắc đến ở mùa thu. Chúng ta cũng đã nghe Tống Ngọc nhắc đến ve sầu trong
đoạn văn về mùa thu trích dẫn ở trên).
Một thi nhân khác
trong đêm thu đi bộ một mình cũng nhớ đến bạn mình tình cảm thật nhẹ nhàng:
Hoài quân thuộc thu dạ
Tản bộ vịnh lương thiên
Không sơn tùng tử lạc
U nhân ứng vị miên.
懷 君 屬 秋 夜,
散 步 詠 涼 天。
空 山 松 子 落,
幽 人 應 未 眠 。
(Vi Ứng Vật 韋應物 Thu
dạ ký Khâu viên ngoại 秋夜寄邱員外)
(Nghĩa: Đêm thu tôi nhớ bạn
Trời mát đi bộ ngâm thơ.
Núi vắng quả tùng rơi
Tôi đoán bạn giờ này cũng
chưa ngủ)
Nếu
người bạn đã chết thì tình cảm lại càng thê thiết. Vương An Thạch một thời làm
Tể tướng chủ trương cải cách và đứng đầu Tân phái. Ông gặp được một người tuổi
trẻ tài năng trác tuyệt là Vương Phùng Nguyên tưởng rằng người trai trẻ này có
thể kế thừa mình. Nhưng không may Vương Phùng Nguyên lại mất sớm để cho Vương
An Thạch thương tiếc khôn cùng. Bài thơ thứ nhất trong ba bài thương tiếc Phùng
Nguyên bắt đầu bằng hai câu nghe thật bi thảm:
Phùng cao kim nhật tưởng
phân phi
Trủng thượng thu phong hựu
nhất suy.
蓬 蒿 今 日 想 紛 披,
冢 上 秋 風 又 一 吹。
(Vương An Thạch Tư Vương
Phùng Nguyên 王安石思王逢原(bài
1 trong 3 bài) câu 1-2)
(Nghĩa: Cỏ dại hôm nay tưởng
đã mọc đầy
Trên gò mả gió thu lại thổi)
Nỗi nhớ em của Đỗ Phủ
cũng thật là da diết:
Thú cổ đoạn nhân hành
Thu biên nhất nhạn thanh.....
Hữu đệ giai phân tán
Vô gia vấn tử sinh.
Ký thư trường bất đạt
Huống nãi vị hưu binh.
戍 鼓 斷 人 行,
秋 邊 一 雁 聲…
有 弟 皆 分 散,
無 家 問 死 生。
寄 書 長 不 達,
況 乃 未 休 兵。
(Đỗ Phủ 杜甫
Nguyệt dạ ức xá đệ 月夜憶舍弟 Câu 1-2 5-8)
(Nghĩa: Tiếng trống ngưng bước
người
Mùa thu nơi biên giới một tiếng
nhạn kêu.....
Có em mà đều bị chia ly
Không nhà để hỏi chuyện sống
chết.
Thư gởi lâu không tới
Huống chi binh lửa còn chưa
hết)
Trời thu tự nó đã buồn
nhưng nếu thi nhân gặp được một cổ tích đổ nát thì tấm lòng hoài cổ lại bùng dậy.
Và do đó xuất hiện một đề tài gọi là điếu cổ hay hoài cổ. Bà Huyện Thanh Quan của
Việt nam là một tay cự phách về đề tài này (Thăng long thành hoài cổ). Lưu Trường
Khanh khi đi thăm tàn tích của Ngô công đài (tại Giang Tô Giang đô huyện ngày
nay) đã viết nên bài ngũ ngôn bát cú sau:
Cổ đài diêu lạc hậu
Thu nhật vọng hương tâm.
Dã tự nhân lai thiểu
Vân phong thủy cách thâm.
Tịch dương y cựu lũy
Hàn khánh mãn không lâm.
Điêu trướng Nam triều sự
Trường giang độc chí kim.
古 台 搖 落 後,
秋 日 望 鄉 心。
野 寺 人 來 少,
雲 峰 水 隔 深。
夕 陽 依 舊 壘,
寒 磬 滿 空 林。
惆 怅 南 朝 事,
長 江 獨 至 今。
(Lưu Trường Khanh 劉長卿 Thu
nhật đăng Ngô công đài thượng tự viễn diêu 秋日登吳公台上寺遠眺)
(Nghĩa: Đài xưa đã điêu linh
tàn tạ
Ngày thu lòng nhớ quê.
Chùa quê ít người lại
Núi cao nước sâu cách trở.
Nắng chiều vẫn nương nhờ đài
cũ
Tiếng khánh lạnh bao phủ đầy
rừng.
Việc cũ của Nam triều điêu
tàn
Chỉ có Trường giang là còn đến
ngày nay)
Lưu Vũ Tích cũng có những
câu thơ hoài cổ não lòng người khi ông viếng thăm Tây tái sơn (tại Hồ Bắc Đại
Dã huyện):
Nhân thế kỷ hồi thương
vãng sự
Sơn hình y cựu chẩm hàn lưu
Tùng kim tứ hải vi gia nhật
Cố luỹ tiêu tiêu lô địch
thu.
人 世 幾 回 傷 往 事,
山 形 依 舊 枕 寒 流。
從 今 四 海 爲 家 日,
故 壘 蕭 蕭 蘆 荻 秋
(Lưu Vũ Tích 劉禹錫 Tây
tái sơn hoài cổ 西塞山懷古câu 5-8)
(Nghĩa: Người dời bao lần
thương chuyện cũ
Núi vẫn như cụ gối trên sông
lạnh.
Kể từ bây giờ bốn biển một
nhà
Thành xưa mùa thu lau lách
tiêu điều)
Nhiều lúc không cần phải
có thành quách cũ mà chỉ cần một buổi chiều thu trên dòng sông Tương cũng đủ
khơi dậy lòng hoài cổ nơi thi nhân:
Viên đề Động đình thụ
Nhân tại mộc lan châu.…
Vân trung quân bất kiến
Cánh tịch tự bi thu.
人 在 木 蘭 舟。…
雲 中 君 不 見,
竟 夕 自 悲 秋 。
(Mã Đái 馬戴 Sở
giang hoài cổ 楚江懷古 câu
3-4 7-8)
(Nghĩa: Vượn kêu trên cây
ven Hồ Động đình
Người ở trên thuyền bằng gỗ
mộc lan.
Không thấy ông thần mây
Đêm xuống lại buồn thương
thu một mình)
Trương Thuyết thời sơ
Đường khi đến ngang Nghiệp đô là nơi Tào Tháo và con cháu (nhà Ngụy) đóng đô
thuở xưa đã cảm thấy một nỗi bi thương vô hạn khi thấy gió thu về (đây là khoảng
thời gian ông bị biếm trích đi Dương châu):
Thí thượng Đồng đài ca
vũ xứ
Duy hữu thu phong sầu sát
nhân.
試 上 銅 台 歌 舞 處,
惟 有 秋 風 愁 殺 人。
(Trương Thuyết 張說
Nghiệp đô dẫn 邺都引câu 11-12)
(Nghĩa: Thử lên Đồng tước
đài nơi ca hát
Chỉ có gió thu buồn chết người)
Đối với người dân bị mất
nước mùa thu lại còn buồn thêm. Đời Nam Tống một nửa nước Trung hoa về phía Bắc
bị quân Kim chiếm đóng. Dân chúng sống dưới ách cai trị của quân Kim ngày ngày
trông ngóng cứu binh từ miền Nam lên nhưng than ôi!... Cảm thương tình cảnh này
trong một đêm thu ra khỏi nhà hóng mát Lục Du đã viết lên:
Di dân lệ tận Hồ trần
lý
Nam vọng vương sư hựu nhất
niên.
遺 民 淚 盡 胡 塵 裏,
南 望 王 師 又 一 年。
(Lục Du陸遊 Thu
dạ tương hiểu xuất ly môn nghênh lương hữu cảm 秋夜將曉出籬門迎涼有感câu 3-4)
(Nghĩa: Dân bị bỏ sót ở miền
Bắc nước mắt đã chảy hết vào trong bụi của xứ Hồ
Lại mất thêm một năm nữa hướng
về phương Nam mong mỏi lính của vua lên Bắc để cứu).
Ở Nam bán cầu trời bắt
đầu chớm đông. Buổi sáng chạy bộ thể dục bên bờ hồ chợt thấy sương thu và lá thu còn sót trên cành lòng nhớ quê nhớ cảnh nhớ người... quay quắc.
Nhân tiện xin chia sẻ cùng thân hữu nét thu qua Con thuyền không bến của nhạc sĩ tài hoa nhưng đoản mệnh:
Đặng Thế Phong.
NGUYỄN NAM SƠN
Con thuyền không bến - Đặng Thế Phong - Bảo Yến
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét