Thứ Tư, 21 tháng 9, 2016

Mùa thu trong nhạc và thơ

Mùa thu trong nhạc và thơ
Mỗi chiếc lá như một bông hoa đẹp vô cùng đến nỗi có một nhà văn đã gọi mùa thu là mùa xuân thứ hai của trời đất.
Ngô đồng nhất diệp lạc
Thiên hạ cộng tri thu
Thấy chiếc lá ngô đồng rụng mọi người đều biết là thu đã trở về…
Các văn thi sĩ Đông phương đã có một số hình ảnh diễn tả mùa thu. Những chiếc lá vàng đã bắt đầu rơi. Một vài cánh nhạn từ phương xa bay về. Hoa cúc đã nở bên liếp dậu thưa. Sương đã bao phủ cảnh vật và rừng phong đã xơ xác lá. Riêng Lưu Trọng Lư đã vẽ lại một cảnh thu đầy những âm thanh.
Em không nghe mùa thu
Lá thu kêu xào xạc
Con nai vàng ngơ ngác
Đạp trên lá vàng khô
Hình ảnh con nai vàng thẫn thờ đạp trên thảm lá khô xào xạc tạo nên những âm thanh buồn bã của mùa thu tựa như một nỗi tiếc nhớ xa xôi…
Mùa thu của Việt Anh không còn nữa nhưng hình ảnh thu xưa cứ làm vương vấn mãi. Vâng Không còn mùa thu ca khúc của Việt Anh qv&cb vừa thưởng thức trong giọng hát Hồng Nhung
Ở Đông phương sự cảm thông giữa thiên nhiên và con người thật sâu sắc. Mỗi mùa màng như một người bạn cũ cứ đến hẹn lại về. Mỗi lần thu tới ta vẫn nghĩ rằng mùa thu năm nào của ta lại trở về thăm ta.
Mùa thu vẫn luôn luôn là một cái gì đó xa xôi kín đáo bình dị và mênh mông cho nên thu bao giờ cũng xưa. Ta thấy như thu ở thời xưa mà về. Và ta cũng thấy lòng lắng dịu bình yên.
Thu từ trời mà xuống…
Bỗng dưng buồn bã không gian
Mây bay lũng thấp giăng màn âm u
Nai cao gót lẩn trong mù
Xuống rừng nẻo thuộc nhìn thu mới về
(Huy Cận)
Mùa thu mới về trời bớt nóng và thêm hơi mát. Có ai thổi cơm mà khói nhẹ mơ hồ đâu đây. Chưa có sương mù cũng chưa hẳn là sương mờ chỉ là đôi thoáng sương mơ mỏng manh như chiêm bao… Không biết có phải sương thu mới nhóm hay đó chỉ là sự huyền ảo của chính hồn ta?
Trong bài Ký Viễn Lý Bạch có một câu thơ làm ta say mê xúc động
Tương tư hoàng lạc diệp
Vàng rơi từng cánh tương tư
Vì tương tư mà lá vàng đã rơi từng cánh hay chính mỗi chiếc lá vàng đã mang mối tương tư của ta trải đầy trong gió…
Anh yêu dấu em gửi đến anh một chiếc lá vàng mà em nhặt được bên thềm nhà vắng như gửi về anh nỗi nhớ nhung da diết.
Ở miền Bắc nước ta mùa thu là mùa cưới. Không biết do tục lệ nào hay vì đó là mùa của những hạt cốm Vòng màu xanh ngọc và màu đỏ thắm của trái hồng chín mọng mà mọi người coi như biểu hiện của sự kết hợp lứa đôi?
Chúng ta hãy nghe Xuân Diệu giải thích:
“Mùa thu là mùa yêu nhau yêu nhau bằng linh hồn là mùa của những tâm hồn yêu mến nhau. Người ta ngoan hơn dịu dàng hơn để mười hay hai mươi ngón tay đan với nhau và lắng nghe trời xanh ôm lấy lứa đôi như một tấm áo che sương. Đó là những giờ thân mật dạo qua hàng cây bước như ngờ ngợ hồn như giao hòa”
Xuân người ta vì ấm mà cần tình
Thu người ta vì lạnh sắp tới mà cần đôi
Cho nên không gian đầy những lời nhớ thương.
Những linh hồn cô đơn thả ra những tiếng thở dài để gọi nhau.
Và lòng ta nghe thấy tất cả những du dương của những âm thanh diệu kỳ ấy…
Gọi mùa thu mơ một ca khúc rất… mùa thu của Phạm Anh Dũng. Mùa thu thật mơ màng thật đẹp và lại càng đẹp hơn với giọng hát Duy Trác cùng với nghệ thuật hòa âm của Duy Cường qv&cb vừa nghe.
Mùa thu màu sắc đường nét của khung cảnh bóng dáng của con người cho đến không gian thời gian… Tất cả đều rất mơ hồ không rõ nét không xác định mà bảng lảng trong màn sương khói của những giấc mộng và những kỷ niệm không phai.
Và rồi… không hiểu sao buồn chở một hồn đầy?
Không gian như có giây tơ
Bước đi sẽ đứt động hờ sẽ tiêu
BÍCH HUYỀN
Vài đoạn thơ (cổ) về thu:
NGUYỄN NAM SƠN
(sưu tập)
1. Trăng thu
 Thiêm sầu ích hận nhiễu thiên nhai.
Chiếu tha kỷ hứa nhân trường đoạn.
  涯。
(Bạch Cư Dị 白居易 Trung thu nguyệt 中秋月 câu 2 7)
(Nghĩa: thêm sầu thêm hận khắp gầm trời
Trăng đã soi bao nhiều người đứt ruột)
 và lòng người lữ khách xa nhà:
 Vị tất Tố Nga vô trướng hận
Ngọc thiềm thanh lãnh quế hoa cô.
  恨,
孤。
(Án Thù 晏殊 Trung thu nguyệt 中秋月 câu 3-4)
(Nghĩa: Hằng Nga chưa chắc dã không buồn khổ
Cóc ngọc và cây quế đều thê lương lạnh lẽo)
Và đây là trăng cô đơn của Đỗ Phủ:
Thu nguyệt nhưng viên dạ
Giang thôn độc lão thân.
  夜,
(Đỗ Phủ 杜甫 Thập thất dạ đối nguyệt 十七夜對月câu 1-2)
(Nghĩa: Đêm trăng thu vẫn tròn
Xóm bên sông chỉ có một thân già)
2. Núi thu
Sơn thu vân vật lãnh
Xứng ngã thanh luy nhan.
Nhân sinh vô kỷ hà
Tâm hữu thiên tải ưu
Thân vô nhất nhật nhàn.
  冷,
顔。
憂,
閑。
(Bạch Cư Dị 白居易 Thu sơn 秋山câu 3-4 9 11-12)
(Nghĩa: Núi mùa thu mây và mọi vật đều lạnh
Thiệt xứng với nét mặt xanh gầy của ta.
Đời người có gì đâu.
Lòng có mối lo ngàn năm
Thân không có được một ngày nhàn nhã).
Núi thu cũng nhắc nhở đến sự chia ly xa cách quê hương. Vi Ứng Vật nơi đất lạ gặp lại người bạn cũ đã từng sống tại Lương Châu mừng mừng tủi tủi hàn huyên. Đến khi người bạn hỏi tại sao lâu rồi không về thăm quê tác giả chỉ biết ngậm ngùi nhìn vào ngọn núi thu lờ mờ ẩn hiện trên sông Hoài:
Hà nhân bất quy khứ
Hoài thượng đối thu sơn.
  去,
山。
(Vi Ứng Vật 韋應物 Hoài thượng hỉ hội Lương châu cố nhân  淮上喜會梁川故人 câu 7-8)
(Nghĩa: Hỏi tại sao không trở về quê
Chỉ biết trỏ vào núi thu trên sông Hoài)
Cũng gần một hoàn cảnh Lý Ích được gặp lại người em họ sau bao nhiêu năm ly loạn. Tác giả lại bùi ngùi nghĩ đến ngày mai người em họ lại phải lên đường đi nơi khác:
 Minh nhật Ba lăng đạo
Thu sơn hựu kỷ trùng.
  道,
重?
(Lý Ích 李益Hỉ kiến ngoại đệ hựu ngôn biệt 喜見外弟又言別 câu 7-8)
(Nghĩa: Ngày mai lên đường về Ba Lăng
Núi thu lại cách mấy trùng)
3. Sông thu
Thủy tinh liêm quyển cận thu hà.
  河。
(Cố Huống 顧況 Cung từ 宮詞 câu 4)
(Nghĩa: Màn thủy tinh cuốn lên tận sông thu)
 Đỗ Mục tả tâm tình người cung nữ đêm thu ngồi một mình buồn ngắm sao giọng văn tương đối nhẹ nhàng phải nhìn kỹ lắm chúng ta mới thấy được một chút "oán" thật kín đáo trong dòng thơ:
Ngân chúc thu quang lãnh họa bình
Khinh la tiểu phiến phác lưu huỳnh
Thiên giai dạ sắc lương như thủy
Tọa khán khiên ngưu chức nữ tinh.
  屏,
螢。
水,
星。
(Đỗ Mục 杜牧 Thu tịch 秋夕)
(Nghĩa: Đêm thu ánh đuốc bạc chiếu bình phong lạnh
Dùng quạt lụa đánh đuổi con đom đóm.
Trên thềm đá sắc đêm trong như nước
Ngồi nhìn 2 sao Ngưu lang và Chức nữ)
4. Thu nhớ người nhớ quê
 Mạnh Hạo Nhiên một mình ở đất Tần (tức Kinh đô Trường An của nhà Đường) nhớ bạn là Tuệ Viễn thiền sư đã làm một bài thơ nhớ bạn trong đó hai câu cuối nghe thật là thê lương:
 Nhật tịch lương phong chí
Văn thiền đản ích bi.
  至,
悲。
(Mạnh Hạo Nhiên 孟浩然 Tần trung cảm thu ký Viễn thượng nhân 秦中感秋寄遠上人 câu 7-8)
(Nghĩa: Ngày đêm gió lạnh thổi
Nghe tiếng ve chỉ thêm buồn)
(Ở đây xin mở một dấu ngoặc nhỏ. Ở xứ mình tiếng ve thường dính liền với mùa hạ trong khi ở đây nó lại được nhắc đến ở mùa thu. Chúng ta cũng đã nghe Tống Ngọc nhắc đến ve sầu trong đoạn văn về mùa thu trích dẫn ở trên).
Một thi nhân khác trong đêm thu đi bộ một mình cũng nhớ đến bạn mình tình cảm thật nhẹ nhàng:
Hoài quân thuộc thu dạ
Tản bộ vịnh lương thiên
Không sơn tùng tử lạc
U nhân ứng vị miên.
夜,
天。
落,
(Vi Ứng Vật 韋應物 Thu dạ ký Khâu viên ngoại 秋夜寄邱員外)
(Nghĩa: Đêm thu tôi nhớ bạn
Trời mát đi bộ ngâm thơ.
Núi vắng quả tùng rơi
Tôi đoán bạn giờ này cũng chưa ngủ)
Nếu người bạn đã chết thì tình cảm lại càng thê thiết. Vương An Thạch một thời làm Tể tướng chủ trương cải cách và đứng đầu Tân phái. Ông gặp được một người tuổi trẻ tài năng trác tuyệt là Vương Phùng Nguyên tưởng rằng người trai trẻ này có thể kế thừa mình. Nhưng không may Vương Phùng Nguyên lại mất sớm để cho Vương An Thạch thương tiếc khôn cùng. Bài thơ thứ nhất trong ba bài thương tiếc Phùng Nguyên bắt đầu bằng hai câu nghe thật bi thảm:
Phùng cao kim nhật tưởng phân phi
Trủng thượng thu phong hựu nhất suy.
  披,
吹。
(Vương An Thạch Tư Vương Phùng Nguyên 王安石思王逢原(bài 1 trong 3 bài) câu 1-2)
(Nghĩa: Cỏ dại hôm nay tưởng đã mọc đầy
Trên gò mả gió thu lại thổi)
 Nỗi nhớ em của Đỗ Phủ cũng thật là da diết:
Thú cổ đoạn nhân hành
Thu biên nhất nhạn thanh.....
Hữu đệ giai phân tán
Vô gia vấn tử sinh.
Ký thư trường bất đạt
Huống nãi vị hưu binh.
  行,
散,
生。
達,
兵。
(Đỗ Phủ 杜甫 Nguyệt dạ ức xá đệ 月夜憶舍弟 Câu 1-2 5-8)
(Nghĩa: Tiếng trống ngưng bước người
Mùa thu nơi biên giới một tiếng nhạn kêu.....
Có em mà đều bị chia ly
Không nhà để hỏi chuyện sống chết.
Thư gởi lâu không tới
Huống chi binh lửa còn chưa hết)
Trời thu tự nó đã buồn nhưng nếu thi nhân gặp được một cổ tích đổ nát thì tấm lòng hoài cổ lại bùng dậy. Và do đó xuất hiện một đề tài gọi là điếu cổ hay hoài cổ. Bà Huyện Thanh Quan của Việt nam là một tay cự phách về đề tài này (Thăng long thành hoài cổ). Lưu Trường Khanh khi đi thăm tàn tích của Ngô công đài (tại Giang Tô Giang đô huyện ngày nay) đã viết nên bài ngũ ngôn bát cú sau:
Cổ đài diêu lạc hậu
Thu nhật vọng hương tâm.
Dã tự nhân lai thiểu
Vân phong thủy cách thâm.
Tịch dương y cựu lũy
Hàn khánh mãn không lâm.
Điêu trướng Nam triều sự
Trường giang độc chí kim.
  後,
心。
少,
深。
壘,
滿 林。
事,
今。
(Lưu Trường Khanh 劉長卿 Thu nhật đăng Ngô công đài thượng tự viễn diêu 秋日登公台上寺遠眺)
(Nghĩa: Đài xưa đã điêu linh tàn tạ
Ngày thu lòng nhớ quê.
Chùa quê ít người lại
Núi cao nước sâu cách trở.
Nắng chiều vẫn nương nhờ đài cũ
Tiếng khánh lạnh bao phủ đầy rừng.
Việc cũ của Nam triều điêu tàn
Chỉ có Trường giang là còn đến ngày nay)
Lưu Vũ Tích cũng có những câu thơ hoài cổ não lòng người khi ông viếng thăm Tây tái sơn (tại Hồ Bắc Đại Dã huyện):
Nhân thế kỷ hồi thương vãng sự
Sơn hình y cựu chẩm hàn lưu
Tùng kim tứ hải vi gia nhật
Cố luỹ tiêu tiêu lô địch thu.
  事,
流。
日,
(Lưu Vũ Tích 劉禹錫 Tây tái sơn hoài cổ 西塞山懷古câu 5-8)
(Nghĩa: Người dời bao lần thương chuyện cũ
Núi vẫn như cụ gối trên sông lạnh.
Kể từ bây giờ bốn biển một nhà
Thành xưa mùa thu lau lách tiêu điều)
Nhiều lúc không cần phải có thành quách cũ mà chỉ cần một buổi chiều thu trên dòng sông Tương cũng đủ khơi dậy lòng hoài cổ nơi thi nhân:
Viên đề Động đình thụ
Nhân tại mộc lan châu.
Vân trung quân bất kiến
Cánh tịch tự bi thu.
  樹,
舟。
見,
(Mã Đái 馬戴 Sở giang hoài cổ 楚江懷古 câu 3-4 7-8)
(Nghĩa: Vượn kêu trên cây ven Hồ Động đình
Người ở trên thuyền bằng gỗ mộc lan.
Không thấy ông thần mây
Đêm xuống lại buồn thương thu một mình)
 Trương Thuyết thời sơ Đường khi đến ngang Nghiệp đô là nơi Tào Tháo và con cháu (nhà Ngụy) đóng đô thuở xưa đã cảm thấy một nỗi bi thương vô hạn khi thấy gió thu về (đây là khoảng thời gian ông bị biếm trích đi Dương châu):
Thí thượng Đồng đài ca vũ xứ
Duy hữu thu phong sầu sát nhân.
  處,
人。
(Trương Thuyết Nghiệp đô dẫn 都引câu 11-12)
(Nghĩa: Thử lên Đồng tước đài nơi ca hát
Chỉ có gió thu buồn chết người)
Đối với người dân bị mất nước mùa thu lại còn buồn thêm. Đời Nam Tống một nửa nước Trung hoa về phía Bắc bị quân Kim chiếm đóng. Dân chúng sống dưới ách cai trị của quân Kim ngày ngày trông ngóng cứu binh từ miền Nam lên nhưng than ôi!... Cảm thương tình cảnh này trong một đêm thu ra khỏi nhà hóng mát Lục Du đã viết lên:
Di dân lệ tận Hồ trần lý
Nam vọng vương sư hựu nhất niên.
  裏,
年。
(Lục Du陸遊 Thu dạ tương hiểu xuất ly môn nghênh lương hữu cảm 秋夜將曉出籬門迎涼有感câu 3-4)
(Nghĩa: Dân bị bỏ sót ở miền Bắc nước mắt đã chảy hết vào trong bụi của xứ Hồ
Lại mất thêm một năm nữa hướng về phương Nam mong mỏi lính của vua lên Bắc để cứu).
Ở Nam bán cầu trời bắt đầu chớm đông. Buổi sáng chạy bộ thể dục bên bờ hồ chợt thấy sương thu và lá thu còn sót trên cành lòng nhớ quê nhớ cảnh nhớ người... quay quắc.
Nhân tiện xin chia sẻ cùng thân hữu nét thu qua Con thuyền không bến của nhạc sĩ tài hoa nhưng đoản mệnh: Đặng Thế Phong.
NGUYỄN NAM SƠN
Con thuyền không bến - Đặng Thế Phong - Bảo Yến
Theo http://mangvienlong.vnweblogs.com/


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Khúc hát Marseilles

Khúc hát Marseilles Thời đại Bạc đã mang lại cho văn học Nga nhiều tên tuổi sáng giá. Một trong những người sáng lập chủ nghĩa biểu hiện N...