Nghĩ
về hai thần đồng thơ đất Việt
Góc sân và khoảng trời và Đường
xa con hát là tập hợp những hoa trái đầu mùa rất ngọt ngào trong đời thơ
Trần Đăng Khoa và Đỗ Nhật Nam. Cậu bé Khoa tự tình trên chính đất đai, làng mạc
quê nhà còn Đỗ Nhật Nam thì chỉ thực sự bung tỏa cảm xúc khi ở bên kia bán cầu.
Thanh âm cơ bản của hai tập thơ vẫn là những tình cảm yêu thương dành cho gia
đình, thiên nhiên, quê hương, đất nước nhưng mang dấu ấn riêng từng thời đại, từng
cuộc đời.
VHP trân trọng giới thiệu
bài viết của tác giả Nguyễn Thanh Tâm:
Vào những năm 60 thế kỉ XX,
huyện Nam Sách, tỉnh Hải Dương, và xa rộng hơn thế, xôn xao trước hiện tượng Trần
Đăng Khoa. Mười tuổi, Khoa đã là chủ nhân của hai tập thơ Từ góc sân nhà
em và Góc sân và khoảng trời. Mọi người gọi Khoa là thần đồng. Nhà
thơ, nhà phê bình Xuân Diệu, bằng nhãn quan tinh tường của người trong nghề, đã
nhận định: “Hàng ngàn em nhỏ cất tiếng gáy ò... ó... o ở khắp nơi, Khoa ở trung
tâm của cuộc đồng ca vang tương lai ấy”. Gần năm mươi năm sau, thần đồng ngày
xưa và cũng là cây bút phê bình kiệm lời khen hiện nay đã dành nhiều khen tặng
cho cậu bé mang tên Đỗ Nhật Nam: “Đó là một thần đồng đích thực. Một dấu hiệu của
thiên tài”. Trước đó, cậu bé sinh ngày 1/5/2001 này đã liên tục gây “bão mạng”
với rất nhiều thành tích, đặc biệt là hai lần được ghi vào sách kỉ lục Việt
Nam: Dịch giả nhỏ tuổi nhất và người viết tự truyện nhỏ tuổi nhất. Trong nhiều
tài năng không đợi tuổi đó, Đỗ Nhật Nam - nhà thơ xuất hiện muộn hơn nhưng lại
góp phần tái khẳng định vòng nguyệt quế vô hình mà công chúng dành tặng.
Góc sân và khoảng trời và Đường
xa con hát là tập hợp những hoa trái đầu mùa rất ngọt ngào trong đời thơ Trần
Đăng Khoa và Đỗ Nhật Nam. Cậu bé Khoa tự tình trên chính đất đai, làng mạc quê
nhà còn Đỗ Nhật Nam thì chỉ thực sự bung tỏa cảm xúc khi ở bên kia bán cầu.
Thanh âm cơ bản của hai tập thơ vẫn là những tình cảm yêu thương dành cho gia
đình, thiên nhiên, quê hương, đất nước nhưng mang dấu ấn riêng từng thời đại, từng
cuộc đời. Cậu bé Khoa tuổi thơ chưa đi quá lũy tre làng nên viết về quê hương Bắc
Bộ với niềm say mê bất tận. Không khí, hương sắc làng quê trở thành phông nền
cho mọi hình tượng và cảm xúc nghệ thuật. Nhiều bài thơ của Khoa thể hiện thành
công cái hồn của thiên nhiên Bắc Bộ:
Mặt trời lặn xuống bờ ao
Ngọn khói xanh lên, lúng liếng
Vườn sau gió chẳng đuổi nhau
Lá vẫn bay vàng sân giếng
Xóm ngoài, nhà ai giã cốm
Làn sương lam mỏng, rung rinh
Bạn nhỏ cưỡi trâu về ngõ
Tự mình làm nên bức tranh...
(Khi mùa thu sang).
Những câu thơ như thế đã họa được “đặc thù thể trạng” quê hương. Mùa thu dù tĩnh nhưng vẫn lúng liếng gợi tình. Lá rơi nhuộm vàng sân giếng cùng với hương cốm đã trả lại cho mùa thu miền Bắc những ấn tượng đã thành nếp. Đi ra từ trong làn sương chiều mỏng mảnh, hình ảnh những trẻ mục đồng cưỡi trâu về càng làm cho bức tranh mùa thu quyến rũ và xao xuyến lòng người.
Mặt trời lặn xuống bờ ao
Ngọn khói xanh lên, lúng liếng
Vườn sau gió chẳng đuổi nhau
Lá vẫn bay vàng sân giếng
Xóm ngoài, nhà ai giã cốm
Làn sương lam mỏng, rung rinh
Bạn nhỏ cưỡi trâu về ngõ
Tự mình làm nên bức tranh...
(Khi mùa thu sang).
Những câu thơ như thế đã họa được “đặc thù thể trạng” quê hương. Mùa thu dù tĩnh nhưng vẫn lúng liếng gợi tình. Lá rơi nhuộm vàng sân giếng cùng với hương cốm đã trả lại cho mùa thu miền Bắc những ấn tượng đã thành nếp. Đi ra từ trong làn sương chiều mỏng mảnh, hình ảnh những trẻ mục đồng cưỡi trâu về càng làm cho bức tranh mùa thu quyến rũ và xao xuyến lòng người.
Khó có thể nói hết ân tình của
Khoa dành cho làng quê. Cậu bé đã thu vào tâm, vào trí những cảnh tượng đơn sơ
của quê hương và tìm cách làm cho nó thăng hoa trong thơ mình. Cảm thấu niềm
vui của người dân quê khi được mùa, Khoa vẽ lên một khung cảnh thật rạng rỡ:
Thóc nở bung như sao
Nhuộm vàng cả trời cao
(Vào mùa).
Trò chơi thả diều quen thuộc của trẻ em thôn quê qua lăng kính của Khoa lại bảng lảng sương khói huyền thoại:
Cánh diều no gió
Tiếng nó trong ngần
Diều hay chiếc thuyền
Trôi trên sông Ngân…
(Thả diều).
Nhưng năm tháng tuổi thơ Trần Đăng Khoa không chỉ có bình yên. Giặc Mĩ đã leo thang bắn phá quê hương. Tiếng thơ vốn hồn nhiên, hiền lành trở nên sâu sắc và lớn bổng với những âm vang của thời đại. Khoa viết về tiếng bom rùng rùng nổ trong đêm trăng tràn ngập tiếng đàn bầu, về hình ảnh những hố bom, đôi nạng gỗ bên bàn thầy giáo, mặt bảng đen lỗ chỗ vết bom bi, những bài học dang dở... Không miêu tả cặn kẽ lịch sử, không nhìn lịch sử với cái nhìn ráo riết như những nhà văn lớn tuổi nhưng Trần Đăng Khoa vẫn gợi được một góc nhìn dữ dội về chiến tranh.
Thóc nở bung như sao
Nhuộm vàng cả trời cao
(Vào mùa).
Trò chơi thả diều quen thuộc của trẻ em thôn quê qua lăng kính của Khoa lại bảng lảng sương khói huyền thoại:
Cánh diều no gió
Tiếng nó trong ngần
Diều hay chiếc thuyền
Trôi trên sông Ngân…
(Thả diều).
Nhưng năm tháng tuổi thơ Trần Đăng Khoa không chỉ có bình yên. Giặc Mĩ đã leo thang bắn phá quê hương. Tiếng thơ vốn hồn nhiên, hiền lành trở nên sâu sắc và lớn bổng với những âm vang của thời đại. Khoa viết về tiếng bom rùng rùng nổ trong đêm trăng tràn ngập tiếng đàn bầu, về hình ảnh những hố bom, đôi nạng gỗ bên bàn thầy giáo, mặt bảng đen lỗ chỗ vết bom bi, những bài học dang dở... Không miêu tả cặn kẽ lịch sử, không nhìn lịch sử với cái nhìn ráo riết như những nhà văn lớn tuổi nhưng Trần Đăng Khoa vẫn gợi được một góc nhìn dữ dội về chiến tranh.
Với cậu bé du học sinh Đỗ Nhật
Nam, những ngày xa nhà học tập trên đất Mĩ đã dồn nỗi nhớ người thân vào thơ
em. Nam viết nhiều về bố, về mẹ, về ông bà và bài nào cũng nặng tâm tình. Triệu
vòng ôm, triệu cái hôn liên tục gửi qua thơ cho “ông già nho” “Khốt Ta Bít”,
cho “người hay khóc nhất năm”, cho “bà ngoại xì tin”... Thơ Nam là “quà bé mọn”
gửi tặng người thân yêu mỗi khi “tim em ngơ ngác” trước bộn bề nỗi nhớ. Cậu con
trai có cái “trán rô”, ngày ở nhà thỉnh thoảng hay cãi bướng, nhưng khi xa xôi
thì “thấy lòng chợt mềm như cỏ”. Thơ em cùng với lòng em lặn lội tìm về ấu thơ,
về với những con đường mưa dìu dặt sắc xuân Hà Nội. Dẫu đó chỉ là sự trở về qua
tâm tưởng nhưng cũng đủ để Nam “thấy lòng mình lành như hoa xoan, hoa khế”.
Không ngăn được niềm xúc động khi đọc những bài thơ rất đỗi chân thành được viết
từ nỗi cô đơn của con dân Việt xa nhà:
Giao thừa xa nhà lơ lắc
Con vẫn đang giờ học bài
Mắt con dõi tìm ra ngoài
Mong một nụ đào đi lạc
Mong một đường bay chim hạc
Mong hơi lửa ấm bánh chưng
Sắt se vai mẹ rưng rưng
Ấm êm đôi bàn tay bố
(Khúc hát giao thừa).
Giao thừa xa nhà lơ lắc
Con vẫn đang giờ học bài
Mắt con dõi tìm ra ngoài
Mong một nụ đào đi lạc
Mong một đường bay chim hạc
Mong hơi lửa ấm bánh chưng
Sắt se vai mẹ rưng rưng
Ấm êm đôi bàn tay bố
(Khúc hát giao thừa).
Thời thơ ấu, Trần Đăng Khoa
may mắn có một bà mẹ nông dân thuộc nhiều truyện kể, câu ca dân gian. Những bài
học đầu đời giản dị và nhân hậu, Trần Đăng Khoa đã tiếp nhận từ chính người mẹ
hiền “một đời đi gió, đi sương”. Giờ đây, ở bang Texas, Đỗ Nhật Nam cũng vô
cùng biết ơn người mẹ trí thức của mình. Câu chuyện về “Quan Âm tóc rối”, ý
nghĩa của từ “rì rầm” trong câu thơ Nguyễn Đình Thi… qua lời mẹ thủ thỉ đã khai
trí, khai tâm, khai tình cho em. Lắng đọng trong tim Nam những tiếng “rì rầm” mới:
Đừng cách ngăn, đừng cách rời
Khẽ khàng chạm tim ấm nóng
Rưng rưng một miền trông ngóng
Con nghe trọn nỗi... rì rầm
(Rì rầm yêu thương).
Đỗ Nhật Nam làm mọi người bất ngờ với suy luận: bố, mẹ, ông, bà đều là những Quan Âm tóc rối. Thế nên thơ em đã thay lòng em “hò hẹn”:
Một sớm mai con sẽ quay về
Rồi ấm áp nắm bàn tay “Quan Âm” mẹ
Cánh hoa hồng buông lơi nhè nhẹ
Vũ trụ quanh mình bừng sáng tin yêu
(Quan Âm tóc rối).
Đừng cách ngăn, đừng cách rời
Khẽ khàng chạm tim ấm nóng
Rưng rưng một miền trông ngóng
Con nghe trọn nỗi... rì rầm
(Rì rầm yêu thương).
Đỗ Nhật Nam làm mọi người bất ngờ với suy luận: bố, mẹ, ông, bà đều là những Quan Âm tóc rối. Thế nên thơ em đã thay lòng em “hò hẹn”:
Một sớm mai con sẽ quay về
Rồi ấm áp nắm bàn tay “Quan Âm” mẹ
Cánh hoa hồng buông lơi nhè nhẹ
Vũ trụ quanh mình bừng sáng tin yêu
(Quan Âm tóc rối).
Đọc thơ Nam, ta nhận ra đấy là tiếng thơ
của thời đại mới. Em thuộc thế hệ công dân thời đại số, quen làm bạn với bàn
phím chứ không làm bạn với cây bút như Trần Đăng Khoa. Thơ Khoa sực nức hương đồng
nội; chất làng quê và chất dân gian đã hun đúc một nhà thơ mục đồng chính hiệu.
Thơ Nam cũng không thiếu nguồn cội bình dị ấy. Dù đang ở không gian trung tâm
văn hóa, kinh tế lớn của thế giới, thơ Nam vẫn âm vang sắc điệu mềm mại của thơ
lục bát, vẫn thơm bát canh rau muống, rau cần mẹ nấu:
Này đây hoa bưởi thơm tho
Này đây vũ khúc con cò lí lơi
Này đây, con hát à ơi
Ngủ đi mẹ nhé, cho vơi nhọc nhằn
(Thương mẹ).
Đúng như em từng nói:
Nếu biết yêu thương thì đâu cũng là nhà
Đâu cũng gặp con cò đến hát
Đâu cũng thấy lời quê hương bát ngát
Xin bố mẹ yên lòng... con vẫn ấm... mùa đông...
(Đông ấm).
Nhưng thơ Nam cũng đã theo cuộc đời em mà lớn, mà khác. Ngôn ngữ @ trong thơ Nam cho thấy xu thế hội nhập của thơ, của chủ nhân thơ cũng như những nhân vật trong thơ:
Bà ngoại ngoài bảy mươi
Bắt đầu dùng facebook
Cháu đi xa “chín khúc”
Bà mong gặp hàng ngày
Bà vào like, comment
Hình icon rực rỡ/
Bà “xì tin” khó đỡ
Bà vui thêm ngàn lần
(Bà ngoại xì tin).
Góp phần xác tín tư cách công dân thời hội nhập cho Đỗ Nhật Nam còn chính là khả năng mở rộng suy cảm của thơ em. Thế giới trong thơ Nam thực sự xa và rộng. Không chỉ là ngôi nhà thân yêu, Hà Nội thân yêu, tâm hồn em đã kết nối với nhiều không gian xa lạ. Có thể nói, Đỗ Nhật Nam đã thụ hưởng thành quả của cuộc sống số theo nghĩa tích cực, thu nhận thông tin chóng vánh và chân thành đồng cảm sẻ chia. Lời ước nguyện cuối năm của cậu bé tuổi mười bốn đáng được trân trọng:
Những ngày cuối năm đầy gió
Lá rơi xao xác đường về
Thế giới ngập tràn biến động
Cháy phà
Rồi máy bay rơi ...
Chỗ nào trên biển xa xôi
Trôi vào mênh mông sâu thẳm
Chấp chới những lời gọi cuối
Chúa ơi!
Xin mở đường về...
Bài thơ này và bài thơ Nguyện cầu cùng chung một tứ. Trái tim bé thơ đang đập những nhịp run rẩy trước những thảm họa đau lòng của bạn bè thế giới. Đọc những câu thơ ấy lại liên nhớ sự thảng thốt từng hiện diện trong thơ Trần Đăng Khoa khi đài đưa tin Mĩ ném bom Hà Nội. Tiếng thơ bật ra như một lời kêu cứu:
- Các chú bộ đội ơi!
- Các chú bộ đội ơi!
- Thằng giặc Mĩ nó ném bom Hà Nội rồi
Hà Nội có Bác Hồ đang ở
(Hà Nội có Bác Hồ).
Này đây hoa bưởi thơm tho
Này đây vũ khúc con cò lí lơi
Này đây, con hát à ơi
Ngủ đi mẹ nhé, cho vơi nhọc nhằn
(Thương mẹ).
Đúng như em từng nói:
Nếu biết yêu thương thì đâu cũng là nhà
Đâu cũng gặp con cò đến hát
Đâu cũng thấy lời quê hương bát ngát
Xin bố mẹ yên lòng... con vẫn ấm... mùa đông...
(Đông ấm).
Nhưng thơ Nam cũng đã theo cuộc đời em mà lớn, mà khác. Ngôn ngữ @ trong thơ Nam cho thấy xu thế hội nhập của thơ, của chủ nhân thơ cũng như những nhân vật trong thơ:
Bà ngoại ngoài bảy mươi
Bắt đầu dùng facebook
Cháu đi xa “chín khúc”
Bà mong gặp hàng ngày
Bà vào like, comment
Hình icon rực rỡ/
Bà “xì tin” khó đỡ
Bà vui thêm ngàn lần
(Bà ngoại xì tin).
Góp phần xác tín tư cách công dân thời hội nhập cho Đỗ Nhật Nam còn chính là khả năng mở rộng suy cảm của thơ em. Thế giới trong thơ Nam thực sự xa và rộng. Không chỉ là ngôi nhà thân yêu, Hà Nội thân yêu, tâm hồn em đã kết nối với nhiều không gian xa lạ. Có thể nói, Đỗ Nhật Nam đã thụ hưởng thành quả của cuộc sống số theo nghĩa tích cực, thu nhận thông tin chóng vánh và chân thành đồng cảm sẻ chia. Lời ước nguyện cuối năm của cậu bé tuổi mười bốn đáng được trân trọng:
Những ngày cuối năm đầy gió
Lá rơi xao xác đường về
Thế giới ngập tràn biến động
Cháy phà
Rồi máy bay rơi ...
Chỗ nào trên biển xa xôi
Trôi vào mênh mông sâu thẳm
Chấp chới những lời gọi cuối
Chúa ơi!
Xin mở đường về...
Bài thơ này và bài thơ Nguyện cầu cùng chung một tứ. Trái tim bé thơ đang đập những nhịp run rẩy trước những thảm họa đau lòng của bạn bè thế giới. Đọc những câu thơ ấy lại liên nhớ sự thảng thốt từng hiện diện trong thơ Trần Đăng Khoa khi đài đưa tin Mĩ ném bom Hà Nội. Tiếng thơ bật ra như một lời kêu cứu:
- Các chú bộ đội ơi!
- Các chú bộ đội ơi!
- Thằng giặc Mĩ nó ném bom Hà Nội rồi
Hà Nội có Bác Hồ đang ở
(Hà Nội có Bác Hồ).
Có thể thấy cả Đỗ Nhật Nam
và Trần Đăng Khoa đều sở hữu sự nhạy cảm lớn với những bước chuyển của ngoại giới.
Tất nhiên, Trần Đăng Khoa có những mối bận lòng riêng của một công dân lớn lên
trong thời kì đất nước hai miền chia cắt, khi mọi tin yêu và tự hào luôn được gửi
tới lãnh tụ, các anh bộ đội. Điều may mắn là sự nhạy cảm không làm tổn thương
cách nhìn đời của hai bé thơ này. Cả hai hiểu được rằng, những nỗi đau và tổn
thất chỉ là phông nền làm hiển hiện và thăng hoa một không gian khác - không
gian của sự sống, niềm tin. Hình ảnh cánh diều vươn cao ngạo nghễ bên bờ hố bom
là một tương phản rất đẹp của không gian nghệ thuật, thể hiện sức sống bất diệt
của con người:
Tiếng diều vàng nắng
Trời xanh cao hơn
Dây diều em cắm
Bên bờ hố bom
(Thả diều).
Những tương phản đầy chất thơ đó xuất hiện nhiều lần trong tập Góc sân và khoảng trời. Chiến tranh phút chốc bị đẩy lùi, nhường chỗ cho những không gian yên ả, trong trẻo, đầy ánh sáng niềm tin. Giống như cái kết mà Đỗ Nhật Nam đã viết trong bài Nguyện cầu:
Rồi đền đài lại ngát hương lan
Rồi Everest lại mênh mông tuyết trắng
Rồi Kathmandu lại thênh thang nắng
Và đất lại liền như chưa hề có vết đau
Nepal ơi, xin nguyện cầu cho nước mắt khô mau
Cho những số phận đã hòa tan vào lòng đất
Biết quên vết thương thịt da, quên nỗi đau mất mát
Ngủ yên hoài, trong lòng đất... xanh xa.
Đó là một sự trưởng thành sớm về tâm hồn. Đau cho những giấc mơ tan hoang, vụn vỡ nhưng Nam cũng nhìn xa về sự hồi sinh của người dân Nepal. Cơn động đất đã làm “thân thể họ vụn rời” nhưng những giấc mơ cũng đồng thời bay lên từ đấy. Cái nhìn tươi sáng, an nhiên ấy có thể nhờ tuổi đời mà có nhưng cũng đã vượt lên trên tuổi đời non trẻ mà lớn.
Tiếng diều vàng nắng
Trời xanh cao hơn
Dây diều em cắm
Bên bờ hố bom
(Thả diều).
Những tương phản đầy chất thơ đó xuất hiện nhiều lần trong tập Góc sân và khoảng trời. Chiến tranh phút chốc bị đẩy lùi, nhường chỗ cho những không gian yên ả, trong trẻo, đầy ánh sáng niềm tin. Giống như cái kết mà Đỗ Nhật Nam đã viết trong bài Nguyện cầu:
Rồi đền đài lại ngát hương lan
Rồi Everest lại mênh mông tuyết trắng
Rồi Kathmandu lại thênh thang nắng
Và đất lại liền như chưa hề có vết đau
Nepal ơi, xin nguyện cầu cho nước mắt khô mau
Cho những số phận đã hòa tan vào lòng đất
Biết quên vết thương thịt da, quên nỗi đau mất mát
Ngủ yên hoài, trong lòng đất... xanh xa.
Đó là một sự trưởng thành sớm về tâm hồn. Đau cho những giấc mơ tan hoang, vụn vỡ nhưng Nam cũng nhìn xa về sự hồi sinh của người dân Nepal. Cơn động đất đã làm “thân thể họ vụn rời” nhưng những giấc mơ cũng đồng thời bay lên từ đấy. Cái nhìn tươi sáng, an nhiên ấy có thể nhờ tuổi đời mà có nhưng cũng đã vượt lên trên tuổi đời non trẻ mà lớn.
Còn nhiều điều riêng chung nữa
trong thơ hai thần đồng Trần Đăng Khoa và Đỗ Nhật Nam làm ta thích thú. Không hẹn
mà gặp, hình ảnh một ấu nhi có khả năng tự lập cao hiện diện trên trang thơ cả
hai. Trong bối cảnh miền Bắc một lòng hướng về tiền tuyến, ấu nhi trong thơ
Khoa tình nguyện làm người nội trợ đảm đang sẻ chia một phần gánh nặng với người
mẹ một đời lam lũ:
Khi mẹ vắng nhà, em luộc khoai
Khi mẹ vắng nhà, em cùng chị giã gạo
Khi mẹ vắng nhà, em thổi cơm
Khi mẹ vắng nhà, em nhổ cỏ vườn
Khi mẹ vắng nhà, em quét sân và quét cổng...
(Khi mẹ vắng nhà).
Ấu nhi trong thơ Nam thì chủ động hoán đổi thiên chức. Em là người ru bố, ru mẹ. Em là người thường xuyên dặn dò người thân. Đặc biệt, em tự “dọn lòng” vững vàng đi qua bao vất vả nơi đất khách để làm an lòng người ở xa:
Tất niên về trong chầm chậm
Em “dọn” lòng đón tân niên
Tự nở một đóa trạng nguyên
Ngày về, vinh quy... gần lắm!
(Khúc hát giao thừa).
Đọc thơ Khoa, ta say mê với nhiều liên tưởng sáng tạo, ngộ nghĩnh cùng sự biểu cảm, chính xác của ngôn ngữ. Với cách nhìn đời non tơ, Khoa phát hiện ra vầng trăng đêm và ai đó đang chơi trò ú tim của tuổi thơ: Ai dắt ông trăng vàng/ Thả chơi trong lùm nhãn. Nhà thơ mục đồng này làm ta thán phục bởi cách dùng từ đắc địa: Nắng mưa từ những ngày xưa/ Lặn trong đời mẹ đến giờ chưa tan (Mẹ ốm). Thơ Đỗ Nhật Nam thì tạo ấn tượng với người đọc bằng những cảm nhận sâu sắc giàu tính duy lí. Sửng sốt yêu thương khi nghe em tự vấn:
Muôn đời “nước mắt chảy xuôi”
Phận con sao không “chảy ngược”
Quên tình mẹ trong như nước
Quên cha là núi lặng thầm
(Trán rô của bố).
Tự thấy mình bé nhỏ trước lời Nam triết lí:
Khi mẹ vắng nhà, em luộc khoai
Khi mẹ vắng nhà, em cùng chị giã gạo
Khi mẹ vắng nhà, em thổi cơm
Khi mẹ vắng nhà, em nhổ cỏ vườn
Khi mẹ vắng nhà, em quét sân và quét cổng...
(Khi mẹ vắng nhà).
Ấu nhi trong thơ Nam thì chủ động hoán đổi thiên chức. Em là người ru bố, ru mẹ. Em là người thường xuyên dặn dò người thân. Đặc biệt, em tự “dọn lòng” vững vàng đi qua bao vất vả nơi đất khách để làm an lòng người ở xa:
Tất niên về trong chầm chậm
Em “dọn” lòng đón tân niên
Tự nở một đóa trạng nguyên
Ngày về, vinh quy... gần lắm!
(Khúc hát giao thừa).
Đọc thơ Khoa, ta say mê với nhiều liên tưởng sáng tạo, ngộ nghĩnh cùng sự biểu cảm, chính xác của ngôn ngữ. Với cách nhìn đời non tơ, Khoa phát hiện ra vầng trăng đêm và ai đó đang chơi trò ú tim của tuổi thơ: Ai dắt ông trăng vàng/ Thả chơi trong lùm nhãn. Nhà thơ mục đồng này làm ta thán phục bởi cách dùng từ đắc địa: Nắng mưa từ những ngày xưa/ Lặn trong đời mẹ đến giờ chưa tan (Mẹ ốm). Thơ Đỗ Nhật Nam thì tạo ấn tượng với người đọc bằng những cảm nhận sâu sắc giàu tính duy lí. Sửng sốt yêu thương khi nghe em tự vấn:
Muôn đời “nước mắt chảy xuôi”
Phận con sao không “chảy ngược”
Quên tình mẹ trong như nước
Quên cha là núi lặng thầm
(Trán rô của bố).
Tự thấy mình bé nhỏ trước lời Nam triết lí:
Thế giới này sẽ chẳng còn
khổ đau
khổ đau
Nếu ai cũng biết là mình
không
hoàn hảo
Mình dẫu sao chỉ là thanh
ghép nhỏ
Trong bộ xếp hình tròn trịa của
nhân sinh...
(Tiếng hát con chim nhại)
hoàn hảo
Mình dẫu sao chỉ là thanh
ghép nhỏ
Trong bộ xếp hình tròn trịa của
nhân sinh...
(Tiếng hát con chim nhại)
Người viết muốn dùng chính những câu thơ này để nhìn lại một lần nữa gia tài
thơ của hai thần đồng. Những điều không hoàn hảo trong thế giới nghệ thuật của
hai nhà thơ còn rất trẻ về tuổi đời, tuổi nghề là điều không tránh khỏi. Đỗ Nhật
Nam vì biết nhiều, đọc nhiều nên có lúc thơ em không kiểm soát được tiếng vọng
từ âm nhạc, thơ ca của người đi trước. Trần Đăng Khoa, bên cạnh những bài thơ
trong trẻo, hồn nhiên về thiên nhiên và con người, có những bài thơ hơi lớn giọng.
Với những bài thơ ấy, phần tuổi thơ cùng cá tính sáng tạo trong thơ Trần Đăng
Khoa bị tiết chế và nhà thơ nhí trở thành người phát ngôn cho những người bạn
cùng thế hệ trong giai đoạn kháng chiến chống Mĩ. Nhưng nếu thiếu tiếng thơ của
hai công dân nhí ấy, “bộ xếp hình” văn học nước nhà chắc chắn sẽ thiếu đi hai
“thanh ghép” ý nghĩa.
Nguyễn Thanh Tâm
Nguồn
vannghequandoi.com.vn
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét