Trong văn học Việt Nam, những nhà thơ lớn đều là những nhà thơ dân
tộc. Nhưng nơi Nguyễn Khuyến, chữ "dân tộc" thật gần gũi, thích hợp,
và sáng chói hơn cả. Dù ông không có bản văn hùng tráng như ''Bình Ngô Đại Cáo'' của Nguyễn Trãi, những bài thơ trau chuốt như Bà Huyện Thanh Quan, hay nhiều
bài thơ đạo lý răn đời như Nguyễn bỉnh Khiêm.Nhưng nơi Nguyễn Khuyến, có một
tấm lòng lai láng với cảnh vật non sông, chan chứa sự thông cảm với dân lành,
đề cao tình bạn rạng ngời, và nhất là một lòng yêu nước sâu xa. Chúng ta sẽ
cùng nhìn lại cuộc đời và thi phẩm của ông, để thấy rõ tài năng và tâm hồn một
nhà thơ xuất sắc của dân tộc.
I. NHÀ THƠ CỦA NÔNG THÔN
Nguyễn Khuyến sinh năm 1835 và mất năm 1909, thọ 74 tuổi. Trừ
thời gian làm quan và lên Hà Nội dạy học, ông đã sống ở quê nhà hơn 40 năm. Do
đó, ông thật hiểu biết từ bụi tre, ao cá, ruộng vườn. đến làng xóm, dân tình,
phong tục. Dưới ngòi bút của ông, nông thôn Việt nam trở thành thật đẹp, thật
gần, với những hình ảnh rõ ràng, sinh động:
Trâu già góc bụi phì hơi nắng
Chó nhỏ bên ao cắn tiếng người
Với những tiếng thật Việt Nam
Năm gian nhà cỏ thấp le te
Ngõ tối đêm sâu đóm lập lòe
Đặc biệt là khi tả cảnh thu, rõ ràng là mùa thu của quê hương .
Nguyễn Khuyến trở thành thi sĩ của mùa thu với ba bài thơ bất hủ : Thu điếu,
Thu ẩm, Thu vịnh. Tuy rằng trước kia cũng có những nhà thơ tả cảnh thu, nhưng
có vẻ như mượn cảnh sắc Trung Hoa và đầy khuôn sáo như thơ thời Hồng Đức
Lác đác ngô đồng mấy lá bay
Tin thu heo hắt lọt hơi may.
(Hồng Đức quốc âm thi tập)
(Hồng Đức quốc âm thi tập)
So với những câu thơ của Nguyễn Khuyến, thật không tạo ấn tượng
bằng:
Ao thu lạnh lẽo nước trong veo
Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo
Sóng biếc theo làn hơi gợn tí
Lá vàng trước gió sẽ đưa vèo
(Thu điếu)
(Thu điếu)
Ngay cả khi tả cảnh ngôi chùa cũ kỹ cùng với một nhà sư đơn độc,
ông cũng dùng những hình ảnh thật đẹp:
Chùa xưa ở lẫn cùng cây đá
Sư cụ nằm chung với khói mây
(Nhớ cảnh Chùa Đọi)
(Nhớ cảnh Chùa Đọi)
Nhưng đó là hình ảnh "sương khói" rất ít gặp nơi thơ
Nguyễn Khuyến, còn phần nhiều là những hình ảnh quen thuộc, chất phác, gắn liền
với dân quê như: con trâu, con gà, ngõ trúc, đường làng, khúc sông, bãi chợ,
vườn cà, cây cải, ao cá, bờ tre.
Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt
Ngõ trúc quanh co khác vắng teo.
(Thu điếu)
(Thu điếu)
Tuy nhiên, cái làm cho Nguyễn Khuyến thực sự là nhà thơ của nông
thôn, không phải chỉ là những bài thơ tả cảnh, mà là tình cảm của ông đối với
những người chân lấm tay bùn. Ông thật thông cảm với đời sống cực nhọc của dân,
một nắng hai sương, lại thêm cảnh vỡ đê lụt lội, nghèo túng, làm ăn thất bát,
nợ nần ''lãi mẹ đẻ lãi con ". Có thể nói rằng: với Nguyễn Khuyến, thơ văn
Việt Nam "lội xuống ruộng đồng" và cảm thông sâu sắc với đời sống
dân quê, để nghe:
Ình ịch đêm qua trống các làng
Ai ai mà chẳng rước xuân sang
(Khai bút )
(Khai bút )
Năm nay cày cấy vẫn chân thua
Chiêm mất đàng chiêm, mùa mất mùa
(chốn quê)
(chốn quê)
Ông đã cùng sống với cảnh khổ của dân
Sớm trưa dưa muối cho qua bữa
Chợ búa trầu chè chẳng dám mua
(Chốn quê)
(Chốn quê)
Và ngậm ngùi với dân:
Quai mễ Thanh Liêm đã lở rồi
Quai mễ Thanh Liêm đã lở rồi
Vùng ta thôi cũng lụt mà thôi
(Nước lụt Hà Nam)
(Nước lụt Hà Nam)
Hai chữ "Vùng ta" của Nguyễn Khuyến thật gần gũi,
chí tình; như chính ông với quê hương, làng nước.
Tuy nghèo khổ, lam lũ, nhưng tình cảm con người với nhau ở thôn
quê thật thân thiện:
Chú Đáo bên làng lên với tớ
Ông từ xóm chợ lại cùng ta.
(Lên lão)
(Lên lão)
Và:
Cổng reo trẻ đón, ông về đó
Cổng reo trẻ đón, ông về đó
Gậy chống già chào: bác đấy a?
(Hoàn gia tác)
(Hoàn gia tác)
Nguyễn Khuyến sống chan hoà với nông dân, người ta kể: khi ông đi
dạo trong làng, gặp những cụ già, ông đã dừng lại mở cơi trầu, mời họ ăn và
chuyện trò thật đằm thắm. Điều đó chứng tỏ Nguyễn Khuyến có một tâm hồn thật bình
dân. Và Văn học sử cho ta thấy: chưa có một quan lớn tổng đốc nào lại đi làm câu
đối, câu phúng điếu cho người láng giềng, bà thông gia, anh thợ rèn, chị thợ
nhuộm, chị hàng thịt. Những câu thật đẹp, thật hay, và cũng chứa đầy tình cảm,
đôi khi có chút hài hước bên trong, như câu đối cho chị vợ anh hàng thịt để
treo trong nhà:
Tứ thời bát tiết canh chung thuỷ
Ngạn liễu đôi bồ dục điểm trang
(Bốn mùa, tám tiết bền chung thuỷ
Dặm liễu, gò bồ, muốn điểm trang)
Hai câu thơ nói lên sự thông cảm với nỗi lòng người goá phụ, nhưng
cũng có những hình ảnh phù hợp với nghề nghiệp của cặp vợ chồng: "Bát
tiết canh, đôi bồ dục". Thật là hóm hỉnh, sâu xa.
Quả thật, trước kia cũng có những nhà thơ tả cảnh nông thôn, nhưng
vẫn còn ít nhiều xa lạ với phong cảnh Việt Nam. Sau này, tuy có những thi sĩ
như Đoàn văn Cừ, Bàng bá Lân, Nguyễn Bính, Anh Thơ.đã vẽ ra nhiều nét đẹp làng
quê và tâm tình người nông thôn; nhưng tấm lòng họ dành cho làng xóm và thân
phận tối tăm của người dân quê, thật không bằng Nguyễn Khuyến. Chỉ có ít nhà
văn sau này như Ngô tất Tố với "Tắt Đèn", Nguyễn công Hoan với
"Bước đường cùng", là có thể thấy và mô tả được như ông, nhưng đó là
văn xuôi và là cái nhìn của mấy chục năm sau. Có thể nói rằng: trước và sau
đó, chưa có nhà thơ nào có bức tranh sinh động về làng nước và chan chứa với
mối cảm thông với đời sống cực nhọc của dân, qua đó để lại ấn tượng sâu đậm cho
đời, bằng nhà thơ Nguyễn Khuyến.
II. NHÀ THƠ CỦA TÌNH BẠN
Dân tộc chúng ta luôn yêu chuộng hòa bình và có tính hiếu khách,
từ đó dễ thân quen và coi trọng tình bạn. "Lưu Bình Dương Lễ" đã là câu
chuyện thật cảm động, nói lên truyền thống ngàn đời "trọng tình bạn"
của dân tộc chúng ta.
Là một nhà thơ giầu tình cảm, Nguyễn Khuyến cũng không ngoại lệ khi
nói về tình bạn, những bài thơ bất hủ của ông khi đề cập đến bạn là những minh
chứng hùng hồn sâu sắc, quả thật là những tình bạn nên thơ:
Ai lên nhắn hỏi bác Châu Cầu
Lụt lội năm nay bác ở đâu?
(Nước lụt thăm bạn)
(Nước lụt thăm bạn)
Hai câu đầu của bài thơ "Nước lụt hỏi thăm bạn" thật tự
nhiên, thân tình. Rồi sau đó hỏi cả ổ lợn con, gian nhà chứa lúa nếp; với đôi
chút hóm hỉnh pha trò về tính keo kiệt của bạn, cùng lời khuyên thật nhẹ nhàng
với những thú chơi thanh tao:
Phận thua suy tính càng thêm thiệt
Tuổi cả chơi bời hoạ sống lâu
Và sau cùng là chút tin tức của mình:
Em cũng chẳng no mà chẳng đói
Thung thăng chiếc lá, rượu lưng bầu
Đối với bác Châu Cầu là vậy, còn khi Cụ Tam nguyên tiếp khách thì
sao? Nhà thơ của chúng ta tuy không keo kiệt, nhưng nhà nghèo, chả có gì đãi
khách, bèn hài hước viện cớ từ đầu:
Đã bấy lâu nay bác tới nhà
Trẻ thời đi vắng, chợ thời xa
Rồi thì thịt cá chẳng có, rau cỏ cũng không. Sau khi bóc trần hết
các nghi thức xã giao: cái gì cũng không có, chỉ còn lại là: "Bác
đến chơi đây, ta với ta". Thật ngộ nghĩnh buồn cười cho một tình
bạn dễ thương, vì chứa đầy lòng chân thật. Một tình bạn đằm thắm, vui tươi.
Nhưng cảm động nhất khi nói về tình bạn của Nguyễn Khuyến, phải kể
đến bài thơ "Khóc Dương Khuê", một bài thơ để đời và là mẫu mực của
tình bạn, qua đó chúng ta thấy nhà thơ thương bạn, quý bạn đến mức nào:
Bác Dương thôi đã thôi rồi
Nước mây tan tác ngậm ngùi lòng ta
Hai câu mở đầu thật ngỡ nàng, chua xót trước tin bạn mất; Rồi
những câu kế tiếp mở ra một ký ức thâm giao từ thuở đăng khoa, đến "sớm hôm
tôi bác cùng nhau "đèn sách, khi thì vui ngoài thiên nhiên với "suối
reo róc rách lưng đèo", khi thì vui nơi "tầng gác cheo leo" với
bài ca chén rượu; nhớ những ngày "cùng nhau hoạn nạn", sớm tối có
nhau như "duyên trời" cho gặp gỡ. Thế mà bác đã vội về ngay để"
lên tiên", còn lại trên đời người bạn ngậm ngùi chua xót:
Rượu ngon không có bạn hiền
Không mua không phải không tiền không mua
Câu thơ nghĩ đắn đo muốn viết
Viết đưa ai, ai biết mà đưa
Giường kia treo những hữ hờ
Đàn kia thôi gảy, ngẩn ngơ tiếng đàn.
Và cảm động nhất là 4 câu thơ cuối, với tâm tình níu kéo, nhớ
thương, của người bạn già cô độc, khi những người thân ngày càng vắng bóng, làm
cho nước mắt như cũng không còn trong nỗi đau vô tận:
Bác chẳng ở, dẫu van chẳng ở
Tôi tuy thương, lấy nhớ làm thương
Tuổi già hạt lệ như sương
Hơi đâu ép lấy hai hàng chứa chan.
III. NHÀ THƠ TRÀO PHÚNG
Khôi hài là một đặc tính của dân tộc Việt nam, nói lên tinh thần lạc
quan đối với con người và cuộc sống. Nguyễn Khuyến đã thừa hưởng và góp phần
phát huy đặc tính đó. Với thơ ca, ông đã thực sự là một nhà thơ trào phúng: Cười
người và cười mình.
Với cớ đau mắt, Nguyễn Khuyến đã từ quan về hưu, sống với dân
làng. Nhưng lý do chính là: Ông không muốn cộng tác với thực dân Pháp và triều
đình bù nhìn để bóc lột dân. Vì ông thấy rằng: Trong một xã hội mà Vua quan đều
như "Phường chèo", thì ông chả làm được gì, dù có danh vị tiến sĩ như
ông thì cũng chỉ như là "tiến sĩ giấy":
Ghế chéo lọng xanh ngồi bảnh chọe
Nghĩ rằng đồ thật, hoá đồ chơi.
(Vịnh tiến sĩ giấy)
(Vịnh tiến sĩ giấy)
Dưới ách đô hộ của thực dân và phong kiến, cái nghèo khổ như một màn
đêm bao trùm đất nước, trừ một ít người ngay chính, chỉ có những kẻ ăn mảnh, đi
đêm với thực dân như quan kinh lược Bắc Kỳ Hoàng cao Khải, Tổng đốc Vũ văn Báo,
quan tuần Tiên Khoán, quan huyện Thanh Liêm, ông tổng Cóc.mới trở nên giầu nhờ
vơ vét của dân. Thương dân, Nguyễn Khuyến bênh họ bằng cái cười để các quan lại
bỏ thói bợ đỡ các quan Tây, bớt hà hiếp dân lành:
Có tiền việc ấy mà xong nhỉ
Có tiền việc ấy mà xong nhỉ
Ngày trước làm quan cũng thế a?
(Vịnh Kiều bán mình)
(Vịnh Kiều bán mình)
Hoặc:
Chỉ cốt túi mình cho nặng chặt
Chỉ cốt túi mình cho nặng chặt
Trăm năm mặc kệ tiếng chê khen
(Tặng Đốc Học Hà Nam)
(Tặng Đốc Học Hà Nam)
Nhà thơ đã cười và khuyên quan tuần, người màsau khi bị mất cướp,
lại còn ê ẩm bộ xương già da cóc giữa đồng:
Thôi cũng đừng nên ky cóp nữa
Thôi cũng đừng nên ky cóp nữa
Kẻo mang tiếng dại với phường ngông
(Thăm quan Tuần mất cướp)
ngay cả kinh lược đại thần Hoàng cao Khải, tay sai số một của thực
dân Pháp trên đất Bắc, ông cũng chẳng nể nang khi ứng khẩu đọc 4 câu thơ tả
"Ông phỗng đá" mà chính quan ra đề:
Ông đứng làm chi đó hỡi ông
Trơ trơ như đá vững như đồng
Đêm ngày gìn giữ cho ai đó
Non nước đầy vơi có biết không?
Đây là ông Phỗng hay chính là quan phụ mẫu chi dân?
Nhưng cái cười hay nhất và đẹp nhất của Nguyễn Khuyến, là tự cười
mình. Đây là cả một nghệ thuật mà nếu không có tâm hồn như ông, khó có thể làm
được. Khác với nhà thơ Tú Xương có cái cười chửi đời, ngông nghênh; Nguyễn
Khuyến thường mượn cái cười để bộc bạch tâm sự.
Là một nho sĩ thành đạt, Nguyễn Khuyến đã bước vào hoạn lộ với tấm
lòng yêu nước thương dân. Ông tin tưởng vào tài năng, chức vụ, và nhất là lòng
chân thành của mình, có thể giúp triều đình tế thế an dân, đem lại ấm no cho
trăm họ. Thế nhưng với sự sáng suốt, ông cũng đã nhìn ra rất sớm một triều đình
nhu nhược, bù nhìn trước sức mạnh của người Pháp, và sự đổ vỡ chua cay của nền
Hán học:
Sách vở ích gì cho buổi ấy
Áo xiêm nghĩ lại thẹn thân già.
(Ngày xuân dặn các con)
(Ngày xuân dặn các con)
Với tâm sự u uất:
Nghĩ đến bút nghiên trào nước mắt
Nghĩ đến bút nghiên trào nước mắt
Ngước nhìn sông núi xiết buồn đau.
Thế rồi ông xoay ra cười mình, với nụ cười chua chát:
Nghĩ mình lại gớm cho mình nhỉ
Thế cũng bia xanh, cũng bảng vàng
(Tự trào)
(Tự trào)
Ông đã can đảm từ quan để về làm một người dân:
Cũng chẳng giầu mà cũng chẳng sang
Chẳng gầy chẳng béo chỉ làng nhàng
Lúc hứng đánh thêm ba chén rượu
Khi buồn ngâm láo mấy vần thơ
(Tự Trào)
(Tự Trào)
Và để hiểu sâu hơn cái cười và tâm hồn của nhà thơ, chúng ta cùng
nhìn sang một khía cạnh khác của ông: Đó là lòng yêu nước chân thành, sâu sắc.
IV. NHÀ THƠ YÊU NƯỚC
Năm 1883, với hoà ước Harmand, triều đình nhà Nguyễn đã đặt nước
Nam dưới sự bảo hộ của Thực dân Pháp. Vì muốn dùng thanh danh của Nguyễn Khuyến
để lung lạc các sĩ phu trong nước, triều đình cử ông làm Tổng đốc Sơn Hưng
Tuyên. Ông đã lấy cớ đau mắt để từ quan về hưu, cho đây là hành động
"dũng thoái", năm đó ông mới 50 tuổi; và bài thơ "Trở về vườn
Bùi" là một minh định lập trường của ông: không cộng tác với Pháp, rời bỏ
triều đình nhu nhược để trở về với dân.
Thế nhưng chỉ ít lâu sau, ông cảm thấy hành động của mình như một trốn tránh trách nhiệm, tiêu cực cầu an. Và tâm trạng day dứt buồn đau này đã
theo ông cho tới cuối đời. Một đàng vì sức khoẻ yếu kém, nên ông không thể
cùng các bạn đồng liêu như Ngự sử Phan đình Phùng, Tán lý quân vụ Nguyễn thiện
Thuật cầm vũ khí chống Tây, đàng khác thấy cảnh nước mất nhà tan mà mình lại
rút lui, bất lực. Hành động từ quan mà ông cho là "dũng thoái" lúc
ban đầu, nay ông lại đem ra để chế diễu chính mình, cho rằng mình đã chạy làng
lúc đất nước điêu linh:
Cờ đương dở cuộc không còn nước
Bạc chửa thâu canh đã chạy làng.
(Tự thán)
(Tự thán)
Trong lòng ông chứa đựng một mâu thuẫn lớn lao: có một Nguyễn Khuyến
thanh cao luôn muốn làm những điều ích quốc lợi dân; lại như có một Nguyễn Khuyến
khác cam chịu, "chạy làng", dấn thân vào "hội lạc". Và nơi
ông, con người thứ 2 như thắng thế, nên ông luôn thán phục những người dũng cảm
như ông nghè Dao Cù đã khởi nghĩa chống Pháp và bị tử hình: "Con thiêu
thân" chết khi thân hình vẫn luôn cháy sáng; ông chế diễu những quan lại
tay sai, và mượn hình ảnh "chuột ăn lúa" để chỉ trích chính Thực dân. Thế nhưng điểm chính, vẫn là nói về thái độ sống của mình; khi thì cười mình
như một người đứng ngoài cuộc; khi thì coi mình như Mẹ Mốc, một gái goá thủ tiết
thờ chồng như một sĩ phu trung thành với xã tắc non sông:
Sạch như nước, trắng như ngà, trong như tuyết
Ông mượn chén rượu và cơn say để giãi bày tâm sự:
Ba phần tóc bạc càng thêm tủi
Một tấm lòng son vẫn có thừa
Chớ trách bên song say khướt mãi
Không say thì tỉnh với ai kia?
Và rõ hơn nữa là:
Tuý ông ý chẳng say vì rượu
Say vì nước thẳm với non cao.
(Uống rượu ở Vườn Bùi )
(Uống rượu ở Vườn Bùi )
Rồi như Bà Huyện Thanh Quan, ông đã mượn hình ảnh tiếng chim cuốc
kêu để tỏ bày lòng yêu nước:
Có phải tiếc xuân mà đứng gọi
Hay là nhớ nước vẫn nằm mơ.
(Cuốc kêu cảm hứng)
(Cuốc kêu cảm hứng)
Nhưng có lẽ đẹp nhất, vẫn là hình ảnh "Ông phỗng đá" mà
ông mượn để khoác cho mình, một ông phỗng mà:
Hễ ngước mắt nhìn, chỉ thấy non sông ảm đạm
Hễ ngước mắt nhìn, chỉ thấy non sông ảm đạm
Đành tự dung thân nơi ngòi lạch tầm thường .
(Tặng Thạch Lão ông)
Thương thay cho một pho tượng mà vì gặp khói lửa loạn ly, nên phải
đắm chìm trong cỏ dại, để như điếc, như ngây:
Trong thiên hạ có anh giả điếc
Trong thiên hạ có anh giả điếc
Khéo ngơ ngơ ngác ngác, ngỡ là ngây
Trơ trơ như đá, vững như đồng.
(Vịnh Thạch Lão)
(Vịnh Thạch Lão)
Ở đây, chúng ta không thấy một Nguyễn Khuyến tiêu cực, chán đời như
ông khiêm tốn vẽ qua thơ ca của mình. Ngược lại, là hình ảnh của một người thiết
tha yêu đời, yêu nước. Giữa một xã hội mà Vua Quan như "hề chèo", thì
nhân cách của ông thật rực rỡ biết bao. Và điều quý hơn cả, là sự thành thực
nội tâm của nhà thơ: ông không tự vẽ mình như một mẫu mực phải theo, nhưng như một cụ già cố giữ gìn phẩm chất, luôn gắng sức vươn lên để sống thanh cao. Cái cười
của Nguyễn Khuyến là cái cười phảng phất nỗi buồn, vì đó là cái cười đạo đức
của một người đầy tâm huyết, tài năng trước hiện tình đất nước thời bấy giờ, thật
đáng cho chúng ta khâm phục.
V. KẾT LUẬN TỪ GIỌT LỆ ĐẾN NIỀM VUI
Bà cụ Đà, là cháu nội của nhà thơ Nguyễn Khuyến, đã kể rằng: Vào
cuối đời, cụ Tam Nguyên sống âm thầm, buồn tủi. Mỗi lúc hoàng hôn sắp xuống, cụ
ngồi trầm ngâm ngoài sân với hai ông phỗng đá, rót rượu vào ba ly, nâng chén
mời, và tự uống phần mình; Rồi buồn rầu xoa đầu hai pho tượng và uống hộ cho cả
hai. Sau đó cụ ngồi thừ người một lúc, rồi cúi đầu, lặng lẽ bưng mặt khóc.
Giọt lệ chí tình của nhà thơ đã để lại cho chúng ta nhiều xúc động
và suy nghĩ, cũng như chính cuộc đời và những thi phẩm của ông. Chúng ta cảm
thông với những băn khoăn day dứt, với nước mắt và nụ cười của nhà thơ. Và hôm
nay, chúng ta có thể nở nụ cười vui mừng vì Văn Học Việt Nam đã có một nhà thơ
như thế. Nguyễn Khuyến đã "dân tộc hoá "ù phong cảnh nông thôn,
"cụ thể hoá" ù cuộc sống lam lũ nhưng không kém phần thơ mộng của dân
lành, "thi vị hoá"ù tình bạn, cười cái đáng cười và khóc điều đáng
khóc trong xã hội, và nhất là đã yêu mến quê hương với một tấm lòng chân thật,
khiêm nhường. Chúng ta hân hoan vì Văn Học Việt nam có Nguyễn Khuyến, 1 nhà thơ
tài năng, đạo đức, một gương mẫu để chúng ta noi theo. Nhà thơ Nguyễn Khuyến,
với lòng yêu nước và thương dân, đã đi vào Văn Học Sử và sẽø mãi mãi để lại ấn
tượng sâu đậm trong lòng người .
PHỤ LỤC I : NHỮNG GIAI THOẠI VỀ NGUYỄN KHUYẾN
1. Lạy "cột "
Vì Nguyễn Khuyến là một nhà Nho có danh vọng, những việc làm của ông
có thể có ảnh hưởng đến các sĩ phu yêu nước. Nên bọn quan lại tay sai của Pháp
dẫn ông đến gặp công sứ Pháp của thành Nam (Hà nam-Nam Định), dặn cụ lạy hắn
khi ra mắt. Gặp viên công sứ, Nguyễn Khuyến tỏ ra rất cung kính, loay hoay sửa
áo sửa khăn, rồi bỗng chắp tay lạy ngay cái cột bên cạnh hắn, miệng xuýt xoa
:" Lạy cụ lớn ạ ". Lũ quan có mặt, tuy sợ phật ý quan Tây, nhưng cũng
phải bật cười ồ. Nguyễn Khuyến ra vẻ ngơ ngác, ậm à xin lỗi:
- Chết thật, mắt tôi kém nên chả nhìn thấy rõ, có điều gì không
phải, xin cụ lớn và các quan bỏ lỗi cho.
Công sứ Pháp lắc đầu ngán ngẩm, hỏi han qua quýt, rồi sai người
dẫn ông về.
2. Chày đứng
Đình của làng bên năm nào cũng cháy, dân làng mới dựng lại ngôi
đình khác và sang xin nhà thơ Nguyễn Khuyến vài chữ để treo, vì tin rằng ông
vốn hay chữ, chắc sẽ trị được "Hoả thần". Ông bảo người nhà lấy giấy
bút, vẽ cho một chữ "Nhất" thẳng đứng, chỉ tội hai đầu hơi to; với lời
dặn dò nên cẩn thận củi lửa vào mùa khô.
Năm đó, đình làng không cháy, dân làng ca ngợi và cho người sang
khoe, luôn tiện hỏi ý nghĩa chữ ông đã viết để" trấn" thần lửa. Ông
hóm hỉnh trả lời:
- Nào tôi có viết chữ gì đâu, tôi
chỉ có vẽ cái "chày đứng", nghĩa là "đừng cháy" đó mà.
Điều quan trọng là dân làng đã để ý canh chừng củi lửa, nên đã
thoát khỏi nạn cháy đình.
3. Vợ người thợ nhuộm khóc chồng
Bên cạnh nhà Nguyễn Khuyến có đôi vợ chồng người thợ nhuộm. Chẳng
may anh chồng qua đời, để lại vợ dại con thơ. Chị vợ sang xin nhà thơ một câu đối
để khóc chồng; ông lấy giấy bút ra, viết ngay hai câu:
Thiếp từ thuở lá thắm xe duyên, khi vận tía,
lúc cơn đen, điều dại điều khôn
nhờ bố đỏ.
Chàng ở dưới suối vàng nghĩ lại, vợ má hồng, con
răng trắng, tím gan tím ruột với
trời xanh.
Hai câu thơ đã nói lên mối tình thắm thiết của người vợ khóc
chồng, lại có cả mầu xanh đỏ tím vàng. của nghề thợ nhuộm. Quả thật là một câu
đối đầy mầu sắc.
Con trai cả của Nguyễn Khuyến là Nguyễn Hoan; làm tri phủ Lý
nhân. Một hôm có việc về làng Vĩnh Trụ, dân làng đón rước chậm trễ, tri phủ sai
nọc lý trưởng ra đánh, ông này lại là chú vợ của quan.
Ít lâu sau, quan phủ về làng Yên Đổ, vừa về đến đầu làng, thì
trong đám dân đứng đón, có một cụ già khăn áo chỉnh tề, bước ra trước mặt quan,
cung kính chắp tay vái:
- Lạy quan lớn ạ.
Vừa thấy bố, quan phủ hoảng hốt, nhảy vội ra khỏi võng sụp lạy:
- Con lạy thày, thày tha cho, xin đừng làm vậy.
Nguyễn Khuyến tảng lờ như không, lễ độ nói:
- Nghe tin quan lớn về làng, tôi tuy già yếu, cũng phải thân hành
ra đón, kẻo quan lại
trách tôi vô lễ mà cho mấy roi như lý trưởng làng Vĩnh Trụ, thì
tôi chịu sao nổi.
Nguyễn Hoan biết ý bố muốn dạy mình, vội xin lỗi, và hứa sẽ từ bỏ
thói hống hách nghênh ngang.
5. Vịnh trâu già
Năm 1902, vua Thành Thái ra Hà Nội khánh thành cầu Doumer (sau đổi
thành cầu Long Biên). Các bậc khoa bảng và quan chức các tỉnh phía Bắc đều
phải có mặt, Nguyễn Khuyến cũng phải đến bái yết.
Nhìn trên khán đài, có bà hoàng phi của vua, hồi trẻ suýt trở
thành con dâu cả của nhà thơ, lại có viên toàn quyền Pháp Paul Doumer. Ông
không muốn lạy, giả vờ dềnh dàng sửa áo sửa khăn, loay hoay như một con trâu
vướng cột, trông rất buồn cười. Nhà vua chờ lâu, khó chịu quở trách, ông lấy cớ
mình già nua chậm chạp, chống chế xin lỗi. Sau khi biết đấy chính là Nguyễn
Khuyến, danh sĩ số một của đất Bắc, Vua cũng nể vì, và bắt ông làm bài thơ tạ
tội, lấy đề thơ là "Vịnh trâu già". Sau một lúc suy nghĩ, ông xin đọc:
Một nắm xương khô, một nắm da
Bao nhiêu cái ách đã từng qua
Đuôi khom biếng vẫy Điền Đan hỏa
Tai nặng buồn nghe Nịnh Tử ca
Sớm thả vườn Đào chơi đủng đỉnh
Tối về thôn Hạnh thở nghi nga
Có người toan giết tô chuông mới
Ơn đức Vua Tề lại được tha.
Bài thơ thật hợp với đề tài và sâu sắc, mượn trâu để nói lên tâm
trạng của mình: Tôi gầy ốm vì qua nhiều tai ách, chán chường truyện mưu kế của
tướng Điền Đan đốt đuối trâu tấn công kẻ thù, tai cũng chả buồn nghe những lời
ton hót của kẻ nịnh bợ (có chăng là buồn vì nghe tiếng ca của hiền tài Ninh
Thích không được trọng dụng); Tôi như trâu có công thời Vũ Vương đánh Trụ, được
ăn nơi vườn Đào, ngủ ở thôn Hạnh đấy; người ta tính đem tôi đi "tế chuông", nhà vua có tha cho tôi như vua Tề năm xưa không?
Vua lắng nghe và nghĩ ngợi, quả thật là hay nhất là câu cuối
"Ơn đức vua tề lại được tha", nhà vua tha cho ông tội bất kính và
còn thưởng cho một tấm lụa.
PHỤ LỤC II: NHỮNG BÀI THƠ HAY
Thu điếu
Ao thu lạnh lẽo nước trong veo
Một chiếc thuyền câu bé tẻ teo
Sóng biếc theo làn hơi gợn tí
Lá vàng trước gió sẽ đưa vèo
Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt
Ngõ trúc quanh co khách vắng teo
Tựa gối ôm cần, lâu chẳng được
Bạn đến chơi nhà
Đã bấy lâu nay bác tới nhà
Trẻ thời đi vắng, chợ thời xa
Ao sâu nước cả khôn chài cá
Vườn rộng rào thưa khó đuổi gà
Cải chửa ra cây, cà mới nụ
Bầu vừa rụng rốn, mướp đương hoa
Đầu trò tiếp khách, trầu không có
Bác đến chơi đây, ta với ta.
Tự Trào
Cũng chẳng giầu mà cũng chẳng sang
Chẳng gầy chẳng béo chỉ làng nhàng
Cờ đương giở cuộc không còn nước
Bạc chửa thâu canh đã chạy làng
Mở miệng nói ra gàn bát sách
Mềm môi chén mãi tít cung thang
Nghĩ mình lại gớm cho mình nhỉ
Thế cũng bia xanh, cũng bảng vàng.
Ngày xuân dạy bảo các con
Năm mới vừa sang, năm cũ qua
Tuy nghèo, ta vẫn mến nhà ta
Chín sào tư thổ là nơi ở
Một bó tàn thư ấy nghiệp nhà
Trước cửa khói dầy, non khuất bóng
Bên tường mưa ít, cúc thưa hoa
Các con nối chí cha nên biết
Nghiên bút đừng quên lúa, đậu, cà
Đêm xuân thương con thiêu thân
Đáng khen thay cho mày chỉ là giống vật có đôi cánh bé nhỏ mong
manh,
Thế mà mày biết tìm đến nơi sáng để chết, và chết ở nơi sáng mày
mới yên tâm.
Nếu gặp lúc vội vàng gấp rút mà liều chết thì còn dễ,
Nhưng mày vừa ung dung bay lượn, vừa suy nghĩ, rồi mới chết, thì
cái chết đó thật là khó.
(Giống vật ấy sở dĩ không chịu chết ở nơi tối tăm là vì) nó vẫn
giữ được lương năng chất chứa ở trong lòng, mà không nghĩ đến danh lợi trước
mắt.
Ngọn đèn lẻ loi tuy giết chết mày, nhưng vẫn thương mày,
Cho nên khi xác mày đã thành than, mà nước mắt nó vẫn chưa khô.
Giống lông cánh phận mình nho nhỏ
Chết là yên, chết chỗ quang minh
Phải chăng thảng thốt đã đành
Mà trong dúng dắng xem tình dễ đâu
Chữ trí năng trước sau giữ vẹn
Thời buổi này chẳng bén lợi danh
Đèn chong chừng cũng thương mình
Thân tàn ra bụi, lệ tình chưa khô.
(Bản dịch của Hoàng Tạo)
Hoài Việt Hoài
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét