Những điều bạn chưa biết về
múa rối nước
Múa rối nước là một loại hình văn hóa truyền thống gắn bó lâu đời với người dân
Việt Nam, đặc biệt là ở vùng trung du và đồng bằng Bắc Bộ. Thông qua các câu
chuyện được nghệ sĩ rối nước thể hiện, người xem sẽ cảm nhận được sắc thái của
hội làng, gửi gắm vào đó những mơ ước bình dị cho cuộc sống.
Không ai biết chính xác múa rối nước xuất hiện từ bao giờ. Nhưng theo những ghi
chép cụ thể, trong các cuộc kháng chiến chống quân Nguyên Mông đời Trần, “Đội
quân rối khổng lồ” đã góp phần đánh tan kẻ thù ngoại xâm.
Trước khi chính thức trở thành nghệ thuật sân khấu, múa rối nước là hoạt động nằm
trong các phường hội dân gian rải rác khắp thôn xóm, được "nuôi lớn"
bằng nhiệt huyết của người dân. Từ xa xưa, người Việt Nam đã chế tạo ra 3 dạng
rối: rối đồ chơi, rối diều - rối gió và rối pháo.
Từ những khối gỗ mộc mạc, chúng đã trở thành những con rối đầy sức sống.
Phổ biến nhất với nghệ thuật múa rối nước là rối đồ chơi. Các mô hình rối đồ
chơi xuất phát đều là những khối gỗ mộc mạc. Sau khi được đẽo, khắc, tô màu dưới
bàn tay của người nghệ sĩ, chúng sẽ trở nên có hồn hơn, trở thành một phần làm
nên thành công của buổi diễn. Mô hình chú Tễu, Chí Phèo, Thị Nở bỗng tràn đầy sức
sống, “ngoan ngoãn tuân theo” sự chỉ đạo của nghệ nhân điều khiển từ đằng sau tấm
mành trúc.
Thời nay, các tiết mục múa rối ngày càng được đầu tư công phu hơn. Không đơn
thuần là màn biểu diễn thô sơ của những nghệ nhân múa rối cùng các con rối của
mình nữa, loại hình nghệ thuật này còn là sự kết hợp ăn ý của dàn nhạc chèo, hệ
thống ánh sáng, hiệu ứng khói, tia lửa… khiến màn biểu diễn rối nước trở nên vô
cùng sống động.
Sân khấu biểu diễn rối nước
Mở màn chương trình biểu diễn rối nước thường là những làn điệu quan họ của các
nghệ sĩ tham gia “lồng tiếng” cho nhân vật rối. Tiếp theo, những tiết mục có nội
dung ca ngợi "thú làm ruộng" của người nông dân, giã gạo, dệt khung cửi,
các trò vui chơi giải trí lành mạnh như chọi trâu, múa lân... lần lượt được
trình diễn. Ngoài ra, việc tái hiện các sự kiện lịch sử như trận đánh của Hai
Bà Trưng, Lê Lợi… cũng đem đến những trải nghiệm khác nhau cho khán giả.
Không những thế, trong một vài màn biểu diễn, các nghệ nhân sẽ xuất hiện tham gia “diễn” cùng các nhân vật rối của mình.
“Đặc sản văn hóa” Việt Nam
Múa rối nước hiện nay đã trở thành “đặc sản văn hóa” Việt Nam. Các vị khách du lịch thường rất hào hứng trước những chương trình biểu diễn văn hóa khi đến thăm đất nước chúng ta, đặc biệt là múa rối nước.
Họ bị thu hút bởi các làn điệu chèo đầu chương trình với “dàn giao hưởng dân tộc” gồm những nhạc cụ như sáo, bộ gõ, đàn bầu, đàn tam thập lục... Âm nhạc trong múa rối nước giúp gắn kết các tiết mục với nhau. Các nghệ nhân múa rối nước dựa theo tiết tấu nhạc mà điều khiển con rối lúc khoan thai, lúc sôi động.
Không những thế, trong một vài màn biểu diễn, các nghệ nhân sẽ xuất hiện tham gia “diễn” cùng các nhân vật rối của mình.
“Đặc sản văn hóa” Việt Nam
Múa rối nước hiện nay đã trở thành “đặc sản văn hóa” Việt Nam. Các vị khách du lịch thường rất hào hứng trước những chương trình biểu diễn văn hóa khi đến thăm đất nước chúng ta, đặc biệt là múa rối nước.
Họ bị thu hút bởi các làn điệu chèo đầu chương trình với “dàn giao hưởng dân tộc” gồm những nhạc cụ như sáo, bộ gõ, đàn bầu, đàn tam thập lục... Âm nhạc trong múa rối nước giúp gắn kết các tiết mục với nhau. Các nghệ nhân múa rối nước dựa theo tiết tấu nhạc mà điều khiển con rối lúc khoan thai, lúc sôi động.
Múa rối đã trở thành một trong những nét văn hóa đặc sắc của Việt Nam.
Những nhân vật múa rối được điều khiển khéo léo và tài tình bởi những nghệ nhân
“bí ẩn”. Các teen nước ngoài khi xem múa rối nước đã tỏ ra trầm trồ thán phục
không biết bí quyết gì giúp nghệ nhân múa rối có thể phối hợp ăn ý với nhau đến
vậy sau tấm màn che. Hình ảnh hai chú trâu chọi nhau tranh giành ruộng lúa, những
điệu múa uyển chuyển khi cá chép hóa rồng bay lên trời cao lý giải ý nghĩa cái
tên Thăng Long… đã hoàn toàn chinh phục các vị khách nước ngoài.
Bạn có nhận ra đây là phân cảnh trong sự kiện trả gươm cho rùa thần của vua Lê Lợi?
Cảnh đua thuyền tái hiện lễ hội truyền thống.
Ling Ling
Chờ hội hát dô
Đối với người dân xã Liệp Tuyết, huyện Quốc Oai (Hà Nội), lễ hội hát dô là một tín ngưỡng dân gian, niềm tự hào của nhiều thế hệ. Thế nhưng hiện nay, lễ hội này chỉ còn là hoài niệm.
Dân ca nghi lễ
Cụ Kiều Thị Hạnh, 97 tuổi, ở thôn Vĩnh Phúc có lẽ là nghệ nhân hát dô duy nhất còn sót lại ở Liệp Tuyết. Cụ kể: Lễ hội hát dô là một lễ hội dân ca nghi lễ được hình thành và phát triển trên mảnh đất Lạp Hạ xưa kia (xã Liệp Tuyết ngày nay) thờ Đức Thánh Tản Viên - một trong “tứ bất tử” linh thiêng của dân tộc Việt. Một lễ hội ca ngợi các vị thánh trong đền Khánh Xuân và cũng nhằm ca ngợi tình yêu thiên nhiên, tình yêu trai gái; cầu mong sự thịnh vượng, no ấm, học hành đỗ đạt, ca ngợi cảnh sắc thiên nhiên làng xóm…
Đối với người dân xã Liệp Tuyết, huyện Quốc Oai (Hà Nội), lễ hội hát dô là một tín ngưỡng dân gian, niềm tự hào của nhiều thế hệ. Thế nhưng hiện nay, lễ hội này chỉ còn là hoài niệm.
Dân ca nghi lễ
Cụ Kiều Thị Hạnh, 97 tuổi, ở thôn Vĩnh Phúc có lẽ là nghệ nhân hát dô duy nhất còn sót lại ở Liệp Tuyết. Cụ kể: Lễ hội hát dô là một lễ hội dân ca nghi lễ được hình thành và phát triển trên mảnh đất Lạp Hạ xưa kia (xã Liệp Tuyết ngày nay) thờ Đức Thánh Tản Viên - một trong “tứ bất tử” linh thiêng của dân tộc Việt. Một lễ hội ca ngợi các vị thánh trong đền Khánh Xuân và cũng nhằm ca ngợi tình yêu thiên nhiên, tình yêu trai gái; cầu mong sự thịnh vượng, no ấm, học hành đỗ đạt, ca ngợi cảnh sắc thiên nhiên làng xóm…
Tương truyền, vào một ngày đầu xuân, Đức Thánh Tản Viên đi du ngoạn qua sông
Tích, khi đến xã Lạp Hạ thấy ruộng đất phì nhiêu nhưng dân cư thưa thớt, ngài
đã dừng lại dạy dân trồng trọt, cày cấy. Sau đó, ngài ra đi, hẹn mùa lúa chín sẽ
về. Vụ đó, người dân Lạp Hạ bội thu nhưng chờ mãi không thấy Đức Thánh quay lại.
36 năm sau, ngài mới trở lại, thấy dân làng đã giàu có, thóc lúa đầy nhà, ngài
tập hợp trai gái trong làng để dạy múa hát, mừng cho dân làng được mùa no ấm. Từ
đó dân làng xây đền Khánh Xuân tại thôn Đại Phu để tưởng nhớ công ơn và cứ 36
năm theo lệ lại mở hội ca múa tưng bừng, còn gọi là hội hát dô. Theo cụ Hạnh,
hát dô có 36 làn điệu và là loại hình nghệ thuật có những luật rất nghiêm ngặt.
Hội hát dô được tổ chức từ ngày mùng 10 đến 15 tháng Giêng âm lịch, thì từ năm
trước vào khoảng tháng 8, dân làng bắt đầu tuyển trai, gái từ 12 - 18 tuổi chưa
chồng, chưa vợ để tập luyện và sau khi kết thúc lễ hội thì không một ai được
phép nhắc hoặc hát hát dô, nếu không sẽ bị lời “hèm” cay nghiệt, ai vi phạm sẽ
mang tội với thánh. Người Liệp Tuyết vẫn truyền nhau câu ca:
“Con hát tuổi hạn hai mươi
Nếu qua tuổi ấy thì thôi hát hò
Bao giờ đến hội hát dô
Thì còn phải kiếm gái tơ chưa chồng”…
Mòn mỏi trông chờ
Học hát dô từ năm 11 tuổi, cụ Hạnh cho biết, hát dô cũng không quá khó, mặc dù cụ không biết chữ nhưng được “Cái hát” (tức người đàn ông làm người Cái lĩnh xướng - PV) chỉ dạy bằng truyền khẩu, nên đã thuộc và đam mê từ đó. Cụ tâm sự: “Năm tôi 11 tuổi, tôi học hát dô và được tham gia lễ hội năm ấy (năm 1926). Khi đó nhà tôi đã phải bán 3 sào ruộng để cho chị em tôi đi hát, mẹ tôi đã cõng tôi đến lễ hội. Tôi nhớ người đi xem lễ hội đông lắm, không chỉ các làng, xã bên mà ở cả các tỉnh khác cũng đổ về xem, nô nức...”.
“Con hát tuổi hạn hai mươi
Nếu qua tuổi ấy thì thôi hát hò
Bao giờ đến hội hát dô
Thì còn phải kiếm gái tơ chưa chồng”…
Mòn mỏi trông chờ
Học hát dô từ năm 11 tuổi, cụ Hạnh cho biết, hát dô cũng không quá khó, mặc dù cụ không biết chữ nhưng được “Cái hát” (tức người đàn ông làm người Cái lĩnh xướng - PV) chỉ dạy bằng truyền khẩu, nên đã thuộc và đam mê từ đó. Cụ tâm sự: “Năm tôi 11 tuổi, tôi học hát dô và được tham gia lễ hội năm ấy (năm 1926). Khi đó nhà tôi đã phải bán 3 sào ruộng để cho chị em tôi đi hát, mẹ tôi đã cõng tôi đến lễ hội. Tôi nhớ người đi xem lễ hội đông lắm, không chỉ các làng, xã bên mà ở cả các tỉnh khác cũng đổ về xem, nô nức...”.
Có
một tin vui là Hội Văn nghệ dân gian Việt Nam vừa công nhận hát dô là “địa chỉ
văn hóa dân gian”, và Hội đã phối hợp với Quỹ Ford thực hiện dự án bảo tồn và
phát huy hát dô; bà NgThị Lan - chủ nhiệm CLB Hát dô xã Liệp Tuyết - được
công nhận danh hiệu Nghệ nhân hát dô.
|
Tuy nhiên cụ cũng buồn rầu cho biết, kể từ bấy đến nay là đã 86 năm mà cụ chưa
được chứng kiến thêm hội hát dô một lần nào nữa: “Tôi năm nay đã 97, cái tuổi gần
về với ông bà, vẫn cứ mong mỏi từng ngày được một lần gặp lại lễ hội, như thế
thì tôi vui mừng và hạnh phúc lắm”. Đem điều băn khoăn của cụ Kiều Thị Hạnh đến
ông Kiều Đình Minh - Chủ tịch UBND xã Liệp Tuyết. Ông bảo: “Hát dô vẫn được duy
trì đấy chứ! Ở các hội nghị của xã, các cháu vẫn tập luyện, và vẫn biểu diễn từng
đợt, như Tết âm lịch chẳng hạn. Tuy nhiên, để tổ chức một lễ hội lớn thì địa
phương không làm nổi vì thiếu kinh phí. Phải cấp thành phố mới có lực khôi phục
lại lễ hội”. Ông cũng chia sẻ, vì thiếu kinh phí nên xã cũng không thể hỗ trợ
cho CLB hát dô của xã, thậm chí cũng không có cả các chế độ cho những người đã
có công sưu tầm, lưu giữ và phát triển làn điệu hát dô cổ…
Thanh Hà
Nguồn Dân Việt
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét