Thứ Tư, 21 tháng 9, 2016

Tản mạn về tiếng Việt: "Hiện tượng đồng hóa âm thanh"

Tản mạn về tiếng Việt: 
"Hiện tượng đồng hóa âm thanh"
Hiện tượng đồng hóa âm thanh (linguistic assimilation) trong ngôn ngữ rất thường gặp: từ thanh điệu (điều hòa thanh điệu) cho đến các âm đứng gần nhau, phụ âm hay nguyên âm, đều có thể ảnh hưởng qua lại- nhất là trong khẩu ngữ. Điều này không làm ta ngạc nhiên vì âm thanh phát ra cũng phải tuân theo một số định luật vật lí tự nhiên của con người, khi lưỡi và họng ở những vị trí phát âm sao chotrôi chảy (nói) vàthuận tai (nghe). Thành ra, ngoài các dữ kiện từ các tiếng nước ngoài, bài này còn đề cập đến một số liên hệ Hán Việt (HV), tuy không nhất thiết xác định nguồn gốc của các từ này (Việt cổ, Hán cổ). Các chữ viết tắt trong bài này là BK (Bắc Kinh), TVGT Thuyết Văn Giải Tự (khoảng 100 SCN), NT (Ngọc Thiên/543), ĐV (Đường Vận/751), NKVT (Ngũ Kinh Văn Tự/776), LKTG (Long Kham Thủ Giám/997), QV (Quảng Vận/1008), Tập Vận (TV/1037/1067), CV (Chính Vận/1375), TVi (Tự Vị/1615), VB (Vận Bổ/1100/1154), VH (Vận Hội/1297), LT (Loại Thiên/1039/1066), CTT (Chính Tự Thông/1670), Tự Vị Bổ (TViB/1666), KH (Khang Hi/1716), HNĐTĐ (Hán Ngữ Đại Tự Điển/1986), Thiết Vận (ThV/601), Vận Kinh (VK/1161), VBL (từ điển Việt Bồ La, Dictionarium Annamiticum-Lusitanum-Latinum, Alexandre de Rhodes/1651). Chỉ số sau một âm tiết là chỉ thanh điệu, khác với số phụ chú ghi theo thứ tự trong bài.
Hai nguyên tắc đồng hóa âm thanh ĐH1 và ĐH2 được đề nghị để giải thích các dạng khám phá/khán phá, khám bệnh/khán bệnh cùng cấu trúc từ láy ưng ức/phưng phức và ròng rọc. Ảnh hưởng của nguyên âm trước và sau, cũng như khuynh hướng điều hòa thanh điệu không nằm trong phạm vi bài viết nhỏ này (thường gặp trong các ngôn ngữ thanh điệu/tonal language hơn). Hi vọng loạt bài "Tản mạn về tiếng Việt" sẽ giúp người đọc tìm hiểu thêm về tiếng mẹ đẻ rất phong phú của chúng ta.
1. Khuynh hướng đồng hóa âm thanh
Một số ngôn ngữ trên thế giới thuộc vào loại chắp dính (agglutinative/synthetic language) so với loại hòa kết (fusional/inflectional language). Loại ngôn ngữ chắp dính dùng nhiều phụ tố (affix) như tiền tố (prefix), hậu tố (suffix) để tạo từ mới cũng như các cấu trúc câu (sentence) hay một nhóm từ (đoản ngữ/phrase), khác với loại ngôn ngữ hòa kết thường thay đổi các dạng tiền tố, hậu tố khi nhập các thành phần này vào cấu trúc mới. Thí dụ của loại hình chắp dính là tiếng Nhật, Hàn, Thổ Nhĩ Kỳ, Mông Cổ, Armenia, Esquimo-Aleut, Basque ...v.v... Thí dụ của loại hình hòa kết là tiếng Phạn, La Tinh, Hy Lạp, Nga, Đức (họ Ấn-Âu). Khác với các ngôn ngữ nói trên là loại đơn lập (isolating language), thường mỗi hình vị (morpheme) đều có nghĩa riêng biệt, như tiếng Việt, Trung (Quốc)...v.v... Khuynh hướng đồng hóa âm thanh thường gặp trong các ngôn ngữ chắp dính hay hòa kết vì khả năng kết hợp các hình vị với nhau rất cao. Các thí dụ trong tiếng Anh (Mỹ) như
1.1Mười đồng là ten bucks khi đọc nhanh trở thành *tem bucks vì phụ âm cuối -n (đầu lưỡi) của ten đồng hóa với phụ âm đầu b- (môi) của bucks để trở thành -m (môi).
1.2Tiền tố in- (gốc La Tinh nghĩa là không) thường được dùng để cấu tạo các chữ mới như incorrect(correct là đúng, incorrect là không đúng/sai - tiếng Pháp là incorrect), indirect (direct là trực tiếp, indirect là không trực tiếp/gián tiếp - tiếng Pháp là indirect), inaudible (audible là nghe được, inaudible là không nghe được - tiếng Pháp là inaudible) ...v.v… Tuy nhiên, khi tiền tố in- hợp với tính từ possible (có thể) để cho ra *inpossible, thì phụ âm cuối -n (đầu lưỡi) lại bị đồng hóa bởi phụ âm đầu (môi) để cho ra dạngimpossible (không thể - tiếng Pháp là impossible); cũng như polite (lễ độ) hợp với tiền tố in- để cho ra dạng impolite (không lễ độ/thô tục - tiếng Pháp là impoli) so với các dạng irresponsible (vô trách nhiệm,irresponsable tiếng Pháp - dạng in- đã trở thành ir- vì phụ âm đầu responsible), illegal (bất hợp pháp,illégal tiếng Pháp - dạng in- đã trở thành il- vì phụ âm đầu legal), immeasurable (vô số kể, incommensurable tiếng Pháp - gồm có in- tiền tố La Tinh nghĩa là không, com- gốc La Tinh cum nghĩa là với, mesure là đo và able có gốc La Tinh là habilis nghĩa là tiện lợi, có thể) …v.v…
1.3 Cái xách tay (túi xách) là handbag, nhưng khi đọc thì có phụ âm đầu lưỡi d (hand) bị tha hóa (nhược hoá/mất đi/elision, vì không cùng hay gần vị trí phát âm như phụ âm b trong bag) trở thành *hanbag, sau đó phụ âm đầu lưỡi n lại bị đồng hóa với phụ âm b (môi) của bag để trở thành *hambag  /hæmbæg/ , đây là âm đọc mà ta thường nghe hơn.
Trong bài này, các trường hợp phụ âm hữu thanh n trở thành phụ âm hữu thanh m gọi tắt là khuynh hướng đồng hóa 1(ĐH1) vì vị trí phát âm gần nhau của các phụ âm này.
1.4Một cách thành lập danh từ chỉ số nhiều trong tiếng Anh là thêm hậu tố -s (phụ âm đầu lưỡi, xát và vô thanh) vào sau danh từ như
book --> books
lot --> lots
Tuy nhiên khi danh từ có phụ âm cuối hữu thanh thì âm s lại trở thành phụ âm đầu lưỡi, xát và hữu thanh z, do ảnh hưởng của phụ âm g đứng trước
bags đọc là  /*bæɡs/ --> hữu thanh hóa -->  /bæɡz/
friends đọc là /fɹɛn(d)z/  (phụ âm đầu lưỡi d mất đi, s trở thành z)
Trong tiếng Pháp, ta cũng thấy các trường hợp đồng hóa âm thanh:
1.5Động từ observer là canh giữ, xem xét trong tiếng Pháp - đọc là  /ɔp.sɛʁ.ve/ với phụ âm môi hữu thanh b trở thành phụ âm môi vô thanh p vì đứng trước phụ âm xát vô thanh s. Tuy nhiên1 động từ observe tiếng Anh (gốc từ tiếng Pháp) đọc là /ɒbˈzɜː(ɹ)v/ với phụ âm xát vô thanh (đầu lưỡi) s trở thành âm xát hữu thanh z vì đứng sau phụ âm hữu thanh b.
1.6Tôi không biết là je ne sai pas trở thành *je n'sais pas, sau đó thành *j'sais pas và cuối cùng ra dạng*chai pas mà ta thường nghe thấy hơn.
1.7Tính từ diễn tả thứ hai, thứ nhì (phụ, không phải chính) là secondaire, đọc chậm là /sə.ɡɔ̃.dɛʁ/, khi đọc nhanh hơn trở thành  /sɡɔ̃.dɛʁ/ và cho ra dạng  /zɡɔ̃.dɛʁ/. Phụ âm cuối lưỡi -c (k) đã hữu thanh hóa (kêu/voiced) trở thành -g, cũng như phụ âm xát vô thanh s- trở thành hữu thanh z-, âm /ə/ đã tha hóa (mất đi/elision) để đọc cho dễ hơn và nhanh hơn.
Trong bài này, các trường hợp phụ âm vô thanh (như s, c/k) trở thành phụ âm hữu thanh (như z, g) gọi tắt là khuynh hướng đồng hóa 2(ĐH2) do kết quả của quá trình hữu thanh hóa.
Các nguyên tắc ĐH1 và ĐH2 thật ra chỉ là hai trong nhiều kết quả tất yếu của nguyên tắc dùng sức (công) ít nhất của khoa học tự nhiên (principle of least effort): con người thường chọn những cách đọc (hay làm việc) ngắn gọn và dễ dàng nhất.
2. Tiếng Việt đơn lập?
Các ngôn ngữ thuộc loại hình đơn lập2 thường có tỉ số hình vị và từ (morpheme-word ratio) rất gần 1 so với các loại ngôn ngữ chắp dính hay hòa kết. Thí dụ như tiếng Việt mỗi chữ (từ) đều có nghĩa và không thể tách chữ này ra thành những thành phần có nghĩa khác nhau như tiếng Anh. Tiếng Anhunhappiness là một từ có nghĩa là sự không vui (dùng ít nhất là 3 từ độc lập tiếng Việt), unhappiness lại gồm có tiền tố un- nghĩa là không, happy là vui và -ness là hậu tố thành lập danh từ. Do đó tỉ số hình vị-từ là 3/1 = 3 so với cấu trúc tiếng Việt sự không vui có tỉ số 3/3 = 1. Hãy xem cấu trúc của trạng từ (phó từ/adverb) tiếng Anh slowly (hậu tố -ly hợp với tính từ slow) mà tiếng Việt là chậm:
She walks slowly
Bà ta đi (bộ) chậm
Nhưng ta cũng có thể nói Bà ta đi chầm-chậm, trường hợp này cho thấy từ láy chầm-chậm dùng tương đương với chậm và tỉ số hình vị-từ có thể là 2 hay 1, trong đó chữ chầm không có nghĩa và có thể coi như một phụ tố cùng âm vực với chậm. Trường hợp từ láy ba như sạch-sành-sanh cho thấy tỉ số hình vị-từ là 3/1 = 3 với các chữ sành và sanh không có nghĩa trong cách dùng này (hay chỉ là phụ tố):
Đồ tế nhuyễn của riêng tây
Sạch sành sanh vét cho đầy túi tham   (Truyện Kiều)
Những trường hợp từ láy (hai, ba hay bốn) trong tiếng Việt cho ta khả năng đưa tiếng Việt đến gần ngôn ngữ loại chắp dính hay hòa kết và do đó các nguyên tắc hòa đồng âm thanh được thể hiện rất rõ nét. Khuynh hướng đồng hóa âm thanh trong tiếng Việt cho thấy cách phân loại ngôn ngữ thành đơn lập hay chắp dính không hoàn toàn chính xác - xem các dữ kiện từ các ngôn ngữ trên thế giới (như trường hợp sở hữu possessive ...) trang http://wals.info/ .  Khuynh hướng đồng hóa âm thanh dựa vào nguyên tắc vật lí tự nhiên (của hệ thống phát âm con người) và có thể xẩy ra trong tiếng Việt là điều không làm cho ta ngạc nhiên. Linh Mục Léopold Cadière (1869-1955) đã từng nhận xét 3 về hiện tượng chắp dính (agglutination) trong tiếng Việt, dù ông cho rằng rất ‘là lạ’ so cho loại ngôn ngữ đơn âm. Trường hợp này xẩy ra cho phụ âm cuối t (đầu lưỡi, tắc) như khi một số người Việt phát âm một họ giống như một sọ,nhứt hạng trở thành nhứt sạng. Ta thử tìm hiểu khuynh hướng biến đổi cũng như thêm bớt phụ âm để phù hợp với môi trường âm thanh chung quanh cho dễ phát âm hơn (đọc/nói thuận và nhanh hơn), bắt đầu bằng từ láy đôi trong tiếng Việt.
3. Giải thích một loại cấu trúc từ láy đôi
3.1 Trường hợp từ láy "phưng phức"
Xem chữ phức (thanh mẫu tịnh vận mẫu ốc nhập thanh, khai khẩu tam đẳng), có các cách đọc theo phiên thiết
房六切,音伏phòng lục thiết, âm phục (TVGT, QV, TV, LT, VH, CV, TTTH)
符逼切phù bức thiết (QV)
房六反phòng lục phản (LKTG)
芳福符逼二反phương phúc phù bức nhị phản (LKTG)
反福扶福二切phản phúc phù phúc nhị thiết (NT, TTTH)
弼力切,音愎。義同bật lực thiết, âm phức - nghĩa đồng (TV, LT)
拍逼切,音堛phách bức thiết, âm bức (TV, LT)
音復âm phục (TNTTĐTA 精嚴新集大藏音)
方六切,音福phương lục thiết, âm phúc (CV, TVi) 
CV ghi cùng vần 福腹複復輹副葍楅輻幅覆蝮鍑馥蝠(phúc phức phục phó bức)
非律切phi luật thiết (TVi)
方六切,音復phương lục thiết, âm phục (CTT, TViB)
音拂âm phất (CTT)
...v.v...
Giọng BK bây giờ là fù bì so với giọng Quảng Đông fuk1 fuk6 và các giọng Mân Nam 客家[丰腔] fuk8 fuk7 put7 [丰腔] fuk7 [] fuk8 [拼音字] fug5 [宝安腔] fuk8 [客英字典] buk7 [台湾四] fuk8 buk7 put7, giọng Mân Nam/Đài Loan hok8, tiếng Nhật fuku hyoku và tiếng Hàn pok.
Phức phức là từ láy toàn phần hàm ý mùi thơm tỏa ra ngào ngạt, đã có từ thời Tô Vũ (140 - 60 TCN) trong thơ "Biệt Hữu" :
燭燭晨明月, 
馥馥秋蘭芳
Chúc chúc thần minh nguyệt
Phức phức thu lan phương
Từ láy toàn phần phức phức đã có trong các tác phẩm Nôm9 cổ như
Tây tử điểm thôi hương phức phức  (Hồng Đức Quốc Âm Thi Tập)
Mùi hương phức phức phàm trần đã khônog(Thiền Tông Bản Hạnh
Tiếng Việt còn dùng từ láy phưng phức4: khác dạng phức phức vì phụ âm cuối tắc -c của chữ phức đầu đã tha hóa, và thay vào đó là phụ âm cuối lưỡi/hữu thanh -g sau đó trở thành ŋ (ng) vì tiếng Việt không có dạng *phưg. Ngoài ra, phụ âm mũi n với luồng hơi qua mũi tạo sự liên tục (cầu nối) giữa hai âm phư và phức - đây là khuynh hướng ĐH2 xẩy ra trong âm vực cao:
phức >  phức phức > *phưg phức >  phưng phức      (cùng âm vực cao)
VBL ghi hai cách dùng phưng phức và phức phức - trang 608)
Ta cũng có các từ láy liên hệ như ưng ức, tưng tức ... So với cấu trúc tương tự cho âm vực thấp nhưphừng phực ...hừng hực ... sừng sực...v.v... Các phụ âm mũi m/n/ng/nh là một cầu nối làm các âm tiết phát ra trở thành liên tục hơn - đây là một đặc tính của ngôn ngữ nói chung khi ta ngâm (thơ) hay ngân (hát) và tạo thêm tính chất biểu cảm của âm phát ra - bản chất của các phụ âm tắc k/p/t  khó mà tạo ra hiệu quả như vậy!
Ngoài trường hợp lắp láy nguyên âm ư, ta cũng có thể áp dụng nguyên tắc ĐH2 cho các từ láy với nguyên âm a như tan tác, nguyên âm e như eng éc, nguyên âm ô như mồn một ...v.v... Để ý rằng quá trình hữu thanh hóa5 các phụ âm cuối tắc c/p/t để cho ra dạng -ng, nhưng cũng có thể cho ra dạng -nh như bịch bịch > bình bịch ~ phình phịch (tiếng Việt không dùng các dạng *bìng, *phìng). Trang 762 VBL ghi dạng thịc thịc so với thịch thịch > thình thịch (thường gặp hơn).
3.2 Trường hợp từ láy “ròng rọc”
Từ láy ròng rọc phản ánh kết quả của hai nguyên tắc ĐH1 và ĐH2 đã nói trên: căn tố (chính tố/root) là rọc với các biến thể như rọc rọc, róc rách, ròng rọc là lộc lô (HV), lộc lộc (HV) và lốc cốc. Tra lại các tài liệu tiếng Việt trước đây ta thấy
Trang 420, tự điển Việt Bồ La (1651). Tiếng La Tinh trochlea là ròng rọc (để ý tiếng Bồ Đào Nha là roldana trong cả ba trường hợp dùng trong VBL)
Trang 641, tự điển Việt Bồ La (1651) - tiếng La Tinh rotula là một bánh (xe) nhỏ/a small wheel
Từ láy toàn phần rọc rọc đã có trong các tác phẩm Nôm cổ như
Lộc lô rọc rọc khéo làm (Chỉ Nam Ngọc Âm Giải Nghĩa)
Trang 680-681, tự điển Việt Bồ La (1651)
Trang 313 " Annamite-français & grammaire" của Gabriel Aubaret (1867)
Rọc rọc hiện diện từ thời VBL (1651), Béhaine (1772), Taberd (1838) ... đến thời Đại Nam Quấc Âm Tự Vị (Huỳnh Tịnh Của, 1895), thời Việt Nam Tự Điển (1932/1854) cũng ghi là rọc rọc, nhưng cũng thường gọi là ròng rọc. Trương Vĩnh Ký6 ghi poulie là róc-rách (1884). Rọc tiếng Thái là rôk รอก, tiếng Khme là rok, tiếng Tày–Nùng7 lôc là guồng nước so với chữ hiếm lộc/lục(Unicode 6A1A) có các cách đọc theo phiên thiết
盧谷切,音六lô cốc thiết, âm lục (TV, VH, LT, LT)
徒谷切。同櫝đồ cốc thiết, đồng độc (NT) - TViB ghi âm độc 音獨
力竹切,音六lực trúc thiết, âm lục (CTT)
音鹿âm lộc (TĐTAT 重訂直音篇)...v.v...
Giọng BK bây giờ là lù so với giọng Quảng Đông luk6 và các giọng Mân Nam 客家[] luk8 [台湾四] luk8 luk7 [客英字典] luk8 [丰腔] luk8 luk7, tiếng Nhật là roku toku doku. Róc rách bây giờ có nghĩa là tiếng nước chảy (nước suối chảy róc rách …). Theo nguyên tắc ĐH2, rọc rọc trở thành ròng rọc:
rọc  > rọc rọc > *rog rọc > ròng rọc (cùng âm vực thấp)
Tương ứng với cấu trúc ròng rọc (âm vực thấp) ta có òng ọc, nòng nọc, chòng chọc, xòng xọc, sòng sọc ... So với (âm vực cao) long lóc, cong cóc, xong xóc ...v.v...
Từ láy ròng rọc cho thấy căn tố rọc (*lộc) đã từng láy toàn phần (rọc rọc), sau đó trở thành từ láy bộ phận (ròng rọc) cho đến ngày nay, cũng như trường hợp từ láy phưng phức. Có nhiều cách viết chữ Hán để ký âm rọc: như lộc bộ mộc như đã nói ở phần trên (hàm ý ròng rọc làm bằng cây) hay lộc bộ xa8 hợp với chữ lộc (tần số dùng cao nhất trong nhóm, 178 trên 175865108), lộc bộ thủ hợp với chữ lộc (tần số dùng 19 trên 171894734) ... Hay lô viết bằng bộ xa hợp với chữ lô (tần số dùng 96 trên 173881764). Ròng rọc còn gọi là lộc lô 轆轤(một dạng từ láy). Điều đáng chú ý là từ láy HV toàn phần lộc lộc 轆轆chỉ tiếng ồn (của xe chạy), tương ứng với các dạng lộc cộc, lọc cọc hay lốc cốc, lóc cóc tiếng Việt; điểm khác biệt là dạng từ láy tiếng Việt đã thể hiện kết quả của nguyên tắc đồng hóa âm thanh (ĐH1): phụ âm cuối -c của lốc đã biến đổi phụ âm đầu l- của lốc thành –c (cốc).
3.3 Trường hợp từ láy “nơm nớp”
Nớp là sợ, khiếp (nớp lòng, VBL trang 571) - một dạng chữ Nôm dùng chữ nạp HV - thí dụ các cách dùng9 xưa:
Oán người nớp nớp những âu người(Nguyễn Trãi/Ức Trai Thi Tập)
Nớp nớp thửa run sợ(Thi Kinh giải âm)
Đứa cuồng còn sợ nớp nớp(Thi Kinh giải âm)
Kẻ sĩ lành lo nớp nớp(Thi Kinh giải âm)...v.v...
Từ láy nớp nớp sau này trở thành nơm nớp qua quá trình hữu thanh hóa và chuyển âm vực:
nớp nớp > *nớm nớp > nơm nớp (cùng âm vực cao)  - khuynh hướng ĐH2
Tương tự như trên, vặc chữ Nôm dùng chữ vực HV, và vặc vặc là từ láy toàn phần hàm ý sáng rực:
Lòng bạn trăng vặc vặc cao(Nguyễn Trãi)
Nước uống nguồn Tào vặc vặc lặng thanh (Thiên Tông Bản Hạnh)
Cung xanh vặc vặc ngọc âm từ rày(Thiên Nam Ngữ Lục)...v.v...
Hiện nay, ta thường nghe cách dùng vằng vặc hơn so với vặc vặc (trăng sáng vằng vặc), đây là kết quả trực tiếp của quá trình ĐH2:
vặc vặc > *văg vặc > vằng vặc (cùng âm vực thấp)
4. Phất phới hay phấp phới
Phất phới được dùng như trạng từ hay động từ như "cờ bay phất phới", tuy nhiên dạng phấp phới cũng hiện diện và tần số dùng nhiều hơn trong sách vở và báo chí. Đây là kết quả của khuynh hướng đồng hóa âm thanh (ĐH1) như đã viết bên trên. Phất HV có nghĩa là phẩy, phủi như trong cách dùng phất trần (quét bụi)/phất y (giũ áo); một dạng biến âm của phất10 là phớt như "phớt qua" ...v.v... Phất phất 拂拂là từ láy toàn phần dùng từ thời Đường (Ngô Dung ). Khuynh hướng ĐH1 cũng từng xẩy ra từ thời VBL, như thấp thoảng có người đọc là thất thoảng (VBL trang 773). Dạng phấp trong phấp phới 法派cũng từng hiện diện trong một số tác phẩm Nôm9 như
Chỉn thấy cái hạc dâm liệng trên không, phấp phới mà múa(Truyền Kỳ Mạn Lục)
Cờ mây phấp phới soi sáng bãi sông(Truyền  Kỳ Mạn Lục)
Lốm đốm sao thưa phấp phới sương thưa(Sơ Kính Tân Trang/Phạm Thái)
Bốn mảnh quần hồng bay phất phới(Hồ Xuân Hương)
5. Khám phá và khám bệnh
Tiếng Việt hiện đại có cách dùng xâm bổ lượng (từ Hán Việt là thanh bố lương/lượng  清補涼một món giải khát phổ thông ở Quảng Đông, Quảng Tây, Hương Cảng, Áo Môn, Hải Nam và Việt Nam) - thanh HV đọc là xanh, phụ âm cuối -nh bị môi hóa trở thành *xâm vì đứng trước âm môi b- (bổ). Đây là khuynh hướng đồng hóa phụ âm trong khẩu ngữtheo nguyên tắc ĐH1. Ngoài xâm bổ lương, ta còn có thể khảo sát thêm những trường hợp tương tự là khám phá và khám bệnh: các nhóm từ HV này rất đặc biệt vì đã từng hiện diện với cách dùng khán phá và khán bệnh (trong tiếng Hán). Các dạng biến âm dễ xẩy ra trong khẩu ngữ vì không bị giới hạn bởi chữ viết (chữ Nho).
5.1 Khám phá
Chữ khám (thanh mẫu khê vận mẫu đàm khứ thanh, khai khẩu nhất đẳng) có các cách đọc theo phiên thiết
苦紺切,堪去聲khổ cám thiết, kham khứ thanh (TVGT, NT, ĐV, QV, TV, VH, CV, TVi, TTTH)
枯含切,音堪khô hàm thiết, âm kham (TV, LT) - bình thanh
口含切khẩu hàm thiết (CTT)...v.v...
Giọng BK bây giờ là kān kàn so với giọng Quảng Đông ham1 ham2 và các giọng Mân Nam 客家[] kam1 kam5 [宝安腔] kam5 [客英字典] kam5 [丰腔] kam1 kam5 [拼音字] kam3 [台湾四] kam1 kam5 [莞腔] kam5 潮州kam3 (khàm) 「澄海」kang3, giọng Mân Nam/Đài Loan kham1, tiếng Nhật kan và tiếng Han kam. Dạng khám tiếng Việt (khứ thanh) cho thấy khả năng hiện diện trước thời Tập Vận (1037/1067) và Loại Thiên (1039/1066) - thời VBL còn ghi dạng khấm (khấm việc, quan đi khấm). Điều này giải thích được tại sao khám được dùng tự do (free morpheme) cũng như trong các từ Hán Việt khác như khám phá, khám nghiệm ... Nếu tiếng Việt và các giọng địa phương miền Nam TQ còn duy trì âm cổ hơn kham, thì tiếng TQ bây giờ đã đọc khác hơn: phụ âm cuối -m đã trở thành -n nên đọc khám thành kān hay kàn; các cách đọc này cũng chính là cách đọc chữ khán11 bây giờ. Cách dùng khám phá và khán phá đã hiện diện từ thời Tống, các tài liệu12 cho thấy khán phá dùng trước khám phá:
"看破空花塵世,放輕昨夢浮名" khán phá không hoa trần thế, phóng khinh tạc mộng phù danh   (Lục Du 1125-1210, "Phá Trận Tử")
"死生已勘破,身世如遺忘" tử sanh dĩ khám phá, thân thế như di vong   (Văn Thiên Tường 1236-1283, "Thất Nguyệt Chi Nhật Đại Vũ Ca")
【勘破】犹看破   [khám phá] do khán phá  (Hán Ngữ Đại Tự Điển) - còn được ghi nhận9 lại trong từ điển trên mạng như http://www.zdic.net/
Một cách giải thích sự xuất hiện của động từ khám phá là khuynh hướng đồng hóa phụ âm (ĐH1): phụ âm cuối -n (khán) đã trở thành phụ âm môi -m (khám) để phù hợp với phụ âm môi ph- (phá) đứng ngay sau đó. Điều này có thể xẩy ra khi trước khi phụ âm -m trở thành -n trong tiếng Hán trung cổ, cho ra cách đọc giống nhau về sau của khám và khán (kàn BK bây giờ). Người Trung Quốc cũng nêu ra thắc mắc về cách dùng khám phá hay khán phá (đều đọc là kàn pò BK bây giờ), tuy nhiên không thấy được vấn đề rõ hơn so với người VN vì cả hai dạng đều hiện diện trong tiếng (Hán) Việt cho đến nay. Tiếng Việt bây giờ hiểu "khám tai" (đi bác sĩ để khám tai) rất khác với khám tai 勘災có nghĩa là tra xét sự tình (tai nạn nào đó) trong tiếng Hán!.
5.2 Khám bệnh
Các từ điển Génibrel (1898/SaiGon), Vallot (1898/HaNoi), Bonet (1899), Aubaret (1867), Béhaine (1772), Taberd (1838), VBL (1651) đều không ghi các cách dùng khán bệnh 看病hay khám bệnh 勘病; Huỳnh Tịnh Của ghi coi bệnh (1895) và Gouzien (1897) có ghi khám bệnh, cho thấy cách dùng này đã hiện diện trong khẩu ngữ:
Manuel franco-tonkinois de conversation spécialement à l'usage du médecin, précédé d'un exposé des règles de l'intonation et de la prononciation annamites, TG Paul Gouzien (1897)
Tương quan khám và khán còn thấy trong cách dùng từ ghép trong Đại Nam Quấc Âm Tự Vị/ĐNQATV (Huỳnh Tịnh Của, 1895)
Khám khán  勘看  Xét xem  (trang 478, ĐNQATV - Tome I)
Không thấy các tài liệu TQ dùng khám bệnh như trong tiếng Việt, theo học giả Đào Duy Anh trong Hán Việt Tự Điển/HVTĐ (1931) thì chỉ có khán bệnh (không có khám bệnh, so với khám nghiệm); Gustave Hue (“Dictionnaire vietnamien chinois francais”, 1937) thì ghi cả hai cách dùng khám bệnh và khán bệnh (cùng một nghĩa examiner une maladie), theo Nguyễn Văn Khôn (HVTĐ, 1960) thì có khán bệnh (không có khám bệnh). Chị Bùi Thị Duyên Hà13, trong một bản báo cáo mới đây (2012) có nêu lên khả năng lẫn lộn trong cách đọc khám và khán. Trường hợp khám bệnh có thể giải thích bằng khả năng đồng hóa phụ âm ĐH1: phụ âm mũi -n trong khán bệnh đã trở thành phụ âm môi -m để phù hợp với phụ âm môi (âm mũi) b- của bệnh.
Tóm lại, dựa vào nguyên tắc đồng hóa âm thanh rất tự nhiên trong ngôn ngữ, ta có thể giải thích phần nào các hiện tượng lắp láy như phưng phức, ròng rọc, nơm nớp, vằng vặc  (láy bộ phận). Ngoài ra, dựa vào khuynh hướng đọc cho dễ (qua cách đồng hóa các phụ âm gần nhau) mà ta có cơ sở giải thích các cách dùng rất đặc biệt như phấp phới, khám phá/khán phá và khám bệnh/khán bệnh trong tiếng Việt và Hán Việt.
6. Phụ chú và phê bình thêm
Phần này không hoàn toàn theo cách ghi tài liệu (Bibliography) tham khảo APA hay MLA vì bao gồm các phê bình thêm về đề tài, tài liệu và tác giả để người đọc có thể tra cứu thêm chi tiết và chính xác. Chi tiết về cấu trúc từ láy trong tiếng Việt có thể đọc trong "Từ láy - những vấn đề còn để ngỏ" NXB Khoa Học Xã Hội - Trung Tâm Khoa Học Xã Hội và Nhân Văn Quốc Gia/Viện Ngôn Ngữ Học (Hà Nội, 1998) trang 170-172, "Từ tiếng Việt - Hình thái, Cấu trúc, Từ láy, Từ ghép, Chuyển loại" NXB Khoa Học Xã Hội, Viện Ngôn Ngữ Học, Hoàng Văn Hành (Chủ biên) - Hà Nội (1998) trang 79, "Cơ sở Ngôn Ngữ Học và tiếng Việt" NXB Giáo Dục, Mai Ngọc Chừ/Vũ Đức Nghiệu/Hoàng Trọng Phiến - Hà Nội (tái bản lần thứ sáu, 2005) trang 117, trang 147 …, "Từ vựng học tiếng Việt" Nguyễn Thiện Giáp - NXB Giáo Dục (Hà Nội, 2002) trang 89, "Dẫn luận Ngôn Ngữ học" Nguyễn Thiện Giáp (Chủ biên)/Đoàn Thiện Thuật/Nguyễn Minh Thuyết - NXB Giáo Dục (Hà Nội, 2006) trang 200-201. Nguyễn Đức Tồn ghi nhận một số vấn đề về cấu trúc từ láy trong tiếng Việt qua các bài viết "Về các phương thức cấu tạo từ trong tiếng Việt nhìn từ góc độ nhận thức và bản thể" đăng trong tạp chí Ngôn Ngữ (2011 - Số 8(267) trang 1-10), hay có thể xem trên mạng trang này http://www.tgn.edu.vn/...v.v... Thanh điệu cũng đóng vai trò quan trọng trong quá trình hình thành tiếng Việt hiện đại. Thí dụ như cách dùng nước miếng, tiếng Khme là tức mót (nước miệng), tiếng Chăm là ia pabah (nước miệng), tiếng Chao Bon (Nyah Kur) là dáak páang (nước miệng), tiếng Mông (H'Mong) là kuz ndâux (ndâux là miệng), tiếng Gia-Rai là ia bah (bô là miệng) ... Ngoài ra một dạng chữ Nôm dùng
So sánh cách đọc Hán Việt (HV) với các cách đọc từ vận thư ("chính thống") của Trung Quốc (TQ) cho ta nhiều kết quả thú vị. Có những trường hợp khác biệt đã xẩy ra và có thể do nhiều động lực khác nhau. Chính những khác biệt này là dữ kiện cần thiết để xem lại hệ thống ngữ âm Hán Việt và tiếng Việt để thêm phần chính xác. Bài viết nhỏ này chú trọng đến cách đọc tên nhà sư nổi tiếng của TQ, Huyền1Trang (khoảng 602–664, viết tắt trong bài này là HT) 玄奘hay Tam Tạng, có ảnh hưởng không nhỏ cho Phật Giáo TQ, Việt Nam, Nhật và Hàn Quốc. Sư HT đã dịch nhiều bộ kinh và luận Phật giáo từ tiếng Phạn qua tiếng Hán, đưa Phật giáo gần đến nguồn Ấn Độ nguyên thủy hơn so với nhiều kinh dịch sai sót nhưng rất phổ thông vào thời trước (và cho đến ngay cả bây giờ).
Các chữ viết tắt trong bài này là BK (Bắc Kinh), TVGT Thuyết Văn Giải Tự (khoảng 100 SCN), NT (Ngọc Thiên/543), ĐV (Đường Vận/751), NKVT (Ngũ Kinh Văn Tự/776), LKTG (Long Kham Thủ Giám/997), QV (Quảng Vận/1008), Tập Vận (TV/1037/1067), CV (Chính Vận/1375), TVi (Tự Vị/1615), VB (Vận Bổ/1100/1154), VH (Vận Hội/1297), LT (Loại Thiên/1039/1066), CTT (Chính Tự Thông/1670), TTTH (Tứ Thanh Thiên Hải), Tự Vị Bổ (TViB/1666), KH (Khang Hi/1716), HNĐTĐ (Hán Ngữ Đại Tự Điển/1986), Thiết Vận (ThV/601), Vận Kinh (VK/1161), VBL (từ điển Việt Bồ La, Dictionarium Annamiticum-Lusitanum-Latinum, Alexandre de Rhodes/1651), td. (thí dụ), sđd (sách đã dẫn). Chỉ số sau một âm tiết là chỉ thanh điệu, không nên nhầm với số phụ chú ghi theo thứ tự trong bài, dấu  > (hàm ý biến ra/trở thành).
1. Lấn cấn trong cách đọc Huyền Trang qua chữ quốc ngữ
Theo một bài viết2 của Đại Đức TS Thích Giác Hoàng (viết tắt là TGH) thì có vấn đề về cách đọc "Tuy nhiên, gần đây có một vài vị (Thầy Tuệ Sĩ, Sư Giác Nguyên và một số vị nghiên cứu văn học Trung Quốc) phiên âm tên của vị Pháp Sư lâu nay đã quen là Huyền Trang thành Huyền Tráng, làm cho một vài vị hơi bỡ ngỡ không biết đó có phải là đánh máy nhầm không ?".
Vấn đề đọc cho chính xác/dễ hiểu và được công nhận danh từ nước ngoài (như trường hợp HT chẳng hạn) không đơn giản, nhất là khi hai nền văn hóa TQ và VN đã ở bên cạnh bao ngàn năm nay. Có nhiều từ gốc phương Nam đã nằm trong vốn từ Hán từ ngàn năm trước, và ngược lại có những từ gốc Hán đã biến đổi nhiều đến nỗi được dùng như một từ thuần Việt mà ít người nhận ra!
1.1 Đào Duy Anh
Học giả Đào Duy Anh đọc chữ là tráng ("mạnh mẽ - thịnh vượng" trang 475, Hán Việt Tự Điển), nhưng trong mục huyền, cụ lại đọc là Trang ("Huyền trang tam tạng" trang 398, Hán Việt Tự Điển). Cuốn sách này in vào năm 1931 (theo "Đề Từ" ở phần đầu, ngày viết là 1/3/1931, Huế).
1.2 Thiều Chửu
Học giả Thiều Chửu đọc chữ là trang, và ghi rõ "1. To lớn  2. Tên người, đời Đường có ngài Huyền-trang pháp-sư" (trang 124, Hán Việt Tự Điển). Cuốn này xuất bản vào năm 1942 (Hà Nội).
1.3 Petit Lexique chinois-annamite-francais(Tây Dương, Hà Nội - 1932)
Tác giả đọc chữ  là tảng "Khỏe và lớn - Fort et grand"
1.4 Gustave Hue
Học giả Gustave Hue đọc chữ là tảng và ghi rất rõ "1. Grand et fort.  2. Nom propre: Huyền Tảng: celèbre bonze chinois qui visita les Indes" (“2. Tên riêng: Huyền Tảng - nhà sư TQ nổi tiếng đã từng qua Ấn Độ” - trích trang 874, "Dictionnaire vietnamien - chinois - francais"). Cuốn tự điển Việt Hoa Pháp3 này xuất bản vào năm 1937 - Imprimerie Trung Hòa.
Đấy là vào khoảng thập niên 1930, tuy nhiên trước đó hơn 30 năm, vào cuối thế kỷ XIX, ta lại thấy học giả Génibrel đọc chữ 奘 là tảng
trang 726 – Génibrel
Trích từ "Dictionnaire annamite -francais" - tác giả J. F. M. Génibrel, xuất bản ở Sài Gòn (1898)
Các văn bản cho thấy chữ  đã từng đọc là tráng, tảng và cách dùng Huyền Trang có khả năng rất cao là hiện tượng xẩy ra từ đầu thế kỷ XX cho đến nay thì trở thành phổ thông.
2. Các cách đọc chữ từ tài liệu tiếng Hán   
Chữ trang    hay  (thanh mẫu tùng/tòng vận mẫu đàng/đường thượng/khứ thanh, khai khẩu nhất đẳng) có các cách đọc theo phiên thiết
徂朗切tồ lãng thiết (TVGT, QV)
徂浪切tồ lãng thiết (QV)
才朗切tài lãng thiết (TV)
在黨切,藏上聲tại đảng thiết, tàng thượng thanh (CV, TViB)
才浪切,音葬tài lãng thiết, âm táng (TV, VH, CV)
祖朗祖浪二反tổ lãng tổ lãng nhị phản (LKTG)
徂朗翻tồ lãng phiên (BH 佩觿)
昨朗切tạc lãng thiết (NT, TTTH)
側亮切trắc lượng thiết (TV)
才朗乀tài lãng phật (TNTTĐTA 精嚴新集大藏音)
CV ghi cùng vần/khứ thanh 藏臧臟奘(tàng tang tạng trang) - CV ghi thượng thanh và khứ thanh
昨朗切,藏上聲tạc lãng thiết, tàng thượng thanh (TVi, CTT)...v.v...
Giọng BK bây giờ là zàng zhuǎng so với giọng Quảng Đông zong1 zong6 và các giọng Mân Nam 客家[] zong5 [台湾四] zong5 [客英字典] zong5 [宝安腔] zong1 [拼音字] zong1 [丰腔] zong5 潮州zang3(tsàng) zuang1(tsuang), giọng Mân Nam/Đài Loan chong7, tiếng Nhật jou sou zou và tiếng Hàn cang.
Đoàn Ngọc Tài (1735-1815) trong Thuyết Văn Giải Tự Chú ghi nhận
奘與壯音同 trang dữ tráng âm đồng
Bộ đại của chữ trang có thể viết bên phải (dưới chữ sĩ) và thêm một nét (chữ khuyển - xem Tập Vận - chữ này rất hiếm) với nghĩa tiêu cực "vọng cường khuyển", có cách đọc là 側羊切  trắc dương thiết  (TV) - bình thanh. Đây là vết tích xưa nhất cho thấy khả năng đọc là trang (bình thanh) của tráng trong TV (1037/1067), đây cũng là cách đọc của chữ trang bộ thảo (trong cách dùng trang nghiêm, trang trọng, khang trang ...).
3. Tại sao lại có các khả năng đọc khác nhau của trang?
Từ bảng liệt kê các cách đọc/phiên thiết bên trên, ta thấy ngay Huyền Tảng và Huyền Tráng là gần với âm nguyên thủy hơn (thượng/khứ thanh). Hai chữ trang bộ đại (trong Huyền Trang) và trang bộ thảo (trong trang trọng) đều dựa vào thanh phù tráng (mạnh mẽ, trong cường tráng). Một âm cổ phục nguyên (reconstructed sound) của trang bộ đại là *dzaŋ, giải thích tại sao tiếng Việt dùng phụ âm đầu *tr (phụ âm đầu lưỡi/quặt) so với phụ âm đầu t- (đầu lưỡi/vô thanh/bật).
Tiếng Trung (Quốc) hiện nay vẫn còn vết tích hai loại phụ âm này qua cách đọc BK (theo pinyin) zàng zhuǎng. Nguyên nhân của các cách đọc khác nhau trong tiếng Việt có thể là
3.1 Đọc sai
Đọc chệch tên người nước ngoài trong tiếng Việt hầu như là một kết quả tự nhiên, tuy nhiên cần phải xác định khi nào sự khác biệt là sai hay đúng và dựa trên tiêu chuẩn nào. Ngôn ngữ thay đổi theo thời gian (lịch đại - td. âm thượng cổ và trung cổ) và không gian (đồng đại - td. phương ngữ), thể hiện qua các bảng liệt kê cách đọc của chữ trang (tráng, tảng, táng, tãng ...) và thổ (đỗ, đổ, đồ ...). Khả năng thay đổi đa chiều một cách sống động là một đặc trưng của ngôn ngữ con người, phản ánh qua các bảng liệt kê cách đọc trong bài viết này.
3.2 Ảnh hưởng của phạm trù nghĩa
Tên tiếng Việt thường dựa vào chữ Hán (âm HV) và có vẻ thâm trầm/"bác học" như Hoa, Dũng, Đạt, Hiền ... So với các tên khác như Đen, Bông, Cu … Nên Tráng có thể cho ta liên tưởng đến các ý tích cực như trang (trang trọng) hay trang (trang hoàng), đặc biệt khi là tên của một vị cao tăng nổi tiếng trong lịch sử hình thành Phật giáo ở Á Châu. Tuy nhiên, không thấy văn bản nào ghi trang bộ đại bằng những chữ trang khác dựa vào bộ thảo (trang trọng), bộ y (trang hoàng) ...v.v...
3.3 Ảnh hưởng của thanh phù tráng/trang 
Tráng có thể là tên riêng, như nhà cách mạng Đinh Công Tráng 丁公壯(1842 - 1887), là thành phần hài thanh trong chữ , theo TVGT

駔大也。从从壯,壯亦聲 tảng đại dã, tòng đại tòng tráng, tráng diệc thanh
(tảng là ngựa khỏe mạnh/tuấn mã, chữ là chữ đại cổ)
Vấn đề trở nên thú vị hơn khi hai âm gần nhau là tảng/táng và tráng đều có chung nghĩa, như Phương Ngôn từng ghi nhận
秦晋之,凡人之大,之壮Tần Tấn chi gian, phàm nhân chi đại vị chi trang, hoặc vị chi tráng
Thời VBL (1651), táng chỉ một khối lớn (tảng) như táng chì, táng cột (VBL/trang 723) - so với tảng là đá kê chân cột - đều hàm ý to lớn. ngoài ra tương quan của sảng/tảng và trán (tiếng Việt) cũng đáng truy nguyên thêm, nhưng không nằm trong phạm vi bài viết nhỏ này.
3.4 Khả năng kỵ húy
Trong lúc bàn về bài viết này, một anh bạn có nhắc đến khả năng kỵ húy: tuy nhiên, người viết vẫn chưa tìm thấy một tài liệu nào cho thấy cách đọc Huyền Trang là tránh tên của một vị cao tăng hay tên vị hoàng tộc nào. Xác suất kỵ húy của tên người nước ngoài trong tiếng Việt lại càng thấp hơn bình thường.
3.5 Khuynh hướng đồng hóa âm thanh
Một cách giải thích cách đọc Huyền Trang là khuynh hướng đồng hóa âm thanh phổ thông trong ngôn ngữ con người, hay trong trường hợp bài này là đồng hóa thanh điệu (tone assimilation): Tráng/Tảng trở thàng Trang (không dấu, thanh ngang) cùng âm điệu hay vần bằng với Huyền (dấu huyền). Đây không phải là một thí dụ duy nhất trong tiếng Việt, ta thấy có các cách dùng như
Tiếng Việt
Cá *đuôi > cá đuối (cá có đặc điểm là đuôi dài ...)
Nước *miệng > nước miếng4...v.v...
Hán Việt
Chúng cư > chung cư (trong cách dùng quần chúng, dân chúng, chúng sinh ...)
Xa5 cừ > xà cừ
Kí Hòa > Kì Hòa
Câu kết > cấu kết
Điền kính > điền kinh
Câu đáng > câu đang/đương
Điền kính > điền kinh
Khiếu nại > kêu nài
Huyền Tảng/Tráng > Huyền Trang...v.v...
4.  Một hệ luận của khuynh hướng đồng hóa thanh điệu
Dựa vào khuynh hướng đồng hóa thanh điệu, ta có cơ sở để giải thích một thuật ngữ trong Phật giáo, đó là cách gọi Tịnh Độ (Tịnh Độ tông).  Tông Tịnh Độ là một trường phái rất phổ thông của Phật giáo ở Á Châu. Tịnh khứ thanh nên thổ cũng theo khuynh hướng "đồng hóa âm thanh" (đồng hóa thanh điệu trong các trường hợp này) để đọc thành độ (thay vì đỗ, đổ, đồ). Tịnh Độ đã từng đọc là Tịnh Thổ
- Đào Duy Anh (trang 290, sđd)
- Gustave Hue (trang 914, sđd), tác giả ghi thêm “Tịnh độ = Tịnh thổ”
Bây giờ thì ta thường thấy/nghe cách dùng Tịnh Độ hơn. Xem lại cách đọc chữ thổ (thanh mẫu thấu hay định , vận mẫu mô thượng thanh, khai khẩu nhất đẳng) có các cách đọc theo phiên thiết
它魯切tha lỗ thiết (TVGT)
二切tha hộ đạt hộ nhị thiết (NT, TTTH)
他魯切tha lỗ thiết (ĐV, QV, CV) - QV/TV ghi thượng thanh (B)
統五切, 吐上聲thống ngũ thiết, thổ thượng thanh (TV, LT, VH)
他古反tha cổ phản (NKVT 五經文字, TNTTĐTA 精嚴新集大藏音))
徒古切đồ cổ thiết (QV, CV, TVi) - TVi ghi âm đỗ 音杜(C)
動五切,音杜động ngũ thiết, âm đỗ (TV, LT, VH)
董五切,音覩đổng ngũ thiết, âm đổ (TV, VH, CV, TVi) (A)
丑下切,音sửu hạ thiết, âm sá (TV, LT)
TNAV ghi cùng vần 魚模ngư mô (thượng thanh)
CV ghi cùng vần/thượng thanh 覩睹堵楮睹土賭(đổ chử thổ)(A)
CV ghi cùng vần/thượng thanh 土吐稌(thổ đồ) (B)
CV ghi cùng vần/thượng thanh 杜土荰肚(đỗ thổ) (C)
同都切,音徒đồng đô thiết, âm đồ (TViB)
他魯切, 兔上聲tha lỗ thiết, thố thượng thanh (TVi)
他魯切, 徒上聲tha lỗ thiết, đồ thượng thanh (CTT)
...v.v...
Giọng BK bây giờ là tǔ so với giọng Quảng Đông tou2 dou6 và các giọng Mân Nam 客家[拼音字] tu3 [丰腔] tu3 [] tu3 [莞腔] tu3 [客英字典] tu3 [宝安腔] tu3 [角腔] tu3 [台湾四] tu3 tu2 [丰腔] tu3 tu2 潮州tou2(thóu), giọng Mân Nam/Đài Loan thou2, tiếng Nhật do to và tiếng Hàn tho twu.
Các dạng Tịnh Đỗ, Tịnh Đổ, Tịnh Đồ đều không thấy hiện diện so với các dạng Tịnh Thổ và Tịnh Độ - dạng Tịnh Độ là thường gặp hơn cả, nhưng không cho ta liên tưởng ngay đến cõi (chỗ) an lạc như tiếng Phạn sukhavati hay Tịnh Thổ 淨土(dịch nghĩa gần đúng từ tiếng Phạn).
Tóm lại, một cách giải thích cách đọc Huyền Trang có thể là kết quả của quá trình đồng hóa thanh điệu từ tên riêng gốc Hán. Khuynh hướng ảnh hưởng qua lại của các âm gần nhau không phải chỉ xẩy ra trong tiếng Việt, nhưng trong hầu hết các ngôn ngữ loài người. Dựa vào nguyên tắc này, ta có cơ sở giải thích nhiều cách dùng khác trong tiếng Việt và Hán Việt như xà cừ, nước miếng, Tịnh Độ ...v.v... Khuynh hướng đồng hóa thanh điệu cũng cho ra những thể thơtrong ngôn ngữ, làm cho lời nói nghe êm tai hơn đối với người bản địa.
5. Phụ chú và phê bình thêm
Phần này không hoàn toàn theo cách ghi tài liệu (Bibliography) tham khảo APA hay MLA vì bao gồm các phê bình thêm về đề tài, tài liệu và tác giả để người đọc có thể tra cứu thêm chi tiết và chính xác. Để cho liên tục, bạn đọc có thể tham khảo thêm bài viết "Tản mạn về tiếng Việt - hiện tượng đồng hoá âm thanh (phần 1)" cùng tác giả (Nguyễn Cung Thông) trên các trang mạng như  http://quangduc.com/ hay  http://newvietart.com/ v.v...
1) Âm Huyền trong HT không có vấn đề nhiều so với âm Trang. Chữ huyền (thanh mẫu hạp vận mẫu tiên bình thanh, hợp khẩu tứ đẳng) có các cách đọc theo phiên thiết
胡涓切,音懸hồ quyên thiết, âm huyền (TVGT, QV, TV, NT, LT, VH, TTTH, CV) - QV/TV ghi bình thanh
熒絹切huỳnh quyên thiết (TV, CV) - TV/CV ghi thêm khứ thanh - TVi cũng ghi thêm khứ thanh (âm huyễn 音眩)
呼沿切,音懸hô duyên thiết, âm huyền (CTT)    ...v.v...
Giọng BK bây giờ là xuán so với giọng Quảng Đông jyun4 và các giọng Mân Nam 客家[丰腔] hien2 [客英字典] hien2 [角腔] hen2 [莞腔] hen2 [丰腔] hian3 [拼音字] hian2 [台湾四] hien2 [] hien2 [宝安腔] hen2 潮州hiang5 【潮州】hiêng5 (hîang hîen), giọng Mân Nam/Đài Loan hian5, tiếng Nhật gen ken và tiếng Hàn hyen.
2) Thích Giác Hoàng, Phạm Phú Thành (2006) "HUYỀN TRANG, HUYỀN TRÁNG HAY HUYỀN TÃNG?" - có thể xem toàn bài ở trang này http://www.buddhismtoday.com/
3) Gustave Hue (1937) "Dictionnaire annamite-chinois-francais" NXB Khai Trí in lại (Sài Gòn - 1971)
4) Xem qua các ngôn ngữ cùng họ và láng giềng với tiếng Việt: tiếng Mường (Bi) còn dùng đác mẽnh(nước miếng, đác là nác/nước, mẽnh là miệng) so với các ngôn ngữ khác như Nyah Kur (Chao Bon, liên hệ đến Môn) ta thấy cách dùng dáak páang (nước miếng, dáak là nước, páang là miệng); tiếng Khme có tức mót (nước miếng, tức là nước, mót là miệng); tiếng Chăm còn dùngia pabah (nước miếng, ia là nước pabah là miệng) ...v.v... Các dữ kiện này cho ta cơ sỡ vững chắc để liên hệ miếng và miệng.
nước *miệng > nước miếng(đồng hóa thanh điệu)
Miệng và miếng đều có một dạng chữ Nôm là mãnh , mãnh là âm Hán Việt (母梗切,音猛mẫu ngạnh thiết, âm mãnh - Tập Vận) so với âm Hán cổ là *miêng (武永切 vũ vĩnh thiết - Đường Vận).
5) Chữ xa (thanh mẫu xương vận mẫu ma bình thanh, khai khẩu tam đẳng)) có các cách đọc theo phiên thiết
尺遮切 xích già thiết (QV)
昌遮切,音車xương già thiết, âm xa (TV, CV) ...v.v...
Giọng BK bây giờ là chē jū so với giọng Quảng Đông ce1 và các giọng Mân Nam 客家话:[客英字典] cha1 [台湾四县腔] ca1 [县腔] cha1 [陆丰腔] cha1 潮州话:cia1, tiếng Nhật sha và tiếng Hàn cha.
   NGUYỄN CUNG THÔNG
Theo http://vanhoanghean.com.vn/ 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Khúc hát Marseilles

Khúc hát Marseilles Thời đại Bạc đã mang lại cho văn học Nga nhiều tên tuổi sáng giá. Một trong những người sáng lập chủ nghĩa biểu hiện N...