Thành ngữ trong tác phẩm văn
học
của Ngô Tất Tố và Nam Cao
Thành ngữ là “Đoạn câu, cụm
từ có sẵn, tương đối cố định, bền vững, không nhằm diễn trọn một ý, một nhận
xét như tục ngữ mà nhằm thể hiện một quan niệm dưới hình thức sinh động, hàm
súc” [4;200]. Nhờ khả năng nhấn mạnh nghĩa bằng sự diễn đạt sinh động, có
nghệ thuật nên thành ngữ không chỉ là kho báu trong ngôn ngữ giao tiếp hàng
ngày mà còn là nguồn chất liệu quý giá trong sáng tác văn học. Nhiều nhà văn,
nhà thơ đã vận dụng nhuần nhuyễn thành ngữ giúp cho câu văn, lời thơ thêm biểu
cảm; giàu hình tượng, hàm súc và đậm đà bản sắc truyền thống.
Ngô Tất Tố và Nam Cao – những
đại biểu xuất sắc của trào lưu văn học hiện thực phê phán Việt Nam – đã có sự gặp
gỡ trong việc đưa ngôn ngữ của cuộc sống sinh hoạt đời thường vào tác phẩm.
Trong đó, thành ngữ dân gian là một chất liệu nghệ thuật được cả hai nhà văn sử
dụng thường xuyên, linh hoạt và đạt hiệu quả nghệ thuật cao.
Gắn bó lâu năm với cuộc sống
làng quê, Ngô Tất Tố và Nam Cao am hiểu rất sâu sắc cuộc sống sinh hoạt và “lời
ăn tiếng nói” của người nông dân. Vùng quê Kinh Bắc của Ngô Tất Tố nổi tiếng với
những làn điệu dân ca quan họ tình tứ, những câu chuyện cổ hấp dẫn. Giá trị văn
hóa truyền thống cũng in đậm trong lối nói dân gian mượt mà, ý nhị, sâu sắc. Cuộc
sống gần gũi nông thôn và sự am hiểu sâu sắc ngôn ngữ làng quê là một mạch nguồn
quan trọng hình thành hệ thống thành ngữ trong sáng tác của Ngô Tất Tố.
Nam Cao cũng có cuộc sống gắn
bó với làng quê. Nhà văn sinh ra và lớn lên nơi miền quê nghèo khó, đồng trũng,
ao sâu. Nhưng chính hoàn cảnh đó lại là điều kiện để Nam Cao tiếp thu kho tàng
ngôn ngữ dân gian một cách tự nhiên, sâu sắc. Thành ngữ là một phương tiện nghệ
thuật giúp nhà văn phản ánh “những vang động của đời”.
Tiến hành khảo sát một số
tác phẩm tiêu biểu của Ngô Tất Tố và Nam Cao, chúng tôi nhận thấy, cả hai nhà
văn đều vận dụng thành ngữ ở mức độ cao. Trong tổng số 727 trang văn của ba tác
phẩm Tắt đèn, Lều chõng, Việc làng của Ngô Tất Tố có 237 thành ngữ. Trong
42 truyện ngắn và tiểu thuyết viết trước Cách mạng tháng Tám của Nam Cao , có tới
300 thành ngữ.
Trong ngôn ngữ nghệ thuật của
Ngô Tất Tố và Nam Cao, thành ngữ có kiểu loại phong phú, được vận dụng linh hoạt:
có những thành ngữ nguyên dạng đã được lưu truyền phổ biến trong dân gian; có
những thành ngữ được vận dụng sáng tạo bằng cách thay đổi trật tự từ, thêm bớt
từ hoặc mượn ý của một thành ngữ nào đó với cách diễn đạt mới. Chẳng hạn thành
ngữ Chạy ngược chạy xuôi được đảo thành Chạy xuôi chạy ngược trong câu văn:
“…Phó lý, trương tuần cũng như tộc biểu, tuần phu tuy không phải làm việc
gỡ, ai nấy vẫn xơ tóc gáy, chạy xuôi chạy ngược” (Tắt đèn); thành ngữ Cưỡi
đầu cưỡi cổ được thêm từ thành Cưỡi lên đầu lên cổ (Chí Phèo); thànhngữ: Chuột
gặm chân mèo biến đổi thành: “Chuột lại cứ đòi gặm chân mèo (Rình trộm).v.v…
Dưới ngòi bút của Ngô Tất Tố và Nam Cao, thành ngữ luôn hoà quyện vào
lời văn một cách tự nhiên.
Cả hai nhà văn Ngô Tất Tố và
Nam Cao đều hay sử dụng thành ngữ với chức năng chủ yếu như một cụm tính từ.
Căn cứ vào chức năng định danh của thành ngữ trong câu, chúng tôi phân loại hệ
thống thành ngữ đã khảo sát trong các sáng tác của Ngô Tất Tố và Nam Cao như
sau:
Tác giả
|
Tổng số thành ngữ
|
Chức năng
|
||
Cụm danh từ
|
Cụm động từ
|
Cụm tính từ
|
||
Ngô Tất Tố
|
237
|
21
|
67
|
149
|
Nam Cao
|
300
|
23
|
72
|
205
|
Thành ngữ được dùng với chức
năng một tính từ chiếm số lượng lớn. Nhờ đó, trạng thái tính chất của đối tượng
được phản ánh trong tác phẩm của Ngô Tất Tố và Nam Cao thường rất cụ thể và
sinh động. Tuy nhiên, trong bảng thành ngữ đã khảo sát được, chúng tôi thấy, những
thành ngữ mang sắc thái biểu cảm “âm tính” chiếm số lượng chủ yếu.
Chúng tôi đã phân loại thành
ngữ số thành ngữ đã khảo sát được theo sắc thái biểu cảm của thành ngữ và có kết
quả sau:
Tác giả
|
Tổng số thành ngữ
|
Sắc thái biểu cảm
|
||
Âm tính
|
Trung hoà
|
Dương tính
|
||
Ngô Tất Tố
|
237
|
203
|
15
|
19
|
Nam Cao
|
300
|
272
|
13
|
13
|
Ngô Tất Tố sử dụng tới
203/237 lượt (85,7%) thành ngữ mang sắc thái âm tính, Nam Cao sử dụng 272/300
lượt (90,6%). Đọc các tác phẩm của hai nhà văn, nhất là những tác phẩm viết về
đề tài nông thôn, người ta thường gặp các thành ngữ như: Đầu tắt mặt tối, Đầu
trâu mặt ngựa, Cày thuê cuốc mướn, Chạy ngược chạy xuôi, Chân lấm tay bùn, Thắt
lưng buộc bụng.v.v… Các thành ngữ mang sắc thái âm tính đã tô đậm hoàn cảnh
tối tăm, ngột ngạt của xã hội thực dân phong kiến hoặc “mặt trái” trong số phận,
tính cách nhân vật.
Ngô Tất Tố đã dùng thành ngữ
Mặt người dạ thú để chỉ bọn quan lại thối nát: “…Không như những kẻ mặt người dạ
thú, mượn tiếng “thay mặt dân” để hót chính phủ mà xin xỏ việc này việc kia,
ông ra nghị trường để cốt mua cái “vị thứ tân thời”…” (Tắt đèn); những thành
ngữ Cổ cày vai bừa, Chân lấm tay bùn, Đầu tắt mặt tối khắc sâu nỗi cơ cực
của gia đình chị Dậu cũng như những người nông dân khác trong xã hội cũ.
Trong Việc làng, thành ngữ
được Ngô Tất Tố sử dụng với mật độ cao khi phản ánh cuộc sống nặng nề, vất vả của
người nông dân: “Thật vậy, từ thủa mười bảy tuổi đầu đến giờ, tôi không chơi
không ngày nào, trừ ra những ngày đau ốm. Thôi thì cày sâu cuốc bẫm, buôn
ngược bán xuôi không quản ngại một việc gỡ cả…vậy mà suốt đời nghèo xác
nghèo xơ, ăn không đủ, mặc không đủ…” [28; 12]. Hoàn cảnh sống đó giúp Ngô Tất
Tố có điều kiện hiểu biết tường tận về những hủ tục nơi góc điếm sân đình; và
thành ngữ trong các tập phóng sự Việc làng và Tập án Cái Đình đó giúp phần phản
ánh chân thực bộ mặt của làng quê với những tàn tích nặng nề của chế độ phong
kiến.
Khi viết về người nông dân
Việt Nam trước Cách mạng tháng Tám, Nam Cao cũng sử dụng nhiều thành ngữ Cày
thuê cuốc mướn,Cắn rơm cắn cỏ, Câm như hến… Qua đó, người đọc cảm nhận sâusắc
và thấm thía tình cảnh khốn cùng của lớp người thấp cổ bé họng trong
xã hội cũ. Cuộc sống nghèo túng, dè xẻn, chắt bóp của người phụ nữ nông dân được
Nam Cao miêu tả trong truyện Lão Hạc: “…Sau khi thằng con đi, lão tự bảo rằng:
cái vườn đó là của con ta. Hồi còn mồ ma mẹ nó, mẹ nó cố thắt lưng buộc bụng,
dè xẻn mới để ra được năm mươi đồng bạc tậu…”; hoặc trong truyện Một bữa no
(khi viết về nhân vật bà cái Tý): “…Chồng bà chết từ khi nó mới lọt lòng ra. Bà
thắt lưng buộc bụng để dành dăm bảy đồng mua một cái áo quan về đợi ngày chui
vào…”. Sử dụng thành ngữ “thắt lưng buộc bụng”, Nam Cao đã gợi lên hình ảnh
những người phụ nữ nghèokhổ, chắt chiu, dè xẻn, tằn tiện suốt đời và bộc lộ nỗi
xót thương sâu sắc của tác giả. Trong văn Nam Cao, thành ngữ tạo nên lối kể
chuyện dung dị, gần gũi, xúc động về những cảnh đời, những số phận nhỏ bé
trong kiếp sống mòn
Ngô Tất Tố và Nam Cao đều là
những nhà văn xuất thân từ những làng quê nghèo. Cả hai nhà văn đều mang tấm
lòng hồn hậu, chất phác và ân tình sâu nặng với người lao động. Cuộc sống lam
lũ, túng thiếu của những người lao động nghèo đó được phản ánh chân thực, sinh
động trong sáng tác của các nhà văn. Qua đó, hiện lên bức tranh mù xám của xã hội
Việt Nam trước Cách mạng. Trong xã hội cũ, tàn tích của chế độ phong kiến in hằn
lên tất cả mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Viết về cuộc sống của người nông
dân, Ngô Tất Tố và Nam Cao thường vận dụng những thành ngữ để tạo không khí
nông thôn cho tác phẩm và tô đậm cuộc sống lam lũ của người dân quê.
Ngô Tất Tố và Nam Cao đều là
những cây bút tài năng trong nghệ thuật xây dựng nhân vật, đều vận dụng thành
công thành ngữ làm nổi bật hoàn cảnh, diện mạo và tính cách của nhân vật.
Ngô Tất Tố giới thiệu về
nhân vật chị Dậu:“…Thế là gần ba tháng trời, những sự đóng góp chi tiêu của một
gia đình năm miệng ăn, hết thảy trông vào hai bàn tay của người đàn bà con mọn.
(Tắt đèn).Tác giả đã biến đổi thành ngữ đàn bà con gái thành đàn bà con mọnđể gợi
nỗi khốn khó trong hoàn cảnh của nhân vật. Với thành ngữmột thước cắm dùi không
có, Nam Cao đó diễn tả tình cảnh cùng đường của Chí Phèo sau khi ở tù về
làng Vũ Đại: “…Đi ở tù còn có cơm để mà ăn, bây giờ về làng về nước, một thước
cắm dùi không có, chả làm gì nên ăn. Bẩm cụ, con lại đi kêu cụ, cụ lại cho con
đi ở tù. (Chí Phèo).
Giá trị gợi hình của thành
ngữ đã được Ngô Tất Tố và Nam Cao sử dụng để tập trung khắc hoạ chân dung nhân
vật. Nếu như Ngô Tất Tố chủ yếu sử dụng các thành ngữ thể hiện hành động của
nhân vật thì Nam Cao lại thiên về các thành ngữ miêu tả diện mạo nhân vật.
Nhân vật Chí Phèo ngật ngà
ngật ngưỡng trong trang văn của Nam Cao rồi “đóng đinh” vào trí nhớ của người đọc.
Nhân vật Thị Nở cũng khiến người đọc nhớ mãi nhờ một thành ngữ được dùng đúng
chỗ: …xấu ma chê quỷ hờn.
Thành ngữ còn khắc sâu tính
cách của nhân vật. Dưới ngòi bút của Ngô Tất Tố và Nam Cao, các nhân vật thuộc
giai cấp thống trị là những kẻ đầu trâu mặt ngựa, Mặt người dạ thú, khôn róc đời,
già đời đục khoét…
Không chỉ làm nổi bật hoàn cảnh,
diện mạo, tính cách, thành ngữ còn thể hiện rất tinh tế đời sống tinh thần của
nhân vật. Đến với Tắt đèn, người đọc không khỏi xót xa trước tình cảnh của
gia đình chị Dậu và càng xót xa khi chứng kiến cảnh người mẹ nghèo “nhũng
nhẵng dẫn con và chó” đến nhà Nghị Quế. Có lẽ, khi bắt gặp hình ảnh chị Dậu cố
sống cố chết, giả câm giả điếc mà trong lòng thì như dao cắt từng khúc ruột:
“… Với những tiếng thổn thức
trong đáy tim và những giọt nước mắt luôn đọng ở gò má, chị Dậu cố sống cố chết,
nhũng nhẵng dẫn con và chó lẽo đẽo dưới ánh nắng mùa hè. Con vẫn lướt mướt
khóc, chó vẫn í ẳng kêu, chị vẫn nhất định giả câm giả điếc mong cho chóng đến
nhà cụ Nghị”
Câu thành ngữ cố sống cố chết
nghĩa là đem hết sức mình ra làm cho bằng được mặc dầu khó khăn, nguy hiểm. Còn
giả câm giả điếc nguyên nghĩa là biết rõ điều ngang tai chướng mắt
nhưng không muốn nói ra. Chị Dậu đã đem hết sức mình ra để ép chính bản thân
mình cất bước. Phải chăng chị vô cảm? Chị không nhìn thấy những giọt nước mắt?
Chị không nghe thấy những tiếng nức nở, nghẹn ngào của con trẻ? Không. Chị
không hề vô cảm mà ngược lại. Hơn ai hết, chị là người thấm thía nỗi đau đớn nhất.
Đằng sau vẻ dứt khoát cố sống cố chết và dửng dưng giả câm giả điếc là cả một
cơn bão lòng trào dâng trong chị, nó như vết dao cứa vào trái tim người mẹ khi
phải dứt ruột bán con mình.
Nhân vật Lão Hạc (Nam Cao)
khi buộc phải lựa chọn cái chết chứ nhất định không phạm vào một đồng của con:
“Đã đành rằng thế, nhưng tôi
đó bán vườn của nó bao nhiêu, tiêu hết cả. Nó vợ con chưa có. Ngộ nó không lấy
gì lo được lại bán vườn thì sao?… Tôi cắn rơm, cắn cỏ tôi lạy ông giáo! ông
giáo có nghĩ cái tình tôi già nua tuổi tác mà thương thì ông giáo cứ cho tôi gửi”.
Thành ngữ Cắn cơm cắn cỏ thể
hiện sự van xin tha thiết của Lão Hạc. Vì đâu mà một người đã “già nua tuổi
tác” mà vẫn phải hạ mình để cầu xin như vậy? Tất cả là vì tình thương của lão
dành cho đứa con trai dứt ruột của mình.
Ngô Tất Tố và Nam Cao luôn cảm
thông, trân trọng và thấu hiểu người nông dân. Thành ngữ còn giúp nhà văn thể
hiện sâu sắc lối sống tình nghĩa của nhân vật. Ngô Tất Tố miêu tả lời tâm
tình của những người nông dân có lối sống tắt lửa tối đèn, tình làng nghĩa xóm:
Bà lão thỏ thẻ yên ủi:
- Thấy tình cảnh nhà bác,
tôi thật ái ngại. Nhưng thôi, sông có khúc, người có lúc,
mình cứ ăn ở hiền lành, rồi cũng có ngày trời mở cửa cho!.
Trong lời của bà lão có tới
ba thành ngữ để an ủi vợ chồng chị Dậu (là ăn ở hiền lành, đối xử tốt với người
khác thì cơn hoạn nạn sẽ qua). Lời động viên chân thành, gần gũi của người cùng
cảnh ngộ phần nào làm nguôi đi nỗi đau của gia đình chị Dậu trong cơn hoạn nạn.
Tác giả vận dụng các thành ngữ để xây dựng chân dung nhân vật bà lão với tấm
lòng nhân hậu đáng trân trọng. Thành ngữ được Ngô Tất Tố và Nam Cao vận dụng
phù hợp trong từng ngữ cảnh. Chúng không chỉ là lời dẫn truyện mà còn hoà vào
ngôn ngữ nhân vật, theo đó bộc lộ tính cách, tâm lí nhân vật hết sức hiệu quả.
Thành ngữ cũng tạo sự tiếp nối
giữa truyền thống và hiện đại trong ngôn ngữ nghệ thuật của Ngô Tất Tố và Nam
Cao. Qua hệ thống thành ngữ trong các sáng tác của Ngô Tất Tố và Nam Cao,
ta thấy một phong cách ngôn ngữ vừa uyên bác, hiện đại lại vừa gần gũi quen thuộc.
Với việc vận dụng linh hoạt, tinh tế thành ngữ, Ngô Tất Tố và Nam Cao đã giúp
phần vào việc giữ gìn sự trong sáng của Tiếng Việt, làm phong phú thêm cho kho
tàng ngôn từ nghệ thuật của nền văn học nước nhà. Đây là một đóng góp to
lớn của Ngô Tất Tố và Nam Cao trong việc sử dụng ngôn ngữ dân tộc. Đó cũng là kết
quả của những năm tháng tìm tòi, sáng tạo không ngừng của các nhà văn.
Vận dụng khéo léo “lời ăn tiếng nói” của người nông dân, Ngô Tất Tố và Nam Cao
đã thể hiện thái độ trân trọng người nông dân và trân trọng ngôn ngữ truyền thống.
Vận dụng thành ngữ, các nhà văn tạo được ngôn ngữ “tươi ròng” chất liệu cuộc sống,
làm mới ngôn ngữ dân tộc. Ngôn ngữ đời thường của quần chúng nhân dân đã mang lại
sức sống lâu bền cho ngôn ngữ văn chương. Và như vậy, thành ngữ đã tạo nên sự nối
tiếp giữa ngôn ngữ truyền thống với ngôn ngữ hiện đại. Thành công của các nhà
văn là sự khẳng định “tiếng ta” là thứ tài sản quý báu và mỗi người đều phải
nâng niu, “giữ gìn sự trong sáng của Tiếng Việt”. Đó cũng là minh chứng rất rõ: “Tiếng Việt của chúng ta rất giàu và đẹp”.
Lê Hồng My - Nguyễn Thị Huệ
Nguồn tapchinhavan.vn
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét