Thương nhớ một miền thơ
Tôi đang trở lại miền thơ ấy
bằng tấm vé khứ hồi được giữ cất kỹ càng từ thế kỷ trước. Nắng. Vẫn nắng Quảng
Trị. Gió. Vẫn gió Quảng Trị. Người. Vẫn người Quảng Trị. Người còn hay mất hình
như đều chưa nguôi ngoai thương nhớ một thời trong cuộc sum vầy thi hữu nhiều lắng
đọng, bâng khuâng. Cái vùng đất bộn bề gian khó bởi nắng mưa khắc nghiệt, từng
giặc giã khốc tàn nhưng tình người luôn ăm ắp chân thành mộc mạc đã trở thành
niềm hứng cảm sáng tạo thi ca của không ít nhà thơ. Quảng Trị là một miền thơ
mang nhiều cung bậc, nỗi niềm; dãi dề trong từng xúc cảm, gần gũi trong những ý
tưởng và cũng thật bình dị trong ngôn từ. Nhìn chung là như thế, cái biểu tượng
non Mai, sông Hãn ôm ấp khí chất, tinh hoa một vùng miền, xưa và nay cùng chung
dòng chảy ân tình lấy quê hương làm nền tảng, cội nguồn. Chiến tranh và hòa
bình, lớp trước với lớp sau cất lên tiếng nói yêu thương, tri ân cuộc sống bằng
thi ca như là sự đền đáp bằng chữ nghĩa chân phương.
Người ta đã nhắc tới nhiều
màu xanh Quảng Trị trong thơ Tế Hanh. Thi sĩ tài hoa nói chuyện với Hiền Lương
mà như tâm sự với người Quảng Trị vậy. Bài ca thống nhất được cất lên từ thuở
ngày Bắc đêm Nam ấy như một minh định thiêng liêng. Tôi cho rằng, đây chính là
một trong những câu thơ hay nhất viết về đất nước thời chiến tranh chống Mỹ:
Trời vẫn xanh một màu xanh
Quảng Trị
Tận chân trời mây núi có
chia đâu.
Màu xanh Quảng Trị trở thành
gam màu chủ đạo của bầu trời Tổ quốc một thời, càng huyền ảo bao nhiêu thì càng
hiện thực bấy nhiêu. Chỉ có thi ca mới làm được điều đó, đọc lên, ai cũng thấy
trong lòng mình đang rưng rưng Quảng Trị. Không ít nhà thơ trong nước viết về
Quảng Trị cả trong chiến tranh và thời bình. Chúng ta có thể kể đến các nhà thơ
Phạm Ngọc Cảnh, Anh Ngọc, Nguyễn Đức Mậu… Họ có mặt ở vùng đất này khi cuộc chiến
tranh chống Mỹ ở vào giai đoạn khốc liệt nhất. Phạm Ngọc Cảnh với bút danh Vũ
Ngàn Chi đã có hẳn một tập thơ mang tên Đêm Quảng Trị. Anh Ngọc cũng có
nhiều thi phẩm viết về Quảng Trị trong đó bài Cây xấu hổ đã dành được
giải cao trong một cuộc thi thơ của báo Văn nghệ. Chương sinh động nhất trong Trường
ca Sư đoàn của Nguyễn Đức Mậu là viết về Quảng Trị năm 1972… Quảng Trị là
một phần chất liệu sáng tạo của nhiều nhà thơ quân đội; họ đã tìm thấy ở đây những
giá trị tốt đẹp của lòng yêu nước, của chủ nghĩa anh hùng cách mạng, của tinh
thần nhân văn từ những con người, sự vật cụ thể.
Nhưng trong bài viết này tôi
muốn nói tới những nhà thơ Quảng Trị viết về quê hương máu thịt của mình. Không
phải bài nào cũng hay cả nhưng tôi tìm được trong đó cái thấm thía đến độ da diết
của những thi phẩm viết về quê nhà. Phải chăng, đó là cái da diết bình dân kiểu
như Rồi mùa toóc rạ rơm khô/ Bạn về quê bạn biết nơi mô mà tìm. Mười
bốn âm tiết mà đã hai phương ngữ (toóc, mô – rạ, đâu) và một từ phát
âm đặc sệt Quảng Trị, dấu ngữa thành dấu nặng (rạ - rã). Thơ cũng chân chất,
nặng tình, nặng nghĩa như con người vậy.
Đội ngũ người làm thơ Quảng
Trị không quá đông đúc nhưng cũng chẳng hiếm hoi đến mức chỉ đếm được trên đầu
ngón tay. Và, miền đất gió Lào cát bỏng này đã góp vào đất nước những nhà thơ nổi
tiếng như Chế Lan Viên, Vĩnh Mai, Lương An, Dương Tường, Lê Thị Mây… cùng một số
tên tuổi khá quen thân với bạn đọc trong cả nước như Lê Chưởng, Tấn Hoài, Tạ
Nghi Lễ, Tống Quang, Nguyễn Tiến Đạt, Hàn Vũ Hùng, Hàn Nguyệt, Hồ Chư, Nhất
Lâm, Phan Văn Quang, Hoài Quang Phương, Võ Văn Luyến, Bội Nhiên, Võ Văn Hoa, Lê
Trâm, Phan Bùi Bảo Thi… Lòng rưng rưng biết mấy khi trước mắt tôi hiện lên hình
ảnh những bạn làm thơ thân thiết cùng thời trong suốt hai mươi năm gắn bó với
Quảng Trị (1976 - 1996). Đó là Phan Văn Quang, Tống Quang, Nguyễn Tiến Đạt, Hàn
Vũ Hùng, Hàn Nguyệt, Hồ Chư, Võ Văn Luyến, Phan Bùi Bảo Thi. Trong đó những bạn
thơ Tống Quang, Nguyễn Tiến Đạt, Hàn Vũ Hùng, Hàn Nguyệt, Hồ Chư, những giọng
thơ đầy cá tính đã đi xa, mãi mãi đi xa, để lại những khoảng vắng bâng khuâng,
ngậm ngùi trong làng thi ca Quảng Trị. Đời người của các bạn sao ngắn ngủi dường
vậy, hay thế gian này quá ồn ào, chật chội, chen chúc và bụi bặm nên các bạn sớm
tìm vào cõi khác yên bình hơn? Riêng tôi thì vẫn tin rằng các bạn còn sống trên
mảnh đất này với những câu thơ lay động lòng người.
Thực lòng mà nói, tôi rất
yêu những bài thơ, vần thơ viết về quê hương Quảng Trị của các thi sĩ sinh ra
trên mảnh đất này. Những câu thơ chắt ra từ đời sống gian nan, cơ cực nhưng
chan chứa lòng yêu thương cuộc đời. Chiến tranh hay hòa bình cũng thấm đẫm tinh
thần đó. Đây là mảnh đất Quảng Trị một thời xa ngái trong thơ Chế Lan Viên:
Tôi nhìn ra thấy máu thịt
quê hương
Như đang dâng thành núi lại
thành cồn
Ôi, gió Lào ơi! Ngươi đừng
thổi nữa
Những ruộng đói mùa, những đồng
đói cỏ
Những đồi sim không đủ quả
nuôi người…
(Kết nạp Đảng trên quê mẹ)
Nỗi thao thức quê nhà đói khổ
đã thấm sâu vào thơ đủ cho ta những hình dung sắc nét về vùng đất này. Không hề
kêu ca, kể lể, cũng chẳng than khóc kêu van, thơ rưng rưng tình quê, tình người,
càng đọc càng thương Quảng Trị. Không chỉ thời chống Pháp ấy mà cho đến sau
này, khi đất nước hòa bình thống nhất rồi cái nỗi thương quê nghèo khó, giặc
giã vẫn day trở trong nhiều thi phẩm của người làm thơ Quảng Trị. Tạ Nghi Lễ
trong bài thơ Quê mình đã viết:
Có nơi mô như ở quê mình
Nghĩa trang trắng mỗi triền
cát trắng
Hạt lúa củ khoai giữa mùa
Nam nắng
Bưng chén cơm ăn sao đắng cả
lòng
Cũng có khi thơ lắng xuống
trầm sâu bởi những ký ức thấp thoáng giữa đời thường vốn đang bộn bề, chen lấn.
Hồn quê được lưu giữ trong thơ ca, tưởng mong manh, sương khói mà bền chặt, rõ
ràng. Ta như đang thấy, đang nghe dòng chảy cuộc sống trôi qua trước mặt, gần tới
mức những thì thầm quá vãng cũng ngân rung mồn một:
Mẹ gánh nắng về bến nước
Em thơ lấm láp chân bùn
Khói chiều bịn rịn hàng cau
đứng
Đồng ta trăng xuống lúa xanh
rờn
(Bến nước – Nhất Lâm)
À ơ… cái bóng ru buồn
Ai ăn ở bạc cho hồn ai đau
À ơ… cánh vạc về đâu
Khói sương chưa dễ phai màu
thời gian
(Đêm Ái Tử nghe hát ru con – Võ Văn Luyến)
Mẹ già bảy chục sương vào
tóc
Bỏm bẻm trên môi đỏ miếng trầu
Mừng con lên tỉnh thêm vài
cháu
Buồn nghe khế rụng nửa vườn
sau
(Quê ngoại – Phan Văn Quang)
Cũng chẳng có gì to tát cả
nhưng nó là hồn vía quê nhà, chất liệu làm nên phần hồn của mỗi con người chúng
ta. Quên đi quá khứ, cội nguồn, lãng phai những nấng nuôi chăm bẳm cũng có
nghĩa là ta đã đánh mất phần gốc rễ. Có lẽ vì thế mà tôi đồng cảm với Phan Bùi
Bảo Thi:
Tôi úp mặt vào chiếc gối
bông mẹ may mùa đông trước
Tìm chút nắng vàng trong khoảng
sân quê
Khát khao tiếng cười lũ cào
cào châu chấu
Khao khát làn roi mẹ đánh cuối
chiều
Trong thân phận của mỗi người
hình như có nắng mưa giông bão của vùng đất máu mủ ruột rà, nên viết về quê
hương mà cứ như viết về mình. Từng câu, từng chữ cứa vào tâm can người đọc, thật
đến mức chạm vào là đau, là nhớ quắt quay:
Mười ba năm nay trở lại Đông
Hà
Chợ vẫn đấy tôi chẳng mua chẳng
bán
Buồng cau tươi mẹ già đi chợ
sớm
Tôi biết mình xế nắng áo
phong thanh
Nơi bến đợi mình tôi về soi
mặt
Đò sang ngang bên kia ngày
đánh giặc
Tôi có người hẹn lá trầu
xanh…
(Trở lại Đông Hà – Lê Thị Mây)
Chiến tranh! Đó chính là mảng
hiện thực không thể bỏ qua khi viết về Quảng Trị. Thơ Quảng Trị mang trong nó
những cuộc chiến bi tráng đã qua như vùng đất này gánh trên mình hàng vạn ngôi
mộ liệt sỹ của hai thời đánh Pháp chống Mỹ. Người Quảng Trị góp vào dòng thơ
kháng chiến những bài thơ khó quên. Sau trận càn của giặc Pháp vào tháng 2 năm
1949, tại chiến khu Ba Lòng, Lê Chưởng có những câu thơ dung dị mà chứa chan
khát vọng hòa bình:
Một đống tro than
Nằm im không nói
Nhớ rui nhớ mái
Thương cột trơ buồn
Chuồn chuồn vàng đậu
Chim khách vắng chào
Vắng tiếng yêu kiều
Của bầy chim sáo
Vắng o con gái
Giặt áo bên đìa
Vắng đàn em nhỏ
Trưa hè hát ca
(Sau trận
giặc càn)
Qua thử thách
thời gian, bài thơ Cô lái đò của Lương An vẫn chưa phai nhạt mấy nét
duyên dân dã thuở nào:
Tây lên mấy chuyến Ba Lòng
Đò em nhấn nước cũng chừng ấy
phen
Tây về em lại kéo lên
Đêm đêm cứ ngược xuôi miền
chiến khu
Hồi niệm chiến tranh không
chỉ dừng lại ở việc phác họa những trận đánh, những hi sinh mất mát khó kể xiết
mà nó biết vươn lên, kết lại thành biểu tượng mang tên sông nước quê nhà cùng với
chung riêng hòa quyện vào nhau:
Lật ký ức lòng ta in nét đậm
Một Ba Lòng – ba ngã suối
sông sâu
Bến đổi bến – tên trăm lần vẫn
Trấm
Đất kiên trinh mang mãi mối
tình đầu
(Trăm năm
rừng cũ – Tấn Hoài)
Trong lớp người làm thơ thời
hậu chiến, tôi thực sự trân trọng tài thơ Nguyễn Tiến Đạt. Đạt chính là hy vọng
lớn nhất của không ít người ở Quảng Trị về một nhà thơ xuất sắc trong tương
lai. Dẫu chưa đi đến tương lai đó nhưng Nguyễn Tiến Đạt đã để lại cho miền đất
Quảng Trị những bài thơ hay về thế sự, về chiến tranh như Bến Hiền Lương; Khúc
hát… Những câu thơ của Nguyễn Tiến Đạt còn thao thức trong tôi:
Em ơi nơi ấy tôi sinh, mẹ ủ
tôi bằng lá cỏ gai dưới gầm trời bom đạn
Tôi lớn lên như con còng ngơ
ngác nhìn sông trôi bóng mẹ hoài chùng
xuống
Trên dòng sông vọng điệu hò
đưa linh
Của những nỗi niềm tiền kiếp
Rào rào dốc đỉnh Trường Sơn
Chiến tranh rạch qua đời tôi
những đường sấm sét
Người đôi bờ nửa đêm hay thức
giấc
Cả những đêm sau năm hai
nghìn
Những người già chưa bao giờ
qua được bên kia sông
Hồn vẫn còn lởn vởn trên mặt
nước
Đêm đêm tôi nghe những tiếng
gọi đò và tiếng người xin lửa
Họ ra đi trước ánh nắng mặt
trời thắp lên…
(Bến Hiền Lương)
Tôi nghĩ rằng đây không phải
là một phác thảo đầy đủ về thơ Quảng Trị. Còn những tác giả, tác phẩm tôi chưa
nêu lên. Đủ đầy, chắc chắn phải có một công trình, nhiều công trình nghiên cứu
về thơ vùng đất này. Chỉ là thương nhớ của tôi về một miền thơ nhiều ân tình,
trắc ẩn nơi tôi có những năm tháng đẹp đẽ của tuổi thanh xuân. Có những bài thơ
của tôi được bạn đọc biết đến đã khai sinh từ mảnh đất này. Trong âm hưởng trữ
tình của nó không thể thiếu được hồn đất, hồn người Quảng Trị. Dù không sinh ra
ở Quảng Trị nhưng tôi đã từng ghé dựa vào sông núi nơi này để nghe rõ hơn những
mạch nguồn đất nước thiêng liêng. Chảy và chảy không ngưng nghỉ trong huyết quản
mỗi người cầm bút. Để khi đã xa xôi, tôi vẫn hằng được gọi tên bạn bè thân mến
và tự hào cất lên: “Quảng Trị ơi, Còn đây thương nhớ!”.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét