Trở lại bến xưa
Tôi về bên bến Đập Đá và thấy lòng mình ấm lại.
Vậy là ước vọng bình dị của những người từng sống và chiến đấu tại bến Đập Đá
nay đã thành hiện thực bằng Bia chứng tích lưu truyền hậu thế về một huyền thoại
chiến công.
Hơn 10 năm trước, tôi từng chia sẻ nỗi trăn
trở cùng anh Đào Xuân Duy (nay là Chủ tịch UBND xã Cam Thủy, huyện Cam Lộ, Quảng
Trị) khi anh ngậm ngùi: “Chúng ta còn nợ bến Đập Đá một tấm bia chứng tích”.
Lúc đó, tôi nói với anh rằng: “Chắc khó mà thực hiện được bởi kinh phí quá lớn,
mà dân mình còn nghèo thì lấy đâu ra”. Vậy mà, cách đây mấy tháng, anh cười
giòn tan trong máy điện thoại khi thông báo với tôi: “Rồi. Mọi việc đâu vào đấy
cả rồi. Chúng tôi đang khởi công công trình Bia chứng tích bến Đập Đá đây”. Tôi
thật sự thán phục anh Duy. Thì ra, giữa bộn bề công tác, anh vẫn luôn đau đáu
cùng “nỗi trăn trở” xưa, để rồi vận động người dân đóng góp xây dựng Bia chứng
tích bến Đập Đá với trị giá hơn 400 triệu đồng...
Tôi kính cẩn thắp nén hương lên bàn thờ bác
Phúc (ngày xưa bác là Đội trưởng Đội giao liên huyện Cam Lộ). Nhà bác Phúc nằm
ngay cạnh bến Đập Đá. Nghe đâu, nhiều người khuyên bác nên di dời nhà cửa đến
nơi an toàn hơn, chứ tuổi già sức yếu, mà bờ sông thì bên lở bên bồi. Bác cười
buồn: “Không ai hiểu “tâm tính” bến sông này bằng tôi đâu. Nó như người bạn ấu
thơ của tôi, sao tôi nỡ lìa xa được. Hơn nữa, tôi ở đây để chờ có người nào đó
đến tìm hiểu về bến Đập Đá để tôi kể cho họ nghe về lịch sử bến sông; về những
chiến sĩ cách mạng trung kiên đã ngã xuống nơi này. Kẻo rồi mai đây, khi lớp
người từng chiến đấu, từng hành quân qua bến sông này không còn nữa, thì e hậu
thế sẽ lãng quên”.
Tôi hiểu tâm tư người lính già. Bác Phúc sợ rằng
nếu không lập Bia chứng tích bến Đập Đá thì rồi đây, chẳng còn ai nhắc đến bến
sông một thời oanh liệt nữa. Có lần, bác Phúc kể với tôi: “Ở bến sông này, nhiều
trận đánh trong đêm xảy ra ngoài dự kiến. Mỗi lần nghe các loại súng địch trút
đạn, rồi tiếng súng AK điềm tĩnh đáp trả từng loạt ngắn, chắc nịch là biết quân
ta bị địch phục kích. Sáng hôm sau, nhân dân chia nhau cải trang thành ngư dân
để quy tập ven sông từng đôi dép cao su, mảnh vải dù nhuốm máu, chiếc mũ tai
bèo ghim đầy vết đạn. Các liệt sĩ chỉ còn lại chừng đó. Thân thể các anh đã nằm
lại với bến Đập Đá; đã táng xuống dòng sông Hiếu hiền hòa”. Tôi thì thầm: “Bác
Phúc ơi, đã có một Bia chứng tích hoành tráng khắc ghi công trạng của bến Đập
Đá rồi. Ngày 26/7/2015 này, bác có linh thiêng nhớ về chung vui cùng bà con xã
nhà…”.
Ngày xưa, làng Thạch Đâu, Lâm Lang nằm ở địa
thế gấp khúc của con sông Hiếu nên chịu sạt lở rất nhanh trong mùa mưa lũ. Trước
nguy cơ mất làng, học theo cách làm của người Chăm Pa, dân làng cử người khỏe mạnh
gánh đá ong từ các nơi về, giã nhỏ vỏ hàu trộn với đường bánh và mật ong rừng
nguyên chất làm vữa để xây dựng một con đập ngăn dài quá nửa dòng sông nhằm giảm
bớt sức nước từ thượng nguồn đổ về, hạn chế nhiễm mặn từ biển lên. Từ đó, Đập
Đá trở thành tuyến giao thông thuận tiện nối liền hai bờ. Bà con hai bên sông
qua lại thăm viếng nhau và trao đổi nông sản địa phương.
Trong hai cuộc kháng chiến, đặc biệt là cuộc
kháng chiến chống Mỹ cứu nước, bến Đập Đá trở thành một “nút giao thông” quan
trọng nằm trong tuyến đường giao liên vào Nam ra Bắc ngay trong hậu cứ của địch,
chở che hàng triệu lượt cán bộ, chiến sĩ bí mật qua lại hoạt động. Chính vì vậy
mà những người từng chiến đấu, qua lại bến Đập Đá để hoạt động cách mạng luôn
đau đáu tâm nguyện xây dựng bia chứng tích lưu truyền mai sau.
Còn nhớ, trước đây bác Nguyễn Xuân Quyết,
nguyên Bí thư Huyện ủy Cam Lộ (đã mất cách đây mấy năm) khi cung cấp thông tin
cho tôi viết bài về bến Đập Đá, bác trăn trở nhiều lắm. Bác nói: “Các cháu
thông tin làm sao để người đời hình dung được ý nghĩa lịch sử, tâm linh của bến
sông này. Vận động làm sao để xây dựng cho được một tấm bia chứng tích lưu truyền
hậu thế”. Rồi bác chậm rãi kể: “Vào mùa khô, mực nước đoạn sông này chỉ cao quá
đầu gối nên việc vượt sông rất dễ dàng. Quân ta xắn quần mang vác vũ khí lội ào
qua sông trong tư thế sẵn sàng chiến đấu nếu gặp địch. Người dân ven bờ đều là
cơ sở kiên trung của cách mạng, nên mọi hoạt động của địch đều được mã hóa bằng
ký hiệu, ám hiệu thông qua cách sinh hoạt hàng ngày như một chiếc khăn treo cửa
sổ; âm thanh gõ vào soong nồi từ bờ vọng sang cũng mang lại sự an toàn cho lực
lượng ta. Địch dù biết đây là điểm giao thông quan trọng của quân ta, nhưng
không thể ngăn chặn được. Nhiều trận đánh ác liệt, nhiều tấm gương anh dũng hi
sinh để bảo vệ cán bộ, chiến sĩ, bảo vệ tuyến đường thông suốt phục vụ chiến dịch.
Đỉnh cao là chiến dịch Mậu Thân năm 1968, đơn vị giao liên huyện Cam Lộ phụ
trách cung đường từ nam sông Bến Hải đến vùng nam Đường 9 đã đưa hàng nghìn lượt
cán bộ, chiến sĩ, vũ khí, khí tài từ Bắc vào Nam khiến bến Đập Đá trở nên tấp nập.
Lúc này, tình hình khẩn trương nên nhiều lúc không chờ được ký hiệu an toàn,
nhiều đoàn công tác đã lội sang, gặp địch đâu đánh đó. Có lần dẫm lên lưng một
đại đội địch phục kích nhưng chúng chẳng dám nổ súng”.
Câu chuyện về bến Đập Đá như một huyền thoại
chiến công ngay giữa lớp đồn bốt địch ken dày. Hôm nay, chiến công ấy được khắc
ghi trong 90 chữ vàng của Bia chứng tích: “Bến Đập Đá là điểm nút trọng yếu của
tuyến giao thông bí mật trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ. Quân
địch thường xuyên dùng nhiều thủ đoạn đánh phá ngăn chặn nhưng cán bộ, chiến sĩ
và nhân dân đã dũng cảm mưu trí phối hợp tổ chức đưa đón đảm bảo an toàn cho
nhiều đoàn cán bộ, bộ đội vượt sông trên đường vào Nam ra Bắc. Tại nơi đây, nhiều
cán bộ, chiến sĩ đã chiến đấu và anh dũng hi sinh. Để ghi nhớ công lao to lớn
đó, Đảng bộ và nhân dân Cam Thủy lập Bia chứng tích này”. Vẫn còn có ý kiến cho
rằng, 90 chữ vàng khắc trên Bia chứng tích chưa lột tả hết một bến Đập Đá oai
hùng năm xưa. Tôi thì thiển nghĩ, không ai có thể cân đong, đo đếm được sự cống
hiến, đức hi sinh của những người đã ngã xuống.
Về xã Cam Thủy hôm nay, chứng kiến bao đổi
thay của mảnh đất này. Anh Đào Xuân Duy, Chủ tịch UBND xã Cam Thủy cho biết, chỉ
trong 4 năm (từ năm 2011 đến nay), tổng kinh phí đầu tư xây dựng nông thôn mới
trên địa bàn xã gần 33 tỷ đồng. Trong năm 2014, kinh phí đầu tư xây dựng nông
thôn mới hơn 15 tỷ đồng, trong đó nhân dân đóng góp 1,4 tỷ đồng. Từ khi bắt tay
vào xây dựng nông thôn mới, tỷ lệ hộ nghèo giảm nhanh đáng kể... Tôi tin rằng,
người dân xã Cam Thủy anh hùng trong chiến đấu và cần cù, sáng tạo trong lao động
sẽ xây dựng quê hương ngày một giàu đẹp hơn.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét