Tiếng Việt với triết lý Âm dương
và đạo sống Thái hòa
Một ngàn năm Bắc thuộc vẫn
không đồng hóa được Việt tộc với Hán tộc. Những chiến dịch thu gom trống đồng,
sách vở cũng không thể tước đoạt được sở hữu văn hóa của giống nòi Việt Nam. Sở hữu
ấy bàng bạc trong ngôn ngữ, trong văn chương truyền miệng. Những chứng tích khảo cổ
và những khám phá được khai quật sau này càng chứng minh hùng hồn rằng: Tổ tiên
chúng ta đã xây dựng từ ngàn xưa một nền tảng cho Việt Triết, triết lý âm dương
với đạo sống Thái Hòa, nhận diện con người là trung tâm điểm của vũ trụ, là hội tụ
của Đất Trời, là gạch nối trong tương quan Tam Tài: Thiên, Địa, Nhân. Đạo Sống
quy tụ mọi nẻo ngả tương liên giao hội về chung một mối, một đường.
Thật vậy, tổ tiên Lạc Việt chúng ta đã có sẵn một triết lý âm dương dịch học:
Thật vậy, tổ tiên Lạc Việt chúng ta đã có sẵn một triết lý âm dương dịch học:
A.- TRIẾT LÝ NÀY ĐƯỢC DIỄN TẢ TRÊN MẶT TRỐNG ĐỒNG(1).
Theo truyền thuyết, Hùng Vương trao ban 1600 trống đồng cho mọi chi tộc làm căn bản trị quốc. Nhưng khi Mã Viện sang đánh Trưng Vương, đã ra lệnh thu hết trống đồng về Trung Quốc. Trong số các trống đồng được khai quật sau này, tiêu biểu nhất là trống đồng tìm thấy ở chùa Long Đại Sơn, làng Ngọc Lũ, Hà Nam, và trống đồng tìm thấy ở Đông Sơn, Thanh Hóa. Qua các hình vẽ trên mặt trống đồng Ngọc Lũ, người ta đọc được tất cả ý nghĩa truyền thống mà đức Hùng Vương đã truyền ban cho con dân ngàn đời để lập quốc, bảo quốc và hưng quốc. Các yếu tố đó là ánh sáng, âm thanh, việt điểu, hướng đi tả nhậm theo hướng mặt trời (ngụ ý thuận theo thiên lý, thiên mệnh), triết lý tam tài, âm dương, đời sống nông nghiệp và kiến trúc mái nhà cong. Học giả Hán Chương Vũ Đình Trác đã gọi đây là hồn nước thể hiện trên mặt trống.
“Những nét vẽ song trùng, diễn tả nguyên lý âm dương là hai yếu tố cơ động của trời đất, của muôn loài và của mọi biến thái trong cuộc sống. Trời đất, người vật, nam nữ, núi sông, Tiên Long, nóng lạnh, tối sáng, vui buồn, động tĩnh, sống chết, có không, ẩn hiện tất cả đều tương-khắc, tương-sinh hài-hòa theo nguyên-lý âm dương dịch-biến. Song trùng vì chúng song song rồi giao nhau, gọi là giao-chỉ, nói lên sự tương giao tương-hòa giữa hai yếu-tố âm dương tương khắc, biểu hiệu của tinh thần tương liên, hiệp nhất hài hòa.
Các nhà khảo cổ đã chứng minh rằng: truyền thống văn hóa Viễn Đông phát khởi từ Bách Việt mà ra, trong đó có Việt Nam, trước cả Hán tộc, những đồ đào được tại Trung Quốc đều thuộc vùng Việt tộc. "Theo sử-quan trống đồng Việt- Nam, kiến trúc mái nhà cong của ta đã có trước Công nguyên ít gì cũng hàng ngàn năm. Trung Hoa chỉ có mái nhà cong từ đời nhà Đường, khoảng năm 630. Chính Đường Huyền Trang, pháp danh Đường Tam Tạng, sau khi thỉnh kinh ở Ấn Độ về, được vua Đường Cao Tông cho sử dụng Ngọc Hoa Cung làm chùa. Huyền Trang sửa lại cung thành chùa cũng theo kiến trúc mái thẳng, chưa có mái cong. Trước đó, năm 539, nhà Hán tu bổ miếu thờ Khổng Tử vẫn còn mái thẳng, như nhà Kim Thanh Ngọc Chấn, Đạo Quan Kim Cổ. Mái cong của Việt tộc tượng trưng cho sự vươn lên, hướng thượng, lên tới Thiên, đồng thời cũng là nét hài hòa giữa đường thẳng và vuông, để lập một sự cân đối giữa vuông tròn, là đường đi tới đạo sống toàn diện: bao quát trên dưới, trong ngoài, tả hữu và ba bề bốn bên".
B.- TRIẾT LÝ NÀY CÒN ĐƯỢC MINH THỊ TRONG SỬ LIỆU CỔ THI(1).
Gần đây học giả Hán Chương Vũ Đình Trác cũng tìm thấy trong đại bộ Lĩnh Nam Di Thư tàng trữ nơi thư viện Đại Học Đông Kinh, tập tài liệu cổ quý giá nhan đề "Bách Việt Tiên Hiền Chí". Sách này do Âu Đại Nhậm, tự Trịnh Bá, đời Minh tuyển soạn, bao gồm 102 hiền triết Bách Việt. Trong số này có nhiều nhân vật quen thuộc như Phạm Lãi, Chu Mãi Thần, Vương Sung, Lý Tiến. Tư tưởng nổi bật của các vị tiên-hiền đó quy về các đề tài chính: Triết lý Âm Dương, Triết Lý Tam Tài, Đạo Sống Quân Tử, Hiếu Đạo, Triết Lý Nông Nghiệp, Đạo Sống Thiên Nhiên. Bài tựa cho thấy Việt Câu Tiển đã có thời diệt Ngô xưng vương hùng cứ một phương, sáu đời gia công đánh Sở. Sở rất mạnh về thương mại, đánh bại Câu Tiển. Vũ Việt phân tán các con mỗi người một nơi: kẻ xưng Vương, người xưng Chủ khắp miền duyên hải Giang Nam. Đó là Bách Việt. Câu Tiển thâu hồi cả miền Dương Việt lập thành ba quận. Con cháu sau này quy phục Hán tộc, liên hiệp các miền thành Phù Việt, Mân Việt, Âu Việt và Lạc Việt. Sau này có Diêu Triệu thâu hồi dân Việt chung quanh, lập thành hai kinh Đông Tây (tức Quảng Đông và Quảng Tây). Thần dân Việt tộc có công nghiệp văn chương rải rác khắp bảy tám dặm miền duyên hải Giao Châu đã đem lại nhiều lợi ích. Cả hơn mười Việt tộc đã bị đồng hóa với Hán tộc, chỉ trừ Lạc Việt và Việt Thường tự cường mà tồn tại hành Việt Nam ngày nay.
Về điểm này, học giả Hán Chương nhận định tiếp: "Triết lý Âm Dương được xuất hiện dưới ngòi bút của các vị tiên hiền: Kế Nghi, Dưỡng Phấn, Quách Thương. Kế Nhi đề cập luật âm dương với ngũ hành. Dưỡng Phấn trình bày hậu quả của âm dương. Quách Thương nhấn mạnh dương đức là căn bản của chánh sách tu, tề. Đọc qua ba tiên hiền này, ta có cảm tưởng như dòng Bách Việt xưa coi âm dương là nguyên tố sinh tử của một hệ tộc. Cũng nhờ âm dương quân bình và dương đức cường thịnh mà hai hệ tộc Lạc Việt và Việt- Thường còn tồn tại, để thành Việt Nam ngày nay. Nhờ dòng triết lý này, đạo sống quân bình âm dương được thể hiện nơi người Việt muôn thuở, mà lịch sử tôn họ là dân anh hùng".
C.- TRIẾT LÝ NÀY CÒN ĐƯỢC GÓI GHÉM NGAY TRONG NGÔN NGỮ VIỆT.
Vào thời tiền sử, khi chưa có chữ viết, tư tưởng của Việt tộc, như đã đề cập, được thể hiện trên mặt các trống đồng, mà chính sử Hán tộc đã xác nhận kể lại trong di thư nói trên. Nhưng còn một dấu tích sống động nhất, ghi lại được ý thức hệ của tổ tiên, ấy là tiếng nói của người Việt muôn thuở dù cho phiêu bạt nơi góc bể chân trời, để rồi sau này theo đà tiến hóa, khi chữ viết thành hình, tư tưởng ấy được chuyên chở qua các tác phẩm văn học.
A- NGÔN TỪ, NGỮ PHÁP ĐỀU BÀNG BẠC NGUYÊN LÝ ÂM DƯƠNG.
I- XÉT VỀ MẶT NGÔN TỪ:
1.1.- Người Việt có thói quen nói đối xứng:
Cặp âm dương tương đối luôn luôn nằm sẵn trong sự vật gây ra những mâu thuẫn, như mặt trái với mặt phải, như ghen ghét chính là bề trái của yêu thương. Hoạn Thư ghen ghét cũng chỉ vì yêu nên mới:
Bề ngoài thơn thớt nói cười,
Mà trong nham hiểm giết người không dao.
Cho nên trong ngôn ngữ thường ngày, nhan nhản những câu nói đối như:
a- Về ngữ vựng: Người ta nói ra vào, đứng ngồi không yên, lòng người đen bạc; biết đường lui tới; lòng yêu quê hương đất nước, v.v...
b- Về thành ngữ: Ta quen nói: ăn không nói có, lá mặt lá trái, đầu xuôi đuôi lọt, tiếng bấc tiếng chì, dãi nắng dầm mưa, vui buồn sướng khổ, nói trước quên sau, đi ngang về tắt, vào luồn ra cúi, ngày đêm lặn-lội, một nắng hai sương, than dài thở vắn, đầu tắt mặt tối, cưa đứt đục suốt v.v...
c- Trong tục-ngữ ca-dao:
*Hòn đất ném đi, hòn chì ném lại.
*Ăn mặn nói ngay hơn ăn chay nói dối.
* Thương nhau lắm cắn nhau đau.
* Chết cha còn chú, chết mẹ bú dì.
* Yêu cho roi cho vọt, ghét cho ngọt cho bùi.
* Nước dưới sông khi mặn, khi nhạt,
Vận người đời hết nhục, phải vinh
* Ơn cha nặng lắm ai ơi,
Nghĩa mẹ bằng trời chín tháng cưu mang.
* Con quốc kêu réo-rắt trên ngàn,
Gà rừng tao-tác gọi con tha mồi.
* Trai nuôi vợ đẻ gầy mòn,
Gái nuôi chồng ốm, béo cùn cối xay.
1.2- Việt-ngữ cấu-trúc theo lối song trùng:
Điều này đã được bàn đến trong chương 4 nói về tiếng Việt không ngừng sáng tạo, và trong chương 6 nói về âm và thanh trong tiếng Việt. Đó là các đặc điểm:
a- Hoặc lập lại từ: Ta vẫn thường nói lập lại như: người người, nơi nơi, trời nắng chang chang, xăm xăm băng lối, ăn ăn uống uống, họp họp bàn bàn, đi đi lại lại...
*Đêm sao đêm tối mãi mò mò.
(Trần Tế-Xương)
*Đường mây rộng thênh thênh cử bộ.
(Nguyễn Công-Trứ)
* Trên dưới quyền hành tay cắt đặt,
Làng nước ai ai cũng cứ lời.
(Lê Thánh-Tôn)
* Buồn trông nội cỏ rầu rầu,
Chân mây mặt đất một màu xanh xanh.
(Nguyễn-Du)
b- Hoặc nói kết hợp từ như: Nết hạnh, ngoan hiền, ngắn gọn, quanh quẩn, lung lay, rung chuyển, rung động, nặng nhọc, cực khổ,, đắng cay, chua xót, rau cỏ, mỡ màng, thương tiếc, thảm thương, thê thảm, thảm thiết, u ám, ngõ ngách, vắn tắt, ngược xuôi, lăn lộn, lặn lội, mốc meo, ẩm ướt, khoan nhân, hiền từ, hiền lành, hiền dịu, la hét, hò hét, học hành, gánh vác, ôm ấp, ấp ủ, viết lách, bay bướm, vòng vo, tan nát, dốt nát, ngay thẳng, cong queo, quá quắt v.v...
c- Hoặc ghép thêm tiếng đệm như: hay ho, rác rưởi, rác rến, gồ ghề, lác đác, rải rác, lơ thơ, lún phún, lạnh lùng, lạnh lẽo, mát mẻ, nóng nảy, nhớ nhung, rung rinh, dịu dàng, vội vàng, vội vã, lăn lóc, làm lụng, gọn gàng, gọn ghẽ, vất vả, lật đật, đau đớn, xót xa, nhanh nhẩu, chậm chạp, ngỡ ngàng, lỡ làng, thịt thà, cá mú, máu me, mờ mịt, tối tăm, tức tối, lúc nhúc, ngứa ngáy, rửa ráy, khóc lóc, dở dang, tan tành v.v...
d- Hoặc đơn giản cụm từ thành còn hai từ: Trong cách đếm số, hai mươi lẻ thu gọn thành “hăm”, ví dụ hăm hai, hăm ba, hăm bốm, hăm lăm v.v.. hay một trăm hai mươi, một trăm ba mươi thành trăm hai, trăm ba. Cho nên, ngay trong sự phiên âm tiếng nước ngoài, thường thường cũng dùng cấu trúc lưỡng âm, chẳng hạn:
- Arrosoir (Pháp ngữ 3 âm): cái ô gioà.
- Aérogram (Pháp ngữ 4 âm): tờ ô gam.
- Par-dessus (Pháp ngữ 3 âm): áo ba-xuy.
- Mangoustan (Pháp ngữ 3 âm): quả măng cụt.
- Clef (Pháp ngữ một âm): cái lắc lê.
- Clé à molette (Pháp ngữ cụm từ): cái mỏ lét.
II- XÉT VỀ MẶT NGỮ PHÁP 2.1- Về các loại từ:
a- Phân biệt tĩnh với động: Người ta nói: con người, con vật, con sông, con thuyền, con đò, con đường, con suốt, con dao phân biệt với những sự vật không cử động như cái xiên, cái kéo, cái thớt, cái nghiêng v.v... Cho nên "con" khác với "cái" là vậy.
Chẳng tham ruộng cả ao liền,
Tham về cái bút, cái nghiên anh đồ.
Ở đây có sự phân biệt tỉ mỉ hơn. Khác với con dao, cái kéo, tuy cũng là vật sử dụng chuyển động, song con dao chuyển động nhiều hơn, người làm bếp có thể lăn lộn, sấp ngửa con dao trên cái thớt bất động, không như cái kéo chỉ đi theo một đường đã vạch. Cho nên không gọi con kéo, con bút là thế. Thực ra cái bút lông mà nhà nho vẫn chấm mực trong nghiên bút làm bằng ngọn trúc, nên thường gọi là cây bút, hoặc cho văn vẻ gọi là ngọn bút lông; ở đây khi nói cái nghiên cái bút còn hàm ý nói tổng quát về vấn đề văn chương chữ nghĩa như đã đề cập nơi chương 2 bàn về mạo từ "cái" trong câu tục ngữ "cái răng, cái tóc là gốc con người" hay câu ca dao:
Ai ơi chớ lấy Kẻ La,
Cái dưa thì khú, cái cà thì thâm.
b- Phân biệt giống đực và giống cái, không có trung tính:
Điều hợp lý là sự phân biệt giống chỉ áp dụng cho sinh vật mà thôi. Tên đệm của đàn ông con trai thì lót chữ Văn, của đàn bà con gái thì lót chữ Thị. Chỉ chung thì phân biệt con Hĩm, cái Tũn với thằng Cu, thằng Đấy. Cho nên cha còn gọi là Bố và Cái còn gọi chỉ người mẹ như người xưa đã tôn sùng Phùng Hưng làm cha mẹ nhân dân khi gọi ông là Bố Cái Đại Vương. Tùy theo tuổi tác mà phân biệt, trẻ thì nói chàng đọc sách, nàng quay tơ, anh Tám theo trâu, chị Tư cấy lúa; đứng tuổi thì chào ông chào bà. Đối với loài vật thì chó đực phân biệt với chó cái, gà trống với gà mái, heo nọc với heo nái hay lợn cấn với lợn sề. Đối với loài thực vật thì nói đu đủ đực, đu đủ cái, nhụy đực nhụy cái. Bởi vì các sinh vật là loài có sinh sản, sự phân biệt âm dương trên đây là thuận lý tự nhiên.
2.2- Sự phân biệt càng thấy rõ ngay trong cách phát âm với cấu trúc lưỡng âm của ngữ Việt:
Chữ quốc ngữ khi ký âm tiếng nói của người Việt quả đã làm tròn chức năng này. Như ở chương 5, chúng tôi đã phân biệt mỗi từ là do sự kết hợp hài hòa giữa phụ âm đầu từ với mẫu âm, mẫu âm biến dạng là sự kết hợp của mẫu âm chính gốc và phụ âm cuối từ. Khi ta nói: "Ồ! cô Chương ương như ổi", cách phát âm được phân tích như sau:
- cô = cờ + ô,
- ương = ươ + ngờ,
- chương = chờ + ương.
Mẫu-âm chủ đọc mạnh, ấy là nguyên tố dương; phụ âm phát âm nhẹ hơn, ấy là nguyên tố âm. Mỗi từ khi phát âm, phân tách cho kỹ, là do hai nguyên tố âm dương kết hợp lại.
B- NGUYÊN LÝ ÂM DƯƠNG DIỄN GIẢI ĐẶC THÙ
I- THƠ LỤC BÁT LÀ MỘT NÉT ĐẶC THÙ THUẦN TÚY VIỆT NAM
Như đã đề cập trong chương 4, chỉ Việt tộc mới có, một loại thơ thấm nhuần từ trong huyết quản, hầu như bất cứ người Việt nào cũng có thể cảm hứng tự nhiên, và ca dao chính là thứ âm nhạc, ngôn-ngữ phổ thông đặc hữu của người Việt Nam. Trong văn học Hán tộc tuyệt nhiên không có lối thơ này.
Nghe vẻ nghe ve,
Nghe vè cây trái.
Dây ở trên mây,
Là trái đậu rồng. Là trái mít ướt. Đoạn vè trên đây, mỗi câu bốn từ là một loại ca dao phổ cập. Nếu vè là hình ảnh của tứ tượng, thì lục bát là miêu tả của âm dương lục khí bát quái. Cặp lục bát trên sáu dưới tám gọi là một liên, liên kết một ngắn một dài, nối liền âm với dương, ràng buộc lục khí với bát quái, và ngay trong mỗi câu dù lục hay bát, điệu thơ cũng đi theo nhịp hai thành từng cặp song hành:
Núi kia,/ ai đắp/ mà cao?
Sông kia,/ ai bới,/ ai đào/ mà sâu?
Về điểm này, tác giả Lê Công Tâm biện luận: "Tám quẻ trong Kinh Dịch gồm có: Càn, khảm, cấn, chấn, tốn, ly, khôn, đoài. Càn khôn là cha mẹ, sáu quẻ: khảm, cấn, chấn, tốn, ly, đoài là sáu người con do càn khôn sanh ra và còn được gọi là lục khí. Cha mẹ vì đã già nên khó thay đổi, các con còn trẻ nên dễ thay đổi vì thế gọi là lục khí... Theo quan niệm của Dịch thì lục khí bao giờ cũng quan trọng hơn càn khôn cho nên mới có câu “Con hơn cha nhà có phúc”(2).
II- ÂM DƯƠNG BIẾN DỊCH THEO TIẾN TRÌNH THUẬN LÝ TỰ NHIÊN:
2.1- Khởi từ gốc tới ngọn: Cái gốc ấy là mẹ như thấy trong Đạo Đức Kinh của Lão Tử: "Thiên hạ hữu thủy dĩ vi thiên hạ mẫu, ký đắc kỳ mẫu, dĩ tri kỳ tử. Ký tri kỳ tử, phục thủ kỳ mẫu" (Thế gian có cái bắt đầu lấy làm Mẹ của chúng sanh. Đã tới được nơi Mẹ để biết đến vạn vật chúng sanh, đã biết được vạn vật chúng sanh lại trở về giữ gìn nơi Mẹ). Mẹ đây tượng trưng tình yêu của tạo hóa bao bọc các con tạo vật trong lòng, cảm thông với đứa con của mình.
a- Nguyên lý Mẹ bàng bạc trong ngữ Việt, vai trò của người Mẹ luôn luôn được đề cao: Tục ngữ ca dao nói:
* Chết cha ăn cơm với cá,
Chết mẹ liếm lá đầu đường.
* Khôn ngoan đối đáp người ngoài,
Gà cùng một mẹ chớ hoài đá nhau!
Cho nên người Việt mới bảo nhau
* Nhiễu điều phủ lấy giá gương,
Người trong một nước phải thương nhau cùng.
Và người dân Việt nhắc nhở nhau tuy không cùng một bộ tộc, nhưng tất cả đều cùng một dòng Bách Việt mà ra như một trăm con đều cùng sinh ra từ trong một bọc Mẹ Âu Cơ.
Bầu ơi thương lấy bí cùng,
Tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn.
b- Tuy nhiên, không những được đề cao, mà còn có phần khác hơn, vai trò của người Mẹ lại chiếm ưu thế, mặc dù không phủ nhận địa vị của người cha:
* Giặc đến nhà đàn bà phải đánh.
* Lệnh ông không bằng cồng bà.
Bởi vậy, con đi lấy chồng, con dành một quỳ là để tôn-kính quyền cha; nhưng thương cha, con xin dành cho cha ba lạy mà thôi, bốn lạy con để phần cho mẹ, vì mẹ đứt ruột sanh con:
Lạy cha ba lạy một quỳ,
Lạy mẹ bốn lạy con đi lấy chồng.
Bởi vậy con mới nói:
Công cha như núi Thái sơn,
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra.
Ở đây lại thấy cặp dương và âm, trên núi cao, dưới biển cả. Tình mẫu tử hơn bao giờ hết vẫn là nét đặc thù của văn hóa Việt. Người mẹ trở thành biểu tượng cho quốc gia:
Thưa Mẹ, quê hương mình đã chết rồi,
Mẹ ơi, Mẹ Việt Nam ơi!
(Lời nhạc Nguyễn Đức-Thành)
2.2.- Chính từ gốc mẹ to lớn tới ngọn ngành bé con mà các sự vật được chỉ danh phân biệt với nhau từ chính yếu tới phụ thuộc.
Nói về g người ta phân biệt gà hoa mơ, gà mái tơ, gà giò, gà gi, gà ác, gà trống, gà mái. Gà là gốc mẹ mà hoa mơ, mái tơ, giò, gi, ác, trống hay mái là các ngành con của gà mẹ. Cũng vậy, ta nói hoa đào, hoa cúc, hoa mai, hoa lan, hoa huệ, hoa lài, hoa ngâu; lá xoài, lá mít, lá dâu, lá chanh, lá bưởi, lá trầu, lá sung. Khi nói gà, hoa, lá người ta đã có ngay khái niệm hình dung sự vật chính yếu, rồi sau đó mới thấy rõ mỗi thứ phụ thuộc. Cũng như đã đề cập ở chương I, ta nói gió mát trăng thanh hay rồng vàng ngựa trắng, chứ không mát gió thanh trăng hay vàng rồng trắng ngựa như người Trung Hoa Hán tộc vẫn nói thanh phong minh nguyệt hay hoàng long bạch mã.
C- ẤY LÀ DO CÁI NHÌN CỦA DỊCH LÝ ÂM DƯƠNG NHẤT QUÁN
I- VỪA PHÂN TÁN NHỊ NGUYÊN, VỪA HUYỀN ĐỒNG NHẤT THỂ: "Vạn vật âm nhi bảo dương. Xung khí dĩ vi hòa" (Trong vạn vật, không vật nào mà không cõng âm và bồng dương. Nhân chỗ xung nhau mà hòa với nhau).
Cũng vì vậy mà huyền thoại Lạc Long Quân và nàng Âu Cơ được viết lên trang đầu của lịch sử Việt Nam: "Ta đem 50 con về thủy-phủ, phân-trị các xứ, còn 50 đứa theo nàng ở trên đất chia nước mà cai trị, dù lên núi xuống biển nhưng có việc thì cùng nghe, không được bỏ nhau".
Giáo sư Khiếu Đức Long phân tích từ-nguyên như sau:“Lạc Long Quân là tên ghi bằng chữ Hán có nghĩa là Bố Rồng dưới nước: long quân là vua rồng (vua, âm cổ là "bua" như phân bua, bua và bố tương cận về âm và nghĩa, người xưa quan niệm vua là người cha, gia-trưởng gia đình lớn là quốc gia, nên thế kỷ thứ VIII, Phùng Hưng được suy-tôn là Bố Cái Đại Vương); còn "lạc" là biến thể Hán hóa lâu đời của "nác" (nác có nghĩa là nước, một số vùng Thanh Hóa đến Nghệ An mà chúng tôi có dịp đi qua hồi còn niên thiếu còn nói "nác" = cho xin miếng nác nghĩa là cho xin ngụm nước).
Âu Cơ, một âm là "ẩu" có nghĩa là "bà mẹ", ngoài ra còn có chữ "khu" cho ra tiếng "gò", cả tên có nghĩa là bà mẹ trên gò (3).
Bố Rồng (+) ở dưới mước (-) là trong dương có âm, trong cương có nhu; Mẹ Tiên (-) ở trên núi (+), ấy là trong âm có dương, trong nhu có cương. Lại cho dù phân tán kẻ ở bên này người ở bên kia, nhưng khi cần vẫn gọi nhau để cùng chung lưng đấu cật mà lo liệu mọi bề. Rõ là “một sự kết hợp hài hòa: vừa chia đôi để phát triển (mở rộng địa bàn sinh hoạt) vừa kết hợp để tạo sức mạnh (núi cung cấp lâm sản như gỗ làm nhà, biển cung cấp thủy sản, đặc biệt muối rất quý đối với người miền núi).” (3)
Ấy là âm dương điều hòa. "Bầu ơi thương lấy bí cùng, tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn", bầu bí ấy là phân tán nhị nguyên, chung một giàn ấy là huyền đồng nhất thể. Cá tính, hoàn cảnh khác nhau, nhưng đều hợp chung về một mối.
Trong các huyền thoại Rồng Tiên, Sơn Tinh và Thủy Tinh, kẻ ở trên non, người ở dưới mước, kẻ cứng rắn hùng mạnh, người mềm mại dịu dàng, xung khắc nhưng lại hài hòa, luôn luôn âm dương song hành. Những cặp danh từ đất nước, non sông, giang sơn, sơn hà, xã tắc được dùng làm biểu tượng cho tổ quốc là vậy.
II- CÁI LẼ HUYỀN ĐỒNG NHẤT THỂ ẤY LÀ TUÂN THEO LUẬT PHẢN PHỤC CỦA TẠO HOÁ:
Cho con người thấy được chỗ đứng của mình trong tam tài mà tìm ra đạo sống thái hòa.
"Vạn vật tinh tác, ngô dĩ quan phục. Phù vật vân vân, các phục kỳ qui căn" (Vạn vật đều cùng sinh ra, ta lại thấy nó trở về gốc. Ôi, mọi vật trùng trùng đều trỏ về cội rễ của nó). Vật cùng tắc phản, vật cực tắc biến. sự vật bao giờ cũng phản biến, mà đã biến tất biến thành cái đối-đích của nó.
2.1- Thấy chỗ đứng của mình trong tam tài, cho nên ngôn ngữ Việt nhắc nhở rằng: được không nên vội mừng, mất không nên vội buồn. Ấy là giữ được trung dung quân bình nội tại. Ca dao có câu:
Cười người chớ vội cười lâu,
Cười người hôm trước, hôm sau người cười.
Tục-ngữ cũng có nói: "Không ai giàu ba họ, chẳng ai khó ba đời", là bởi vì:
Nước dưới sông hết trong còn phải đục,
Vận người đời hết lúc nhục phải vinh.
Nguyễn Công Trứ vì vậy mới an vui tự tại, thung dung bình thản mà rằng:
"Khó ai bằng Mãi Thần, Mông Chính, rồi cũng có khi ngựa cưỡi dù che; giàu ai bằng Vương Khải, Thạch Sùng, rồi cũng có lúc tường xiêu ngói đổ".
2.2- Thấy rõ chỗ đứng của mình trong tam tài, ấy là biết nhận diện bản thân, hòa đồng vào ngoại giới, hài hòa với tha nhân. Cho nên ông cha ta mới dạy rằng:
Trông người lại gẫm đến ta, Thử sờ lên gáy xem xa hay gần. a- Biết nhận diện bản thân: Cho nên con người như "Kẻ Sĩ" của Nguyễn Công Trứ, ý thức được mình là trung tâm điểm của vũ trụ, là kết tinh của trời đất, là giao thoa của âm dương, nhờ vậy mà tràn đầy hạo nhiên chính- khí:
Khí hạo nhiên chí đại chí cương,
So chính khí đã đầy trong trời đất.
để nhận lấy mọi trách nhiệm với trời đất, với nợ nước tình nhà:
Đã mang tiếng ở trong trời đất,
Phải có danh gì với núi sông.
Và bà Huyện Thanh-Quan cũng đã dừng chân nơi Đèo Ngang với cái nhìn bao quát vũ trụ, hòa-đồng vào ngoại giới, để rồi trở lại chiêm nghiệm bản thân lắng nghe lòng dạt dào tình yêu thiên nhiên, xôn xao tình yêu cội nguồn, khắc khoải tình nhà tình nước chan hòa trong khí âm bao la của Đất và trong khí dương bát ngát của Trời:
Dừng chân đứng lại trời, non nước,
Một mảnh tình riêng ta với ta.
b- Không như Hán tộc hiếu chiến, người dân Bách Việt vốn hiếu hòa chăm lo tăng gia sản xuất, ăn nói từ tốn khoan thai, "Biết đường lui tới, biết đường phải chăng", những mong hòa hợp với mọi người, thích nghi với mọi hoàn cảnh, "ở bầu thì tròn, ở ống thì dài", cho nên truyền miệng bảo nhau:
Chồng giận thì vợ bớt lời,
Cơm sôi nhỏ lửa một đời chẳng khê.
Chồng giận thì vợ làm lành,
Miệng cười hớn hở rằng anh giận gì?
Trong đạo xử-thế "dĩ hòa vi quý", lấy sự hòa hợp làm tốt đẹp cho nên phải biết nghĩ tới nghĩ lui, "một câu nhịn là chín câu lành", bởi "Già néo thì đứt dây":
Bên trái thẳng, bên phải chùng,
Cả hai cùng thẳng thì cùng đứt dây.
2.3- Thấy chỗ đứng của mình trong tam tài, nên với lẽ sinh tồn, người dân Việt mới có một triết lý hành động:
a- Làm chủ cuộc sống:
* biết khắc phục thiên-nhiên đất đai:
Trông trời, trông đất, trông mây,
Trông mưa, trông gió, trông ngày, trông đêm
Trông cho chân cứng đá mềm,
Trời êm bể lặng mới yên tấm lòng"
* Biết làm chủ ngoại cảnh:
Đã sinh ra kiếp làm trai,
Đèo cao, núi thẳm, sông dài quản chi!
để bằng chính thực lực của mình mà làm nên sự nghiệp:
Nước lã mà vã nên hồ,
Tay không mà nổi cơ đồ mới ngoan.
ngõ hầu đem xương máu bảo vệ cơ đồ, lưu tiếng thơm cho muôn đời về sau:
Làm sao cây quế trên non,
Trăm năm khô héo, vỏ còn thơm tho.
Đấy chính là cái tinh thần tự chủ của bà Nữ Oa đội đá vá trời, của Kỳ Mạng trong huyền thoại "Sách Ước của thần Tản Viên".
Triết gia Kim Định giải nghĩa Kỳ Mạng là "làm chủ vận mệnh của mình". Truyện kể rằng một đứa bé bị bỏ rơi trong rừng, được chim ấp ủ, dê rừng cho bú, sau được người tiều phu lượm đem về nuôi đặt tên là Kỳ Mạng. Lớn lên Kỳ Mạng đi đốn củi mưu sinh. Cây đại thụ đốn từ sáng tới chiều, mãi không xong, vì hôm sau trở lại đốn tiếp thì vết chặt hôm trước đã liền lại. Mấy ngày liền ra công đốn đều vô hiệu. Rồi một hôm chờ tới nửa đêm, Kỳ Mạng rình bắt gặp một bà lão cầm gậy trỏ vào quanh cây, vết chặt lại liền ngay. Bà lão cho biết lý do là bà ngụ trên cây, bà không muốn ai đốn cây này, rồi bà cho Kỳ Mạng cây gậy thần. Nhờ chiếc gậy thần, Kỳ Mạng giúp đỡ kẻ ốm đau. Một hôm, gặp con rắn bị trẻ chăn trâu đập chết, vứt ở bờ sông, Kỳ Mạng dùng gậy thần cứu sống con rắn. Vài hôm sau, kẻ lạ xưng là Tiểu Long Hầu đến tạ ơn Kỳ Mạng đã cứu sống mình hôm trước. Nhận lời mời Kỳ Mạng theo Tiểu Long xuống chơi thủy phủ, trở về được Long Quân biếu tặng quyển Sách Ước để ước gì được nấy. Về sau nhờ có đủ uy quyền sức mạnh, Kỳ Mạng rong ruổi đó đây cứu nhân độ thế. Chán cảnh trần tục, Kỳ Mạng lên núi Tản Viên ở luôn đấy. Đó là sự tích thần núi Tản Viên (4).
b- Cái tinh thần tự chủ ấy thể hiện triết lý hành động, nhập thế: Tích cực chủ động và chấp nhận thực tại của cuộc sống, chứ không tiêu cực xuất thế mà thụ động quan niệm đời là ảo ảnh phù du hay coi đời là giấc mộng như tư tưởng Lão Trang trong thơ Lý Bạch:
Xử thế nhược đại mộng,
Hồ vi lao kỳ sinh?
Cho nên không quan niệm thiên mệnh là định mệnh khắc nghiệt và thuận thiên mệnh không có nghĩa là cúi đầu khuất phục định mệnh. Ca dao nhắc nhở ta rằng:
Đừng nên trông đợi ở trời,
Hãy tin vào sức con người lớn lao.
Nguyễn-Du mới khẳng-định:
Có trời mà cũng có ta,
Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài.
Bởi vì: "Xưa nay nhân định thắng thiên cũng nhiều" và Nguyễn Công Trứ đã cương quyết:
Đố kỵ xá chi con tạo,
Nợ tang bồng quyết trả cho xong. III- THẤY CHỖ ĐỨNG CỦA MÌNH TRONG TAM TÀI, CHO NÊN NGƯỜI VIỆT TRỌNG TINH THẦN TỰ CHỦ, THUẬN THIÊN, tuân theo trật tự tự nhiên của trời đất, không ưng làm điều gì nghịch với thiên lý.
3.1- Ấy là trong nhân vị, lấy nhân bản làm gốc: Để bảo vệ chế độ phong kiến, Hán nho diễn giải dịch lý trái ngược với lẽ tự nhiên khi đề ra tam cương, tam tòng hay phân biệt giai tầng tứ dân để xây dựng trật tự xã hội.
a- Tam cương: Buộc phải chu toàn ba đạo, trước hết là quân thần, thứ đến là phụ tử, sau cùng mới là phu phụ. Dịch lý Việt thì trái lại xác nhận nghĩa vợ chồng làm trước:
Một duyên hai nợ ba tình,
Chữ Trung, chữ Hiếu, chữ Tình là ba.
Chữ Trung thì để phần cha,
Phần Mẹ chữ Hiếu đôi ta chữ Tình.
Cho nên cha mẹ không ưng, thì cũng nhẹ lời năn nỉ:
Cây kiềng vàng đeo lâu chẳng bỏ,
Đôi lứa mình còn nhỏ còn thương.
Dầu mà cha mẹ không thương,
Hai đứa trải chiếu ngoài đường lạy vô.
Hoặc nặng hơn thì:
Ngày xưa ai ép duyên bà,
Bây giờ bà già, bà ép duyên con.
Còn nghĩa-vụ đối vua quan vẫn là thứ-yếu:
Quan dẫu cần, nhưng dân chưa vội,
Quan có vội, quan lội quan đi.
Dưới mắt người Việt, "Miệng quan, đít trẻ", "Phép vua thua lệ làng". Những truyện như Trinh Thử, Trê Cóc là ngọn roi trào phúng quất vào mặt chế độ quan lại phong kiến, là những tiếng kêu đối kháng với chủ trương tôn quân quyền. Riêng ở trong truyện Trê Cóc, thì rõ ràng là thiên lý thắng tà tâm. Con Trê và ngay cả cường quyền cũng không qua mặt được thiên lý. Trê có nhận vơ con Cóc làm con mình thì lẽ trời đã định, cuối cùng con Cóc vẫn là con Cóc mà thôi.
b- Tam tòng: Giam hãm người phụ nữ trong hàng rào lễ giáo khắc nghiệt phi nhân: phu tử tòng tử. Ở nhà, thờ cha mẹ; lấy chồng, theo nhà chồng đã đành, nhưng chồng chết thì phải ở vậy thủ tiết thờ chồng theo con. Cái trật tự này hoàn toàn không biết đến nhân vị con người, đó không phải là triết lý nhân bản lấy con người làm gốc. Cho nên với khát vọng quyền làm người, người goá phụ Việt đã mĩa mai cúng chồng mà xin phép người chết để đi thêm bước nữa:
Giàu thì thịt, cá, cơm, canh,
Khó thì lưng rau đĩa muối, cúng anh, tôi đi lấy chồng.
Hỡi anh chồng cũ của tôi ơi!
Anh đã khôn thiêng, xin anh trỗi dậy ăn xôi nghe kèn.
Thôi anh đã về kiếp ấy xin đừng ghen,
Để cho người khác cầm quyền thê nhi.
Như đã đề cập, người con gái trong Kinh Thi của Khổng Tử, một thứ văn học dân gian của Trung Hoa cổ xưa, vẫn phảng phất hình ảnh của một thứ nô lệ cho giáo điều khắt khe phi nhân, phi lý chỉ biết "cúi đầu nép xuống sân mai một chiều", người con gái Việt thì trái lại, vùng lên chống cái thứ tam tòng mà Hán Nho đem sang áp đặt đi ngược lại với truyền thống Việt, với bản năng con người, để gào lên những khát vọng thực sự của con tim, nói lên cái tinh thần nhân bản trong đời sống. Họ đã chẳng ngần ngại mà táo bạo trả lời rằng:
Đi đâu mà chẳng lấy chồng,
Người ta lấy hết chổng mông mà gào.
Gào rằng: "Đất hỡi, Trời ơi!
Sao không thí bỏ cho tôi tấm chồng?
Hoặc nói thẳng ra lời than thở với nỗi ấm ức trong lòng:
Tròng trành như nón không quai,
Như thuyền không lái, như ai không chồng
Gái có chồng như gông đeo cổ,
Gái không chồng như phản gỗ long đanh.
Phản long đanh, anh còn chữa được
Gái không chồng chạy ngược chạy xuôi
Không chồng khổ lắm chị em ơi! c- Giai tầng xã hội: Hán Nho phân biệt gồm tứ dân: sĩ, nông, công, thương; người bình dân Việt Nam đã lật đổ thành "Nhất sĩ, nhì nông, hết gạo chạy rông, nhất nông nhì sĩ". Hoặc lên tiếng phá bỏ kỳ thị giai cấp, chỉ vì muốn đòi quyền tự do:
Con vua lấy thằng bán than,
Nó đem lên ngàn cũng phải đi theo.
Con quan đô đốc, đô tài,
Lấy thằng thuyền chài, cũng phải lụy mui.
3.2- Ấy là trọng nhân đạo, lấy đức nhân làm đầu:
Khác với Hán Nho quan niệm là "nhân giả nhân dã" như nói trong sách Trung Dung của Khổng Tử. Chữ Nhân, hán tự gồm có chữ nhân đứng bên chữ nhị, như vậy đức nhân hàm ngụ mối tương quan giữa người với người. Còn đức nhân của Việt nho không phải chỉ gồm cách đối xử với người mà còn cả mọi loài sinh vật. Kỳ Mạng được Long Quân biếu tặng sách ước, là vì Kỳ Mạng đã dùng gậy thần cứu sống con rắn, hiện-thân của thần Tiểu Long. Học giả Thái Văn Kiểm kể lại, sách xưa nói rằng: "Vào mùa đông mới phân biệt được kẻ giàu người nghèo. Mùa đông lạnh lẽo mưa phùn gió bấc, khiến cho cảnh vật tiêu điều đời sống khó khăn. Người và thú vật cùng tranh nhau đi kiếm ăn. Người mặc áo ấm, mang cung tên vào rừng săn bắn chim muông. Giữa chốn rừng sau bên bờ suối, người chợt thấy con rái bắt được con cá, mang lên bờ đặt cá trước mặt, ngửng đầu chắp tay vái lạy trời đất rồi mới bắt đầu ăn. Con rái biết cảm tạ trời đất đã gíúp cho hắn món ăn, rất hiếm hoi giữa mùa đông băng giá. Nhìn thấy cảnh tượng này, người đi săn xúc cảm mà nương tay, dẹp cung tên ra về. Cho nên người xưa gọi con rái là Tế Vật Thú hay là Lại Tế Ngư, con rái biết tế trời. Và người đi săn đã khéo đặt đức nhân lên trên hết, để xứng đáng là con người đứng trên tất cả mọi giống vật: "Nhân ư vạn vật chi linh" (5). Chẳng thế mà nhà nông đã coi con Trâu là người bạn chí thiết:
Trâu ơi, ta bảo trâu này,
Trâu ra ngoài ruộng trâu cày với ta.
Cấy cầy vốn việc nông gia,
Ta đây trâu đấy ai mà quản công.
Bao giờ cây lúa còn bông,
Thì còn ngọn cỏ ngoài đồng trâu ăn.
Nương theo đạo sống Thái Hòa, cho nên ý niệm Rồng Tiên ghi trên trang đầu lịch sử là muốn nói lên tinh thần đồng tâm nhất trí, chống phân hóa chia rẽ, lấy đoàn kết làm lẽ sinh tồn, là muốn nêu lên đạo Trung Dung vừa cứng rắn vừa nhu hoà, cũng như cây tre là biểu tượng đức khôn ngoan của dân Việt, tuy mềm mại nhưng không ngã gục, trước bão tố bạo lực không gãy đổ chỉ vì biết mềm dẻo mà vẫn rắn rỏi bất khuất, ấy là biết tới biết lui, ấy là lấy nhu thắng cương. Trong huyền thoại Sơn Tinh (nhu) và Thủy Tinh (cương), cuối cùng Sơn Tinh thắng thế. Lịch sử đã từng xác minh ý chí của tổ tiên tuy cương quyết mà cũng biết hài hòa. Thế nước biến, nên hòa hay nên chiến? Hội nghị Diên Hồng đồng thanh quyết chiến. Thế nhưng bình định xong ta lại saí sứ sang Tàu giao hảo. Ấy là do cái đức nhân đặc thù mà Lê Lợi từng “Lấy nhân giết lũ bất nhân, lấy chính dẹp phường bất chính, đem đại nghĩa để thắng hung tàn, lấy chí nhân mà thay cường bạo”.
Tóm lại dịch lý Việt Nam có nét đặc thù riêng biệt, gói ghém trong ngôn từ, ngữ pháp và cú pháp, bàng bạc trong văn chương truyền miệng, một nền văn học bất diệt, một chứng-tích văn hóa sống động, hùng hồn và trường cửu từ ngàn xưa còn để lại.
Việt tộc bị xâm lăng, một số bị đồng hóa với Hán tộc, số còn lại lập nên tổ quốc Việt Nam, nhưng lại bị thu hồi sách vở. Kho tàng văn hóa của tổ tiên bị tịch thu, dĩ nhiên, khi sang nhượng, nó được biến hóa cho thích nghi với trật tự mới, để bảo vệ chế độ mới, chế độ phong kiến đào tạo nên các Hán nho, chỉ biết cúi đầu vâng phục những giáo-điều bóp méo triết-lý nguyên-thủy cho phù-hợp với chủ-nghĩa mới. Tài liệu Bách Việt Tiên Hiền Chí trong đại-bộ Lĩnh Nam Di-Thư của Trung-Quốc mà triết-gia Hán Chương khai quật cộng thêm với chứng-tích của nền văn-minh Trống Đồng cùng nền văn-học dân gian còn truyền miệng mãi mãi ngàn đời là một biện minh hùng-hồn. Dịch-lý ấy khai-nguyên nền Việt-Triét đã đóng góp cho văn-hóa Hán-tộc và làm thành văn-hóa Việt- Nam cho đến nay.
Dịch-lý ấy nói lên nhân-sinh-quan và vũ-trụ-quan Việt với nét độc-đáo riêng"
* Nó dung hoà hai cái đối nghịch. Nó chống lại phân-hóa chia rẽ, kết-hợp mọi cá-tánh, mọi hoàn-cảnh, nếp sống. Cổ tích Trầu Cau với dây trầu nhu động và cây cau cương- tĩnh là biện chứng cho chủ-thuyết nghĩa tình hòa hợp.
* Nó nói lên tâm thức Việt Nam với cái nhìn vừa thiết thực mà vừa siêu thực:
Thà ăn cáy, ngáy o o,
Còn hơn ngay ngáy ăn bò làm chi.
Cái nhìn ấy rất thực tiễn mà cũng rất mơ mộng thanh thoát tự do. Thằng Bờm thẳng thắn trả lời coi khinh vật chất mà thế gian vốn coi trọng chỉ vì thằng Bờm vốn để tâm không, yêu thích tự do, ham mê phóng khoáng. "Phú ông xin đổi nắm xôi, Bờm cười". Cái cười hồn nhiên mà sâu sắc ấy là do cái nhìn thừa bẩm khí huyết của dòng giống Rồng Tiên vậy. Cước-chú:
(1) Vũ Đình Trác: Triết lý truyền thống Việt tộc dọn đường cho Thần học Việt Nam, tạp chí Định Hướng số 11, 1996.
Cước-chú bổ túc ghi thêm ở dưới (*)
(2) Lê Công-Tâm: Vài suy nghĩ về mối liên hệ giữa tiếng Việt và văn hóa Việt, tạp chí Định Hướng số 5, 1994.
(3) Khiếu Đức-Long: Đặc tính gốc nước của văn hóa Việt Nam, Vietnamologica, số 1. 1995, trang 176-177.
(4) Kim-Định: Cơ Cấu Uyên Nguyên, Hội Hữu tập san, Việt học Hàn Lâm Giáo Sĩ Việt Nam Hải ngoại chủ trương, số 3, ngày 15-3-1986.
(5) Thái Văn-Kiểm: Triết Việt, Đông Hồ và Triết Lý Nhân Sinh Vietnamologica, số 1, 1995, trang 141.
(trích “Tiếng Việt Tuyệt-Vời”, chương 8, ấn-bản lần 2,
Theo truyền thuyết, Hùng Vương trao ban 1600 trống đồng cho mọi chi tộc làm căn bản trị quốc. Nhưng khi Mã Viện sang đánh Trưng Vương, đã ra lệnh thu hết trống đồng về Trung Quốc. Trong số các trống đồng được khai quật sau này, tiêu biểu nhất là trống đồng tìm thấy ở chùa Long Đại Sơn, làng Ngọc Lũ, Hà Nam, và trống đồng tìm thấy ở Đông Sơn, Thanh Hóa. Qua các hình vẽ trên mặt trống đồng Ngọc Lũ, người ta đọc được tất cả ý nghĩa truyền thống mà đức Hùng Vương đã truyền ban cho con dân ngàn đời để lập quốc, bảo quốc và hưng quốc. Các yếu tố đó là ánh sáng, âm thanh, việt điểu, hướng đi tả nhậm theo hướng mặt trời (ngụ ý thuận theo thiên lý, thiên mệnh), triết lý tam tài, âm dương, đời sống nông nghiệp và kiến trúc mái nhà cong. Học giả Hán Chương Vũ Đình Trác đã gọi đây là hồn nước thể hiện trên mặt trống.
“Những nét vẽ song trùng, diễn tả nguyên lý âm dương là hai yếu tố cơ động của trời đất, của muôn loài và của mọi biến thái trong cuộc sống. Trời đất, người vật, nam nữ, núi sông, Tiên Long, nóng lạnh, tối sáng, vui buồn, động tĩnh, sống chết, có không, ẩn hiện tất cả đều tương-khắc, tương-sinh hài-hòa theo nguyên-lý âm dương dịch-biến. Song trùng vì chúng song song rồi giao nhau, gọi là giao-chỉ, nói lên sự tương giao tương-hòa giữa hai yếu-tố âm dương tương khắc, biểu hiệu của tinh thần tương liên, hiệp nhất hài hòa.
Các nhà khảo cổ đã chứng minh rằng: truyền thống văn hóa Viễn Đông phát khởi từ Bách Việt mà ra, trong đó có Việt Nam, trước cả Hán tộc, những đồ đào được tại Trung Quốc đều thuộc vùng Việt tộc. "Theo sử-quan trống đồng Việt- Nam, kiến trúc mái nhà cong của ta đã có trước Công nguyên ít gì cũng hàng ngàn năm. Trung Hoa chỉ có mái nhà cong từ đời nhà Đường, khoảng năm 630. Chính Đường Huyền Trang, pháp danh Đường Tam Tạng, sau khi thỉnh kinh ở Ấn Độ về, được vua Đường Cao Tông cho sử dụng Ngọc Hoa Cung làm chùa. Huyền Trang sửa lại cung thành chùa cũng theo kiến trúc mái thẳng, chưa có mái cong. Trước đó, năm 539, nhà Hán tu bổ miếu thờ Khổng Tử vẫn còn mái thẳng, như nhà Kim Thanh Ngọc Chấn, Đạo Quan Kim Cổ. Mái cong của Việt tộc tượng trưng cho sự vươn lên, hướng thượng, lên tới Thiên, đồng thời cũng là nét hài hòa giữa đường thẳng và vuông, để lập một sự cân đối giữa vuông tròn, là đường đi tới đạo sống toàn diện: bao quát trên dưới, trong ngoài, tả hữu và ba bề bốn bên".
B.- TRIẾT LÝ NÀY CÒN ĐƯỢC MINH THỊ TRONG SỬ LIỆU CỔ THI(1).
Gần đây học giả Hán Chương Vũ Đình Trác cũng tìm thấy trong đại bộ Lĩnh Nam Di Thư tàng trữ nơi thư viện Đại Học Đông Kinh, tập tài liệu cổ quý giá nhan đề "Bách Việt Tiên Hiền Chí". Sách này do Âu Đại Nhậm, tự Trịnh Bá, đời Minh tuyển soạn, bao gồm 102 hiền triết Bách Việt. Trong số này có nhiều nhân vật quen thuộc như Phạm Lãi, Chu Mãi Thần, Vương Sung, Lý Tiến. Tư tưởng nổi bật của các vị tiên-hiền đó quy về các đề tài chính: Triết lý Âm Dương, Triết Lý Tam Tài, Đạo Sống Quân Tử, Hiếu Đạo, Triết Lý Nông Nghiệp, Đạo Sống Thiên Nhiên. Bài tựa cho thấy Việt Câu Tiển đã có thời diệt Ngô xưng vương hùng cứ một phương, sáu đời gia công đánh Sở. Sở rất mạnh về thương mại, đánh bại Câu Tiển. Vũ Việt phân tán các con mỗi người một nơi: kẻ xưng Vương, người xưng Chủ khắp miền duyên hải Giang Nam. Đó là Bách Việt. Câu Tiển thâu hồi cả miền Dương Việt lập thành ba quận. Con cháu sau này quy phục Hán tộc, liên hiệp các miền thành Phù Việt, Mân Việt, Âu Việt và Lạc Việt. Sau này có Diêu Triệu thâu hồi dân Việt chung quanh, lập thành hai kinh Đông Tây (tức Quảng Đông và Quảng Tây). Thần dân Việt tộc có công nghiệp văn chương rải rác khắp bảy tám dặm miền duyên hải Giao Châu đã đem lại nhiều lợi ích. Cả hơn mười Việt tộc đã bị đồng hóa với Hán tộc, chỉ trừ Lạc Việt và Việt Thường tự cường mà tồn tại hành Việt Nam ngày nay.
Về điểm này, học giả Hán Chương nhận định tiếp: "Triết lý Âm Dương được xuất hiện dưới ngòi bút của các vị tiên hiền: Kế Nghi, Dưỡng Phấn, Quách Thương. Kế Nhi đề cập luật âm dương với ngũ hành. Dưỡng Phấn trình bày hậu quả của âm dương. Quách Thương nhấn mạnh dương đức là căn bản của chánh sách tu, tề. Đọc qua ba tiên hiền này, ta có cảm tưởng như dòng Bách Việt xưa coi âm dương là nguyên tố sinh tử của một hệ tộc. Cũng nhờ âm dương quân bình và dương đức cường thịnh mà hai hệ tộc Lạc Việt và Việt- Thường còn tồn tại, để thành Việt Nam ngày nay. Nhờ dòng triết lý này, đạo sống quân bình âm dương được thể hiện nơi người Việt muôn thuở, mà lịch sử tôn họ là dân anh hùng".
C.- TRIẾT LÝ NÀY CÒN ĐƯỢC GÓI GHÉM NGAY TRONG NGÔN NGỮ VIỆT.
Vào thời tiền sử, khi chưa có chữ viết, tư tưởng của Việt tộc, như đã đề cập, được thể hiện trên mặt các trống đồng, mà chính sử Hán tộc đã xác nhận kể lại trong di thư nói trên. Nhưng còn một dấu tích sống động nhất, ghi lại được ý thức hệ của tổ tiên, ấy là tiếng nói của người Việt muôn thuở dù cho phiêu bạt nơi góc bể chân trời, để rồi sau này theo đà tiến hóa, khi chữ viết thành hình, tư tưởng ấy được chuyên chở qua các tác phẩm văn học.
A- NGÔN TỪ, NGỮ PHÁP ĐỀU BÀNG BẠC NGUYÊN LÝ ÂM DƯƠNG.
I- XÉT VỀ MẶT NGÔN TỪ:
1.1.- Người Việt có thói quen nói đối xứng:
Cặp âm dương tương đối luôn luôn nằm sẵn trong sự vật gây ra những mâu thuẫn, như mặt trái với mặt phải, như ghen ghét chính là bề trái của yêu thương. Hoạn Thư ghen ghét cũng chỉ vì yêu nên mới:
Bề ngoài thơn thớt nói cười,
Mà trong nham hiểm giết người không dao.
Cho nên trong ngôn ngữ thường ngày, nhan nhản những câu nói đối như:
a- Về ngữ vựng: Người ta nói ra vào, đứng ngồi không yên, lòng người đen bạc; biết đường lui tới; lòng yêu quê hương đất nước, v.v...
b- Về thành ngữ: Ta quen nói: ăn không nói có, lá mặt lá trái, đầu xuôi đuôi lọt, tiếng bấc tiếng chì, dãi nắng dầm mưa, vui buồn sướng khổ, nói trước quên sau, đi ngang về tắt, vào luồn ra cúi, ngày đêm lặn-lội, một nắng hai sương, than dài thở vắn, đầu tắt mặt tối, cưa đứt đục suốt v.v...
c- Trong tục-ngữ ca-dao:
*Hòn đất ném đi, hòn chì ném lại.
*Ăn mặn nói ngay hơn ăn chay nói dối.
* Thương nhau lắm cắn nhau đau.
* Chết cha còn chú, chết mẹ bú dì.
* Yêu cho roi cho vọt, ghét cho ngọt cho bùi.
* Nước dưới sông khi mặn, khi nhạt,
Vận người đời hết nhục, phải vinh
* Ơn cha nặng lắm ai ơi,
Nghĩa mẹ bằng trời chín tháng cưu mang.
* Con quốc kêu réo-rắt trên ngàn,
Gà rừng tao-tác gọi con tha mồi.
* Trai nuôi vợ đẻ gầy mòn,
Gái nuôi chồng ốm, béo cùn cối xay.
1.2- Việt-ngữ cấu-trúc theo lối song trùng:
Điều này đã được bàn đến trong chương 4 nói về tiếng Việt không ngừng sáng tạo, và trong chương 6 nói về âm và thanh trong tiếng Việt. Đó là các đặc điểm:
a- Hoặc lập lại từ: Ta vẫn thường nói lập lại như: người người, nơi nơi, trời nắng chang chang, xăm xăm băng lối, ăn ăn uống uống, họp họp bàn bàn, đi đi lại lại...
*Đêm sao đêm tối mãi mò mò.
(Trần Tế-Xương)
*Đường mây rộng thênh thênh cử bộ.
(Nguyễn Công-Trứ)
* Trên dưới quyền hành tay cắt đặt,
Làng nước ai ai cũng cứ lời.
(Lê Thánh-Tôn)
* Buồn trông nội cỏ rầu rầu,
Chân mây mặt đất một màu xanh xanh.
(Nguyễn-Du)
b- Hoặc nói kết hợp từ như: Nết hạnh, ngoan hiền, ngắn gọn, quanh quẩn, lung lay, rung chuyển, rung động, nặng nhọc, cực khổ,, đắng cay, chua xót, rau cỏ, mỡ màng, thương tiếc, thảm thương, thê thảm, thảm thiết, u ám, ngõ ngách, vắn tắt, ngược xuôi, lăn lộn, lặn lội, mốc meo, ẩm ướt, khoan nhân, hiền từ, hiền lành, hiền dịu, la hét, hò hét, học hành, gánh vác, ôm ấp, ấp ủ, viết lách, bay bướm, vòng vo, tan nát, dốt nát, ngay thẳng, cong queo, quá quắt v.v...
c- Hoặc ghép thêm tiếng đệm như: hay ho, rác rưởi, rác rến, gồ ghề, lác đác, rải rác, lơ thơ, lún phún, lạnh lùng, lạnh lẽo, mát mẻ, nóng nảy, nhớ nhung, rung rinh, dịu dàng, vội vàng, vội vã, lăn lóc, làm lụng, gọn gàng, gọn ghẽ, vất vả, lật đật, đau đớn, xót xa, nhanh nhẩu, chậm chạp, ngỡ ngàng, lỡ làng, thịt thà, cá mú, máu me, mờ mịt, tối tăm, tức tối, lúc nhúc, ngứa ngáy, rửa ráy, khóc lóc, dở dang, tan tành v.v...
d- Hoặc đơn giản cụm từ thành còn hai từ: Trong cách đếm số, hai mươi lẻ thu gọn thành “hăm”, ví dụ hăm hai, hăm ba, hăm bốm, hăm lăm v.v.. hay một trăm hai mươi, một trăm ba mươi thành trăm hai, trăm ba. Cho nên, ngay trong sự phiên âm tiếng nước ngoài, thường thường cũng dùng cấu trúc lưỡng âm, chẳng hạn:
- Arrosoir (Pháp ngữ 3 âm): cái ô gioà.
- Aérogram (Pháp ngữ 4 âm): tờ ô gam.
- Par-dessus (Pháp ngữ 3 âm): áo ba-xuy.
- Mangoustan (Pháp ngữ 3 âm): quả măng cụt.
- Clef (Pháp ngữ một âm): cái lắc lê.
- Clé à molette (Pháp ngữ cụm từ): cái mỏ lét.
II- XÉT VỀ MẶT NGỮ PHÁP 2.1- Về các loại từ:
a- Phân biệt tĩnh với động: Người ta nói: con người, con vật, con sông, con thuyền, con đò, con đường, con suốt, con dao phân biệt với những sự vật không cử động như cái xiên, cái kéo, cái thớt, cái nghiêng v.v... Cho nên "con" khác với "cái" là vậy.
Chẳng tham ruộng cả ao liền,
Tham về cái bút, cái nghiên anh đồ.
Ở đây có sự phân biệt tỉ mỉ hơn. Khác với con dao, cái kéo, tuy cũng là vật sử dụng chuyển động, song con dao chuyển động nhiều hơn, người làm bếp có thể lăn lộn, sấp ngửa con dao trên cái thớt bất động, không như cái kéo chỉ đi theo một đường đã vạch. Cho nên không gọi con kéo, con bút là thế. Thực ra cái bút lông mà nhà nho vẫn chấm mực trong nghiên bút làm bằng ngọn trúc, nên thường gọi là cây bút, hoặc cho văn vẻ gọi là ngọn bút lông; ở đây khi nói cái nghiên cái bút còn hàm ý nói tổng quát về vấn đề văn chương chữ nghĩa như đã đề cập nơi chương 2 bàn về mạo từ "cái" trong câu tục ngữ "cái răng, cái tóc là gốc con người" hay câu ca dao:
Ai ơi chớ lấy Kẻ La,
Cái dưa thì khú, cái cà thì thâm.
b- Phân biệt giống đực và giống cái, không có trung tính:
Điều hợp lý là sự phân biệt giống chỉ áp dụng cho sinh vật mà thôi. Tên đệm của đàn ông con trai thì lót chữ Văn, của đàn bà con gái thì lót chữ Thị. Chỉ chung thì phân biệt con Hĩm, cái Tũn với thằng Cu, thằng Đấy. Cho nên cha còn gọi là Bố và Cái còn gọi chỉ người mẹ như người xưa đã tôn sùng Phùng Hưng làm cha mẹ nhân dân khi gọi ông là Bố Cái Đại Vương. Tùy theo tuổi tác mà phân biệt, trẻ thì nói chàng đọc sách, nàng quay tơ, anh Tám theo trâu, chị Tư cấy lúa; đứng tuổi thì chào ông chào bà. Đối với loài vật thì chó đực phân biệt với chó cái, gà trống với gà mái, heo nọc với heo nái hay lợn cấn với lợn sề. Đối với loài thực vật thì nói đu đủ đực, đu đủ cái, nhụy đực nhụy cái. Bởi vì các sinh vật là loài có sinh sản, sự phân biệt âm dương trên đây là thuận lý tự nhiên.
2.2- Sự phân biệt càng thấy rõ ngay trong cách phát âm với cấu trúc lưỡng âm của ngữ Việt:
Chữ quốc ngữ khi ký âm tiếng nói của người Việt quả đã làm tròn chức năng này. Như ở chương 5, chúng tôi đã phân biệt mỗi từ là do sự kết hợp hài hòa giữa phụ âm đầu từ với mẫu âm, mẫu âm biến dạng là sự kết hợp của mẫu âm chính gốc và phụ âm cuối từ. Khi ta nói: "Ồ! cô Chương ương như ổi", cách phát âm được phân tích như sau:
- cô = cờ + ô,
- ương = ươ + ngờ,
- chương = chờ + ương.
Mẫu-âm chủ đọc mạnh, ấy là nguyên tố dương; phụ âm phát âm nhẹ hơn, ấy là nguyên tố âm. Mỗi từ khi phát âm, phân tách cho kỹ, là do hai nguyên tố âm dương kết hợp lại.
B- NGUYÊN LÝ ÂM DƯƠNG DIỄN GIẢI ĐẶC THÙ
I- THƠ LỤC BÁT LÀ MỘT NÉT ĐẶC THÙ THUẦN TÚY VIỆT NAM
Như đã đề cập trong chương 4, chỉ Việt tộc mới có, một loại thơ thấm nhuần từ trong huyết quản, hầu như bất cứ người Việt nào cũng có thể cảm hứng tự nhiên, và ca dao chính là thứ âm nhạc, ngôn-ngữ phổ thông đặc hữu của người Việt Nam. Trong văn học Hán tộc tuyệt nhiên không có lối thơ này.
Nghe vẻ nghe ve,
Nghe vè cây trái.
Dây ở trên mây,
Là trái đậu rồng. Là trái mít ướt. Đoạn vè trên đây, mỗi câu bốn từ là một loại ca dao phổ cập. Nếu vè là hình ảnh của tứ tượng, thì lục bát là miêu tả của âm dương lục khí bát quái. Cặp lục bát trên sáu dưới tám gọi là một liên, liên kết một ngắn một dài, nối liền âm với dương, ràng buộc lục khí với bát quái, và ngay trong mỗi câu dù lục hay bát, điệu thơ cũng đi theo nhịp hai thành từng cặp song hành:
Núi kia,/ ai đắp/ mà cao?
Sông kia,/ ai bới,/ ai đào/ mà sâu?
Về điểm này, tác giả Lê Công Tâm biện luận: "Tám quẻ trong Kinh Dịch gồm có: Càn, khảm, cấn, chấn, tốn, ly, khôn, đoài. Càn khôn là cha mẹ, sáu quẻ: khảm, cấn, chấn, tốn, ly, đoài là sáu người con do càn khôn sanh ra và còn được gọi là lục khí. Cha mẹ vì đã già nên khó thay đổi, các con còn trẻ nên dễ thay đổi vì thế gọi là lục khí... Theo quan niệm của Dịch thì lục khí bao giờ cũng quan trọng hơn càn khôn cho nên mới có câu “Con hơn cha nhà có phúc”(2).
II- ÂM DƯƠNG BIẾN DỊCH THEO TIẾN TRÌNH THUẬN LÝ TỰ NHIÊN:
2.1- Khởi từ gốc tới ngọn: Cái gốc ấy là mẹ như thấy trong Đạo Đức Kinh của Lão Tử: "Thiên hạ hữu thủy dĩ vi thiên hạ mẫu, ký đắc kỳ mẫu, dĩ tri kỳ tử. Ký tri kỳ tử, phục thủ kỳ mẫu" (Thế gian có cái bắt đầu lấy làm Mẹ của chúng sanh. Đã tới được nơi Mẹ để biết đến vạn vật chúng sanh, đã biết được vạn vật chúng sanh lại trở về giữ gìn nơi Mẹ). Mẹ đây tượng trưng tình yêu của tạo hóa bao bọc các con tạo vật trong lòng, cảm thông với đứa con của mình.
a- Nguyên lý Mẹ bàng bạc trong ngữ Việt, vai trò của người Mẹ luôn luôn được đề cao: Tục ngữ ca dao nói:
* Chết cha ăn cơm với cá,
Chết mẹ liếm lá đầu đường.
* Khôn ngoan đối đáp người ngoài,
Gà cùng một mẹ chớ hoài đá nhau!
Cho nên người Việt mới bảo nhau
* Nhiễu điều phủ lấy giá gương,
Người trong một nước phải thương nhau cùng.
Và người dân Việt nhắc nhở nhau tuy không cùng một bộ tộc, nhưng tất cả đều cùng một dòng Bách Việt mà ra như một trăm con đều cùng sinh ra từ trong một bọc Mẹ Âu Cơ.
Bầu ơi thương lấy bí cùng,
Tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn.
b- Tuy nhiên, không những được đề cao, mà còn có phần khác hơn, vai trò của người Mẹ lại chiếm ưu thế, mặc dù không phủ nhận địa vị của người cha:
* Giặc đến nhà đàn bà phải đánh.
* Lệnh ông không bằng cồng bà.
Bởi vậy, con đi lấy chồng, con dành một quỳ là để tôn-kính quyền cha; nhưng thương cha, con xin dành cho cha ba lạy mà thôi, bốn lạy con để phần cho mẹ, vì mẹ đứt ruột sanh con:
Lạy cha ba lạy một quỳ,
Lạy mẹ bốn lạy con đi lấy chồng.
Bởi vậy con mới nói:
Công cha như núi Thái sơn,
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra.
Ở đây lại thấy cặp dương và âm, trên núi cao, dưới biển cả. Tình mẫu tử hơn bao giờ hết vẫn là nét đặc thù của văn hóa Việt. Người mẹ trở thành biểu tượng cho quốc gia:
Thưa Mẹ, quê hương mình đã chết rồi,
Mẹ ơi, Mẹ Việt Nam ơi!
(Lời nhạc Nguyễn Đức-Thành)
2.2.- Chính từ gốc mẹ to lớn tới ngọn ngành bé con mà các sự vật được chỉ danh phân biệt với nhau từ chính yếu tới phụ thuộc.
Nói về g người ta phân biệt gà hoa mơ, gà mái tơ, gà giò, gà gi, gà ác, gà trống, gà mái. Gà là gốc mẹ mà hoa mơ, mái tơ, giò, gi, ác, trống hay mái là các ngành con của gà mẹ. Cũng vậy, ta nói hoa đào, hoa cúc, hoa mai, hoa lan, hoa huệ, hoa lài, hoa ngâu; lá xoài, lá mít, lá dâu, lá chanh, lá bưởi, lá trầu, lá sung. Khi nói gà, hoa, lá người ta đã có ngay khái niệm hình dung sự vật chính yếu, rồi sau đó mới thấy rõ mỗi thứ phụ thuộc. Cũng như đã đề cập ở chương I, ta nói gió mát trăng thanh hay rồng vàng ngựa trắng, chứ không mát gió thanh trăng hay vàng rồng trắng ngựa như người Trung Hoa Hán tộc vẫn nói thanh phong minh nguyệt hay hoàng long bạch mã.
C- ẤY LÀ DO CÁI NHÌN CỦA DỊCH LÝ ÂM DƯƠNG NHẤT QUÁN
I- VỪA PHÂN TÁN NHỊ NGUYÊN, VỪA HUYỀN ĐỒNG NHẤT THỂ: "Vạn vật âm nhi bảo dương. Xung khí dĩ vi hòa" (Trong vạn vật, không vật nào mà không cõng âm và bồng dương. Nhân chỗ xung nhau mà hòa với nhau).
Cũng vì vậy mà huyền thoại Lạc Long Quân và nàng Âu Cơ được viết lên trang đầu của lịch sử Việt Nam: "Ta đem 50 con về thủy-phủ, phân-trị các xứ, còn 50 đứa theo nàng ở trên đất chia nước mà cai trị, dù lên núi xuống biển nhưng có việc thì cùng nghe, không được bỏ nhau".
Giáo sư Khiếu Đức Long phân tích từ-nguyên như sau:“Lạc Long Quân là tên ghi bằng chữ Hán có nghĩa là Bố Rồng dưới nước: long quân là vua rồng (vua, âm cổ là "bua" như phân bua, bua và bố tương cận về âm và nghĩa, người xưa quan niệm vua là người cha, gia-trưởng gia đình lớn là quốc gia, nên thế kỷ thứ VIII, Phùng Hưng được suy-tôn là Bố Cái Đại Vương); còn "lạc" là biến thể Hán hóa lâu đời của "nác" (nác có nghĩa là nước, một số vùng Thanh Hóa đến Nghệ An mà chúng tôi có dịp đi qua hồi còn niên thiếu còn nói "nác" = cho xin miếng nác nghĩa là cho xin ngụm nước).
Âu Cơ, một âm là "ẩu" có nghĩa là "bà mẹ", ngoài ra còn có chữ "khu" cho ra tiếng "gò", cả tên có nghĩa là bà mẹ trên gò (3).
Bố Rồng (+) ở dưới mước (-) là trong dương có âm, trong cương có nhu; Mẹ Tiên (-) ở trên núi (+), ấy là trong âm có dương, trong nhu có cương. Lại cho dù phân tán kẻ ở bên này người ở bên kia, nhưng khi cần vẫn gọi nhau để cùng chung lưng đấu cật mà lo liệu mọi bề. Rõ là “một sự kết hợp hài hòa: vừa chia đôi để phát triển (mở rộng địa bàn sinh hoạt) vừa kết hợp để tạo sức mạnh (núi cung cấp lâm sản như gỗ làm nhà, biển cung cấp thủy sản, đặc biệt muối rất quý đối với người miền núi).” (3)
Ấy là âm dương điều hòa. "Bầu ơi thương lấy bí cùng, tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn", bầu bí ấy là phân tán nhị nguyên, chung một giàn ấy là huyền đồng nhất thể. Cá tính, hoàn cảnh khác nhau, nhưng đều hợp chung về một mối.
Trong các huyền thoại Rồng Tiên, Sơn Tinh và Thủy Tinh, kẻ ở trên non, người ở dưới mước, kẻ cứng rắn hùng mạnh, người mềm mại dịu dàng, xung khắc nhưng lại hài hòa, luôn luôn âm dương song hành. Những cặp danh từ đất nước, non sông, giang sơn, sơn hà, xã tắc được dùng làm biểu tượng cho tổ quốc là vậy.
II- CÁI LẼ HUYỀN ĐỒNG NHẤT THỂ ẤY LÀ TUÂN THEO LUẬT PHẢN PHỤC CỦA TẠO HOÁ:
Cho con người thấy được chỗ đứng của mình trong tam tài mà tìm ra đạo sống thái hòa.
"Vạn vật tinh tác, ngô dĩ quan phục. Phù vật vân vân, các phục kỳ qui căn" (Vạn vật đều cùng sinh ra, ta lại thấy nó trở về gốc. Ôi, mọi vật trùng trùng đều trỏ về cội rễ của nó). Vật cùng tắc phản, vật cực tắc biến. sự vật bao giờ cũng phản biến, mà đã biến tất biến thành cái đối-đích của nó.
2.1- Thấy chỗ đứng của mình trong tam tài, cho nên ngôn ngữ Việt nhắc nhở rằng: được không nên vội mừng, mất không nên vội buồn. Ấy là giữ được trung dung quân bình nội tại. Ca dao có câu:
Cười người chớ vội cười lâu,
Cười người hôm trước, hôm sau người cười.
Tục-ngữ cũng có nói: "Không ai giàu ba họ, chẳng ai khó ba đời", là bởi vì:
Nước dưới sông hết trong còn phải đục,
Vận người đời hết lúc nhục phải vinh.
Nguyễn Công Trứ vì vậy mới an vui tự tại, thung dung bình thản mà rằng:
"Khó ai bằng Mãi Thần, Mông Chính, rồi cũng có khi ngựa cưỡi dù che; giàu ai bằng Vương Khải, Thạch Sùng, rồi cũng có lúc tường xiêu ngói đổ".
2.2- Thấy rõ chỗ đứng của mình trong tam tài, ấy là biết nhận diện bản thân, hòa đồng vào ngoại giới, hài hòa với tha nhân. Cho nên ông cha ta mới dạy rằng:
Trông người lại gẫm đến ta, Thử sờ lên gáy xem xa hay gần. a- Biết nhận diện bản thân: Cho nên con người như "Kẻ Sĩ" của Nguyễn Công Trứ, ý thức được mình là trung tâm điểm của vũ trụ, là kết tinh của trời đất, là giao thoa của âm dương, nhờ vậy mà tràn đầy hạo nhiên chính- khí:
Khí hạo nhiên chí đại chí cương,
So chính khí đã đầy trong trời đất.
để nhận lấy mọi trách nhiệm với trời đất, với nợ nước tình nhà:
Đã mang tiếng ở trong trời đất,
Phải có danh gì với núi sông.
Và bà Huyện Thanh-Quan cũng đã dừng chân nơi Đèo Ngang với cái nhìn bao quát vũ trụ, hòa-đồng vào ngoại giới, để rồi trở lại chiêm nghiệm bản thân lắng nghe lòng dạt dào tình yêu thiên nhiên, xôn xao tình yêu cội nguồn, khắc khoải tình nhà tình nước chan hòa trong khí âm bao la của Đất và trong khí dương bát ngát của Trời:
Dừng chân đứng lại trời, non nước,
Một mảnh tình riêng ta với ta.
b- Không như Hán tộc hiếu chiến, người dân Bách Việt vốn hiếu hòa chăm lo tăng gia sản xuất, ăn nói từ tốn khoan thai, "Biết đường lui tới, biết đường phải chăng", những mong hòa hợp với mọi người, thích nghi với mọi hoàn cảnh, "ở bầu thì tròn, ở ống thì dài", cho nên truyền miệng bảo nhau:
Chồng giận thì vợ bớt lời,
Cơm sôi nhỏ lửa một đời chẳng khê.
Chồng giận thì vợ làm lành,
Miệng cười hớn hở rằng anh giận gì?
Trong đạo xử-thế "dĩ hòa vi quý", lấy sự hòa hợp làm tốt đẹp cho nên phải biết nghĩ tới nghĩ lui, "một câu nhịn là chín câu lành", bởi "Già néo thì đứt dây":
Bên trái thẳng, bên phải chùng,
Cả hai cùng thẳng thì cùng đứt dây.
2.3- Thấy chỗ đứng của mình trong tam tài, nên với lẽ sinh tồn, người dân Việt mới có một triết lý hành động:
a- Làm chủ cuộc sống:
* biết khắc phục thiên-nhiên đất đai:
Trông trời, trông đất, trông mây,
Trông mưa, trông gió, trông ngày, trông đêm
Trông cho chân cứng đá mềm,
Trời êm bể lặng mới yên tấm lòng"
* Biết làm chủ ngoại cảnh:
Đã sinh ra kiếp làm trai,
Đèo cao, núi thẳm, sông dài quản chi!
để bằng chính thực lực của mình mà làm nên sự nghiệp:
Nước lã mà vã nên hồ,
Tay không mà nổi cơ đồ mới ngoan.
ngõ hầu đem xương máu bảo vệ cơ đồ, lưu tiếng thơm cho muôn đời về sau:
Làm sao cây quế trên non,
Trăm năm khô héo, vỏ còn thơm tho.
Đấy chính là cái tinh thần tự chủ của bà Nữ Oa đội đá vá trời, của Kỳ Mạng trong huyền thoại "Sách Ước của thần Tản Viên".
Triết gia Kim Định giải nghĩa Kỳ Mạng là "làm chủ vận mệnh của mình". Truyện kể rằng một đứa bé bị bỏ rơi trong rừng, được chim ấp ủ, dê rừng cho bú, sau được người tiều phu lượm đem về nuôi đặt tên là Kỳ Mạng. Lớn lên Kỳ Mạng đi đốn củi mưu sinh. Cây đại thụ đốn từ sáng tới chiều, mãi không xong, vì hôm sau trở lại đốn tiếp thì vết chặt hôm trước đã liền lại. Mấy ngày liền ra công đốn đều vô hiệu. Rồi một hôm chờ tới nửa đêm, Kỳ Mạng rình bắt gặp một bà lão cầm gậy trỏ vào quanh cây, vết chặt lại liền ngay. Bà lão cho biết lý do là bà ngụ trên cây, bà không muốn ai đốn cây này, rồi bà cho Kỳ Mạng cây gậy thần. Nhờ chiếc gậy thần, Kỳ Mạng giúp đỡ kẻ ốm đau. Một hôm, gặp con rắn bị trẻ chăn trâu đập chết, vứt ở bờ sông, Kỳ Mạng dùng gậy thần cứu sống con rắn. Vài hôm sau, kẻ lạ xưng là Tiểu Long Hầu đến tạ ơn Kỳ Mạng đã cứu sống mình hôm trước. Nhận lời mời Kỳ Mạng theo Tiểu Long xuống chơi thủy phủ, trở về được Long Quân biếu tặng quyển Sách Ước để ước gì được nấy. Về sau nhờ có đủ uy quyền sức mạnh, Kỳ Mạng rong ruổi đó đây cứu nhân độ thế. Chán cảnh trần tục, Kỳ Mạng lên núi Tản Viên ở luôn đấy. Đó là sự tích thần núi Tản Viên (4).
b- Cái tinh thần tự chủ ấy thể hiện triết lý hành động, nhập thế: Tích cực chủ động và chấp nhận thực tại của cuộc sống, chứ không tiêu cực xuất thế mà thụ động quan niệm đời là ảo ảnh phù du hay coi đời là giấc mộng như tư tưởng Lão Trang trong thơ Lý Bạch:
Xử thế nhược đại mộng,
Hồ vi lao kỳ sinh?
Cho nên không quan niệm thiên mệnh là định mệnh khắc nghiệt và thuận thiên mệnh không có nghĩa là cúi đầu khuất phục định mệnh. Ca dao nhắc nhở ta rằng:
Đừng nên trông đợi ở trời,
Hãy tin vào sức con người lớn lao.
Nguyễn-Du mới khẳng-định:
Có trời mà cũng có ta,
Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài.
Bởi vì: "Xưa nay nhân định thắng thiên cũng nhiều" và Nguyễn Công Trứ đã cương quyết:
Đố kỵ xá chi con tạo,
Nợ tang bồng quyết trả cho xong. III- THẤY CHỖ ĐỨNG CỦA MÌNH TRONG TAM TÀI, CHO NÊN NGƯỜI VIỆT TRỌNG TINH THẦN TỰ CHỦ, THUẬN THIÊN, tuân theo trật tự tự nhiên của trời đất, không ưng làm điều gì nghịch với thiên lý.
3.1- Ấy là trong nhân vị, lấy nhân bản làm gốc: Để bảo vệ chế độ phong kiến, Hán nho diễn giải dịch lý trái ngược với lẽ tự nhiên khi đề ra tam cương, tam tòng hay phân biệt giai tầng tứ dân để xây dựng trật tự xã hội.
a- Tam cương: Buộc phải chu toàn ba đạo, trước hết là quân thần, thứ đến là phụ tử, sau cùng mới là phu phụ. Dịch lý Việt thì trái lại xác nhận nghĩa vợ chồng làm trước:
Một duyên hai nợ ba tình,
Chữ Trung, chữ Hiếu, chữ Tình là ba.
Chữ Trung thì để phần cha,
Phần Mẹ chữ Hiếu đôi ta chữ Tình.
Cho nên cha mẹ không ưng, thì cũng nhẹ lời năn nỉ:
Cây kiềng vàng đeo lâu chẳng bỏ,
Đôi lứa mình còn nhỏ còn thương.
Dầu mà cha mẹ không thương,
Hai đứa trải chiếu ngoài đường lạy vô.
Hoặc nặng hơn thì:
Ngày xưa ai ép duyên bà,
Bây giờ bà già, bà ép duyên con.
Còn nghĩa-vụ đối vua quan vẫn là thứ-yếu:
Quan dẫu cần, nhưng dân chưa vội,
Quan có vội, quan lội quan đi.
Dưới mắt người Việt, "Miệng quan, đít trẻ", "Phép vua thua lệ làng". Những truyện như Trinh Thử, Trê Cóc là ngọn roi trào phúng quất vào mặt chế độ quan lại phong kiến, là những tiếng kêu đối kháng với chủ trương tôn quân quyền. Riêng ở trong truyện Trê Cóc, thì rõ ràng là thiên lý thắng tà tâm. Con Trê và ngay cả cường quyền cũng không qua mặt được thiên lý. Trê có nhận vơ con Cóc làm con mình thì lẽ trời đã định, cuối cùng con Cóc vẫn là con Cóc mà thôi.
b- Tam tòng: Giam hãm người phụ nữ trong hàng rào lễ giáo khắc nghiệt phi nhân: phu tử tòng tử. Ở nhà, thờ cha mẹ; lấy chồng, theo nhà chồng đã đành, nhưng chồng chết thì phải ở vậy thủ tiết thờ chồng theo con. Cái trật tự này hoàn toàn không biết đến nhân vị con người, đó không phải là triết lý nhân bản lấy con người làm gốc. Cho nên với khát vọng quyền làm người, người goá phụ Việt đã mĩa mai cúng chồng mà xin phép người chết để đi thêm bước nữa:
Giàu thì thịt, cá, cơm, canh,
Khó thì lưng rau đĩa muối, cúng anh, tôi đi lấy chồng.
Hỡi anh chồng cũ của tôi ơi!
Anh đã khôn thiêng, xin anh trỗi dậy ăn xôi nghe kèn.
Thôi anh đã về kiếp ấy xin đừng ghen,
Để cho người khác cầm quyền thê nhi.
Như đã đề cập, người con gái trong Kinh Thi của Khổng Tử, một thứ văn học dân gian của Trung Hoa cổ xưa, vẫn phảng phất hình ảnh của một thứ nô lệ cho giáo điều khắt khe phi nhân, phi lý chỉ biết "cúi đầu nép xuống sân mai một chiều", người con gái Việt thì trái lại, vùng lên chống cái thứ tam tòng mà Hán Nho đem sang áp đặt đi ngược lại với truyền thống Việt, với bản năng con người, để gào lên những khát vọng thực sự của con tim, nói lên cái tinh thần nhân bản trong đời sống. Họ đã chẳng ngần ngại mà táo bạo trả lời rằng:
Đi đâu mà chẳng lấy chồng,
Người ta lấy hết chổng mông mà gào.
Gào rằng: "Đất hỡi, Trời ơi!
Sao không thí bỏ cho tôi tấm chồng?
Hoặc nói thẳng ra lời than thở với nỗi ấm ức trong lòng:
Tròng trành như nón không quai,
Như thuyền không lái, như ai không chồng
Gái có chồng như gông đeo cổ,
Gái không chồng như phản gỗ long đanh.
Phản long đanh, anh còn chữa được
Gái không chồng chạy ngược chạy xuôi
Không chồng khổ lắm chị em ơi! c- Giai tầng xã hội: Hán Nho phân biệt gồm tứ dân: sĩ, nông, công, thương; người bình dân Việt Nam đã lật đổ thành "Nhất sĩ, nhì nông, hết gạo chạy rông, nhất nông nhì sĩ". Hoặc lên tiếng phá bỏ kỳ thị giai cấp, chỉ vì muốn đòi quyền tự do:
Con vua lấy thằng bán than,
Nó đem lên ngàn cũng phải đi theo.
Con quan đô đốc, đô tài,
Lấy thằng thuyền chài, cũng phải lụy mui.
3.2- Ấy là trọng nhân đạo, lấy đức nhân làm đầu:
Khác với Hán Nho quan niệm là "nhân giả nhân dã" như nói trong sách Trung Dung của Khổng Tử. Chữ Nhân, hán tự gồm có chữ nhân đứng bên chữ nhị, như vậy đức nhân hàm ngụ mối tương quan giữa người với người. Còn đức nhân của Việt nho không phải chỉ gồm cách đối xử với người mà còn cả mọi loài sinh vật. Kỳ Mạng được Long Quân biếu tặng sách ước, là vì Kỳ Mạng đã dùng gậy thần cứu sống con rắn, hiện-thân của thần Tiểu Long. Học giả Thái Văn Kiểm kể lại, sách xưa nói rằng: "Vào mùa đông mới phân biệt được kẻ giàu người nghèo. Mùa đông lạnh lẽo mưa phùn gió bấc, khiến cho cảnh vật tiêu điều đời sống khó khăn. Người và thú vật cùng tranh nhau đi kiếm ăn. Người mặc áo ấm, mang cung tên vào rừng săn bắn chim muông. Giữa chốn rừng sau bên bờ suối, người chợt thấy con rái bắt được con cá, mang lên bờ đặt cá trước mặt, ngửng đầu chắp tay vái lạy trời đất rồi mới bắt đầu ăn. Con rái biết cảm tạ trời đất đã gíúp cho hắn món ăn, rất hiếm hoi giữa mùa đông băng giá. Nhìn thấy cảnh tượng này, người đi săn xúc cảm mà nương tay, dẹp cung tên ra về. Cho nên người xưa gọi con rái là Tế Vật Thú hay là Lại Tế Ngư, con rái biết tế trời. Và người đi săn đã khéo đặt đức nhân lên trên hết, để xứng đáng là con người đứng trên tất cả mọi giống vật: "Nhân ư vạn vật chi linh" (5). Chẳng thế mà nhà nông đã coi con Trâu là người bạn chí thiết:
Trâu ơi, ta bảo trâu này,
Trâu ra ngoài ruộng trâu cày với ta.
Cấy cầy vốn việc nông gia,
Ta đây trâu đấy ai mà quản công.
Bao giờ cây lúa còn bông,
Thì còn ngọn cỏ ngoài đồng trâu ăn.
Nương theo đạo sống Thái Hòa, cho nên ý niệm Rồng Tiên ghi trên trang đầu lịch sử là muốn nói lên tinh thần đồng tâm nhất trí, chống phân hóa chia rẽ, lấy đoàn kết làm lẽ sinh tồn, là muốn nêu lên đạo Trung Dung vừa cứng rắn vừa nhu hoà, cũng như cây tre là biểu tượng đức khôn ngoan của dân Việt, tuy mềm mại nhưng không ngã gục, trước bão tố bạo lực không gãy đổ chỉ vì biết mềm dẻo mà vẫn rắn rỏi bất khuất, ấy là biết tới biết lui, ấy là lấy nhu thắng cương. Trong huyền thoại Sơn Tinh (nhu) và Thủy Tinh (cương), cuối cùng Sơn Tinh thắng thế. Lịch sử đã từng xác minh ý chí của tổ tiên tuy cương quyết mà cũng biết hài hòa. Thế nước biến, nên hòa hay nên chiến? Hội nghị Diên Hồng đồng thanh quyết chiến. Thế nhưng bình định xong ta lại saí sứ sang Tàu giao hảo. Ấy là do cái đức nhân đặc thù mà Lê Lợi từng “Lấy nhân giết lũ bất nhân, lấy chính dẹp phường bất chính, đem đại nghĩa để thắng hung tàn, lấy chí nhân mà thay cường bạo”.
Tóm lại dịch lý Việt Nam có nét đặc thù riêng biệt, gói ghém trong ngôn từ, ngữ pháp và cú pháp, bàng bạc trong văn chương truyền miệng, một nền văn học bất diệt, một chứng-tích văn hóa sống động, hùng hồn và trường cửu từ ngàn xưa còn để lại.
Việt tộc bị xâm lăng, một số bị đồng hóa với Hán tộc, số còn lại lập nên tổ quốc Việt Nam, nhưng lại bị thu hồi sách vở. Kho tàng văn hóa của tổ tiên bị tịch thu, dĩ nhiên, khi sang nhượng, nó được biến hóa cho thích nghi với trật tự mới, để bảo vệ chế độ mới, chế độ phong kiến đào tạo nên các Hán nho, chỉ biết cúi đầu vâng phục những giáo-điều bóp méo triết-lý nguyên-thủy cho phù-hợp với chủ-nghĩa mới. Tài liệu Bách Việt Tiên Hiền Chí trong đại-bộ Lĩnh Nam Di-Thư của Trung-Quốc mà triết-gia Hán Chương khai quật cộng thêm với chứng-tích của nền văn-minh Trống Đồng cùng nền văn-học dân gian còn truyền miệng mãi mãi ngàn đời là một biện minh hùng-hồn. Dịch-lý ấy khai-nguyên nền Việt-Triét đã đóng góp cho văn-hóa Hán-tộc và làm thành văn-hóa Việt- Nam cho đến nay.
Dịch-lý ấy nói lên nhân-sinh-quan và vũ-trụ-quan Việt với nét độc-đáo riêng"
* Nó dung hoà hai cái đối nghịch. Nó chống lại phân-hóa chia rẽ, kết-hợp mọi cá-tánh, mọi hoàn-cảnh, nếp sống. Cổ tích Trầu Cau với dây trầu nhu động và cây cau cương- tĩnh là biện chứng cho chủ-thuyết nghĩa tình hòa hợp.
* Nó nói lên tâm thức Việt Nam với cái nhìn vừa thiết thực mà vừa siêu thực:
Thà ăn cáy, ngáy o o,
Còn hơn ngay ngáy ăn bò làm chi.
Cái nhìn ấy rất thực tiễn mà cũng rất mơ mộng thanh thoát tự do. Thằng Bờm thẳng thắn trả lời coi khinh vật chất mà thế gian vốn coi trọng chỉ vì thằng Bờm vốn để tâm không, yêu thích tự do, ham mê phóng khoáng. "Phú ông xin đổi nắm xôi, Bờm cười". Cái cười hồn nhiên mà sâu sắc ấy là do cái nhìn thừa bẩm khí huyết của dòng giống Rồng Tiên vậy. Cước-chú:
(1) Vũ Đình Trác: Triết lý truyền thống Việt tộc dọn đường cho Thần học Việt Nam, tạp chí Định Hướng số 11, 1996.
Cước-chú bổ túc ghi thêm ở dưới (*)
(2) Lê Công-Tâm: Vài suy nghĩ về mối liên hệ giữa tiếng Việt và văn hóa Việt, tạp chí Định Hướng số 5, 1994.
(3) Khiếu Đức-Long: Đặc tính gốc nước của văn hóa Việt Nam, Vietnamologica, số 1. 1995, trang 176-177.
(4) Kim-Định: Cơ Cấu Uyên Nguyên, Hội Hữu tập san, Việt học Hàn Lâm Giáo Sĩ Việt Nam Hải ngoại chủ trương, số 3, ngày 15-3-1986.
(5) Thái Văn-Kiểm: Triết Việt, Đông Hồ và Triết Lý Nhân Sinh Vietnamologica, số 1, 1995, trang 141.
(trích “Tiếng Việt Tuyệt-Vời”, chương 8, ấn-bản lần 2,
(*) BÁCH VIỆT TIÊN HIỀN CHÍ, Trong dịp biện-trình tại Đại-học Sophia, Tokyo,
năm 1984, luận án triết học “Vietnamese Humanism According to Nguyễn Du”, học giả
Vũ Đình Trác đã tìm thấy tàng-trữ tại thư viện đại học Đông Kinh tập “Bách Việt
Tiên Hiền Chí”, sau này ông đem giới thiệu trên tạp chí Hội Hữu (kể từ số 3,
ngày 15-3-1986), ông viết: “Chúng tôi cống-hiến văn-học giới Việt-Nam tập
tài-liệu cổ quý giá nhan đề BÁCH VIỆT TIÊN HIỀN CHÍ, trích trong Đại Bộ Lĩnh
Nam Di Thư của Trung Quốc”, với phần Hán văn và dịch nôm, mà theo ông đây là
“tài liệu ruột cho các nhà khảo cổ và nhân chủng học, cũng như cho các nhà
văn hoá Việt học đang xây dựng cho Việt Triết Việt Nho.” Mười năm sau, trong
bài tham luận “Triết Lý Truyền-Thống Việt Tộc Dọn Đường Cho Thần-Học Việt-Nam”
đăng trong quý san Định Hướng (số 11 mùa Đông 1996), ông lại nhắc tới: “Chúng
tôi long trọng tuyên cáo: chúng ta còn hai ẩn lộ có thể trở về nguồn. Đó là tập
tài-liệu cổ bằng Nho văn: Bách Việt Tiên Hiền Chí và Trống Đồng Việt tộc.”
Ở đây, người viết muốn chứng-minh ngoài hai ẩn-lộ trên, còn thêm một chứng-tích
thứ ba sống động nữa là hồn nước với triết-lý âm dương bàng-bạc ngay trong tiếng
Việt nói chung và, trong một bài viết khác triển-khai, triết-lý ấy cũng thể-hiện
ngay trong thơ Việt nói riêng, đó là “Hồn Nước Trong Thơ Việt”
(**) TIẾNG VIỆT TUYỆT-VỜI, ấn-bản lần thứ nhất, Làng Văn xb, Toronto, 1994; lần thứ 2 tăng-bổ, tác-giả xb, Toronto, 2000.
Một khảo-luận với những biện chứng linh hoạt “lột được những tinh-tuý hấp-dẫn của tiếng Việt”:
(**) TIẾNG VIỆT TUYỆT-VỜI, ấn-bản lần thứ nhất, Làng Văn xb, Toronto, 1994; lần thứ 2 tăng-bổ, tác-giả xb, Toronto, 2000.
Một khảo-luận với những biện chứng linh hoạt “lột được những tinh-tuý hấp-dẫn của tiếng Việt”:
1- Tiếng Việt hiện-đại.
2- Tiếng Việt giàu tứ.
3- Tiếng Việt
giàu từ.
4- Tiếng Việt không ngừng sáng tạo.
5- Tiếng Việt duyên dáng dí dỏm;
Tiếng Việt duyên dáng bóng bẩy; Tiếng Việt duyên dáng du dương.
6- Âm và Thanh
trong Tiếng Việt.
7- Tiếng Việt và vận mệnh quốc-gia.
8- Tiếng Việt với triết lý
âm dương và đạo sống thái-hoà.
Học giả Hán Chương Vũ Đình Trác nhận định về ấn bản I (1994)
“Khi đọc Tiếng Việt Tuyệt Vời, ta thấy rằng tiếng Việt là một âm thanh quen thuộc của mọi người Việt, nhưng ông đã lột được những tinh tuý hấp dẫn của tiếng Việt, để người mình tự xác nhận được cốt cách hoa mỹ của mình, đặc biệt để người ngoài thấy được vẻ sáng đẹp của người mình (Công-Giáo Việt Nam Trong Truyền Thống Văn Hoá Dân Tộc, Chương VII, Các văn hữu thời mới, tr, 313, Petrus Vũ Đình Trác, Orange, California, 1996).
Nhà nghiên cứu Nguyên Nguyên nhận định về ấn bản II (2000).
Học giả Hán Chương Vũ Đình Trác nhận định về ấn bản I (1994)
“Khi đọc Tiếng Việt Tuyệt Vời, ta thấy rằng tiếng Việt là một âm thanh quen thuộc của mọi người Việt, nhưng ông đã lột được những tinh tuý hấp dẫn của tiếng Việt, để người mình tự xác nhận được cốt cách hoa mỹ của mình, đặc biệt để người ngoài thấy được vẻ sáng đẹp của người mình (Công-Giáo Việt Nam Trong Truyền Thống Văn Hoá Dân Tộc, Chương VII, Các văn hữu thời mới, tr, 313, Petrus Vũ Đình Trác, Orange, California, 1996).
Nhà nghiên cứu Nguyên Nguyên nhận định về ấn bản II (2000).
Đỗ Quang-Vinh
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét