200 tác giả, 8 thế hệ:
Phê bình thơ Việt hậu đổi mới
“Hãy đánh chết nó đi, nhà phê bình văn học - cái thằng khốn!”
(J.W. Goethe)
A. MỘT MỐC "CHUẨN" CHO THỜI KỲ HẬU ĐỔI MỚI?
Hậu Đổi mới. Đã có nhiều cố gắng từ các nhà nghiên cứu lý luận và văn học sử đặng
tìm ra đường biên cho giai đoạn đương đại này của văn học Việt, tính từ sau mốc
lịch sử và mạnh mẽ 1986-1989 của thời kỳ Đổi mới. Song, dường như tới nay
chưa có “cột mốc” nào chuẩn xác và dễ đồng thuận?1
Chúng ta thử cất công dùng 5 loại phân kỳ để tạo “khu vực biên giới” giữa hai giai đoạn Đổi mới (1986-1989) và hậu Đổi mới (từ khoảng giữa thập niên
1990 đến nay).
+ Phân kỳ kỹ thuật - công nghệ: Cuối năm 1997, Internet đã tới Việt Nam
như mang lại đôi hài vạn dặm, đưa đất nước vào xa lộ toàn cầu hóa và giao lưu
văn hóa - xã hội quốc tế.
+ Phân kỳ chính trị - xã hội: Giữa năm 1995, nước CHXHCN Việt Nam gia nhập
Hiệp hội các nước Đông Nam Á ASEAN như một biểu hiện bình thường hóa quốc gia
khi “muốn làm bạn với tất cả các nước”, “đa dạng hóa quan hệ”, “chủ động hội nhập
khu vực và thế giới”…
+ Phân kỳ tư tưởng: “(…) vào tháng 7/1990, Ban Bí thư Trung ương Đảng Cộng sản
Việt Nam thông qua chỉ thị ‘Về một số vấn đề trong công tác quản lý văn học,
nghệ thuật hiện nay’, đây là văn kiện ấn định toàn bộ đời sống văn học ở CHXHCN
Việt Nam. (…) Với sự xuất hiện văn kiện này, trong văn học Việt Nam trên thực tế
đã kết liễu giai đoạn mà nhà văn nổi tiếng Nguyễn Đình Thi gọi là giai đoạn ‘khủng
hoảng’. Bắt đầu chuyển sang thời ‘dân chủ hóa một cách có lãnh đạo’ xã hội Việt
Nam.”2
+ Phân kỳ cơ cấu - tổ chức: Đầu năm 1995, Hội Nhà văn Việt Nam họp Đại
hội lần 5, bầu ra (và sau bổ sung) Ban Chấp hành gồm 7 người với sự phân công Tổng
Thư ký - nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm, Phó Tổng Thư ký thường trực - nhà thơ Hữu Thỉnh.
Trong Ban Chấp hành mới đó, không còn nhà văn Nguyên Ngọc cùng một số vị thường
được xem là “phe Đổi mới”.
+ Phân kỳ văn học - văn học sử: Có thể xem các thời điểm khởi phát hậu Đổi mới
trùng với quãng thời gian mà đề tài Hậu hiện đại trên thế giới đến được cộng đồng
văn chương Việt.
Ở trong nước, ngay từ năm 1991 trên tạp chí Văn Học đã có bài dịch Vài
suy nghĩ về cái gọi là tiểu thuyết hậu hiện đại của A. Blach; năm 1997 có
bài dịch Về chủ nghĩa hậu hiện đại (J. Verhaar). Tới năm 2000 tạp
chí Nhà Văn có bài viết Chủ nghĩa hậu hiện đại của Phương Lựu. (Xem:
Nguyễn Hưng Quốc3, và Phan Tuấn Anh4).
Ở ngoài nước, Tạp chí Thơ trong 2 năm 1997-1998 có 2 bài dịch của
Phan Tấn Hải là Giới thiệu thơ hậu hiện đại Hoa Kỳ (P. Hoover), và Chủ
nghĩa hậu hiện đại và văn chương (S. Connor). Còn Tạp chí Việt số đầu
năm 2000 có tiểu luận Viết, từ hiện đại đến hậu hiện đại của
Hoàng Ngọc-Tuấn. Đặc biệt, như một trong vài người đi đầu quảng bá và giới thiệu,
Nguyễn Hưng Quốc từng vài lần nói về chủ nghĩa hậu hiện đại từ năm 1996 trong
2 cuốn sách Võ Phiến, Thơ, v.v... và v.v... và đáng kể là
cuốn tiểu luận Văn học Việt Nam, từ điểm nhìn h(ậu h)iện đại in năm 2000.5
B. MỘT DANH SÁCH6 NHÌN NHẬN NHANH PHÊ BÌNH THƠ VIỆT TRONG THỜI HẬU ĐỔI MỚI
Riết róng mà tương đối, chúng ta hãy xem xét mức độ sau đây: trong các công việc
định giá, hướng dẫn văn học thì người phê bình có chức phận (nghề
nghiệp), người bình luận có bổn phận (cơ duyên), và người giới thiệu
có thẩm quyền (nhiệm vụ) về đối tượng mà họ quan tâm.
Theo đó, vài năm qua chúng tôi thu thập tài liệu và xây dựng quan niệm cho một Bảng
sơ lược tiếp nhận (nhận diện, nhận dạng, nhận giọng, nhận giới) và
phân loại (thế hệ, phạm vi, thể loại, khuynh hướng) các tác giả Việt Nam
hiện đại và đương đại trong lĩnh vực phê bình, bình luận, giới thiệu thơ Việt
và thế giới. (Ở đây gọi chung là phê bình).
Phạm vi về thời cuộc và niên đại là thời kỳ hậu Đổi mới (từ khoảng giữa thập
niên 1990 đến nay).
Xin dẫn ra trước nơi đây một danh sách sơ bộ và tóm tắt về những tác giả Việt
phê bình thơ ở trong và ngoài nước có tác phẩm, bài vở, diễn đàn với ảnh hưởng
nhất định (tạo dư luận nơi độc giả, gây ấn tượng giữa văn giới…) trong chừng 20
năm qua theo phân loại thế hệ/độ tuổi.
· 1910s: Hoàng Như Mai (sách), v.v…
· 1920s: Lê Đình Kỵ (sách), Trần Ngọc Ninh, Đỗ Đức Hiểu (sách), Võ
Phiến (sách), Khổng Đức, Huỳnh Sanh Thông, Lê Đạt (sách), Mai Thảo, v.v…
·1930s: Hoàng Ngọc Hiến, Dương Tường, Vân Long (sách), Trần Văn Tích, Phan
Cự Đệ (sách), Văn Tâm (sách), Hồ Sĩ Vịnh (sách), Hà Minh Đức (sách), Thi Vũ
(sách), Đặng Hiển, Phong Lê (sách), Hoài Anh (sách), Diễm Châu, Hoàng Ngọc
Biên, Nguyễn Đăng Thường, Viên Linh, Nguyễn Huệ Chi (sách), Nguyễn Tiến Văn, Trần
Văn Nam (sách), v.v…
· 1940s: Đặng Tiến (sách), Vũ Quần Phương (sách), Trần Đình Sử (sách),
Nguyễn Vũ Tiềm, Trúc Thông, Yến Nhi, Đào Trung Đạo, Gia Dũng, Phạm Tiến Duật
(sách), Nguyễn Nguyên Bảy (sách), Mai Quốc Liên (sách), Bằng Việt (sách), Luân
Hoán, Ngô Thảo (sách), Mã Giang Lân (sách), Đặng Phùng Quân (sách), Vương Trí
Nhàn, Du Tử Lê (sách), Hữu Thỉnh (sách), Hoàng Hưng (sách), Thái Doãn Hiểu (sách),
Anh Ngọc, Kiều Văn (sách), Nam Dao, Trần Ninh Hồ, Vương Trọng (sách), Thụy Khuê
(sách), Trần Nhuận Minh (sách), Vũ Duy Thông, Trần Trương, Ý Nhi, Ngô Thế Oanh,
Ngô Nguyên Nghiễm (sách), Vũ Văn Sỹ, Ngô Văn Tao, Lại Nguyên Ân (sách), Lò Ngân
Sủn (sách), Hồng Diệu (sách), Thái Kim Lan, Phạm Đình Ân, Khế Iêm (sách), Thanh
Thảo, Văn Chinh (sách), Trần Mạnh Hảo (sách), Nguyễn Ngọc Thiện (sách), Lê
Quang Trang (sách), Nguyễn Trọng Tạo (sách), Dư Thị Hoàn, Anh Chi, Kim Chuông,
Nguyễn Đức Mậu, Đỗ Lai Thúy (sách), Nguyễn Duy, Trịnh Thanh Sơn (sách), Vũ Nho,
Nguyễn Văn Lưu (sách), Đặng Văn Sinh, Trần Nghi Hoàng, Nguyễn Thụy Kha, Đỗ
Hoàng, Mai Văn Hoan, Bùi Công Thuấn, Nguyễn Hoàng Sơn (sách), Vũ Bình Lục, Lê
Thành Nghị (sách), Đường Văn, Hoàng Liên (sách), Nguyễn Văn Long (sách), v.v…
· 1950s: Lã Nguyên (sách), Khuất Bình Nguyên, Nguyễn Huy Thiệp (sách), Đỗ
Ngọc Yên, Phan Nguyên, Phan Trọng Thưởng (sách), Bùi Việt Thắng, Phạm Quang
Trung (sách), Đinh Quang Tốn (sách), Nguyễn Vy- Khanh (sách), Chân Phương, Nguyễn
Văn Dân (sách), Đỗ Minh Tuấn (sách), Ngu Yên (sách), Võ Chân Cửu, Triệu Lam
Châu, Trần Hoàng Vy, Nguyễn Anh Tuấn, Nguyễn Tà Cúc, Ngô Vĩnh Bình, Lý Hoài
Thu, Bùi Vĩnh Phúc (sách), Lê Vũ, Lê Thị Huệ, Đào Duy Hiệp, Nguyên An, Nguyễn
Việt Chiến (sách), Hữu Đạt, Thế Dũng, Nguyễn Hồng Nhung, Đoàn Đức Phương
(sách), Huỳnh Như Phương, Trần Quang Quý, Thu Tứ (sách), Hồ Thế Hà, Đỗ Kh., Tâm
Nhiên, Đặng Huy Giang, Nguyễn Đức Tùng (sách), Mai Văn Phấn, Đỗ Quyên, Phạm
Xuân Nguyên (sách), Hoàng Ngọc-Tuấn (sách), Nguyễn Sĩ Đại, Nguyễn Hữu Quý,
Inrasara (sách), Thường Quán, Nguyễn Quang Thiều, Nguyễn Hưng Quốc (sách), Nguyễn
Hoàng Đức, Trần Đăng Khoa (sách), Lưu Khánh Thơ (sách), Chu Văn Sơn, Nguyễn Hòa
(sách), Văn Giá, Trần Hoài Anh (sách), Nguyễn Hữu Sơn (sách), Nguyễn Thanh Tú,
Đông La (sách), Phạm Kỳ Đăng, Nguyễn Lương Ngọc, Hiền Nguyễn, Nguyễn Đỗ, v.v…
- 1960s: Dương Kiều Minh, Nguyễn Chí Hoan, Phạm Thị Hoài, Đỗ Trọng Khơi, Nguyễn
Đăng Điệp (sách), Thận Nhiên, Hồng Thanh Quang, Ngô Tự Lập (sách), Chu Thị
Thơm, Đinh Linh, Trần Đình Thu (sách), Trần Ngọc Tuấn, Nguyễn Huy Thông, Nguyễn
Bình Phương, Đặng Thân (sách), Đoàn Cầm Thi (sách), Phan Nhiên Hạo, Phạm Khải
(sách), Lê Đình Nhất Lang, v.v…
· 1970s: Nguyễn Thanh Sơn (sách), Thiên Sơn, Nguyễn Thanh Tâm (sách),
Nguyễn Hữu Hồng Minh, Trần Văn Toàn, Phùng Văn Khai, Nguyễn Thụy Anh, Hoài Nam
(sách), Mai Bá Ấn, Khánh Phương (sách), Trần Vũ Long, Văn Bảy/ Lý Đợi, Lê Thiếu
Nhơn (sách), Lê Hồ Quang (sách), v.v…
· 1980s: Cao Việt Dũng, Đoàn Minh Tâm, Hoàng Đăng Khoa, Mai Anh Tuấn,
Trần Thiện Khanh, Hoàng Thụy Anh, Đoàn Ánh Dương (sách), Ngô Hương Giang
(sách), Nhã Thuyên, v.v…
Như thế, với dung sai cho phép, con số cập nhật đang là chẵn 200 tác giả ở
độ tuổi trong 8 thập niên.
Nhiều nhất là 67 vị được sinh hạ trong kỷ nguyên hậu Thơ mới, thuộc vào thời kỳ
Cách mạng mùa Thu, tức là thế hệ 4X.
Kỷ nguyên tiền Thơ mới còn gửi lại chút âm điệu của mình qua “Con khủng long
lãng mạn cuối cùng” vừa qua đời 2 năm nay: Giáo sư thi ca Hoàng Như Mai.
Kỷ nguyên toàn cầu hóa 8X mới chỉ tạm gửi vào đội ngũ này 9 nhà phê bình thơ -
trẻ tuổi đời nhưng khá là cứng… cựa!
Có thể xem đây như một trong các danh sách nhìn nhận nhanh phê bình thơ Việt
Nam trong thời hậu Đổi mới - cái thời vụ văn học đã và đang nở trên bàn tay ánh
mắt mỗi chúng ta mà lại chẳng được chầm bập tương xứng.7
Với khả năng ít ỏi và tầm nhìn eo hẹp của một kẻ ở xa các trung điểm văn nghệ
nước nhà hẳn sẽ phạm phải khiếm khuyết, chân thành cảm tạ mọi góp ý, chỉnh lý từ
quý bạn đọc và bạn văn gần xa! (*)
Chú thích:
1. Ví dụ như một số nhận định dưới đây (với các nhấn mạnh của chúng tôi - Đ.Q):
- “Đổi mới trên mặt văn hóa ở Việt Nam thì được biết dưới tên Cởi mở, tương tự
như chính sách Glastnost của Nga Xô. Quá trình này bắt đầu cùng với Đổi mới
Kinh tế nhưng sau đó dừng lại trong thập niên 1990”. (Bách khoa toàn thư mở,
vi.wikipedia.org).
- “(…) trong sự thoái trào của làn sóng Đổi mới và bối cảnh toàn cầu hóa, từ
khoảng những năm 1990 đến nay.” (Nhã Thuyên, Đặng Thân, Phạm Xuân Nguyên; Tọa
đàm “Những tiếng nói ngầm: thơ Việt Nam Hậu Đổi Mới”, vanchuongviet.org).
- “[…] thế hệ thơ có một định phận kì lạ, họ đã thổi làn gió mới vào khí hậu
thơ Việt Nam. Nó đã thổi như thế suốt 15 năm… cho đến khi Internet xuất
hiện, thì thơ Việt Nam mới dịch chuyển theo hướng khác hẳn! […] Hậu Đổi mới:
Chuyển hướng, khi các Website văn chương cấp tập ra đời, cả trong lẫn ngoài nước. Tạm
lấy mốc: 2001 để vạch một đường biên, dẫu mờ.” (Inrasara; Văn
chương TP. Hồ Chí Minh thời hậu Đổi mới, khởi đầu cho một khởi đầu, 4phuong.net).
2. A. A. Sokolov; Văn hóa và văn học Việt Nam trong những năm đổi mới (1986
- 1996), Vân Trang dịch, talawas.org 25/5/2004. Nhận định của Nguyễn Đình
Thi là từ bài báo Văn học Việt Nam, trăn trở người trong nghề, được in vào
cuối năm 1996 như chú thích trong bài đã dẫn.
3. Nguyễn Hưng Quốc; Chủ nghĩa h(ậu h)iện đại và văn học Việt Nam, tienve.org.
4. Phan Tuấn Anh; H/ậu-ại hiện đại trong văn học Việt Nam - công viên những
lối đi hai ngã rẽ, Tạp chí Sông Hương số 289 tháng 3/2013,
tapchisonghuong.com.vn 29/3/2013.
5. Chú thích 3.
6. Trích và bổ sung từ bản đầy đủ (chưa công bố) của Lời bạt trong
sách Thơ cần thiết cho ai, (Nguyễn Đức Tùng, Nxb. Hội Nhà văn,
Hà Nội, 2015; vanchuongviet.org 8/8/2015). Có sửa chữa và viết thêm so với
phiên bản 3/12/2015 đã đăng trên vanviet.info 1/1/2016.
7. Xét về độ dài hạn định và chu kỳ hoạt động, lướt lịch sử văn học Việt Nam hiện
đại chúng tôi cả nghĩ khoảng thời gian trên dưới 2 thập niên là vừa đủ
cho một giai đoạn/ thời kỳ văn học Việt ra đời, phát triển và chấm dứt.
Để tạm kết thúc, nhân cơ hội mùa Xuân xin chuyện vãn bói văn qua 5 câu hỏi:
1) Giai đoạn sau hậu đổi mới sẽ mang tên gì?
2) Tức là, sự kiện/ động lực chính trị, xã hội, văn hóa hay văn học nào của Việt
Nam và quốc tế sẽ khiến văn học Việt sang chương hồi mới?
3) Liệu 4 sự kiện/ vấn đề chính trị, xã hội, an ninh, văn hóa của đất nước ở tầm
khu vực và quốc tế sau đây có thể có những ảnh hưởng: Hiệp định Đối tác kinh tế
xuyên Thái Bình Dương TPP đã được ký kết tại New Zealand trong ngày 4/2/2016; Đại
hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ 12 diễn ra từ ngày 20 - 28/1/2016; Khủng hoảng
Biển Đông vài năm qua; Sự tiến triển của xã hội Việt Nam?
4) Phải chăng thời kỳ sau hậu đổi mới rồi cũng sẽ hiện diện từ tốn như thời kỳ
hậu Đổi mới?
5) Có thể dự báo ra sao về dòng Văn học Việt sau hậu Đổi mới: Đặc trưng văn
chương? Tác giả: thế hệ, quan điểm, vùng miền, giới tính? Tác phẩm: khuynh hướng
sáng tác, nội dung và hình thức nghệ thuật, thể loại? Tiếp nhận, phá bỏ, sáng tạo
gì so với hai dòng văn học đổi mới và hậu đổi mới?.
15/3/2016Đỗ Quyên
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét