Nhạc cụ cổ truyền Việt Nam - Đàn Tỳ Bà
Đàn Tỳ Bà là tên gọi một nhạc cụ dây gẩy của người
phương Đông, qua thời gian dài sử dụng nó đã được bản địa hóa khác nhau tùy
theo từng vùng hoặc từng quốc gia. Tỳ Bà đã xuất hiện rất sớm ở Trung Hoa với
tên gọi PiPa, ở
Nhật Bản là Biwa, ở
Triều Tiên là Bipa.
Tỳ Bà lần đầu tiên được nêu danh trong lịch sử
Việt Nam, khi ông Lê Tắc ghi trong An Nam Chí Lược tên dàn tiểu nhạc dùng ngoài
cung đình nhà Trần. Đàn
Tỳ Bà của
Việt Nam là dạng rất cổ xưa của đàn PiPa, vốn
từ Ba Tư dưới dạng đàn Barbat theo con đường tơ lụa vào Trung Hoa.
Đàn Barbat – Ba Tư.
Đàn Tỳ Bà có từ thời
Trung Hoa cổ đại, theo một số ghi chép là khoảng hơn 2000 năm lịch sử. Tỳ Bà đã
du nhập sang nước Việt từ rất sớm. Bằng chứng là hình chạm các nhạc công trên
tảng đá vuông dùng làm chân cột chùa Phật Tích, Bắc Ninh, có chạm hình đàn Tỳ
Bà giữa hai nhạc công dùng ống Sênh, và ống Tiêu thổi dọc. Trong khi đàn tranh
có vóc dáng mà không thấy những con nhạn căng dây, đứng giữa hai nhạc công thổi
ống Sênh và ống Sáo ngang.
Suốt thời nhà Trần, Tỳ
Bà chỉ góp mặt trong dàn Tiểu nhạc dùng trong dân gian.
Đời nhà Lê, khi Lương
Đăng quy định nhạc cung đình theo mẫu nhà Minh, Tỳ Bà có mặt trong dàn Đường Hạ
Chi Nhạc. Nhưng quy định của Lương Đăng không được ai tán thành cả. Nguyễn Trãi
đã dâng biểu để tâu với vua vì sao ông đã từ chức không ở trong Ban lo việc quy
định Nhạc Triều Đình, nêu những cái sai của Lương Đăng. Những đại thần am hiểu
âm nhạc như Lương Thế Vinh, Thân Nhân Trung, Đỗ Nhuận, đều không tán thành
những qui chế do Lương Đăng bày ra. Vì vậy Tỳ Bà ở trong dàn Đường Hạ Chi Nhạc
nhưng không được xuất hiện chính thức.
Nhưng
đến đời Hồng Đức (1470-1497), ba vị đại thần nói trên chế ra hai đội Đồng Văn
và Nhã Nhạc để đàn và hát trong cung đình. Đàn Tỳ Bà và đàn Tranh đều có trong
hai đội ấy. Nhưng các Vị Đại thần không muốn giữ tên Tranh hay Tỳ Bà là tên
Trung Hoa, nên đặt cho Tỳ Bà tên Tứ Huyền Cầm (đàn 4 dây) còn đàn Tranh lúc ấy
có 15 dây mang tên là Thập Ngũ Huyền Cầm.
Sau đó, có một sự thay đổi rất lớn từ đời Quang Hưng (1578) hai
đội Đồng Văn, Nhã Nhạc chỉ còn được dùng trong các lễ lớn như Tế Giao, Tế Miếu,
Đại triều. Trong các dịp khác, lần lần Đồng Văn, Nhã Nhạc bị đội Giáo Phường
trong dân gian thay thế. Tỳ Bà bị bỏ quên trong khi đàn Tranh được sung vào Đội
Giáo Phường, góp mặt với đàn Đáy, đàn Trường Cùng (làm bằng cây tre dài 3, 4
thước ta, do một bà lão nghệ nhân gõ để giữ nhịp), có Trống Yêu Cổ, có loại
địch quản mà tên gọi thông thường là Quyển Thúy. Có đào nương vừa ca vừa gõ
Phách có cả Sênh Tiền. Khi đàn trong cung điện gọi là đi hát Cửa Quyền (tiền
thân của Ca Trù) thì đội Giáo Phường có rất nhiều nhạc công đàn Cầm, tức là
loại đàn dây, trong đó có đàn Tranh 15 dây. Và còn nhiều Trống to, Trống nhỏ,
Ống Địch, Hải Loa…
Cuối
đời nhà Lê, có một thay đổi lớn: đàn Tranh không còn có mặt trong dàn nhạc
triều đình mà thay bằng Tỳ Bà góp mặt với đàn Nguyệt (lúc đó tên là đàn Song
Vận), đàn Tam, đàn Nhị, có hai ống Sáo, một Trống Bản, một Tam Âm La và một
Sênh Tiền.
Sau chiến thắng Kỷ Dậu, Vua Quang Trung gửi một phái đoàn sứ giả
sang chầu Vua Càn Long. Vua nhà Thanh phong cho Vua Quang Trung tước An Nam
Quốc Vương, người Trung Quốc gọi dàn nhạc đi theo là An Nam Quốc Nhạc. Khâm
Định Đại Thanh Hội Điển Sự Lệ ghi lại nhiều chi tiết về 9 loại nhạc nước ngoài
có mặt tại triều đình nhà Thanh gọi là Cửu Tấu.
Nguyễn Ánh tức vị Hoàng Đế năm 1802 lấy niên hiệu là Gia Long,
đặt quốc hiệu là Việt Nam, từ năm 1802 người Trung Hoa đổi tên An Nam Quốc Nhạc
lại thành Việt Nam Quốc Nhạc.
Nhà Nguyễn chấn chỉnh nhạc cung đình. Lập Dàn Đại Nhạc gồm Kèn,
Trống là chính. Và Dàn Nhã Nhạc cũng gọi là Tiểu Nhạc hay Ti Trúc Tế Nhạc, vì
dàn nhạc gồm những nhạc khí mắc dây tơ và cây sáo trúc. Tỳ Bà có mặt trong dàn
nhạc cung đình còn đàn Tranh lại được trọng dụng trong dân gian và trở thành
một nhạc khí quan trọng của nhạc thính phòng. Đàn Tranh, đàn Nguyệt, đàn Nhị,
đàn Tam và đàn Tỳ Bà trở thành ban Ngũ Tuyệt của ca nhạc thính phòng Huế (tiền
thân của Ca Huế).
Đàn Tỳ
Bà được chế tác bằng gỗ ngô đồng. Cần đàn và thùng đàn liền nhau có dáng như
hình quả lê bổ đôi. Mặt đàn bằng gỗ nhẹ, xốp, để mộc. Phía mặt cuối thân đàn có
một bộ phận để mắc dây gọi là ngựa đàn. Đầu đàn (hoặc thủ đàn) cong có chạm
khắc rất cầu kỳ, khi là hình chữ thọ, khi là hình con dơi. Nơi đầu đàn gắn bốn
trục gỗ để lên dây.
Toàn bộ chiều dài của thân đàn có số đo từ 94 – 100 cm. Phần cần
đàn có gắn 4 miếng ngà voi cong vòm lên gọi là Tứ Thiên Vương. Tám phím chính
làm bằng tre hoặc gỗ gắn ở phần mặt đàn cho các cao độ khác nhau. Thuở xưa dây
đàn se bằng tơ tằm rồi đem vuốt sáp ong cho mịn, hoặc sử dụng gân bò, ngày nay
người ta thay dây tơ bằng dây nilon hoặc thép.
Đàn Tỳ Bà có bốn dây lên theo 2
quãng 4, mỗi quãng 4 cách nhau một quãng 2: Đô
– Fa – Sol – Đô1 hoặc Sol -Đô1 – Rê1 – Sol1. Khi chơi đàn nghệ nhân gẩy đàn bằng miếng
đồi mồi hoặc miếng nhựa.
Theo cách tính và quan niệm của
người Trung Hoa, đàn Tỳ Bà dài 36 thốn (đơn vị đo), số 3 tượng trưng cho Thiên-Địa-Nhân, số 5 tượng trưng cho Ngũ Hành, 4 dây tượng trưng cho4 mùa Xuân, Hạ, Thu, Đông.
Màu âm đàn Tỳ Bà trong sáng, vui tươi, thể hiện tính chất tươi
sáng và trữ tình. Màu âm hơi giống đàn Nguyệt nhưng có phần hơi đanh và khô
hơn, nhất là ở những khoảng âm cao.
Tầm âm của đàn Tỳ Bà là 3 quãng
tám: từ Ðô
lên Ðô3 (c lên c3).
Kỹ thuật diễn tấu của đàn Tỳ Bà
có nhiều ngón giống như đàn Nguyệt: ngồi thấp, xếp chân trên chiếu. Ngồi thẳng
trên ghế, đàn được đặt gần như thẳng đứng.
Kỹ thuật tay phải: Tay phải gảy đàn, cách sử dụng móng tay để
đàn có nhiều kỹ thuật phức tạp nhưng sinh động.
Kỹ thuật tay trái: Kỹ thuật tay trái của đàn Tỳ Bà có các ngón
nhấn, ngón vuốt, ngón mổ, bấm hợp âm, đặc biệt đàn Tỳ Bà có lối đánh song thinh
(song thanh): 2 đồng âm ở hai dây khác nhau.
Ngón phi: ngón phi của đàn Tỳ Bà có thể đánh trên cả
4 dây hoặc phi trên từng cặp dây (dây1+2; dây 2+3 và 3+4) hoặc phi trên từng
dây 1 hoặc 4 dễ dàng hơn.
Ngón nhấn: các phím đàn gắn cách nhau không xa lắm,
mỗi phím lại không cao như đàn Nguyệt nên các loại ngón nhấn (nhấn, nhấn luyến
lên, nhấn láy…) đều có những hạn chế, thường chỉ nhấn từ nửa cung đến một cung
liền bậc, hiệu quả ngón nhấn tốt nhất là khoảng âm trầm và một phần khoảng âm
giữa.
Ngón vuốt: được sử dụng nhiều ở đàn Tỳ Bà, trong các
tác phẩm cổ truyền ngón vuốt được sử dụng nhiều như ngón nhấn của đàn Nguyệt.
Ký hiệu ngón vuốt không vê dùng gạch chéo nối giữa hai nốt. Vuốt có vê dùng
gạch chéo nối giữa hai nốt đồng thời gạch hai gạch chéo ở nốt nhạc có đuôi, nếu
nốt nhạc không có đuôi thì gạch hai gạch chéo ở trên hoặc ở dưới nốt.
a)- Vuốt xuống: là cách vuốt dây của tay trái trong khi tay
phải không gảy, không vê, không phi, âm thanh các ngón vuốt xuống phát ra nhỏ,
yếu nhưng không thể dùng trong hòa tấu. Do vậy các âm vuốt thường xen kẽ với
các âm gảy, vê hay phi để có thể thừa hưởng dư âm của các âm ấy.
b)- Vuốt nhiều dây: có thể vuốt hai, ba dây một lúc trong khi
tay phải gảy, vê hay phi, kỹ thuật nầy ít sử dụng trong diễn tấu nhạc cổ
truyền.
Ngón chụp: tay trái ngón 1 bấm vào một cung phím, tay
phải gảy dây, khi âm thanh vừa phát ra, ngón 2 hoặc 3 bấm mạnh vào cung phím
khác (thường là liền bậc cao hoặc thấp) âm thanh từ cung phím nầy vang lên mà
không phải gảy đàn. Âm luyến nghe được do một phần của dây đàn còn chấn động,
một phần do ngón tay mổ vào cung phím tạo thêm chấn động. Âm luyến nghe yếu nhưng
mềm mại, ở những thế bấm cao âm luyến nghe kém vang nên ít được sử dụng. (Ký
hiệu ngón chụp: dùng dấu luyến giữa các nốt nhạc).
Ngón mổ: gần giống như ngón luyến, nhưng tay phải
không gảy dây mà ngón tay trái cứ mổ vào các cung phím để phát ra âm thanh, âm
thanh ngón mổ nghe nhỏ, yếu và có màu âm riêng biệt. Không nên sử dụng ngón mổ
trong bản nhạc có tốc độ nhanh và trong hòa tấu vì hiệu quả ngón mổ nghe rất
nhỏ. Ký hiệu ngón mổ ghi như dấu hỏi đặt trên nốt nhạc.
Ngón vỗ: một ngón tay đang bấm trong khi ngón khác
vỗ lên dây đàn.
Chồng âm, hợp âm: Đàn Tỳ Bà có thể cách đánh chồng âm dễ dàng
và hiệu quả nhất là sử dụng bằng miếng gảy, khi đánh chồng âm, hợp âm có thể
đánh bằng móng tay hoặc phím gảy trên 4 dây, hai hoặc ba dây không khó khăn và
giữ tính chất đệm trong hòa tấu. Ðiểm độc đáo nhất của đàn Tỳ Bà là đánh hợp âm
rãi, kỹ thuật đánh hợp âm rãi của đàn Tỳ Bà có hiệu quả đặc biệt và độc đáo như
tiếng Á của đàn tranh.
Ở Việt Nam đàn Tỳ Bà có mặt trong các dàn nhạc: Nhã nhạc cung đình Huế, Lễ nhạc
Phật giáo, Lễ nhạc Cao Đài, Đờn Ca Tài Tử, Phường Bát Âm, Cải Lương và Dàn
nhạc dân tộc tổng hợp.
Mặc dù đàn Tỳ Bà có xuất xứ từ các nước khác, nhưng qua thời
gian dài sử dụng nó đã được bản địa hóa và trở thành cây đàn của Việt Nam, thể
hiện sâu sắc những bản nhạc mang phong cách của dân tộc Việt Nam trong lĩnh vực
khí nhạc. Ngày nay số người biết sử dụng Tỳ Bà theo phong cách truyền thống
Việt Nam chỉ đếm được trên đầu ngón tay.
Dưới đây mình có các bài:
Dưới đây mình có các bài:
– Những loại Đàn Tì Bà
– Tại sao gọi là đàn Tỳ Bà
– Đàn Tỳ Bà
Cùng với 22 clips tổng hợp độc tấu, hòa tấu Đàn Tỳ Bà do các
nghệ nhân ưu tú trên thế giới diễn tấu với các nhạc cụ độc đáo của dân tộc họ
để các bạn tiện việc tham khảo và thưởng thức.
Túy Phượng
(Theo Wikipedia)
Hát &
độc tấu Chikuzen Biwa (筑前琵琶,
Trúc tiền tì bà)Kyokumi Tashiro,
Chikuzen Biwa “Funa Benkei”
Trúc tiền tì bà)Kyokumi Tashiro,
Chikuzen Biwa “Funa Benkei”
Hát &
độc tấu Nishiki Biwa (錦琵琶,
Cẩm tì bà) KUMADA KAHORI
Nasuno Yoichi
Cẩm tì bà) KUMADA KAHORI
Nasuno Yoichi
Độc tấu
Gagaku Biwa
Gakubiwa (雅楽琵琶 楽琵琶)
Gakubiwa (雅楽琵琶 楽琵琶)
Độc tấu
Gagaku Biwa
(雅楽 琵琶秘曲〈啄木〉~平安末期の
琵琶譜『三五要録』にもとづく再現~)
(雅楽 琵琶秘曲〈啄木〉~平安末期の
琵琶譜『三五要録』にもとづく再現~)
Độc tấu
Bipa (Korean)
Song tấu
Bipa – Korean classical music
Khám phá
Đàn Tỳ Bà (Pipa)
Liu Fang
(Lưu Phương)
Độc tấu Tỳ Bà (Pipa)
Độc tấu Tỳ Bà (Pipa)
Độc tấu Tỳ
Bà (Pipa)
Thần Thoại
Đàn Nhị & Tỳ Bà
Song tấu
Tỳ Bà (Pipa):
Dehai Liu & Lingling Yu
Dehai Liu & Lingling Yu
Độc tấu Tỳ
Bà (Pipa)
Độc tấu
đàn Barbat – Ba Tư
(Barbat of Maestro Behroozinia – In the Realm of Solitude)
Độc tấu
đàn Barbat – Ba Tư
(Ali Sajjadi Solo Barbat (Oud) – Bayat-e Rajeh)
Hòa tấu
đàn Barbat – Ba Tư
(Senavazieh Tar , Oud , Tonbak)
Làn Điệu
Việt – Đàn Tỳ Bà
Song tấu
Tỳ Bà & Đàn Tranh
Liu Fang (Lưu Phương & Hải Phượng
Nhớ Huế –
Hòa tấu đàn Tỳ Bà
Hòa tấu Tỳ
Bà – Văn Còn
Tỳ Bà – Vọng
cổ 1 & 2 – Văn Còn
Tỳ Bà –
Phi vân điệp khúc – Văn Còn
Độc tấu
đàn tỳ bà: LUYỆN NĂM CUNG
Độc Tấu Đàn Tỳ Bà – Thập Diện Mai Phục
Hòa tấu
Đàn Tranh & Tỳ Bà
TÒ VÒ – Thu Thủy & Thùy Chi
Vĩnh
Tuấn & Thanh Thúy song tấu
Tỳ Bà & Tranh – Lưu Thủy & Kim Tiền
Vĩnh Tuấn
& Thanh Thúy
song tấu Tỳ Bà & Tranh – Hành Vân
Vĩnh Tuấn
& Thanh Thúy
song tấu Tỳ Bà & Tranh
song tấu Tỳ Bà & Tranh
Vĩnh Tuấn
& Thanh Thúy
Trả lờiXóaeva air vn
giá vé máy bay từ sài gòn đi mỹ
giá vé korean airlines
đại lý bán vé máy bay đi mỹ
vé máy bay đi canada giá bao nhiêu
Cuoc Doi La Nhung Chuyen Di
Ngau Hung Du Lich
Kien Thuc Du Lich