Hector Berlioz (1803-1869)
Hector Berlioz là một hiện
tượng vô cùng đặc biệt trong lịch sử âm nhạc. Được xem là một trong những
nhà soạn nhạc vĩ đại nhất nhưng Berlioz lại không biết chơi piano. Thật khó kiếm
được người tương tự như ông. Tôn thờ Gluck, Beethoven và Shakespeare, Berlioz
có một vai trò cực kì quan trọng trong tiến trình phát triển của nhạc cổ điển.
Trung thành tuyệt đối với các tác phẩm âm nhạc có tiêu đề, Berlioz là cây cầu nối
giữa các tác giả thuộc trường phái cổ điển Vienna với các nhạc sĩ sau này, đặc
biệt là Liszt. Là người kế thừa quan niệm sáng tác opera “âm nhạc vị thi ca” của
Gluck, Berlioz có những đóng góp đáng kể vào việc cải tổ opera. BảnSymphonie
fantastique – tác phẩm xuất sắc nhất của ông luôn được coi là một kiệt
tác. Bên cạnh đó sự cách tân của ông về việc cải tổ quy mô dàn nhạc và dàn hợp
xướng đã tạo thành hình mẫu cho nhiều nhạc sĩ khác noi theo.
Hector Berlioz sinh tại La
Cite Saint André (Isère) vào ngày 11 tháng 12 năm 1803 trong một gia đình trung
lưu thành đạt. Cha ông, một bác sĩ muốn ông theo học ngành y nhưng ông có vẻ
không hứng thú với dự định này.
Sau khi hoàn thành chương
trình học phổ thông tại Grenoble, Berlioz chuyển đến Paris khi 18 tuổi, bề
ngoài là để theo học đại học nhưng y khoa không quyến rũ cậu sinh viên trẻ bằng
việc tới các buổi biểu diễn nhạc kịch của Gluck và Spontini và việc nghiên cứu
tổng phổ các vở opera này tại thư viện Nhạc viện Paris. Đến năm 1822, ông quyết
định bỏ trường y và theo học nhạc với Jean – Francois Lesueur với quyết tâm trở
thành nhà phê bình âm nhạc. Ông theo học nhạc rất chăm chỉ dù ông luôn coi mình
chỉ một là một nhạc sĩ bán chuyên nghiệp.
Các sáng tác đầu tiên của
Berlioz ra đời vào năm 1825. Một bản Mass mà ông tự bỏ phí tổn để biểu
diễn tại Nhà thờ thánh Rocco đã khiến giới phê bình khá hài lòng. Tiếp theo đó
là vở opera Lénor ou Les Francs Juges mà ngày nay chúng ta chỉ có phần
overture và một tiểu phẩm khác được đưa vào bản Symphonie fantastique sau
này.
Ông tham gia cuộc thi Prix
de Rome lần đầu tiên vào năm 1826 nhưng không lọt vào vòng chung kết. Trở lại
Paris, ông theo học sáng tác với Lesueur và phức điệu với Reicha tại Nhạc viện.
Ông lại tham gia cuộc thi Prix de Rome vào năm 1827, lần này ông lọt vào vòng
cuối cùng với bản cantata La mort d’Orphée (Cái chết của Orphée).
Với bản tính bốc đồng, bất
chợt Berlioz nhận ra mình có một tình yêu mãnh liệt với văn học Anh sau khi xem
một vở kịch của Shakespeare tại nhà hát Odéon, Paris vào năm 1827. Buổi biểu diễn
vở Hamlet khi đó là một sự kiện xã hội tại Paris và khiến cho Shakespeare
trở thành thần tượng của Berlioz bất chấp sự hăng hái này một phần là kết quả của
sự say đắm của ông dành cho diễn viên chính Harriet Smithson, người sau này sẽ
là vợ ông vào năm 1833.Cuối cùng vào năm 1830 ông cũng giành được giải Prix de
Rome sau 5 lần thử sức và giải thưởng này đem lại cho ông một số tiền lớn, một
suất học 2 năm tại Rome (với nghĩa vụ ít nhất phải sáng tác được 2 tác phẩm lớn),
những người bạn mới quan trọng và trên hết được chính thức công nhận là một nhạc
sĩ đã trưởng thành.
Sau đó Berlioz đã thực sự trở
nên nổi tiếng bất luận thế nào nhờ buổi công diễn ra mắt bản Symphonie
fantastique tại Nhạc viện Paris vào ngày 5 tháng 12 năm 1830 đã được khán
giả đón nhận rất nhiệt tình. Bản giao hưởng này được Berlioz bắt đầu viết vào
năm 1829, sau khi Harriet Smithson lại một lần nữa từ chối tình yêu có ảnh hưởng
lớn đến Berlioz trong phần đời còn lại. Không ngạc nhiên là nó mang tính tiểu sử
rất cao, rất giống kiểu tiểu phẩm “chương trình” lấy cảm hứng từ văn học mà
Berlioz đã học từ người thầy đầu tiên của mình.
Cộng với lần đầu thưởng thức
kịch Shakespeare, một tác phẩm văn học khác đã trở thành que diêm đốt cháy ngọn
lửa nhiệt tình sáng tác của Berlioz. Đó là Faust của Goethe với bản dịch
Pháp ngữ của Gérard de Nerval. Ông mất 2 năm 1828 và 1829 để chuyển một số phần
của nó sang âm nhạc và kết quả là ra đời tác phẩm Huit scénes de Faust (Tám
cảnh từ Faust) dành cho ca sĩ độc diễn, hợp xướng và dàn nhạc. Có thể là thành
công trong buổi ra mắt tại Nhạc viện Paris đã giúp ông chiến thắng tại Prix de
Rome một năm sau đó.
Bắt buộc phải sống tại Rome
theo yêu cầu của giải thưởng mà ông nhận được vào năm 1830, Berlioz sớm nhận ra
rằng cuộc sống tại Rome không thích hợp với mình. Qủa thực, ông ghét cay ghét đắng
đến mức ông luôn trông chờ ngày mình được trở về Paris nơi ông nhận ra rằng
mình có những cảm xúc mới mẻ với nghệ sĩ piano Marie Moke. Giấc mơ bị tan vỡ
khi cô bỏ Berlioz để cưới Camille Pleyel, ông chủ một cơ sở sản xuất đàn piano
giàu có. Vì vậy ông lại lao vào sáng tác một cách điên cuồng như ông vốn làm
khi bị lâm vào những trường hợp tương tự. Bỏ qua mọi cảm xúc của việc báo thù,
ông hoàn thành bản Lélio ou Le rétour à la vie (Lélio hay Trở lại với
cuộc đời) vào năm 1831. Theo nhiều cách, nó là là một sự tiếp tục của Symphonie
fantastique và trên thực tế, cả hai tác phẩm đã được cùng biểu diễn trong
một chương trình hoà nhạc tại Paris một năm sau đó.
Cuộc sống tại Ý đã bình ổn
hơn trước một chút, Berlioz lao vào khám phá nghệ thuật Rome cổ đại và Phục
hưng đặc biệt là kiến trúc và điêu khắc nhưng không hề để ý đến opera Ý. Chúng
ta biết được rằng ông vẫn coi thường các loại hình nghệ thuật mà các nhạc sĩ
khác đương thời thường yêu thích và khâm phục.
Ông gặp lại Harriet khi trở
về Paris và dù cô không còn trẻ đẹp và là diễn viên nổi tiếng mà ông đã từng
say đắm như trước kia, ông vẫn quyết định cưới cô. Một năm sau tình hình tài
chính khó khăn đã khiến ông phải sử dụng tích cực hơn nữa khả năng phê bình âm
nhạc của mình, mà ông đã đạt được một vài thành công trước đó nhờ một bút pháp
trôi chảy và hóm hỉnh. Ông viết cho tờ Journal des débets cho đến năm 1864 dù
không bao giờ mất đi thiên hướng nhạc sĩ và vẫn tiếp tục sáng tác.
Năm 1834, Berlioz hoàn thành
tác phẩm Harold en Italie (Harold ở nước Ý), trong đó phần viola độc
tấu đặc biệt được dành riêng cho Paganini dù trên thực tế Paganini chưa bao giờ
chơi tác phẩm này. Ba năm sau, năm 1837, tác phẩm Grande Messe des morts (thường
được biết đến dưới tênRequiem) được viết cho dàn nhạc và dàn hợp xướng lớn khác
thường ra đời. Các kỷ niệm của ông về thời gian ở Rome được thể hiện trong vở
opera Benvenuto Cellini viết vào năm 1838 đã không được cả công chúng
và giới phê bình khen ngợi và đó là điều tồi tệ nhất đối Berlioz với tư cách là
một nhạc sĩ. Từ đó các cánh cửa các nhà hát opera đóng chặt đối với ông. Ông vẫn
muốn được tiếp tục sáng tác, nhưng ông còn vợ và một đứa con nhỏ nên cần có được
một nền tài chính đảm bảo để có thể tập trung vào công việc. May mắn thay, một
món quà không mong đợi đến từ người khán giả cảm thấy rất hài lòng sau khi thưởng
thức Symphonie fantastiquevà Harold en Italie. Người đó không ai khác
ngoài Nicolo Paganini, ông đã gửi cho Berlioz một số tiền không hề nhỏ là
20.000 franc. Điều này đã giúp Berlioz ồn định cuộc sống và tiếp tục sáng tác.
Kết quả là ra đời tác phẩm kịch giao hưởng Roméo et Juliette dành cho
các ca sĩ solo, dàn hợp xướng và dàn nhạc (đúng hơn là mội vở opera theo quy ước
nhưng điều này không bao giờ được chấp nhận). Việc này chiếm mất khá nhiều thời
gian của người nhạc sĩ và tác phẩm chỉ được biểu diễn tại Nhạc viện Paris vào
mùa đông năm 1839. Thành công đến ngay lập tức, tuy nhiên cũng chỉ bù lại phần
nào điều bất hạnh mà Benvenuto Cellini đã mang lại. Sau đó Berlioz nhận
việc viết phần recitative cho vở opera Der Freischütz của Weber. Sau
cái chết của vợ vào năm 1842, ông đi du lịch đến nhiều nơi tại châu Âu, trong
đó có Leipzig, nơi ông gặp Mendelssohn và Schumann. Ông đi du lịch cùng với
Marie Geneviève Martin (sau này trở thành người vợ thứ hai của ông vào năm 1854
và mất vào năm 1862). Chuyến đi tỏ ra rất thành công và tình hình kinh tế của
Berlioz được cải thiện rất đáng kể.
Berlioz viết rất nhiều trong
thời gian này và hầu hết là những tác phẩm xuất sắc. Overture Le carnaval
romain, một sự sửa đổi sống động từ những chủ đề của Bevenuto Cellini ra đời
năm 1843 và tiếp theo là oratorio La damnation de Faust vào năm 1846
trong đó chất liệu từ tác phẩm thời kì đầu Huit scénes de Faust dựa
trên cảm hứng từ các tác phẩm của Goethe, được sửa đổi và tổ chức lại. Buổi ra
mắt tác phẩm tại Paris vào ngày 6 tháng 12 năm 1846 tất nhiên đã không thành
công.
Tác phẩm Te Deum (Tụng
ca Chúa) được hoàn thành vào năm 1849 và vở oratorio L’enfance du Christ (Tuổi
thơ của Đức Chúa) được viết trong khoảng thời gian từ năm 1850 đến 1854. Sự
trong sáng và rõ ràng của tác phẩm đã phản chiếu sự kính trọng của Berlioz đối
với kinh thánh.
Sau đó với sự khuyến khích của
Liszt, ông bắt tay vào viết các vở opera khác. Đến với Virgil, nhà thơ mà ông
yêu thích, ông mất hai năm để viếtLes Troyens (Những người thành Troie) mà
trên thực tế gồm 2 vở dựa trên hai phần khác nhau trong sử thi của Virgil. Đầu
tiên là La prise de Troie(Sự xâm chiếm thành Troie) kể về sự sụp đổ của
thành phố và phần này chỉ được biểu diễn vào năm 1899 sau khi Berlioz qua đời.
Tuy nhiên ông được xem phần hai Les Troyens à Cathage (Những người
Troie ở Cathage) dựa trên câu chuyện về Dido và Aeneas.
Những sáng tác nhạc và bài
viết phê bình cuối cùng của Berlioz cũng quan trọng bởi vì với sự nhận thức muộn
mằn của chúng ta sau này, chúng đã mang lại ý nghĩa thứ bậc nào đó cho điều mà mặt
khác có vẻ như là một sự phát triển khá không bình thường với tư cách nhà soạn
nhạc. Tác phẩm quan trọng Grand traité d’instrumentation et
d’orchestration modernes được xuất bản vào năm 1844 và tiếp theo đó làLes
soirées de l’orchestre (1852) và Les grotesques de la musique (1859).
Năm 1862 ông hoàn thành vở opera cuối cùng của mình Béatrice et Bénédict dựa
trên những trải nghiệm của mình với các vở kịch của Shakespeare.
Sau cái chết của đứa con duy
nhất vào năm 1867, Berlioz thực hiện tiếp một chuyến du lịch dài ngày nữa, lần
này là đến Đức và Nga. Ông mất ở Paris vào ngày 8 tháng 3 năm 1869 tại Paris,
đau khổ và cô độc trong khi đang chuẩn bị công bố Memoirs (hồi ký) của
mình.
Với một chút phán xét, người
ta thường nói rằng cuộc đời ông chẳng là gì ngoài tình yêu và những đau đớn
cùng cực vì tình yêu. Điều đó có thể rất đúng. Nhưng cũng phải nói thêm rằng khả
năng sáng tạo không ngừng và niềm khát khao đến tuyệt vọng của ông đã tìm thấy
lối thoát tự nhiên và cái đích của chúng trong sự thành thạo bậc thầy của về
dàn nhạc. Âm nhạc của ông được viết cho những dàn nhạc lớn hơn thời kỳ trước
đó. Và những âm vang nổi bật lên từ cái mà giờ đây được xem như những nhóm nhạc
cụ xác định của ông trong những bộ cố định ( bộ dây, bộ đồng, bộ hơi, bộ gõ…)
đã được các nhà soạn nhạc sử dụng suốt từ đó.
Theo Cobeo
Trả lờiXóađặt vé máy bay eva air
ve may bay di my eva
ve may bay hang korean air
đặt vé máy bay đi mỹ online
giá vé máy bay từ tphcm đi canada
Những Chuyến Đi Cuộc Đời
Ngau Hung Du Lich
Tri Thức Du Lịch