Thứ Ba, 24 tháng 11, 2015

Sơn La ký sự 1

Sơn La ký sự 1
(Ghi chép về Bản cũ, Mường xưa)
LỜI THƯA
Khoảng thời gian từ 1955 - 1975 thì 18 Châu Mường (huyện miền núi) phía Tây bắc Việt Nam là khu tự trị Thái Mèo, sau đổi là khu tự trị Tây Bắc. Tổ chức Nhà nước VNDCCH trên Trung ương là chính phủ ở Thủ đô Hà Nội, dưới là khu  hay tỉnh rồi tới huyện, xã, thôn (bản). Thời đó chính quyền cơ sở (chiềng - xã) còn rất yếu: Chủ tịch xã, trưởng bản phần lớn nói tiếng phổ thông (kinh) còn chưa thông, mới võ vẽ đọc thông viết thạo…Để giúp cơ sở hoạt động có hiệu lực thì cấp tỉnh, huyện thường cử cán bộ xuống giúp xã “chỉ đạo” (kiểu cố vấn, trợ lý) gọi là “cán bộ phụ trách xã”, nôm na là “cán bộ cắm bản”, thực hiện “3 cùng” (cùng ăn, cùng ở, cùng làm với dân bản).
NK tôi sau khi tốt nghiệp Đại học Nông nghiệp lên Sơn La công tác (1963-1984) ở Ty Nông nghiệp, rồi Ban nông nghiệp tỉnh ủy nên đã có nhiều đợt làm “cán bộ cắm bản”, để lại nhiều kỷ niệm không thể phai mờ… Nay đã ngót 40 năm, xin ghi lại đôi dòng hồi ức “cắm bản” ghi chép về Bản cũ, Mường xưa.
Hà Nội, 28-2-2004
Nguyễn Khôi
BẢN QUÊ YÊU DẤU
Mười yêu không bằng người tình cũ
Mười nhớ không bằng nhớ bản xưa”
Thôn bản là hình ảnh thu nhỏ của xứ sở. Bản (làng) dân tộc Thái đầu tiên khi tôi đến ở là bản Nà Nghiu bên bờ sông Mã (thượng nguồn). Tiếng Thái có nghĩa là “bãi cây gạo”. Đó là mấy chục ngôi nhà sàn (gỗ, tre, nứa, gianh), mái hình mai Rùa, ở 2 đầu hồi có 2 tia “khau cút” (hoa nhà) sơn vôi, kẻ hoa văn đen như 2 cánh chim đang vẫy bay lên rất điệu đàng và rất bản sắc, không ở đâu có ngoài Tây Bắc Việt Nam.
Bản Thái, theo truyền thống thiên di từ vùng “xíp xoong păn na” (Vân Nam) sang đây đã trên 10 thế kỷ, theo “Quắm tố mướng” thì bà con “Thái tộc” thời ấy phải đi luồn rừng như con Don, con Dím để tránh cường hào và ác bá Hán tộc và sợ các quan Đại Việt không cho ở nhập cư…Dấu vết “đi đêm” để nhận ra nhau đồng tộc là cái “hoa nhà” (Khau cút) và cái hình mặt trăng lưỡi liềm nơi cửa sổ (đặc trưng của nhà sàn Thái). Bản Thái phổ cập 20 - 30 nhà, 50 - 70 nhà tùy theo số ruộng và nguồn nước để sinh sống. Bản thường chiếm vị trí đặc trí đứng lưng chừng núi (đồi) để tựa lưng một cách vững chắc, tập quán cư trú “hua mun đin, tin mun nậm” (đầu gối đất, chân đạp nước), phía trên là đỉnh núi, chỏm rừng nơi có nguồn nước (thượng nguồn) chảy về (theo máng) rót vào từng nhà, nơi đỉnh có rừng cây mây ủ tiếp với “Mường trời” (cõi linh thiêng), che chở cho bản làng. Dưới chân bản thường là sông, suối, cánh đồng…địa điểm bản thuận tiện cho canh tác (lúa nước, nương rẫy, săn bắt, hái lượm), kinh tế nông nghiệp dựa vào tự nhiên khá hoàn thiện.
Bản Thái: nhà nhà xếp hàng ngang, từ thấp lên cao, quay quần theo dòng họ (thường có ba đến bốn họ: Lò, Cầm, Quàng, Cà…) tắt lửa tối đèn có nhau, chỉ cần ai đó săn được 1 con thú nhỏ (con hoẵng, đơm được vài con cá to, là tối đó cả Bản lại ngất ngư chén “lẩu xiêu” (rượu cất) bên bếp lửa, hát “khắp” (Tản chụ, xiết xương) đến thâu đêm.
Làng người Kinh là nằm trong lũy tre xanh, trung tâm là ngôi Đình với cây đa bến nước, ao làng. Bản Thái không có cổng, lối vào tứ phía…trung tâm bản thường là “nhà Trường bản” (trưởng thôn) liền đó có ngôi nhà đất, gianh tre vừa làm lớp mẫu giáo vỡ lòng, dạy chữ Thái cho trẻ con (trước khi vào lớp 1 phổ thông) coi như “nhà văn hóa” nơi hội họp của bản.
Sinh hoạt cộng đồng bản: quan trọng nhất là tổ chức sản xuất rồi đến sinh hoạt văn hóa (cúng bái, lễ hội). Trưởng bản thường kiêm tổ trưởng sản xuất hoặc chủ nhiệm hợp tác xã nông nghiệp (ở quy mô nhỏ).
Sáng ra (vào thời điểm tháng 6/mùa hè) khi gà gáy sáng, ngựa trong tàu (hí) “chàng lụ khươi” (trai ở rể) dậy sớm mài dao cho cả nhà; anh chủ nhà dậy xem trâu xem ngựa; chị chủ nhà bồng con đang bú sang cho mẹ ôm ru ngủ, rồi đi xôi lại chõ cơm xôi…xong bốc chia vào từng “cóm khẩu” (giỏ xôi nhỏ) “ép khẩu” (giỏ xôi lớn).
Khoảng 5 giờ tinh mơ “tiếng trống đi làm vang gốc núi” từ nhà Trưởng bản (tổ trưởng hay chủ nhiệm) đánh 3 hồi dài, kết thúc bằng 3 tiếng nhằm gọi mọi người lao động (như đã phân công) hôm nay lên núi Pu Luông làm cỏ lúa nương, ngô nương. Anh chủ nhà dắt ngựa đi đầu, kéo theo một đoàn trên 10 lao động chính (cả nam lẫn nữ) nối đuôi nhau trên con đường mòn men theo các sườn núi “Khửn Pu “Khửn Pu….” Đi hơn 2 tiếng đồng hồ, mặt trời đã ló phía chân núi đằng đông, dòng sông Mã trông chỉ bằng chiếc đũa là tới những vạt nương rộng, lúa ngô đã lên trên đầu gối tới ngang ngực (đứng cái)…ai nấy: Nam thì phát cây dại, nữ thì cào cỏ nương bằng các cái “chóp”…khí trời mát mẻ, chim hót véo von ở rừng bên, cây cối xanh tươi mơn mởn…khoảng 11 giờ trưa, nắng oi oi, trời đứng bóng, nương rẫy dọn cỏ xem ra đã sạch tinh tươm…tất cả lùi sang lán bìa rừng (lều nương): để phòng mưa nắng, nghỉ ngơi, ăn trưa cơm xôi chấm muối ớt (món chéo) cùng ít rau xôi đem từ nhà, ít thịt khô, cá ướp…cơm ép khẩu phần nhà nào nhà nấy ăn, cũng có phần san sẻ…vui vẻ, vừa ăn vừa chuyện trò rôm rả. Cơm xong cánh nam làm điếu thuốc Lào rồi ngả lưng chợp mắt, cánh nữ thì tranh thủ đan lát, khâu vá hoặc vào bìa rừng kiếm củi, kiếm rau lợn, rau rừng. Từ 1 - 3 giờ thu vén và thu quân “mã hồi”.
Về tới bản, cánh chị em chưa kịp lên nhà đã ra mó nước “kẻ xuộng xựa” (cởi váy áo) ào ào tắm rửa…cánh đàn ông đem lưới ra sông vây bắt cá.
Cuối chiều: Chị chủ nhà tắm rửa cho con, rồi lo cho lợn gà ăn, cô em gái ra sông suối hái bon (rau) xúc ốc, chàng rể tắm cho ngựa. Chập tối một lúc 7 - 8 giờ tối cả nhà quây quần bên mâm cơm, thường là món cá nướng (pa mốc, pa pịnh) thơm ngon, canh bon nấu ốc hay canh cá nấu măng chua. Ăn xong, bên bếp lửa: cánh đàn ông đan lát, vá lưới, cánh đàn bà dệt vải, chàng rể ra sông “quăng chài” hoặc đơm “đó”, lũ lợn gà ăn no ngủ kỹ…mọi thành viên trong gia đình ai nấy về “buồng nằm” của mình đánh giấc…Từ khoảng 10 - 11 giờ đêm cả bản đã ngủ yên thì cánh trai tơ ở các bản bên “pay ỉn sao” (chơi gái) đem tiếng khèn, tiếng sáo, tiếng đàn Tính đến “chọc sàn” thức các cô gái tơ (sao) dậy, để “tìm hiểu” bằng các cuộc hát giao duyên bên sàn (phía đầu chan) hay ra sàn “Hạn Khuống” mé rìa bản tình tự thâu đêm.
“Chào bản quê thân yêu
Nắng mở cửa nhà sàn rộng thêm
Cho gái lớn xuống thang sang làm dâu Mường khác
Suối chỉ chảy một dòng
Xuống núi..
Chao, tôi chưa về thăm bản ngày xưa
Nơi tôi ra đời bên bếp lửa
Mẹ cắt rốn bằng con dao nứa
Cha ru bằng Tản Chụ Xiết Xương
Chị tóc mây “tằng cẩu” kết hôn
Anh lớn lên: anh đi ra trận…
Tôi lớn lên, tôi xuống núi đi xa
Mẹ cha mất, ngày về mồ đã cỏ…”
(Theo La Quán Miên).
Chao, hồn quê ở xuôi là cây đa rợp bóng sân đình, còn hồn ở bản quê yêu dấu là cái Khau cút (hoa nhà) để ai đó đi lâu trở về từ xa đã nhìn thấy nó như những cánh chim bay lên mừng vui chào đón đứa con tha hương còn nhớ trở về.
28/2/2012
CƠM BẢN
“Cơm Tàu, cơm Tây… nhớ về đây cơm bản
Nếp xôi thơm, bên bếp lửa em chờ”
“Cơm Thái, gái Kinh” câu nói chơi cửa miệng của cán bộ Tây Bắc một thời (cán bộ Kinh thì thèm cơm bản Thái, cán bộ Thái thì khoái lấy gái Kinh). “ăn” uống là điều kiện hàng đầu để tồn tại sự sống. Cơm Thái cổ điển là ăn nếp xôi truyền thống. Đó là các loại gạo nếp tan, khẩu ma tứn (gạo chó dậy: Cơm xôi thơm quá đến con chó đang ngủ đánh hơi thấy cũng phải vùng dậy). Gạo nếp ngâm qua đêm, với bàn tay của các mẹ, các chị vo sạch, để ráo nước, rồi đổ vào một cái Hày” (chõ gỗ: một khúc thân cây khoét rỗng). Người Thái không có tục “luộc” như người Kinh (cơm bằng  gạo luộc, rau luộc, thịt luộc, mà thường là “xôi” (đồ) bằng nhiều loại “hày” khác nhau (gỗ cây sung co cổng, co đứa), phần dưới của dụng cụ đồ xôi là cái “ninh” (biếng mỏ nửng) bằng đồng đúc… nhờ “xôi” nên thức ăn đậm (không bị nhạt). Từ gạo nếp, người Thái còn chế biến ra các loại bánh như “khẩu tổm” (bánh tét) Khẩu tổm năm lãng (bánh giò), khẩu cắm (xôi màu), khẩu hang, khẩu lam, khẩu chí (xôi nướng). Khẩu lam trộn sâu măng là đặc sản ngon đặc biệt.
Nhân loại có các nền “văn minh thìa dĩa” (Âu Mỹ), “văn minh đũa tre” (Trung Quốc, Triều Tiên, Nhật, Việt Nam) và “văn minh ăn bốc”… người Thái đen Việt Nam ở Sơn La thì trong mâm cơm: Mỗi người bao giờ cũng có bát con riêng, 1 cái thìa, 1 đôi đũa… riêng ăn cơm nếp xôi thì “bốc” (tay đã rửa sạch); chỉ khi ăn cơm tẻ thì xới ra bát, lấy ăn thì xúc, chứ không quen “và” như người Kinh. Ăn canh thường không “chan” mà dùng thìa múc đưa thẳng vào miệng. Bát chấm mặn thường là muối ớt cộng mắc khén (hạt tiêu rừng) hoặc bát nước chấm pha chế (nậm pịa khi ăn thịt trâu, bò, dê).
Các món rau trong mâm cơm Thái: ½ là rau rừng (phắc ven,… có tới 80  loại), số rau trồng ở xuồn phỏm (vườn gầy)… như rau cải (phắc cát), các loại củ quả bầu bí, mướp, cà… tất cả đều được đồ chín (nửng) kể cả rêu, măng, mùa xuân có món “măng đắng”, mộc nhĩ, nấm các loại, canh măng chua (nậm xổm đanh), món “xổm” ghém, rau sống, rau hoa chuối nộm…
Tục kin xổm (món chua) đủ cả “kin xổm, kin van, kin xúc, kin chip, (chua, ngọt, chín, sống) rồi món “tương thối”. Với người Thái “cơm trắng, khúc cá bạc” là biểu tượng của no đủ hạnh phúc. Các món ngon là “pa pỉnh” (cá nướng kẹp), pa dảng là cá sấy trên dàn bếp, pa mốc (vùi tro), cùng với “pho pa”: Các loại cá tép, trạch, ruột cá lớn gói cùng húng chó, hành sả vùi tro nóng ăn rất thơm ngon, pa óm (cá nấu), pa tổm (cá luộc)… với các loại cá nheo (pa cao), cá quả (pa con), cá trê (pa đúc)… pa cỏi (lên men chua) món gỏi (cỏi hắn) với quan niệm “xép nhứa kin nhứa ma, xép pa kin pa cỏi” (thèm thịt ăn thịt chó, thèm cá ăn cá gỏi).
Các món mắm cá (mẳm pa) mắm tôm (mẳn củng), mắm từ những con bọ nước (mẳn pa dí), mắm tắc ten (châu chấu)…
Các món thịt: Như nhứa đảng (hong  khói) pỉnh chí (nướng), mản (nướng bằng xiên); thịt con hoẵng (tô phan) làm “lạp” trộn với măng chua, chấm nậm pịa (đoản nước bắt phèo, một thức đặc sản “nhứa quai tộm nậm pịa, thuổi lạp têm chem” (thịt trâu luộc, nậm pịa, bát lạp đầy ắp).
Mâm cỗ thường khoái món tiết canh, tiết luộc… ngoài ra có món “nhứa min” (thịt thối): trộn gia vị cho vào ống, đốt chín thành một thứ thịt nhuyễn nặng mùi rất hợp khẩu vị.
Các món gia vị thường nhật là ớt, mắc khén (hạt tiêu rừng) củ sả, gừng, riềng, hành tỏi, rau thơm… điển hình là món “chéo” để chấm.
Món canh Thái: Ưa dùng bột gạo để nấu canh, tạo cho canh ngọt sánh.
Cơm bản Thái: Thường ngày ăn bữa chính vào buổi tối. Sáng ra ăn lót dạ (bốc ít xôi, chấm muối ớt) bữa trưa thường ăn ở nơi làm việc (ngoài đồng, trên nương. Ăn đơn giản gọn nhẹ gồm xôi, ít rau chấm muối ớt, ít thịt cá khô, nướng…).
Bữa ăn tối là bữa cơm đầy đủ các thành viên trong gia đình. “ăn trông nồi ngồi trông hướng” khá trật tự nề nếp (bài bản): Chủ nhà ngồi chính giữa trông ra hướng nhà, phụ nữ ngồi phía trái, trai phía phải, con rể và khách ngồi phía sau (đối diện với chủ  nhà). Các món đặc biệt là dành cho trẻ con (nhái nướng, nhái ôm măng, đùi gà, miếng cá ngon). Nếu trong mâm có món thịt gà thì: Đầu, cánh, chân là dành cho ông chủ, lòng cổ xương nấu canh măng chua…
Có khách: Uống rượu cất (lẩu xiêu) theo ông chủ: 1 chén rượu húp một thìa canh măng chua… Nói chung bữa cơm bản là bữa cơm bình dân, đạm bạc. Chủ lực vẫn là món cơm xôi nếp, măng và rau rừng là món hàng ngày, thức ăn chỉ là đưa đà để ăn được nhiều cơm (no). Tháng 3 ngày tám, thiếu gạo thường độn thêm sắn (nạo) ngô hoặc ăn thêm củ mài đào trên rừng. Mùa nước lên có thêm món cá, sang xuân săn được con chim, con don, con dím… bổ sung cho món ăn…
Thịt lợn, thịt trâu phải là có ma chay, cưới xin, tết nhất, cúng nhà mới…
Dẫu sao thì bữa cơn bản Thái thời 1960 ở Sơn La vẫn là bữa ăn no đủ, ngon hơn hẳn bữa ăn thời HTXNN của người Kinh dưới xuôi một thời ăn công điểm là chính.
CƠM BẢN
Cơm Tàu, cơm Tây chẳng tày cơm bản
Bát “khẩu hang” tháng 9 mẹ để phần
Ăn bít tết, lẩu dê… chẳng chê cá nướng
Món canh chua: Tay chị gái hái măng.
Ơi cơm bản ta ăn trên sàn gió
Cha gật gù nâng chén “lẩu xiêu”
Mẹ ân cần gắp trám đen vừa bổ
Chị đẩy sang đĩa “chéo”…cười yêu.
Trên nhà sàn khi nắng chiều đã tắt
Trâu về chuồng mõ lốc cốc tới khuya
Lũ Điêu Điếu ngoài vườn xoài léo nhéo
Chõ xôi đơm thơm nức gạo đầu mùa.
Và ai đó vừa đi ngang ngõ
Dải khăn Piêu tung vương khói chiều xanh
Rừng trầm mặc, con nai vàng nào “tác”
Mùi ấm no bên bếp lửa quây quần
Thuận Châu hè 1965
CANH BON
(Tặng Lò Văn Cậy)   (1)
Bản Nà Nghịu thời trẻ trai tôi ở
Sớm đi nương, chiều chài lưới trên sông
Em ra suối hái Bon, xúc ốc
Tối ăn canh Bon ngứa cổ, nghẹn ngùng…
Em thầm nói: Thương anh Hà Nội
Phải ăn cơm mường bản chưa quen
Tôi lặng lẽ nắm xôi, chấm muối
Húp canh Bon, nhìn đôi mắt đen…
 Đêm bản nhỏ trăng nhòm cửa liếp
Em ngồi trên khung cửi đưa thoi
Tôi ngồi tập vót nan đan “lếp” (2)
Bếp lửa khuya bốn mắt sáng ngời…
Rồi tôi đi biết bao xứ sở
Vẫn nhớ về Sông Mã quê em
Chợt thèm món món canh Bon ngứa cổ
Để thưởng người canh cửi đêm đêm.
(1) Lò Văn Cậy (1928 - 1944) nhà thơ Thái
Quê Sốp Cộp, huyện Sông Mã
(2) “Lếp”: Giỏ đeo bên hông của gái Thái
NGỦ BẢN
* Người thức giấc giữa mây ngàn gió núi
Hồn ngỡ là bay với trăng sao
* Về kinh xa bản xa Mường
Đêm mơ tiếng suối bên giường chảy quanh.
Chao ôi, các cụ ta có câu “đêm năm (bằng) năm ở”… thế thì vào những năm 60 (thế kỷ 20) đêm ngủ ở bản Thái là lý tưởng nhất. Nhà sàn cao ráo, thoáng mát: Đầu gối núi, chân đạp sông… 1 anh bạn tôi (Phạm Văn Cống - quê Thanh Hóa) có 4 câu thơ vui về một thời hoang sơ để nhớ.
Về đây công tác xã Chiềng Hoa
Đêm đêm nằm gối thác Sông Đà
Bởi tiếng Thái Mèo chưa thông thạo
Phải người phiên dịch hóa “chuyên gia”
(Hóa chuyên gia)
* Cán bộ xuống “cắm bản” được xếp ngủ một gốc “Quản” đệm dày, chăn mới, màn 1 bộ đội xanh lá cây, thì cán bộ ai chả có 1 chiếc để chống muỗi
Anôphen (phòng sốt rét), phong tục kiêng màu trắng (có tang)
Ngủ bản, đêm thao thức nhớ quê, lên ở cái xứ “trâu gõ mõ, chó trèo thang, nước giã gạo” với tiếng “chày đêm nện cối đều đều suối xa”, chập chờn với trăng nhòm qua vách liếp… Cách vài mét là màn đen cô em gái chủ nhà tuổi trăng tròn “kẻ xuộng xựa” (ngủ truồng) đêm nóng nhoài ra ngoài màn da thịt trắng ngần như thần vệ nữ.
Ngủ bản được nghe tiếng gà gáy sang canh, chim cu gù bên mái, lợn ủn ỉn dưới gầm sàn, ngựa gõ móng trong tàu ngựa, vài tiếng chim cú vang lên phía Pa heo (rừng ma) nghe ghê rợn…
Ngủ bản, khuya khuya khi bếp lửa đã tàn, vợ chồng nhà anh chị chủ yêu nhau làm tình cả mặt sàn nhẹ rung lên phấp phồng hơi thở…
Ngủ bản: Phía rừng xa vang về tiếng Nai tác, hoẵng kêu gọi bạn tình xao xuyến hồn trai chưa vợ.
Ngủ bản: Con mối vách (Thạch sùng) tặc lưỡi đuổi nhau như đang thở than “ai đó giầu như Vương Khải - Thạch Sùng cũng có phen tường xiêu, mái đổ…”
Ngủ bản: Hư hư thực thực, nhớ nhớ quên quên - rồi thiếp đi một giấc thanh thản sau một ngày lao động (đi nương, ra ruộng, đánh lưới trên sông, mệt mỏi, vô tư…)
Chao ôi, ai đó ở lầu son gác tía nơi Thủ Đô - Phố thị ồn ào hiểu sao được ngủ bản?
Và chao ôi, ai đó nghèo hèn culi, đĩ điếm nơi vỉa hè, gầm cầu có hay đâu ngủ bản?
Chao ôi, sung sướng gì bằng ai đó có tuần trăng mật ở bản? khi đôi lứa thanh tân lặng lẽ chui vào cái buồng màn đen kín mít đó là bóng đêm, huyền diệu “tay quờ tay, chân quặp chân, môi kề môi, thân đè thân với hơi thở nồng, đó là vườn địa đàng nơi nhà sàn bếp lửa “một mái nhà gianh hai trái tim vàng, một con suối nhỏ” để mà yêu, mà hiến dâng, mà thụ hưởng hương vị ngọt ngào thanh xuân bốc lửa…”
Ngủ bản, khi yêu đã mệt lử rồi… là êm đềm hơi thở giữa không khí trong lành, thanh bình… mà biết bao người (kể cả tỉ phú) mơ mà đâu dễ có được?
Ngủ bản, là duyên phận, là trời cho, như ta được kho báu mà ta đâu đã hiểu được?
Than ôi, tiếc thay, tiếc thay… được mấy ngày ngủ bản?!
SƠN LA XƯA 
Sơn La hiện nay (2012) là tỉnh vùng núi Tây bắc Việt Nam, có diện tích 14,125km2 (= 4,27% tổng diện tích cả nước), có biên giới chung với Lào 250 km, gồm 1 thành phố, 10 huyện với 12 dân tộc. Dân số điều tra 1/4/2009 là 1.080.641 người.
Lịch sử: Phần lớn tỉnh Sơn La ngày nay gồm TP Sơn La, huyện Yên Châu, Mộc Châu, Mai Sơn, Sông Mã, Thuận Châu vào trước năm 1479 là lãnh thổ của Vương Quốc Bồn Man (gồm cả Tương Dương, Kỳ Sơn của Nghệ An; Quan Hóa, Quan Sơn Mường Lát của Thanh Hóa, tỉnh Hủa Phăn của Lào). Năm 1479 Sơn La được chính thức nhập vào Đại Việt, thời vua Lê Thánh Tông và thuộc xứ Hưng Hóa.
24/5/1886 thành lập Châu Sơn La (thuộc phủ Gia Hưng, tỉnh Hưng Hóa) tách từ Hưng Hóa thành cấp tương với tỉnh.
9.9.1891 thuộc Đạo quan binh 4.
27/2/1892 thành lập tiểu quân khu Vạn Bú gồm 2 phủ, 8 châu.
10/10/1895 thành lập tỉnh Vạn Bú, tỉnh lỵ ở Vạn Bú (Tạ Bú) trên bến sông Đà thuộc huyện Mường La ngày nay.
23/8/1904 đổi tên thành tỉnh Sơn La, tỉnh lỵ về như bây giờ.
Sau 1946: Pháp chuyển Sơn La cộng với Lai Châu và Phong Thổ lập xứ Thái tự trị, do Bạc cầm Quý làm tỉnh trưởng Sơn La.
1948 - 1953 thuộc LK Việt Bắc do tướng Chu Văn Tấn cầm đầu (Sơn La có 6 huyện Mường La, Thuận Châu, Phù Yên, Mai Sơn, Yên Châu, Mộc Châu).
1953 - 1955 thuộc khu Tây Bắc.
1955 - 1962 thuộc khu tự trị Thái Mèo.
1962 - 1975 tái lập tỉnh thuộc khu tự trị Tây Bắc: có 7 huyện, thêm Quỳnh Nhai và Sông Mã còn Phù Yên chuyển về tỉnh Nghĩa Lộ.
Sau khi giải thể khu tự trị Tây Bắc, Sơn La nhập lại 2 huyện Phù Yên, Bắc Yên của Nghĩa Lộ giải thể.
Sơn La- xứ Thái xưa là 1 vùng biệt lập do núi non hiểm trở, lại là đường mòn luồn vùng, đi theo dọc 2 bờ sông Đà, sông Mã, ma thiêng nước độc “nước Sơn La, ma Vạn Bú” ở xuôi chẳng ai lên đó làm gì. Đó là nơi cai trị của các vị “Chẩu Mường” hướng về vua Lào ở Luông Pha Bang là chính, thi thoảng có giao lưu với người kinh qua rẻo Mường Lò (Nghĩa Lộ)… phải chăng do ở biệt lập lâu đời như thế nên người Thái ở đây còn giữ được khá nguyên vẹn bản sắc dân tộc mình sau 1000 năm sang Việt Nam cư trú?
SÔNG CHÓ
“Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi
Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi
Sài Khao, sương lấp đoàn quân mỏi
Mường Lát hoa về trong đêm hơi”.
Đó là đoạn sông Mã (sông Ngựa) ở đoạn giáp ranh từ Sầm Nưa (Lào) đổ vào Thanh Hóa (Mường Lát) kề với Xuân Nha Sơn La… còn đoạn trên gọi theo dân bản địa (Thái) là Nậm Ma (sông Chó).
Sông Mã có 2 nguồn: Nguồn thứ nhất từ núi Tuần Giáo (nam tỉnh Điện Biên) chảy theo hướng Tây bắc - đông nam qua huyện sông Mã (Sơn La) rồi qua lãnh thổ Lào. Nguồn thứ 2 từ núi “Pu Xam Sao” (núi 3 cô gái)… cả 2 nguồn này đều đổ về Thanh Hóa từ Sầm Nưa, rồi giao lưu với sông Chu (sông Trâu) đổ ra vịnh Bắc Bộ, tất cả dài 512km, trong đó trên lãnh thổ Việt Nam 410km, qua Lào là 102km.
Tên gọi: Dân gian (sông Mã) vì dòng nước chảy xiết như “ngựa phi”.
Tuy nhiên theo n/c về từ nguyên học chữ “Mã” là “Mẹ” - nghĩa là sông lớn như. (Ở Lào mè khoỏng = MêKông, ở ta sông Hồng là sông cái).
Sử Việt gọi sông Mã là “Lỗi Giang” .Bên Lào là Nậm Mà. Sơn La gọi “Nậm Ma” (Mẹ là Êm) “ma” là con chó - có lẽ vì ở thượng nguồn dốc chảy xiết kêu như chó sủa.
Sông Mã chảy về đến Nà Nghịu (huyện Sông Mã Sơn La) rông cỡ con sông Cầu, 2 bên bớ là đồi núi cao vút không có đê, dòng sông khúc khuỷu, mùa cạn lòng sông trơ những tảng đá gộc, đã lồi đầu, có đoạn có thể lội bộ qua được để ta lại nhớ câu “sống chụ”.
* Phôm dú hua lứm cấu chắng lứm chụ
Cánh lứm chái nớ!
Cẩu chí lứm cánh xíp chí lứm
Nậm Ma hảnh to đe chắng lứm
* Tóc trên đầu búi ngược (tăng cẩu) hãy
Quên bạn tình, hãy quên anh yêu!
Chín sắp quên và mười sắp quên
Sông Mã cạn bằng lòng đĩa, hãy quên.
Mùa cạn này, đêm đêm lũ con trai từ bản Nà Hin bên sông lội tắt sang bản Nà Nghịu “chọc sàn” tìm bạn tình. Đó cũng là mùa các cô gái ra sông vớt rêu (1 món ăn đặc sản):
“Sông nhiều rêu, nhiều cá
Núi nhiều thú, nhiều măng
Chiều bóng anh che sông
Sớm mắt em lóng lánh…”
Ngồi ở bên sông ta như thấy cái luân hồi của ta. Tháng 6, mưa lớn thượng nguồn… chiều qua còn như một dòng sông chết (cạn bằng lòng đĩa) mà sớm nay tất cả như bừng lên ầm ầm gầm réo hơn cả tiếng chó sủa, ngựa phi.
* Bó Áy Khảm nậm Ma khi khon
Nhắng xương pánh hảu mon vậy thả đé nớ!
* Hoa Áy dập dờn trôi ngang sông Mã
Còn thương nhau xin sắp gối riêng chờ.
(Hoa Áy vờn trôi ngang sông Mã
Còn thương, tay gối lả riêng chờ)
* Có thấy hồn lau nẻo bến bờ
Có nhớ dáng người trên độc mộc
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa.
Lũ về, sớm mai khi con chim Tăng Ló bên sông réo gọi, các chàng rể (lụ khươi) lò mò lội ven bờ “xem” các cái “đó” mà chàng ta “đặt” tối hôm trước “chờ nước lên” chắc mẩm sẽ vớ được vài con cá măng, cá chiên to hăng nước đầu mùa không may chui vào “đó” (lờ to) làm bữa ngon cho dân bản. Lũ về, mình là trai Đình Bảng, từ Hà Nội lên thượng nguồn Tây Tiến cái gì cũng lạ, cũng bỡ ngỡ, nửa đêm về sáng giật mình nghe sông réo… sớm mai ra bờ sông trông dòng sông chảy xiết, trong lòng lại vang lên khúc Trầm hùng của nhạc sĩ Đỗ Nhuận.
“Hồng Hà mênh mông trôi cát tới chân làng quê”…
Còn ở đây thì sông đổ ầm ầm, qua các ghềnh đá đổ thác bọt tung trắng xóa cứ như bờm đàn ngựa bạch đang phi hết tốc độ xông ra chiến trường cùng bom rơi pháo nổ vang rền, thật đúng là “Sông Mã gầm lên khúc độc hành”…
Lũ lên nhanh là lũ ống lũ quét cỏ cây hai bờ được một phen dọn sạch đôi bờ đất chỗ lỡ, chỗ bồi, bãi ngô, ven sông lại được phen tắm phù sa trồi lên xanh mởn…
Sau vài ba tiếng lũ lên cuồng nộ, thượng nguồn dứt mưa, thì con sông Mã “ngựa phi” lại trở thành Nậm Ma (chó sủa) ào ào, tấm tắc thân quen như con mực, con vện về nằm ngang dưới chân cầu thang, thật là:
Ai lên Tây Tiến mùa xuân ấy
Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi
29/2/2012
ĐÁM CƯỚI NGƯỜI THÁI
Ở người Thái: con gái khi lên 13 tuổi, trai 15 tuổi thường tổ chức nhuộm răng đen. Lấy cây “mạy cù”, mọc ở núi đá, đốt lên khói hơ vào miếng mai sắt thành dọt nước, trai gái nắm tay nhau, kể anh chị em. Trai lấy ngón tay miết giọt nước trên mai (cái mai đào đất) tra vào răng gái, gái tra vào răng trai. Sau đó hai người nắm tay nhau xuống thang đến bậc cuối, cùng nhảy xuống. Từ đấy trở thành trai gái thiếu niên. Từ đấy trở đi mới được ra chơi “Hạn Khuống” hát giao duyên tìm hiểu nhau (nghĩa là sang tuổi cập kê):
* Xíp pi ủa chắng dựt pên sao
Chái chắng dáo pên báo
Xíp xam chắng hụ thi bú
Xíp xí chắng hụ hú khẻo xóư chi son sao
Pánh há chắng hụ tắt xứa hổm nốm
Hụ hom phôn dệt chọng
Dóng Khửn khuống đang pháy
* Mười tuổi em đang lớn thành gái
Anh cũng lớn thành trai
13 tuổi em biết bắt cá suối
14 tuổi biết nhuộm răng đen làm duyên
Biết may áo che vú
Biết dành tóc làm độn
Óng ả lên sàn nhóm lửa
Khi 2 người tỏ tình gọi là “ổ báo sao”. Tiêu chuẩn là con gái phải biết se sợi, dệt vải, con trai phải biết đan lát những đồ dùng trong nhà. Gái sau khi có chồng con phải lo quần áo mặc, chăn đệm nằm cho chồng con. Trai phải lo tự túc đủ các thứ đồ dùng lặt vặt để đựng thóc gạo, rau, thịt cá, đồ dùng nấu cơm.v.v…
Tục cưới xin: Sau khi trai gái đã tìm hiểu “yêu nhau”, trai nói với bố mẹ đi tìm bà mối đến thăm dò nhà gái (gọi là pay chóm), thuận thì đi đến:
Lễ ăn hỏi: 1 đôi gà to, vài ba bát gạo, rượu, bánh kẹo, hoa quả đưa sang nhà gái. Ở Quỳnh Nhai cụ thể là:
Đồ lễ dạm hỏi gồm:
- Trầu 1 gói, vỏ trầu 1 gói, cau 5 kg
- Thuốc lào 1 - 2kg, thuốc lá 1 - 2 tút.
- Chè uống 2 - 3kg.
- Bánh kẹo tự chế 5 - 10kg.
- Hoa quả 5 - 10kg.
- 1 đôi gà (1 trống - 1 mái) 3 - 4kg.
- 1 con lợn 45 - 50kg
- Gạo nếp thơm (khẩu lương phửng ) 15 - 20kg.
- Gạo tẻ thơm (khẩu xẻ lạo lựu) 15 - 20kg.
- Rượu gạo: 40 - 50 lít.
Lễ dạm hỏi: (Lễ tham pặư).
Đội hình: 10 chàng trai + 5 cô gái sang nhà gái phục vụ cỗ bàn.
- Thách cưới: Khá nặng
Ở Mường La, Thuận Châu (thời 1960 - 1970) ngoài rượu thịt , còn là 1 máy khâu 5 con bướm (TQ) 1 xe Favorit (980đồng lúc bấy giờ: Lương phó ty có 80đồng)… ngoài ra là:
- Trầu 1 gói, vỏ trầu 1 gói, cau 5 kg
- Thuốc lào 1 - 2kg.
- Thuốc lá 100 - 200 bao.
- Bánh kẹo  5 - 10kg.
- Đường kính 5 - 10kg
- Hoa quả 50 - 100kg.
- Lợn béo 1 - 2 tạ
- Rượu gạo ngon 200 - 300lít.
- Gạo nếp ngon 1 - 2 tạ.
- Gạo tẻ ngon 1 - 2 tạ.
- Pa dăm (cá sấy rạch sườn) 10 - 20kg.
- Pa giẳng (cá sấy nhỏ) 10 - 20 giỏ
- Cá mắm 3 - 5kg đựng trong ống nứa.
- Cá ướp 3 - 5kg (nhiều ống).
Đám cưới được tiến hành trong 3 ngày 3 đêm.
Ngày 1: Chuẩn bị, dặn dò, cống nạp xong.
Ngày 2 (đại lễ): Thường nhà trai chọn giờ xuất phát (tránh giờ Dần) lấy giờ Mão (chớ mẩu).
Đi tiền trạm là 2 chàng trai “dò đường” tránh điềm xấu (có đám tang) để tránh.
Đoàn đưa rể: Ông mối, bà mối, phù rể 2 người khiêng đệm, 1 người vác chiếu (1 cót mây và 1 chiếu cói), 1 người đeo chăn, 2 người khiêng lợn, 2 người khiêng các lồng gà, 2 người khiêng rau và các thực phẩm khác, 1 người gánh các ống cá ướp.
Tất cả đều mặc đúng phong tục như áo cóm cúc bạc, áo dài (xửa luông), quần áo Thái nhuộm chàm láng củ nâu. Riêng chàng rể đeo dao bên hông, vai khoác túi,  1 tay khoác nón Thái. Ông mối đội khăn xếp mặc áo dài the, quần lụa trắng. Bà mối mặc áo dài (xửa luông), tóc quấn vòng hoặc búi sau gáy, (đây là Thái trắng Quỳnh Nhai) pắn cẩu bứt láy.
Có đội kèn “pí kẻo” vừa đi vừa đánh trống thổi kèn kèm pháo nổ… gây ồn ào phấn chấn.
Nhà gái chọn giờ đón rể (giờ Thìn - chơ xi)… nhưng rể cũng phải được xem lá số hợp “mệnh” với vợ chồng, ông bà nội ngoại (ta nái, pú da). Tục té nước, ném quả me tròn, hạt bông vải vào đoàn nhà trai.
2 chàng phù rể bước lên cầu thang máng hẳư (gian bếp), nhà gái ngăn lối, phải lạy quỳ “xin phép” được giăng tấm vải đỏ ở phía bên khung cửa (gọi là cả hồng) ý chúc phúc nhà gái và báo là nhà đã có rể.
Hai bà mối vào cửa ngồi xổm dâng 1 phong bì tiền dâng cưới đặt lên bàn.
Nhà gái có 2 bà đại diện (thẩu nái) đem cơi rượu ra làm lễ đón nhận - rồi hai bên hát đối đáp.
Lễ cưới linh đình 3 ngày. Rồi rể phải ở rể qua các chặng:
- Khươi quản (ngủ một mình ở gian ngoài cùng) sau 1 - 2 năm mới được chung chăn gối (thời gian thử thách) - bị đuổi là mất hết.
- Ở rể 1 - 3 năm. Có trường hợp không phải ở rể (do thỏa thuận 2 bên).
Lễ thành hôn gọi là “xú phả”: Kết búi tóc ngược “tăng cẩu”: Nhà trai đem đến 1 đôi vòng tay bạc, 2 nhẫn, 1 đôi hoa tai, châm cài tóc và 2 độn tóc gói vào sải thổ cẩm. Lễ tạ ơn mẹ vợ phải có 1 đôi vòng tay bạc và 5 đồng bạc trắng. Biếu bố vợ gọi là tiền “rổ cá, rổ thịt” cùng khoảng lễ đó gọi là “tạ ơn dòng sữa mẹ đã nuôi con và ơn cha đã kiếm cá, thịt về nuôi con khôn lớn”.
Bên nhà gái phải có màn, thường dùng vải dày nhuộm đen chàm, có đệm và chăn gối.
Sau khi “tằng cầu” bà nào tốt số thì đưa 2 vợ chồng vào nắm tay nhau trong màn (người Kinh là vào rải chiếu).
Lễ cưới Thái tốn kém, ở rể khổ ải như một thời làm nô lệ (cuông nhốc dưới chế chế độ Phìa Tạo).
CẦU VÀO BẢN
“Mường của anh có cầu gang, cầu sắt
Bản của em có cầu lim lõi chắc
Cầu lõi chắc bắc đôi cho anh qua lại
Thăm nhau dù nắng mưa không gì ngại”
Cầm Biêu
Chao, “về bản” đúng như nhà thơ của bản đã tả “Bản của em và Mường của ta/ đường đi lại quanh có uốn khúc/ đường đi mãi hết đèo lại dốc/ đường đi qua rừng dướng, luồn rừng giang/ và đi theo con suối về làng/ dòng suối nhỏ chảy quanh bụi nhót/ rồi chảy lọt giàn dưa…”
Chao, bản trước mặt là sông, bên hông bản là suối. Sông buổi sớm như mặt gương phẳng lặng cho ta soi bóng. Sông có đêm nước lên gầm gào như chó sủa… còn suối bên đầu nhà quanh năm trong xanh rì rào thủ thỉ… chiều chiều đón em gái ra hái bon, xúc ốc.
Chao, con đường về bản là phải luồn rừng rồi đi dọc bờ sông, lội qua suối đầu bản… Để dân bản mùa lũ không phải lội suối nguy hiểm … thế là cả bản hò nhau lên núi vào  rừng đại ngàn chặt 8 cây lim to lõi chắc, phạt hết cành lá rối xúm nhau “kéo”, đẩy, bắn, bẩy tuột xuống suối “dòng” lôi về bản để bắc cầu qua suối. Trên mặt cầu được lát bằng phen tre đan để cụ già, trẻ con, trâu bò, ngựa đi qua không bị lọt chân…
Chao, chiếc cầu gỗ bắc ngang con suối.
“Nước suối có lúc cạn lúc lũ
Nước trên rừng lúc hiền lúc dữ”
- Nông Văn Bút
Đó thật là:
“ Cầu chúng ta vừa cao vừa chắc
Chẳng còn lo nước lũ, suối sâu
Cũng đón ông giáo Tiếp sang cầu
Để người già mừng khỏi khi mình chết
Không biết chữ nào bụng người còn tiếc”.
- Nông Văn Bút
Giữa bản mường núi sông hùng vĩ, rừng xanh tít tới chân trời thì cái cầu gỗ bắc ngang qua con suối rỉ rả vào thẳng tới chân cầu thang nhà sàn đầu bản như là biểu tượng của hồn bản, hồn mường. Chính nơi đây những đêm thu trai gái bản ra đứng trên cầu đàn đúm: thổi khèn, thổi sáo, đánh đàn “tính”, hát giao duyên, ngắm ánh trăng vàng mênh mang trôi theo dòng suối ra ngoài sông âm vang tiếng thác.
Chao, chiếc cầu vào bản - cầu gỗ, dân bản tự làm tự bắc cho mình bằng chính vật liệu thiên nhiên của rừng quê, nó thân yêu thánh thiện làm sao, dịu chân, mát mắt vô cùng, nắng mưa đều hiền như bản, thầm lặng thanh bình để ta:
“… đi cùng em
Cùng em tới
Bên kia sông Mã
Tìm rêu đá cùng nhau”
- Cầm Cường
Cầu vào bản thân thương là vậy.
TIẾNG MÕ TRÂU
Chiều về “lốc cốc” mõ trâu
Âm vang tiếng bản bên cầu nước xanh
Khói thơm bếp lửa vờn quanh
Lùa trâu về Púng(1) bên ghềnh ngẩn ngơ.
- NK
 (1) Púng: thung cỏ
NÚI  MƯỜNG HUNG
DÒNG SÔNG MÃ
Con sông Mã chảy đến đây chừng như chững lại, mở rộng bồi đắp đôi bờ thành cánh đồng của Chiềng Cang, Mường Hung. Núi ở đây không cao lắm nhưng trên đỉnh có mây phủ với rừng đại ngàn ngút tới Thượng Lào (Hủa Phăn). Bản nhà ở đây đông vui trù phú với những ruộng lúa, bãi dâu xanh biếc, con gái ở đây da trắng nõn nà…
Ấy là vào hồi tháng 10/1953 có một chàng trai Thanh Hóa (Lê Gia Hợp) Đội viên Đội vũ trang tuyên truyền (Việt Minh) đã đi sâu vào vùng hậu địch, tới đây “cắm bản” để xây dựng cơ sở kháng chiến chống Pháp ở vùng biên giới Việt Lào. Ai ngờ, chàng ta lại là một thi sĩ, là cán bộ “bí mật” sống giữa lòng dân “3 cùng” với đồng bào, trước cảnh đẹp, người xinh… hồn thơ anh ta thấm đượm các khúc hát “khắp” - tình ca Tây Bắc viết theo kiểu ví von (anh là/ em là…). Thế là một bài thơ tự nhiên xuất thần:
(Mường Hung = mường trong sáng)
NÚI MƯỜNG HUNG
DÒNG SÔNG MÃ
Anh là núi Mường Hung
Em là dòng sông Mã
Sông nhiều rêu, nhiều cá
Núi nhiều thú, nhiều măng
Chiều bóng anh che sông
Sớm mắt em lóng lánh
Sáo cành cây anh thổi vang lanh lảnh
Gió  lùa qua miệng anh lại mỉn cười
Giữa lòng em thuyền độc mộc ngược xuôi
Như trăm nỗi băn khoăn khi đến tuổi
Nếu trời làm em sóng nổi
Anh ngả mình ngăn lại lúc phong ba
Em là búp bông trắng
Anh là ngọn lúa vàng
Thi nhau lớn đẹp nương
Tỏa mùi thơm cùng nghe chim hót
Em cứ về nhà trước
Đợi anh ở bên khuông
Anh là no lòng Mường
Em làm vui ấm bản
Nếu con gấu dẫm gẫy cành bông trắng
Lá lúa anh sẽ cưa đứt chân
Nếu lúa này chuột khỉ dám đến ăn
Sơ bông em sẽ bay mù mắt nó                   
Anh là rừng thẳm
Em là suối sâu
Cây rừng anh làm cầu
Bắc ngang lên lòng suối
Hoa rừng nở đỏ chói
Soi bóng xuống lòng em
Suối chảy quanh ấp rừng vắng ngày đêm
Cây gỗ lớn là tay anh vững chắc
Nếu hùm qua suối em thành thác
Nếu sói về rừng anh sẽ thành chông
Quyết chẳng chịu đau lòng
Đời chúng ta rừng núi
Suối em phá tan bóng tối
Rừng anh chặn lại bão giông
Để anh lớn mãi thành núi Mường Hung
Em ngoan chảy thành dòng sông Mã
Mường Hung 10/1953
Cầm Giang
Bài thơ chép tay, được gửi qua “giao thông” về hậu phương… với bút danh Cẩm Giang (ý là quê vùng Cẩm Thủy - Thanh Hóa bên dòng sông Mã hạ lưu)… nhưng khi đến tay cô đánh máy (ở căn cứ báo chí) thì cô này phát hiện cái phi lý ở cái tên tác giả - ở Sơn La có họ Cầm, họ Lò… chứ làm gì có họ Cẩm? thế là cuối bài thơ in ra được đề tác giả Cầm Giang.
Bài thơ sau đó được nhạc sỹ Bùi Đức Hạnh phổ nhạc thành bài “Tình ca Tây Bắc” nổi tiếng trở thành “khu ca” của đài phát thanh Tây Bắc một thời.
(Nhạc sỹ thực ra chỉ lấy 1 số câu, còn là mô phỏng thơ Cầm Giang mà thôi).
Bài thơ thực ra cũng chưa hay lắm, nếu so với “Tình sông núi” của Trần Mai Ninh, “Đèo cả” của Hữu Loan thì cón cách xa mấy quăng dao.
Bài thơ viết theo kiểu ví von của Trường ca Tản chụ xiết xương (tâm tình người yêu): Trai đáp/ gái đáp nên có giọng điệu dân ca Thái, để người đọc dễ tưởng đây là 1 tác giả dân tộc Thái.
Có câu sáng giá:
Giữa lòng em thuyền độc mộc ngược xuôi”
Làm ta nhớ lại từ hồi 1936, Lưu Trọng Lư đã viết:
Mắt em là một dòng sông
Thuyền ta bơi lặng trong dòng mắt em
Rồi các câu khá ấn tượng mới mẻ:
Anh làm no lòng Mường
Em làm vui ấm bản
Đoạn dưới “ký sự” kiểu thơ tuyên truyền hô khẩu hiệu của thời kháng chiến chống Pháp (mà Bùi Ninh Quốc, Phạm Tiến Duật sau này với “đường ra trận mùa này đẹp lắm” đã vượt trên cả Tố Hữu, tất nhiên là dưới tầng Chế Lan Viên).
Tuy vậy, xét về bố cục cấu bài thơ (mở đầu, thân bài, kết luận) thì tài hoa thơ Cầm Giang so các cây viết thời 1946 -1954 ở Tây Bắc thì Cầm Giang vẫn là số 1. Hai câu kết có thể nói là Đẹp, khá đắt:
Để anh lớn mãi thành núi Mường Hung
Em ngoan chảy thành dòng sông Mã.
Đó cũng là cái “bất tử” của một tứ thơ lạ “đẹp” cùng với quê hương xứ sở.
Năm 1961, NXB Văn học có in cho Cầm Giang tập thơ “Rừng trắng hoa Ban” gồm 30 bài, bài viết sớm nhất “Quả còn” Lai Châu 7/1950, bài cuối “mở lò thông gió” 1959 ở Mỏ Cẩm Thái Nguyên… xem kỹ chỉ có 1 bài đáng giá ở trên mà thôi.
Thơ khó là vậy
3/3/2012
BÓNG NÚI 
Em đi bóng núi nghiêng theo
Bụi tung vó ngựa qua đèo mù sương
Từ anh về với bản mường
Với trông bóng núi dặm đường em đi
NK.
NHỚ MƯỜNG HUNG
(Nhớ anh Cầm Giang)
Mường Hung sáng núi xanh soi sóng biếc
Em vớt rêu thả mượt tóc thung mây
Con cá măng nào hay sông biên giới
Tiếng khèn Lào sang chợ thổi nồng say
Trai Mường Hung thả bay thuyền đuôi én
Vài tay chèo tới Xiềng Khọ - Sầm Nưa
Sắm đồ cưới anh chở về - đúng hẹn
Vòng bạc trao lấp lánh dưới trăng mờ
Từ xa cách bản quê về Hà Nội
Đêm nằm mơ thác đổ trắng ngang trời;
Sớm mai dậy nhớ mây hồng đỉnh núi
Tiếng gà rừng vang động cả hồn tôi.
NK-
XUÂN BIÊN CƯƠNG
Sơn La xuân ở dài hơn
Tháng tư còn trắng hoa Ban trên rừng
Mà đây nắng hạ chói bừng
Chiềng Khương hoa Gạo đỏ lừng bến sông
Biên giới Việt Lào 6/1963
NK-
CHIỀU BẢN NHỎ
Chiều vắng vẻ lặng tờ nơi bản nhỏ
Người đi nương, ra ruộng chưa về
Chỉ lũ trẻ đùa nô trên bến tắm
Và một chàng “cắm bản” lắng hồn quê.
Con gà đẻ trứng xong kêu “cộc tác”
Con Vện nằm canh cửa mắt lơ mơ
Mặt suối xanh in bóng cầu vừa bắc
Cọn bên đồng cuốn nước xối như mưa…
Chiều bản nhỏ ngàn xưa đời vẫn thế
Cứ yên vui cùng xứ sở thanh bình
Không giặc giã, gươm trên tường nằm nghỉ
Ngựa lỏng cương thả bộ dọc dòng kênh.
Ai đấy nhỉ một mình nơi thôn dã
Để nhớ ai ngoài phố thị ồn ào
Hẹn một buổi đón về thăm bản nhỏ
Cùng vào rừng hái nấm mé đèo cao.
NK-
TẮM Ở BẢN
Bản người Thái (ở lưng núi) không có ao như làng người Kinh (ở đồng bằng)… nhưng việc tắm rửa cho sạch sẽ thân mình thì người Thái ăn đứt người Kinh là cái chắc.
Ở bản có 3 cách tắm rửa:
- Một là nơi “mó nước” đầu bản: Đó là nơi có ống nước tự chảy dẫn qua ống máng tre từ trên nguồn đổ về trong sạch tuôn suốt ngày đêm… thường có 2 ống: một bên nam, một bên nữ. Ngăn cách 2 bên là một phên nứa để bên nào bên ấy “tắm truồng” thoải mái.
Thường thì 3, 4 giờ chiều mùa hè, dân bản đi nương, ra ruộng về, tất cả tới mó nước đầu bản là “kẻ xuộng xựa” (cởi quần áo “tắm”). Chị em thường là ý tứ ngồi xổm, khép đùi, áo được cởi vắt trên con sào bên cạnh, váy được dâng lên đỉnh đầu, ngực lưng hứng vào ống nước đang chảy, 2 tay xoa kỳ cọ thoải mái, đúng như “da trắng vỗ bì bạch”, vú để tự do (là của trời cho) ai thấy cũng chẳng sao.
Cánh đàn ông thì “truồng” 100%  chuyện trò cười đùa rôm rả… thật cứ như nơi vườn địa đàng buổi ban đầu con người còn chưa biết xấu hổ (nả hại) - tức là khi người nữ chưa ăn trái cấm (theo lời xui của con rắn “quỷ sa tăng”) nên tất cả đều rất vô tư, tắm truồng chung 1 mó nước, thỏa thích ngắm thân hình khỏa thân của nhau mà trong lòng không gợn chút dục vọng thú tính để dẫn đến tội lỗi?...
- Hai là: Tắm suối (vắng vẻ là tắm truồng)
- Ba là: Tắm sông
Chị em thường là ngồi ngâm mình dưới nước, váy để trên đỉnh đầu hoặc váy để trên bờ. Khi tắm ở sông suối, chị em thường kết hợp gội đầu, thả làn tóc mây xòa theo dòng nước, rồi đứng dậy, vung quay tít cứ như một điệu múa tóc thật là điệu đàng của các tiên nữ trên mường trời.
Người Thái rất tự hào về cái sạch sẽ da thịt của mình… chị em ngày rửa tới vài lần, lại mặc váy rộng xông xênh, nên thường nói đùa “hi của chúng tao là hi hom (thơm), chứ không bịt kín (xi líp), quần bó chặt như người Kinh chúng mày, nên hi min (thối) lắm bệnh phụ khoa”.
Văn minh đô thị hay hoang sơ thôn bản (trở lại cuội nguồn tự nhiên chưa ô nhiễm môi trường) đang là một vấn đề nhức nhối của cái thời công nghiệp hóa, hiện đại hóa, và con người hình như đang tự đánh mất mình để tiến lên văn minh tàn bạo.
Tắm ở bản (cũng như ở ao làng ngày xưa), chao ôi, đang lùi dần vào dĩ vãng để tắm nước máy đã được xử lý bằng hóa chất (chất độc hóa học diệt khuẩn)…phải chăng ta cũng đang tự “diệt mình” làm biến đổi gen để rồi sinh ra 1 lũ con cháu vô cảm chỉ biết “tiền” và máy móc,vũ khí tiêu diệt, hủy diệt hàng loạt mà thôi….?
4/3/2012.
LỄ TẰNG CẨU
Lễ tẳng cảu (tằng cẩu): Là lễ búi tóc ngược lên đỉnh đầu của phụ nữ Thái đen Sơn La khi lấy chồng.
Sau lễ mai mối, chạm ngõ ăn hỏi và lễ cưới, người con gái đã có chồng thì lễ tẳng cảu làm ở nhà gái.
Trong các đồ sính lễ do nhà trai đem sang thường phải có 1 chiếc trâm bạc cài tóc (mản khắt phôm)… người đảm nhiệm làm thường là bà dì, nhà gái có 2 phù dâu trợ lý tiến hành.
Đầu tiên là gội đầu bằng nước vo gạo nếp (để chua) - bẳng nậm khẩu má và nồi nước lá sả, lá bưởi, lá tre… tất cả đem ra bến nước bờ suối giúp cô dâu gội đầu (như một lễ tẩy dơ bẩn trôi theo dòng suối, chỉ còn lại trên đầu phần vía (khoăn hua) thơm tho tốt lành… xong cô dâu về lên phía “tang chan” - khoảng 10 ghế mây (tắng)… cô dâu quay về phía mặt trời mọc, mọi người đứng xung quanh, 2 phù dâu áp sát 2 bên, 1 người nâng đĩa trâm cài tóc. Bà “Nai tằng cẩu” rút lược sừng đen từ cái “ếp” của mình ra làm vài động tác đưa lên hạ xuống và chải tóc cho cô dâu nhiều lần.
Cuối cùng dùng 2 tay vuốt ngược từ sau gáy, đưa độn tóc đặt vào chính giữa đỉnh đầu và búi tóc “tằng cẩu”… sau khi vuốt nắn lại không còn sợi tóc nào vương lòe xòe, thì cô nâng trâm cài tóc xuyên đúng chỗ để giữa “cẩu”, nổi bật đồng bạc hào hoa văn trắng ở phần đầu của trâm cài tóc chính giữa búi tóc ngược.
Trước đông đủ mọi người, bà Nai cẩu nói:
Khắt cẩu đi
Vi hoa kiểng
Tẳng cảu au phua
Té nị pay nả
Báu đảy rặm pay nảư
Chăư pay ứn luk ơi!
Nghĩa là:
Gội đầu sạch
Chải tóc mượt
“Tẳng cảu” lấy chồng
Từ giờ này đi
Từ nay về sau
Không được nước thay dòng
Lòng đổi chỗ con ơi!
Tiếp theo 2 vợ chồng dắt tay nhau đi qua dọc bàn tiệc đặt dài giữa nhà đã có khách ngồi kín đông vui nâng chén rượu chúc mừng.
NK-
TỤC ĐẺ NGỒI CỦA NGƯỜI THÁI
* Đẩy xí phiên xong hắu chắng ó kin khẩu
Cẳư bươn phạ chắng ó kin nốm
Tốc khuổm chắng pên lụ chái
Tốc hai nọng ánh xai phên lụ nhinh phủ ưởi
* 10 tháng chờ đôi ta ra đời ăn cơm
9 tháng đợi đợi đôi ta ra đời bú mẹ
Rơi sấp thành bé trai
Rơi ngửa em yêu thành bé gái.
Khi chuyển dạ, sản phụ được uống nước với cây “mậy phang” (cây tô mộc) có tác dụng cầm máu (có trong rừng hay mua của người Dao, người Hmông).
Sản phụ đẻ ngay trong ngăn buồng ngủ của mình trong tư thế ngồi (ghế = tắng), đỡ đẻ thường là mẹ đẻ hay mẹ chồng, hoặc tự xoay xở (nay thì có y tá bản)…
Lễ vật cúng “bà mụ”: 1 con gà trắng, cắt rốn bằng dao cật nứa hơ qua lửa hay nhúng vào nước sôi để sát trùng. Rau thai được gói chôn gần nhà (kín đáo vào ban đêm).
Khi trẻ đầy tháng thì cúng “hết hoóng”. Có nghi thức dạy trẻ lao động theo giới và mời Lúng ta (bên ngoại) đến đặt tên cho cháu.
NHÀ SÀN BẾP LỬA
Ta lại về với nhà sàn bếp lửa
Một mùa đông ăn củ sắn lùi
Vó ngựa phi qua đèo Khau Cả
Ngắm sông Đà đổ thác réo sôi
Em vẫn đợi ở bên rừng vắng
Dải khăn Piêu tung cách bướm hội xòe
Ta đi giữa cánh rừng Ban trắng
Tiếng chim Tăng Ló vọng hồn quê
Từ em đi, anh không về nữa
Đầu hồi nhà “khau cút” ngóng chờ ai
Đêm mơ về nhà sàn bếp lửa
Nghe gió mùa thương nhớ tháng giêng hai.
NK-
SÔNG ĐÀ HÙNG VĨ
* “Nặm Té hảnh to thú chắng lứm
Sôn Đà cạn bằng chiếc đũa, hãy quên”
* Chúng thủy giai đông tẩu
Đà giang độc bắc lưu.
Sông Đà (Nậm Te), còn gọi là Sông Bờ hay Đà Giang, Hắc Giang là phụ lưu lớn nhất của Sông Hồng, bắt nguồn từ Vân Nam (TQ) chảy theo hướng Tây Bắc - Đông Nam. Sông Đà dài 910 km (có tài liệu ghi 983km), bên TQ gọi là Lý Tiên Giang do 2 nhánh Bả biên Giang và A Mặc Giang hợp thành…được dịch ra tiếng Châu Âu là sông Đen: Black Rive (Ave), Rivière Noire (Pháp).
Đoạn bên TQ dài 400km từ núi Ngụy Bào, ở huyện tự trị người Di, người Hồi Nguy Sơn phía Nam Châu tự trị dân tộc Bạch Đại Lý chạy theo hướng Đông Nam qua Phổ Nhĩ.
Đoạn bên ở Việt Nam dài 527km (có tài liệu ghi 543km), bắt đầu từ huyện Mường Tè (Lai Châu) qua Điện Biên, Sơn La, Hòa Bình tới huyện Thanh Thủy (Phú Thọ) bên kia là Ba Vì (Hà Tây cũ). Điểm cuối là ngã ba sông Hồng  Đà ở huyện Tam Nông (Phú Thọ). Sông Đà cung cấp 31% nước cho sông Hồng.
- 1994 - nhà máy thủy điện Hòa Bình, có công suất 1920 MW (8 tổ máy).
- 2005 - khởi công thủy điện Sơn La 2400 MW - xong vào 2012, sẽ tiếp ở Lai Châu. Hồ Sơn La dung tích 9,26 tỉ mét khối nước.
Sự hùng vĩ của sông Đà, đó là những ghềnh thác dữ dằn gầm thét âm vang giữa 2 bờ vách đá dựng đứng, như nỗi thù hận nghìn đời giữa trời và đất để hung dữ, để tàn phá, để nhấn chìm tất cả.
Năm 1958 Nhà văn Nguyễn Tuân đi thực tế đến với sông Đà, Ông đã ghi lại những cái tên và tính nết của một số thác trong số 73 cái thác có tên trên sông Đà về từ biên giới Việt Trung tới thác Bờ (Hòa Bình):
“Cách biên giới TQ phía Vân Nam khoảng mười cây số là thác kẻnh mỏ trên”. Rồi đến thác La Sa, Hát Vá, Mằn hi, Mằn Lay. Rồi thác Hát Nhạt, Mằn thẳm, Hát No Héo, Kẻng mỏ dưới. Rồi đến Hát Lai ở trên thị xã Lai Châu (Mường Lay) độ 9km.
Thuộc thủy phận Sơn La là các thác: Hát pi, hát soong pút, hát soong mon, hát pố, hát kếnh, hát chan, hát moong, hát tiếu; qua hát tiếu (tiếng Thái chữ hát = thác) “qua hát tiếu, rải chiếu mà nằm” coi như về cơ bản đã qua những chỗ nguy hiểm.
Từ Vạn Yên tới Hòa Bình lại xuất hiện một số thác tuy có bớt hùng dữ hơn ở phía trên Lai Châu, Sơn La…đó là những “ga” nước trên sông Đà:
Thác Ẻn, Thác Giăng, Bãi chuối, Mó sách, Bãi lời, Bãi lành, mó tôm, mó nàng, Nánh kẹp, Quai chuông, Tà phù, Bãi nai, Ba hòn gươm, phố khủa, gềnh đồng, suối bạc, ổ gà, bái nhạp, cánh cuốn, mèo quen, hang miếng, quần cóc, suối trong, bãi ban, riềm, thác rút, thác mẹ, bãi thằng rồ, mó tuần, suối hoa, hót gió, thác Bờ…
Sau khi các đập thủy điện hoàn thành, tất cả các gềnh thác được nhấn chìm xuống đáy hồ sông Đà mênh mông chia 3 khúc: hồ Hòa Bình (từ thác bờ - Hòa Bình tớ tạ bú - Sơn La) rồi từ đập Pả Vinh - Ít ong (Mường La) tới Nậm nhứn Mường Nhé - Mường Tè - Lai Châu…
Từ thời Lê, trong “kiến văn Tiểu Lục”.Bảng nhản Lê Qúy Đôn (1723 - 1872) đã viết: “Thác Bờ ở địa phận Động Dĩ Lý và Hào Tráng thuộc Mộc Châu”,như 1 ngọn núi đứng sừng sững giữa dòng là sông Đà, đá lớn lởm chởm, hàng năm cứ đến ngày 8 - 4 từng đàn cá ngược dòng nước bơi lên, chỉ có vài con cá chép khỏe là vượt được thác bờ (cá vượt vũ môn).
Sách “Giao Châu ký” của Tăng Cổn (cuối thế kỷ 9) nhà Đường đô hộ Giao Châu (Tiết độ sứ) - có ghi về sông Đà “có Long Môn”, nước sâu trăm tầm, cá lớn vượt lên được chỗ này sẽ hóa rồng.
Trong sách “Sơn đường tứ khảo” gồm 228 quyển và bổ di 12 quyển … Bành Đại Dực (nhà Minh) biên soạn có chép “sông Long môn ở huyện Mông (Yên Lập - Phú Thọ) phủ Gia Hưng, nước An Nam phát nguyện từ Châu Minh Viễn (Vân Nam), nước sông chảy đến đây, 2 bên bờ cao vót, hiểm trở, tảng đá lớn chắn giữa sông chia làm 3 dòng, sức nước vọt lên cao đến vài trượng, nghe ầm ầm như sấm, thuyền đến đây phải kéo lên bờ mới qua được”.
Sườn núi động Hào Tráng ở về phía bờ trái, có khắc 2 bài thơ (ngự thơ) của vua Lê Thái Tổ đi đánh Đèo Cát Hãn:
Lê Quý Đôn dịch:
“Gập gềnh đường hiểm chẳng e xa,
Dạ sắt khăng khăng mãi đến già
Lẽ phải quét quang mây phủ tối,
Lòng son san phẳng núi bao la.
Biên cương cần tính mưu phòng thủ
Xã tắc sao cho vững thái hòa
(Hư đạo nguy than tam bách khúc
Như kim chỉ tác thuận lưu khan)
“Ghềnh thác ba trăm” lời cổ ngữ
Từ nay xem chẳng nổi phong ba”.
Viết tại ngày tốt, tháng mạnh hạ (tháng tư) năm Thuận Thiên thứ 2 (1429).
“Đường lên mường Lễ (Lai Châu) bao xa 170 thác, 130 ghềnh”
- Ca dao
Cử nhân, thượng thư Phạm Thuận Duật (1825 - 1885) năm 1855 làm tri châu Tuần giáo (lúc ấy thuộc Sơn La, tỉnh Hưng Hóa trong sách “Hưng Hóa ký lược” có chép).
“Châu Đà Bắc ở xã Hào Tráng có bến Vạn Bờ tức sông Long Môn, cùng gọi là “đê long thủy”. Tục truyền rằng đây là nơi “cá vượt vũ môn” hóa Rồng.
Hai bên đá chốc đứng, chặn ngang cửa sông, ở giữa có một chỗ đá bị đục thủy (do nước xói mòn) gọi là Ao Vua, đó là nơi vua  Lê Thái Tổ đề thơ (1429).
Theo tác giả Anh Đức trong bài “xuôi dòng Đà giang trước lúc ngăn sông”, tạp chí Suối Reo - Sơn La 5/2004 thì:
“Từ thị xã Lai Châu cũ (Mường Lay) muốn xuôi xuống Quỳnh Nhai, ít nhất phải ngồi thuyền trên 200km, vượt qua trên 10 thác hung dữ với những cái tên hãi  hùng như thác Ba Bố, ghềnh Ba Cô, thác Bà Đái, hòn Chông, ghềnh chém sóng… thử thách đầu tiên là thác Ba Bố mùa lũ. Tuy các dải đá ngầm có bớt nguy hiểm nhưng những con sóng lại cực lớn, dập từng cơn táp mạnh vào mạn thuyền, con thuyền liên tục xô nghiêng chao đảo. Người chưa quen đi sông nước bao giờ thì lúc đó coi mặc cho số phận, còn những người từng trải thì thêm 1 lần trải nghiệm. Qua hết nghềnh thác, mọi người thở phào nhẹ nhõm. Đi từ sáng tới hơn 2 giờ chiều đến được bản Huổi Ca, xã Nậm Mạ, huyện Sìn Hồ (Lai Châu).
Rồi tiếp tục xuôi qua: Nậm Lốt, Pờ răng ky của đồng bào Dao, xã Nậm Hăn (Sìn Hồ), rồi tới Pắc Phạ, Pắc Na của đồng bào Hà Nhì, Thái trắng xã Tủa Thàng (Tủa chùa)…
Vào đất Sơn La là bản cũ xã Cà Nang (Quỳnh Nhai) của đồng bào La Há hiện dưới cánh rừng ven suối. Qua huyện lỵ Quỳnh Nhai: Thuyền ghé qua các bến Pá Uôn (nay có cầu), Chiếng Bằng, Văn Pán, Nậm Giôn, Nậm Mu, Liệp Tè…
Thác Pá Mu hung dữ mùa cạn, khi nước dâng thì hiền lành là bến đò đưa khách qua sông.
Tại Pá Vinh - nơi xây Thủy Điện Sơn La có cây cầu cứng qua sông để thi công… Sau 5 ngày lênh đênh sóng nước, thuyền cập bến Tạ Bú an toàn.!.!.
BẾN TẠ BÚ
(Tặng: Nguyễn Văn Huân)
Bến Tạ Bú một sớm mai mình đến
Nước sông sâu xanh biếc tự đáy lòng
Hòn cuội trắng soi hồn ta tỏa nắng
Theo ngựa thồ sang tận En Ong
Ơi thác Chiến, có xuôi thuyền đuôi Én
Bản Pha Khinh ai đó hẹn ta về
Đêm nay “lẩu xiêu” vui cạn chén
Bếp nhà sàn tiếng “Pí” thổi say mê
                             Bến Ta Bú nào có ai ra tắm
Để vừng trăng đắm đuối giữa dòng
Mình là trai bản Phiêng Ngùa lạ lẫm
Đến bến thuyền xuống ngựa ngẩn ngơ trông.
Nguyễn Khôi
“Nước Sơn La ma Tạ Bú” (cũng có người nói ma Hòa Bình)
CÂY ĐÀO TÔ HIỆU - AI TRỒNG?
Ở khu di tích bảo tàng “nhà tù Sơn La” trên đồi Khau Cả, áp sát dinh Công Sứ (thời Pháp thuộc) nay là trụ sở UBND khu tự trị Tây Bắc, rồi tiếp là trụ sở UBND tỉnh Sơn La.
Ở cách cổng nhà tù xưa một quãng có một ô nhỏ “Iđôlê”rộng khoảng 4m2, hình tam giác vuông - xưa có cửa là một phiến gỗ lim dày, vừa để 1 người lọt ra vào. “I đôlê” ở ngay bức tường sau khu thường phạm, bước chân ra là đường hành lang tròn (đường Rông).
Năm 1940, nơi đây nhốt 1 người tù Cộng Sản: Anh Tô Hiệu (30 tuổi) nguyên Bí thư Thành ủy Hải Phòng Đảng Cộng sản Đông Dương - quê Xuân Cầu, Văn Giang, Bắc Ninh. Sau những trận đòn thù của thực dân Pháp ở các nhà tù như Côn Đảo, Hỏa Lò… anh Tô Hiệu đã bị “lao” nặng nên bị nhốt cách ly ở “I đôlê”- lúc này anh Tô Hiệu là Bí thư chi bộ nhà tù, tuy bị đau nặng, lại phải nằm bệ ci ment, nhưng anh vẫn làm việc hết mình… đến ngày 16/7/1944 thì anh trút hơi thở cuối cùng trong vòng tay các đồng chí của anh.
Nhà tù Sơn La do thực dân Pháp xây để nhốt tù chính trị, tường cao, sàn sân láng ci ment, 1 ngọn cỏ không thể mọc được, tường và sân, kể cả đường “nông” đều dầm đá dăm + ci ment (bê tông) dày hàng nửa mét (để đề phòng tù nhân đào hầm tẩu thoát). Luật lệ canh gác nghiêm ngặt, thường có lính gác đi lại liên tục ngày đêm nên không ai có thể đào bới trồng cây trong sân nhà tù.
Sau Cách mạng tháng 8, khoảng năm 1948 (do các  đ/c ở đây kể lại) khu di tích nhà tù bị bom Pháp đánh sập, bị bỏ hoang…
Sau năm 1954 (hòa bình lập lại) thủ phủ khu tự trị Thái Mèo đặt ở Chiềng Ly (Thị trấn Thuận Châu), tỉnh lỵ Sơn La cũ (Chiềng Lê là một thành phố chết và đổ nát)… thuộc 2 xã Chiềng An, Chiềng Cơi, huyện Mường La (Châu Mường La)… mãi tới năm 1962 mới thành lập thị xã Sơn La: Các cơ quan của khu và tỉnh mới chuyển từ Thuận Châu về thị xã , nhà cửa mới được xây dựng, khu nhà tù vẫn là một phế tích, nay là Thành phố.
Năm 1958, nhà văn Nguyễn Tuân đi thực tế ở Sơn La, trong tùy bút “Sông Đà” nổi tiếng, ở trang 129 - 134, ông có viết thiên “Đào cộng sản” nhân sau khi đến thăm khu phế tích nhà tù Sơn La xưa “tôi dạo hết sân ngoài sân trong, nhìn tường đá, nhìn xi măng cốt sắt, nhìn cây. Có những cây hao hao cây Xoan, và mấy gốc muỗm. Thế thôi. Tôi biết. Ở đây còn có cây đào, cây đào ông Tô Hiệu”… Rồi nhà văn xuống khu vườn ổi chân đồi Khau Cả viếng mộ anh Tô Hiệu:
“Đứng trước mộ đ/c Tô Hiệu nơi rừng ổi, tôi bảo tôi “nơi nghĩa trang tiễn biệt này, cần có đào”…. Đối với bậc lãng mạn cách mạng, lấy hoa đào để thực hiện lên cái vui hoa quả XHCN của Sơn La - Thủ phủ Tây Bắc ngày nay, thấy cần có bóng hoa ấy trên chữ vàng bia đá”.
Nhà văn Hoàng Công Khanh (1921 - 2010). Một bạn tù của anh Tô Hiệu, trong cuốn “Hoa nhạn lại hồng” NXB Văn Học 1992, trang 157 có viết “sau các trận bom Pháp, nhà tù Sơn La chỉ còn cái cổng và cái hầm sâu. Trên quảng đường “rông” gần “I đôlê” bỗng xuất hiện một cây đào rừng (đào phai không ăn quả được) nó lớn nhanh và hoa phớt hồng, sinh thời nhà văn Nguyễn Tuân nhân một dịp lên thăm qua thăm vết tích nhà tù thấy cây đào mọc bên cạnh phòng giam (xưa) anh Tô Hiệu đã vui miệng nói đó là cây đào Tô Hiệu”.
Rồi truyền miệng, báo chí  đăng tải, rồi Bảo tàng Sơn La gắn biển “cây đào Tô Hiệu” một huyền thoại thành hiện thực ca ngợi một chiến sỹ cộng sản.
Năm 1980 - 1981 tỉnh mới tu bổ lại thành khu di tích bảo tàng cách mạng.
Nguyễn Khôi tôi lên công tác Sơn La 21 năm (1963 - 1984) có cái may mắn: Hồi 1966 - 1970 công tác ở Ban Nông nghiệp tỉnh ủy Sơn La, 1978 - 1984 làm thư ký ở văn phòng UBND tỉnh Sơn La, nơi ở và nơi làm việc cách 1 bức tường là sang khu di tích nhà tù, cách chỗ gọi là “cây đào Tô Hiệu” vài chục mét.
Nguyễn Khôi tôi cũng có cái may mắn đã từng được đưa các bác Trần Huy Liệu, Văn Tân đi thăm lại nhà tù… và được nghe các bác kể chuyện đủ thứ về nhà tù. Năm 1984 tôi về công tác ở VPQH và HĐNN, có điều kiện cận kề bác Trường Chinh, Nguyễn Hữu Thọ, Lê Thanh Nghị, Xuân Thủy… lại thường xuyên giúp việc bác Lê Thanh Nghị nên có điều kiện hỏi về chuyện nhà tù Sơn La (vì bác Nghị hồi trước 1945 cũng bị tù ở đây 5 năm cùng các bác Nguyễn Lương Bằng, Tô Hiệu, Trần Huy Liệu, Lê Đức Thọ, Xuân Thủy… bác Xuân Thủy, hồi sau làm Phó chủ tịch Quốc Hội).
Qua câu chuyện về cây đào “Tô Hiệu” thì bác Lê Thanh Nghị, Xuân Thủy đều bảo thời trước 1945, nhà tù chưa bị phá thì không thể trồng cây gì ở trong đó được. Sau này, đó là chuyện của Nhà Văn Nguyễn Tuân trong tùy bút Sông Đà với mấy câu lấp lửng “Cây đào ông Tô Hiệu”, rồi sau đó được báo chí “môliphê” như khẳng định… câu chuyện thực là thế, và có lẽ cũng chỉ nên nói là “cây đào bên buồng giam Tô Hiệu”.
Cây đào này (bên cạnh còn nhiều cây đào khác) hiện nay  được Bảo tàng Sơn La gắn biển “cây đào Tô Hiệu”… vậy thực là do ai trồng? Đó là do chim rừng, gió núi đem những quả đào dại (đào rừng) mọc đầy trên đồi Khau Cả gieo vào các khe nứt trên sân nhà tù xưa đã vỡ nát, rồi nảy mầm mọc lên thành cây… tất cả đào Sơn La hầu hết là “trời trồng” (mọc tự nhiên) không phải ai tưới tắm gì cả. Hậu thế, do quá yêu tấm gương hy sinh của người chiến sỹ cộng sản Tô Hiệu nên đã gán cho anh thêm cái “tình”: Ho lao rũ rượi chết đến nơi rồi mà vẫn gieo hạt, trồng đào nở hoa cho các thế hệ mai sau. Từ văn học (tùy bút) rồi thành huyền thoại, âu cũng là một tấm lòng, không nên bàn cãi qúa nhiều. Vấn đề là cất cái biển đã ghi tên kia đi… (Rendez  César ce qui appartient à césar).
NHÀ SÀN THÁI
Nhà sàn của người Thái - Sơn La - Tây Bắc “hướn hạn phủ táy” là một công trình kiến trúc tài hoa, hòa đồng với thiên nhiên, trời đất cùng vạn vật, có 2 loại:
- Nhà sàn khung cột: bộ khung được gá lắp từ các bộ phận rời, bắt đầu từ việc chôn cột (nhà cột chôn - nghèo) “hươn chim mạy”.
- Nhà sàn vì kèo “vì cột”: Kèo, cột, xà ngang đã được lắp ráp thành các đơn vị “vì kèo” dựng nối các vì bằng các xà dọc (tiến từ hườn khứ sang kẻ khứ (quá giang = khứ) có hai trụ để đỡ đòn tay (pe hản) là con cung. Đó là loại nhà “hườn kè khang” (nhà kê hạ).
Nhà sàn Thái bao giờ cũng làm số gian lẻ, 2 đầu hồi - “tụp cống” khum khum như mai Rùa, gắn với truyền thuyết thủa khai thiên lấp địa, thần Rùa “Pua tẩu”. Dạy người Thái làm nhà theo hình Rùa đứng.
“Khửn song phái/ cái song đay” - mở 2 cửa/ đi 2 cầu thang là  “tang chan” và “tang quản”. “Tang chan” ở cuối nhà bên trái dành cho phụ nữ. “Chan” là phần nhà sàn được nối dài ra ngoài trời. Đây là nơi đàn bà trong nhà ngồi nghỉ ngơi chơi lúc nhàn rỗi, thêu thùa, cầu thang phía này thường 9 bậc (9 vía).
Cầu thang đầu bên phải “tang quản” dùng cho nam giới; 7 bậc (7 vía).
Có 2 bếp lửa: “chik pháy” phía tang quản dành cho người già. Bếp chính phía tang chan dành cho nấu nướng, phụ nữ. Bếp lửa nhà sàn ở giữa nơi núi rừng âm u được coi như “trái tim bốc lửa” sưởi ấm nuôi dưỡng cả về vật chất, tinh thần cho cả nhà.
Gian “quản” có bàn thờ tổ tiên “hỏng hóng” và cột thiêng “sau hẹ”. Trên cột thiêng có treo hình Rùa bằng gỗ 3 bông lúa “sam huống khẩu” và 3 nhánh rau “thì là” “sam hóm chik” - đó là biểu tượng của tô tem giáo cùng bóng dáng thuyết thiên - địa - nhân.
Nhà sàn Thái vừa trang nhã vừa chắc chăn:
Hươn đi tẳng cang tèn
Hươn én tẳng cang vên
Lốm luông pặt bấu chại
Lốm hại pặt pấu pay.
(Nhà tốt dựng nơi cao ráo
Nhà đẹp dựng giữa mường
Gió to thổi không xiêu
Bão lớn không lay động).
* Sự tích cái Khau cút (hoa nhà)
Theo Quắm tố mướng (kề chuyện mường)
Thì: Cuộc thiên đi/ đi đường thuyền sợ rơi/ phải chuồn theo đường con don, con dím…
Người Thái từ xíp xoong păn na (Vân Nam) đi theo dọc sông Hồng (Nậm Tao - Sông Thao) ra đi vào cuối tuần trăng. Họ đi cứ đoán lũ nhìn vào mặt trăng khuyết ở cuối dãy núi, họ hẹn nhau, hễ ai đến được phương đất nào khi làm nhà thì dựng trên đầu hồi nhà (nóc) một cái dấu hình mặt trăng khuyết để nhận ra đồng tộc - và cái đó gọi là “khao cót” và gọi chệch là “khau cút” = sừng cuộn.
Theo tiếng Thái “khao” là trắng, cót là ôm có ý nghĩa là mối hận ly hương. Cái mô típ trang trí nghệ thuật “mặt trăng khuyết” này còn có ở cửa sổ, khăn Piêu…
Khau cút vẽ vân sen/ đầu kèo vẽ vân én/ mái nhà xén chân gianh bằng rui: Đó là tiêu chí nghệ thuật về nhà sàn Thái.
Khau cút là 2 thanh gỗ đóng chéo hình chữ X trên đòn nóc “tiêu bôn” trước hết là để chắn gió “pảy lốm” nẹp 2 mái gianh 2 đầu hồi nhà. Những nhà tầng lớp trên xưa còn thêm bông sen cách điệu ở 2 giao điểm 2 tấm gỗ và 8 hình trăng khuyết hướng  vào nhau so le trên khau cút.
Có nhiều cách hiểu về khau cút:
Đó là cặp sừng trâu cách điệu (văn minh lúa nước); Đó là những búp cây Guột (rau dớn)… nhìn thấy nó là ta nhớ bản nhớ mường.
Trên bậu cửa thường chạm hình đôi Thuồng luồng (tô ngựa) linh vật làm chủ trên sông suối, biểu tượng cho sức mạnh và gia đình hạnh phúc.
* Các loại khau cút:
- Khau cút mải: Là dạng đơn giản nhất chỉ là 2 thanh tre bắt chéo vào nhau, là dấu hiệu nhà của phụ nữ góa bụa (me mải).
- Khau quai (sừng trâu), khau pẻ (sừng dê), cút chim may (trăng khuyết) cút nêm (cút lá tre) là dấu hiệu của nhà bình thường.
- Khau của pụa (khau cút Vua) dấu hiệu nhà Quan lại, quý tộc gồm 2 miếng ván dài trên 1m, phần chót có đóng 2 miếng gỗ ngang, chia 5 nhánh, mỗi nhánh có gắn hình hoa thị theo số đếm của luật tục làm nhà.
- Khau cút căm (khau cút vàng) dưới có thanh gươm, là dấu hiệu của Nhà quý tộc “quan võ”.
- Khau cút hoa sen: Nhà quý tộc lớn.
Bố trí nội thất: Tiếp liền vách gian buồng thờ tổ tiên (hóong) là buồng ngủ của chủ nhà, phía chân thường đặt thêm bếp lửa để gia đình sum họp, sưởi ấm… chăn đệm chất đống đặt ở phía đầu ngủ.
Vị trí ngủ của các thành viên trong gia đình: Gian giữa “xáo hạch” và “hỏng ly” là gian khách đàn ông ngủ. Đối diện phía dưới là nơi con trai chưa vợ ngủ. Kề cột xáo hạch là vợ chông chủ nhà ngủ. Kế tiếp là vị trí Bố mẹ chủ nhà ngủ, tiếp là vợ chồng con trai ngủ, tiếp là nơi vợ chồng con gái ngủ, rồi đến con gái chưa chồng ngủ.
Con rể không được vào khu vực bố mẹ vợ ngủ, con dâu, con rể không vào khu bố mẹ chồng ngủ. Bố mẹ chồng không vào khu con dâu ngủ.
Sợi dây  “xảo lỏng luông” là ranh giới (sợi dây linh thiêng) nên người ta chỉ vắt khăn mặt, khăn Piêu lên sợi dây này.
Tuyệt đối không vắt quần áo, tối kỵ là váy áo phụ nữ.
Con gái chưa chồng
Vợ chồng con rể
Vợ chồng con trai
Bố mẹ
(ông bà)
Vợ chồng chủ nhà
Khách đàn ông
 * Các vị trí khác:
- Nơi để hạt giống (giàn 2 bếp)
- Nơi để ống nước: Dựa vào vách bên phải (thường ngồi quay mặt vào bếp)
- Nơi để khung dệt vải: Bên phải sàn xia phía trong nhà hoặc bên trái sàn xia  phía ngoài nhà.
- Nhà kho: Ở dưới gầm sàn
Lễ lên nhà mới: mời Lúng ta (ngoại) châm lửa nhóm củi ở bếp mới, mời mo đọc bài xua đuổi tà ma
GÁI THÁI
Cảm tưởng đầu tiên khi gặp “gái Thái” là nõn nà, sạch sẽ, đẹp, hấp dẫn cả dáng lẫn da.
Trang phục đẹp “độc đáo” tạo dáng đi tha thướt, uyển chuyển, làm nổi bật các đường cong gợi cảm nhưng vẫn kín đáo, thắt đáy lưng ong. Tính tình dịu dàng, hiền thục, dễ gần gũi, thực thà, chất phác, nói năng vừa phải.
Tình cảm: chân thành, yêu tha thiết, hoạt động tình dục mạnh mẽ, đứng tuổi mà bộ ngực vẫn đầy đặn.
“Gái Thái tóc thơm, da trắng, thịt mềm
Đôi bầu nhật nguyệt như mộng ước
Ru hồn trai lên cõi trời tiên”
Thông minh, hoạt bát, ham học hỏi và nhanh tiếp thu cái mới.
Sinh hoạt cộng đồng: dám phát biểu chính kiến, hay hát và hát hay, múa (xòe) giỏi.
Chăm chỉ đảm đang, nuôi con khéo, dạy con ngoan. Không đánh con, ít xảy ra cãi nhau (to tiếng), không ăn cắp, không nói dối (ba vẹo).
Có tính bình đẳng bình quyền (không tự ti), có chí khí vươn lên (danh ca có nghệ sĩ ưu tú Vi Hoa; chính trị cấp cao có Tòng Thị Phóng - ủy viên bộ chính trị, phó chủ tịch Quốc hội…)
Nhận xét (đánh giá) về “gái Thái” của chính các chàng trai Thái qua “Tản chụ xiết xương” (tâm tình người yêu) với cái lối nói “xiết” (kiểu nói kháy, hơi cường điệu, phóng đại “quá” lên một chút) đã ca ngợi cô gái có vẻ đẹp thông qua lao động:
“Xai pánh nhịp lang chủm pên hún nộc dung / phung lang he pến hún luống bin xẻo/. Lả tắt kẻo pên chớp lao vi”
(Em khâu vó nên hình chim công /vá chài thành hình lượn con rồng) đưa nhát kéo thành Sao Tua Rua/.
Cô gái xinh xắn ở trên sàn khuống khiêm nhường đáp lại:
“Khuống phủ khuôn nhinh khuống nọi, khống ai khái
Khuống pai chán dú ngăm nga phả
Báu đáng nả chụ pươn má cha đău ná”
(Khuống của em, Khuống nhỏ lại xiêu vẹo ở bên sàn ngoài, cớm cành cớm nguội chẳng xứng mặt chàng yêu của người sang chơi).
Người Thái có câu “au mia bấng me nai” (lấy vợ thì xem bà mẹ cô ta) ý là “mẹ nào con ấy”…từ lên sáu, lên bảy, bé gái đã được mẹ dạy tập nhặt bông, cán bông, quay xa, kéo sợi, cầm kim chỉ để khi lớn là thông thạo dệt vải vá may, tự tay trồng bông, dệt vải, nhuộm màu, cắt may quần áo, làm chăn gối đệm màu…Phụ nữ Thái còn giỏi trồng dâu, nuôi tằm, ươm tơ dệt thổ cẩm đẹp, thêu piêu…coi đây là các nghề phụ làm ngoài giờ ra ruộng, lên nương, nuôi dạy con cái. Đó là những bàn tay tài hoa, khéo léo:
“Sai pánh khuổn mư sại lẹo chum bok cai
Hai mư khoa chum bơk Mường Hỏ
Năng dóng dỏ nhịp lụa pên pik bin lá”
(Em úp tay trái nở hoa đào
Ngữa tay phải thành hoa Mường Hỏ
Khép ngồi khâu lụa thành (chim) vỗ cánh bay.
Sự chăm chỉ của các cô gái Thái thức khuya dậy sớm trên khung cửi từ canh ba, canh tư đến tang tảng sáng mới rời khung cửi đi nương, ra ruộng.
“Tứn tắm húk kem bươn hai
Tứn tắm húk lai kem bươn hai póng hung”
(Dậy dệt thổ cẩm cùng trăng sáng
Dậy dệt vải hoa cùng trăng tỏ rạng đông).
Người phụ nữ Thái quên ăn quên ngủ làm lụng tận tụy vì chồng con, xã hội… đã tạo ra các sản phẩm thiết thực quý giá… các chàng trai Thái luôn mơ ước kiếm được cô vợ đảm đang, qua lời hát “khắp” đã lý tưởng hóa về việc nàng thêu khăn đào tặng chàng:
“Lả tắm phải pên póc nong xe
Pánh tắm pé pên khoáng lái lủ
Chụ tắm khẳm pên khoáy lai lương
Cốn táng phương lướt le chăử hảy”.
(Em dệt sợi thành vóc hoa dâu
Em dệt tơ thành gấm hoa vân chéo
Dệt thổ cẩm rực rỡ hoa văn
Ước được em thêu dệt khăn đào).
Như vậy: Gái Thái với vẻ đẹp hình thể (vào loại nhất ở nước ta) thì cái đẹp bên trong, vẻ đẹp nội tâm quả là các cô nàng xinh đẹp để cho ta chiêm ngưỡng và yêu thương hết dạ.
8/3/2012.
PÍ PẶP                 (1)
Tiếng Pí Pặp lảnh lót
Rơi xuống nhà sàn em
Nhà sàn em tỏa sáng vừng trăng
Tiếng Pí Pặp nỉ non đêm ngày
Trải thảm lên thang gỗ chín bậc
Rơi vào đáy tim em.
Lò Vũ Vân
(1) Pí Pặp: Sáo trúc nhỏ
Pí = sáo “páu pí xáư hu quai” thổi sáo vào tai trâu (đàn gãy tai trâu)
Pí láo = sáo trúc dài
* Nhà thơ Lò Vũ Vân (19 - 8 - 1943) quê bản Noong Đa, Bắc Yên. Ở tổ 8. phường Tô Hiệu. TP Sơn La.
TÊN MỘT SỐ MÓN ĂN THÁI
Người Thái có câu “dệt kin xấư xốp nhăng báu hụ” - làm ăn vào miệng còn không biết thì mọi lời nói chữ nghĩa cũng chỉ là “tô xư tai” (con chữ chết) mà thôi. Theo Vi Liên:
1. Căm khảu (Phần về cơm):
Khảu nửng (cơm xôi), khảu lam (cơm lam), khảu tổm (bánh chưng), khảu chảo (cơm thổi), khảu canh (cháo), khẩu chí (cơm nướng)…
Khảu bái pa (cơm cá), khảu bái sáy (cơm độn trứng), khảu bái bay (cơm độn trám đen), khảu bái cưởm (với trám xanh), khẩu bái nậm ỏi (với mật), khẩu nhọm (nhuộm các màu), khảu qua mắn có (độn sắn), khảu qua khảu phảng (độn kê), khẩu qua li tổm (với ý dĩ), khảu qua phứa hom (khoai thơm)…
2. Căm chảm (các loại chấm)
* Le cưa khao (muối trắng), le ướt cưa (muối ớt).
* Các loại “chéo”: Chéo khinh hom (gừng), chéo ướt cưa (ớt tỏi), chéo báư líu (lá chanh), chéo hom chi lang (húng chó), chéo inh ki (húng) chéo hom kíp (tỏi), chéo hom pẻn (mùi tàu), chéo phắc chậu (sả), chéo thúa nau (đỗ tương), chéo pa (cá), chéo pu (cua), chéo mẹ (sâu măng), chéo non tó – chéo manh i (nhộng, ve), chéo đẻ mọn (nhộng tăm).
* Các loại mắm: Mẳm ca (cá), mẳm nước, mẳm khụa (nòng nọc), mẳm mẹ (sâu măng), mẳm co đường Pừng (nhộng cây móc), mẳm manh ti (nhộng ve), mẳm manh po (nhộng cánh cam), mẳm tắc ten (châu chấu), mẳm pu (cua), mẳm non tó (nhộng ong), mẳm manh đa (cà cuống), mẳm tô niểng (niềng niểng).
* Các loại nước chấm:
Nặm xổm đanh (măng chua), nặm xổm má xim (quả xím), nặm xổm mák (quả bứa), nặm xổm má liu (chanh)… kham bong (quả me), nặm mắm (nước mắm), nặm tôm (mắm tôm), pảnh van (mì chính).
3. Căm kin (phần về các món ăn):
* Phau (đốt) – chí (nướng)
Các món nướng (pỉnh): Pỉnh họn, pỉnh tộp (cá), pỉnh ho (gói), pỉnh mịnh (hơ), pỉnh mản (xiên), pỉnh mản xót (xiên miếng to).
* Các loại lam: Lam nhứa phặc (thịt nạc), lam nhứa hạp hạ (thịt bạc nhạc), lam phắc (rau), lam nó (măng), lam tô họk (con sóc), lam tô ổn (con dúi).
* Các loại “mốc” cá:
Gói lá vùi tro nóng: Móc tong (lá), mốc ố (ủ), mốc nhứa đảng (thịt khô), mốc cay (rêu đá), mốc pho, mốc ốt, …
* Các loại Ók gồm:
Hầm cách thủy: ók năng min, ók nhứa đảng (thịt chó), ók cay (rêu đá), ók tau (tảo), ók bon, ók ốt…
* Các loại nhọk (nghiền nhuyễn): Nhọk mák khừa (cà), nhọk mák thú (đỗ), nhọk năng (da), nhọk nhứa (thịt).
* Các loại mọk (tẩm bột hầm cách thủy):
Mọk cáy (gà), mọk pa (cá), mọk nhứa (thịt), mọk tô pụng (diều hâu), mọk tô hơn (don), mọk tô mển (dím), mọk cay (rêu đá), mọk hết (nấm), mọk mắk mư (quả chua ngọt).
* Các loại pho (đùm lá vùi nướng):
Pho hết côn (nấm rơm), pho cốp (ếch), pho hết hẹk (nấm hương), pho hết khôn cày (nấm da), pho chương tọng (lòng), pho pa (cá).
* Các loại nửng (xôi) “đồ”:
Nửng táo, nửng xá - đíp (chín tới), nửng pa (cá), nửng phắc kén (rau khúc), nửng man ca (búp sự), nửng pưới (nhừ), nửng nhứa (thịt), nửng mák buốp (mướp), nửng mák pi (hoa chuối), nửng dúak pi (nõn cây chuối rừng)…
* Các loại quả:…
* Các loại rau: Đều đem “đồ” mới ăn, phắc cát úp (bắp cải), phắc cát mong (cải xanh), mướk (bồ công anh), khỉ táu (diếp cá), noók (rau má), ngỗm (xương sông), cát đon (cải bẹ), cát choong (cải xoong), ót (rau ngót), xô-ók (dọc mùng), cút nặm (dớn), phắc ở lợt (lá lốt), phắc ven.
4. Các loại lá (lá non và ngon):
Bâư mắn co (ngọn sắn), bâư ổi, bâư ngoa, bâư đứa.
5. Các loại măng ăn ghém sống:
Nó khá, nó van, nó bới, nó thúa ngọk (đá), nó pửng, nó lau, nó man ca, nó tao, nó vai…
6. Các loại nấm: Hết bỉ, hết thu nún nặm.
7. Các loại quả thơm:
Măk khén (hạt tiêu rừng), măk he (tiêu), măk ớt (ớt).
8. Các loại vỏ:
Năng co hăm (vỏ cây hạt dổi)
Năng chưa bi mi
9. Các loại quả ăn sau bữa cơm (đét xe):
Măk teng (dưa), kiểng (cam), hảu (bứa ngọt), phong mạt (dứa), mắk muông (muỗm), hăm (hạt dổi), liu (chanh), cuổi (chuối), nghe (quýt), na (na), pục van (bưởi ngọt)…
10. Các loại bánh kẹo:…
11. Các loại chụp (nộm):
Chụp phắc chiệu (rau bướm), nó (măng)…
12. Nó xổm (măng chua)
Nó héo (măng khô chua)
Nó hang (măng khô)
13. Các loại củ quả:
Mắk ứk (bí đỏ), mắk phặc (bí xanh).
14. Các loại hoa “đồ” chín ăn được:
Bók ban (hoa ban), ít ương, thúa (đỗ), tong tay, hởng, nôm nẹ, pip, ứk, khạnh…
15. Các loại gỏi: Cỏi năng (da) cỏi pa (cá), cỏi nhứa (thịt), cỏi xổm (chua), cỏi khôm (đắng)…
16. Năm pịa, nặm bi (mật).
17. Kăm cắp (ghém):
* Các loại ghém rau thơm:
Hom kim (húng), hon xa au, hon pẻn, hon chỉ, hon kip (tỏi).
18. Căm nặm (phần để các món uống):
: Lảu xá chúp (rượu cần mút)
: Lẩu xiêu (rượu cất).
: Lẩu vạng (rượu cái).
Nặm ta (nước lã), lẩu xá nóng (rượu đóng chai), lẩu xong xiêu (cất 2 lần), nặm che (nước chè)…
Cơ cấu một bữa ăn (mâm cơm) thường phải có đủ 5 thứ (năm miếng) xếp thứ tự.
1. Căm khảu (về cơm)
2. Căm chảm (về chấm)
3. Căm kin (về món ăn)
4. Căm cắp (về món ghém)
5. Căm nặm (về món uống)
Khi sắp xếp mâm cơm: Đặt trước tiên là “đĩa muối ớt” coi như đã có chủ nhà  (mi chản hươn) tiếp theo là các món khác.
Do thích ăn “xôi nếp thơm” nên cả hệ thống tiếp theo sau cơm (xôi) là các món thức ăn khô (trừ rượu) mùa nào thức ấy.
Các món ăn “đồ” (không luộc) nên ăn ngọt đậm (không nhạt)…
Bữa cơm Thái quả thật là độc đáo, hấp dẫn, ngon mà như đủ các vị thuốc thu lượm từ rừng núi rất bổ dưỡng cho cơ thể con người./.
LẨU XÁ
Rượu cần (lẩu xá - rượu của người Xá “Khơ Mú”) là thứ rượu ủ men (không cất = lẩu xiêu).
* Men lá gồm các thứ quả bơ, mắk cái, củ riềng, lá trầu không, quả ớt…giã nhuyễn với gạo tấm, sau đó nắm thành từng miếng tròn dẹt như bánh rán, đem ủ trong đống rơm, xếp từng lớp đều nhau từ 15 - 20 ngày có mùi men bốc lên đem phơi, để gác bếp khô. Khi dùng giã nhỏ rắc vào cơm rượu. Mỗi mẻ rượu cần 7 - 9 bánh.
* Cái rượu: Vỏ sắn khô gọt ra ngâm suối 3 ngày đêm cho hết mùi bồ hóng và độc tố ở sắn, vớt lên phơi khô trộn với trấu lẫn tấm đưa lên “chõ” (dụng cụ đồ hấp, đồ cho chín, đổ ra mẹt để nguội đem men rắc trộn đều, tiếp tục ủ bằng lá chuối hoặc lá rừng (bó nhum, bỏ cá) để rượu bốc men rổi bỏ vào chum (ché) lấy lá chuối hoặc mảnh ny long bịt kín (để hở thì rượu sẽ bị chua) - sau 25 - 30 ngày thì có thể dùng được, để càng lâu thì rượu càng đặc, càng ngọt.
Ngoài sắn khô, còn làm bằng ngô, ý dĩ, củ dong riềng, chuối, dừa, củ mài…
*VĂN HÓA RƯỢU CẦN:
Rượu cần (lẩu xá) còn có tên là lẩu kép (rượu trấu), lẩu pẳng (rượu ống), lẩu co (rượu cây) rất đậm ngọt.
Rượu Thái Sơn La: 1kg gạo + 2kg trấu + ½ lạng men. Ủ 5 - 7 ngày.
Khi uống: Mở nắp, đổ nước lã sạch vào ngâm 1 phút cho ngấm, cắm cần vào và đổ nước (sừng trâu) liên tục khi ta hút… uống đông vui: 1 hũ từ 10 - 12 bạn bè coi như là anh em “lẩu khay cáy khả” (rượu mở là thịt gà…).
Khi chum rượu lẩu xá đã mở là trống, khèn, cồng chiêng hòa theo các điệu “khắp”, múa xòe dập dìu say sưa tới sáng.
Bên hũ rượu cần là nơi hội tụ mọi cộng đồng mường bản, chân thành, đoàn kết, bình đẳng, không phân biệt ai với ai.
* Lẩu Xá chính hiệu:
Tháng 11/1993, Nguyễn Khôi tôi tháp tùng đoàn đại biểu Hội đồng dân tộc của Quốc hội do B.S Y Ngông Niêk đăm (chủ tịch) làm trưởng đoàn sang thăm hữu nghị nước CHDCND Lào. Ngày 25/2/1993 Đoàn Việt Nam lên vùng Lào Thâng, Lào Sủng ở tỉnh Luông Phạ Bang giáp với Sơn La.
Ở bên Lào: Người Lào Lùm (Thái) là ở vùng thấp, đông nhất. Thứ nhì là Lào Thâng (rẻo giữa) chủ yếu là người Khơ Mú. Thứ 3 là Lào Sủng (Mèo, H’mông) ở vùng cao.
“Xá” là tên gọi miệt thị với người Khơ Mú của giới quý tộc Thái Sơn La xưa.
Thật là dân dã: Trên một bãi đất rộng, các chum “lẩu xá” được bày ra, khèn Hmông (khèn lên man điệu) cất lên các điệu múa Khơ Mú rất phong phú và đặc sắc đan xen với các đợt hút rượu cần với kiểu uống 2 người đủ đầy 2 sừng trâu (ống  rót nước lã pha thêm vào chum rượu) - nước rượu râm ran cay ngọt chảy từ cổ họng vào tới dạ dày làm bừng tỉnh cả người (đúng là một liều thuốc tăng lực mạnh hơn  cả “bò húc” của Thái Lan). Thật là vui  như tết, trong cuộc vui say đoàn kết, người người hòa đồng với nhau tưởng như không còn phân biệt dân tộc, không còn Quốc gia, người với người là bạn, là đồng chí anh em cùng chung cuộc sống thanh bình.
ĐƯỜNG LÊN TÂY BẮC
*Đường lên Tây Bắc xa xôi
Nếp nhà sàn thấp thoáng
* Đường lên Tây Bắc quanh co
Tiếng chim rừng đây đó…
(Nhạc sỹ Văn An)
Có 3 đường lên Tây Bắc theo 3 nẻo:
- Nẻo thông thường (năm 1963) đi từ bến Kim Liên (liền công viên Thống Nhất và hồ Bảy mẫu) qua thị xã Hà Đông theo Quốc lộ 6…
- Đường đi chiến dịch Điện Biên Phủ (1953 - 1954) đi từ Yên Bái - Nghĩa Lộ qua đèo Lũng Lô sang Phù Yên…
- Đường nhánh đi từ Hà Nội qua Hưng Hóa - Thanh Sơn (Phú Thọ) vượt đèo Cón vào Phù Yên theo đường 13 qua Sông Đà.
* Sau khi qua bản Song Pe (xem vợ chồng A Phủ) sang đò bến Ta Khoa, lên đèo Chẹn, tới chân đèo Chiềng Đông tụt xuống Cò Nòi (đường 6) lên TX Sơn La.
1. NẺO QUỐC LỘ 6:
Quốc lộ 6 đi từ Hà Nội - Sơn La - Điện Biên dài 504km, điểm đầu là cầu sông Nhuệ (TX Hà Đông) là km số 0, điểm cuối là TX Mường Lay.
*Cầu sông Nhuệ - TX Hòa Bình 63km (đêm ngủ ở Hòa Bình hay chợ Bờ) - ở đoạn quốc lộ 6 này có đài kỷ niệm anh hùng Cù Chính Lan đánh xe tăng Pháp năm (1953).
- Từ cây số 65 TX Hòa Bình đến TX Sơn La 256Km
- Sơn La - Tuần Giáo 56km
- Tuần Giáo - Mường Lay 100km
Thời Pháp (trước 1945) Quốc lộ 6 chỉ hết địa phận tỉnh Hòa Bình, sang tới địa phận Sơn La là đường 41 (xã Chiềng Yên): Khởi đầu cây số 0 là chỗ suối Rút đổ vào sông Đà, đi một chặng tới cây số 22 (năm 1963) ô tô sáng đi từ Hòa Bình hay chợ Bờ lên tới cây số 22 (Sơn La) là trạm Công an kiểm tra giấy tờ và nghỉ ăn trưa, có cửa hàng mậu dịch Quốc doanh. Ăn trưa xong đi lên ngược dốc tới đỉnh Đèo 46 (cây số 46) cao khoảng 1500m ngang núi Tam Đảo - Đây là bản Mèo (Hmông) đỉnh núi sương mù, nước suối giữa tháng 4 dương lịch nhúng lạnh buốt tay; tại đây cũng có 1 cửa hàng Mậu dịch Quốc doanh (vùng cao) nơi hội tụ dân bản đến mua hàng gặp gỡ khá đông vui. Xe ô tô ca (giá 12đồng/ từ bến Kim Liên Hà Nội lên tới Sơn La, cây số 302 km đầu cầu Trắng bắc trên suối Nậm La qua thị xã tới bản Xẳng (xã Chiềng Xôm) chui qua gầm đèo Cao Pha đổ xuống Nậm Bú (xã Mường Bú rồi tới Sông Đà chỗ bến Tạ Bú).
Từ đỉnh đèo 46, xe ô tô xuống dốc một mạch suốt xã Lõng Luông (Mèo) tới chân đèo là bản Hang Trùng (mường) cây số 58, rồi tới vườn Đào - cây số 64 có cửa hàng Bưu điện, trụ sở Sư đoàn 335, 1 đội của nông trường Mộc Châu (sau này thêm nông trường bò sữa Sao Đỏ ở cạnh đấy). Chợ Thảo Nguyên cùng Phố Thảo Nguyên đông vui, thấy máy cày, máy kéo biểu tượng của Chủ nghĩa xã hội hồi những năm 60 của thế kỷ 20 “anh đi khai phá miền Tây”, 4 giờ chiều xe tới thị trấn huyện lỵ Mộc Châu đông vui. 1 bàn ăn thịnh soạn, mất độ 1đồng (0,3đồng/1kg gạo) đủ bia rượu, thịt bò xào. Nhà trọ Quốc doanh đủ chăn đệm (đêm Mộc Châu mùa hè cũng dưới 20oC).
Sáng hôm sau, ăn phở 5 hào, xe ngược đi Yên Châu, tới cây số 82 là hết địa phận nông trường Mộc Châu, xuống 1 cái đèo nhỏ vào đất Tú Nang, cứ thế xe đi 1 bên núi, 1 bên suối Sập, 11 giờ tới thị trấn Yên Châu nóng bức như mùa hè dưới xuôi, chuối, muỗm, đường phên… bày đầy các “Quán” tự giác bên đường. Đến đoạn suối có cầu đi vào thị trấn là thấy chị em tắm truồng ngập sâu dưới suối…
Cơm trưa ở Yên Châu, xong vượt đèo Chiềng Đông xuống Cò Nòi, Hát lót vượt dốc Mường Hồng vào khu sân bay Na Sản… khoảng 2 - 3 giờ chiều là tới thị xã.
Thị xã Sơn La hồi 1963 - 1965 các tòa nhà đang xây, lô nhà 2 tầng chân đồi Khau cả là dành cho cơ quan, phía dưới đường Tô Hiệu là các dãy nhà cấp 4 cho cán bộ công nhân viên. Thời đó cơ quan biên chế còn ít người (Ty Nông nghiệp tất cả có 21 người).
Thời đó Quốc lộ 6 đi 1 xe/ 1 luồng, rải đá dăm, cấp phối - đi từ Hà Nội - Sơn La mất 2 ngày rưỡi (qua nẻo Suối Rút - chợ Bờ, nay đã là lòng hồ sông Đà), nay đi mất có 6 tiếng đồng hồ.
2. NẺO QUA ĐÈO LỦNG LÔ
“Cho tới đầu năm 1953, Quốc lộ 13A (tức Quốc lộ 37 ngay nay) mới được khởi công để cho Tướng Giáp đưa quân lên đánh Pháp, ở Nà Sản…, con đường nối từ ngã 3 Vực Tuần qua Thượng Bằng La (Văn Chấn, Yên Bái) lên đèo Lũng Lô”.
“Đèo Lũng Lô anh hò chị hát”
(Thơ Tố Hữu)
Từ đèo Lũng Lô qua Phù Yên, qua Sông Đà vượt đèo Chẹn ra Cò Noi (Sơn La). Từ ấy mới thực sự có con đường nối từ chiến khu Việt Bắc sang Tây Bắc và cũng là con đường huyết mạch của từng đoàn từng đoàn bộ đội - dân công lên đánh Pháp giải phóng Lai Châu - Điện Biên Phủ (1953 - 1954) làm chấn động địa cầu. “Đường lên Tây Bắc quanh co” chính là đi lối này.
“Lũng Lô”, tên bản địa là “Trảng nương hoang giữa rừng cây cổ thụ”. Đèo Lũng Lô ngăn cách hai tỉnh Yên Bái - Sơn La, đỉnh đèo ngợp trong sương mù bao phủ, bốn mùa ẩm ướt, nước chảy qua đường đá gồ ghề. Trước ngày hình thành đường 13A, Lũng Lô chỉ là một con đường mòn men theo triền núi, rất ít người qua lại. Thi thoảng mới có dân bản Cơi (Phù Yên) và bản Dạ (Văn Chấn) qua lại thăm nhau hoặc đi săn muông thú, vào rừng đèo lấy song mây, đào củ mài trong những ngày giáp hạt. Người Mường ở vùng này gọi là đèo Lũng Lỗ (lỗ thủng) với hình tượng là trên đỉnh đèo mây mù trắng, nhìn từ chân đèo lên đỉnh xuyên qua một lối mòn dưới tán cây cổ thụ thì thấy như một cái lỗ thủng trên trời cao? Cũng có ý kiến giải thích “lũng” là thung lũng, “lô” là cây lau? Trước ngày giải phóng Tây Bắc (1953) Lũng Lô thuộc khu du kích Mường Thải (Phù Yên) đánh quân Pháp rất  kiên cường. Giặc Pháp và tay sai ở Phù Yên sợ không dám bén mảng đến. (theo Đinh Chanh - văn nghệ Sơn La “suối reo” số 6/2004).
3. Nẻo qua đèo Cón giữa Thanh Sơn (Phú Thọ) và Phù Yên (Sơn La) là thêm 1 đường chính phụ trợ cho Quốc lộ 6.
Quốc lộ 6 tới địa điểm Cò Nòi (co là cây, Noi, có lẽ đọc chệch “loi” là mậy loi, một loại nứa nhỏ bằng ngón tay dùng đan phên liếp thưng nhà)…đây là “rốn bom” do tàu bay B26 của Pháp dội bom chặn đường quân ta lên Điện Biên, ở đấy có tượng đài TNXP.
Con đường 13A (nay là đường 37) từ đèo Lũng Lô qua rừng ông Giáp ra Cò Nòi xưa qua đoạn núi Pu chạng hảy (dốc voi khóc) vượt hẻm dốc đá Suối Cao (Bắc Yên) ra bến Tạ Khoa (nay đã có cầu) qua pha Sông Đà lên đèo chẹn.
4. Đường lên Tây Bắc thời Lê Trịnh:
Theo Lê Qúy Đôn trong “Kiến văn tiểu lục” thì một dải sông Đà có 8 châu (huyện).
8 châu thuộc Phủ Gia Hưng là Phù Yên, Mộc Châu, Đà Bắc, Thuận Châu, Mai Sơn, Mai Châu, Sơn La và An Châu.
3 châu thuộc phủ Điện Biên là Ninh Biên, Lai Châu và Tuần Giáo.
3 châu thuộc phủ An Tây là Chiêu Tấn, Quỳnh Nhai và Luân Châu. Đường đi từ Thăng Long lên thì Châu Phù Hoa (nay là Phù Yên) đi mất 6 ngày; Châu Mộc; 8 ngày; châu Mai Sơn; 10 ngày; châu Mai Sơn có các động (Mường Bản) là Trình ban (Chiềng Ban), Trình chanh (Mường chanh).
- Châu Sơn La đi mất 12 ngày, có một xứ gọi là “hang cá” (chính là bản Bó Cá có cầu đá ở TX Sơn La), có mỏ yết Ong (Hiếu Chai - Mường Chai).
-  Lên Châu Thuận (Mường Muổi) hết 12 ngày.
- Châu Quỳnh Nhai, thổ âm gọi là Mường Chăn (Mường Chiên) đi lên mất 20 ngày có mỏ đồng Vạn Bằng, Vạn Ma.
- Lai Châu, thồ âm là Mường Lễ (Mường Lay) đi đường 22 ngày phong tục sân vật giống như Quỳnh Nhai (cũng là người Thái trắng).
- Châu Tuần Giáo: Thổ âm là Mường Quay (Mường Quài = con trâu) đi mất 18 ngày.
- Chây Tuy Phụ: Thổ âm là Mường Tè
Hồ Chí Minh viết:
Đi đường mới thấy gian lao
Núi cao rồi lại núi cao trập trùng
“Đường lên Tây Bắc” quả thật là như vậy.
7/3/2012 - NK
HOA BAN
* Chua chụ xướng chua bók ban
Pan Péng xướng pan bók khẳm
(Đời son trẻ như hoa ban
Đời thương như hoa khẳm).
Hoa Ban Tây Bắc là biểu tượng, là tín hiệu nghệ thuật đặc thù biểu hiện bản sắc văn hóa của thiên nhiên và con người Sơn La - Tây Bắc.
Nó là loài hòa kỳ diệu gắn bó mật thiết giữa thiên nhiên với đời sống con người… Nó là món ăn ngon (hoa ngọt), là hình tượng thơ tượng trưng cho những ước mơ, tâm hồn trẻ trung (mùa xuân) tính cách cao đẹp, mối tình thủy chung của con người.
Tết xong: Hoa đào đỏ, hoa mơ, hoa mận nở trắng các lối đi khắp các bản mường, và gió lào ù ù bốc lửa, trời hanh khô đến khó chịu - ngày 4 mùa: Sớm xuân, trưa hè, chiều thu, đêm đông, đang mùa đốt nương, khát khao cháy bỏng trời đất và lòng người thì đột nhiên qua một đêm tất cả các cánh rừng đều trắng ngát hoa Ban - Toàn bộ cây là hoa (lá mới nhú) cây đơm hoa, mát thơm dịu ngọt…
Thật là cái đẹp, cái ngọt, cái mát trời cho giữa ngày tháng 3 nắng nóng ngột ngạt.
“Mùa hòa
Người đàn bà
Mặt đỏ phừng
Đủ sức vác ông chồng
Chạy phăm phăm lên núi.
Mùa hoa
Người đàn ông
Mệt như chiếc áo rũ
Vừa vịn rào vừa ngái ngủ”
                    - Y Phương.
Đó là mùa động tình (tìm bạn) của con Nai, con hoẵng, mùa của ân ái lứa đôi.
Cây Ban thuộc họ Mưồng, thân gỗ “bộp” cao 5 - 6 mét, hoa trắng hay tím 5 cánh bướm. Trong 5 cánh có 1 cách chủ (cánh chúa): Tựa như 4 cách kia nhưng trên cái nền trắng hồng hoặc tím phớt của cả bông hoa, cánh chúa có thêm những kẻ xanh, tím, hồng (màu sắc cầu vồng) mềm mại trải dọc theo cánh hoa tạo thành những đường nét hình khối rất lạ mắt. Nếu nhìn xa thì mỗi bông hoa Ban giống như một nàng Bướm mà cánh chúa và nhị hoa là thân và vòi bướm, 4 cánh còn lại là 4 cánh bướm, cả chùm hoa Ban là cả một đàn bướm bay rập rờn trong gió xuân nhẹ nhàng - cánh Ban chúa tạo hồn cho sắc hoa là vậy.
Cây Ban ở Sơn La thường mọc trong các phiêng đá lồi đầu, những triền núi khô cằn mà cây vẫn phát triển xanh tốt.
Ở nhiều nơi như Lào, Malaysia, Nam Ninh (Quảng Tây - Trung Quốc) không thiếu cây Ban nhưng khi nở hoa thì cây vẫn xanh, hoa thưa nên không độc đáo như rừng Ban Tây Bắc Việt Nam. Tất cả cành trơ khẳng khiu qua một mùa đông sương muối (dưới 0oc về đêm), sang xuân là “Ban pún” lấm tấm mầm non của nụ và lộc. Chúng đang chờ những cơn mưa đầu mùa (để gieo ngô, trồng sắn) để hút lấy cái hơi ẩm của trời đất, hút lấy hơi Xuân ấm nóng (của gió Lào) mà nở bung.
Và em ơi, một đêm xuân
Hoa Ban bừng nở tần ngần chào em ”.
Nghĩ đến em đi đường sông chỉ thấy đá vồng
chỉ thấy hoa Đào, hoa Ban, hoa Vông rụng đầy dòng trôi…
Lúc hoa Ban tàn để lại quả non trong đám lá xanh mới nảy mầm lúc cuối mùa xuân, báo hiệu mùa làm nương rẫy mới.
Hoa Ban tàn anh hãy tra ngô
Hoa Ban làm quả anh hãy dọn nương tra lúa.
Cây Ban là cây “chỉ thị”: Đất nào cằn, cạn kiệt màu mỡ là xuất hiện cây Ban.
Kinh nghiệm dân gian Thái: Nhìn Ban nở để dự đoán thời tiết mùa màng trong năm “năm nào vào đúng tuần cữ Ban nở rộ đều một lượt trắng ngát cả rừng, hai bên bờ suối là năm ấy mưa không dai quá, nắng không dữ, ít lũ lụt, ít hạn hán (mưa thuận gió hòa) mùa màng tươi tốt thu hoạch lúa ngô đầy bồ.
Về món rau mùa khô (cuối xuân) thì hoa Ban cả một rừng, dân bản tha hồ đi hái về “đồ” lên thay rau, phơi khô trữ ăn dần, hoa Ban làm nộm. Ăn hoa Ban như ăn 1 vị thuốc (trị kiết lỵ), giải nhiệt, lợi sữa, giải độc.
Hạt Ban già rang lên ăn thơm ngậy.
Rễ Ban đỏ chữa dạ dày, gan. Lá ban nấu để rửa vết thương, sát trùng.
Song hau hặc căn báu mau Ban bók
Báu hên mua bók Ban xia
Báu tính bươn tính pi
Sướng pi cánh nọng hau hặc nhám lằng
(Đôi ta yêu nhau không tính mùa Ban nở
Không thấy ngày Ban tàn
Không tính tháng, không tính năm
Mãi mãi như mùa ban đầu đôi ta yêu nhau).
Ngoài hoa Ban, ở Sơn La - Tây Bắc dọc theo các khe suối còn có cây hoa Mạ (hoa ngựa) gắn với sự tích “bó mạ khun chương”: Kể về con ngựa của anh hùng Lạn Chượng khi chết hóa thành bông hoa Mạ, xuân đến nở rực vàng bên bờ suối, đón các cô gái chàng trai đến gặp gỡ tự tình nơi bến tắm bản quê.
8/3/2012 -  NK
 CÂY MẮC CHAI
  Ở Tây Nguyên, bên Lào có cây Kơnia đặc thù, đã đi vào lời ca tiếng hát, như một biểu tượng của quê hương xứ sở… thì ở vùng Yên Châu - Mường La (Sơn La) có cây Mắc Chai, mà hầu như khắp nước Việt Nam này không đầu có? Đó là một loại cây thuộc họ nhà Muỗm - Xoài, nhưng cao to vượt tầm: Cao vài ba chục mét, gốc hai ba người ôm không xuể, đặc biệt là tán tròn như một quả cầu xanh (lá nhỏ như lá cây Quéo), thường là cao vượt lên trên mọi cây cổ thụ khác, nên trên đường đi Quốc lộ 6 hay bề Bản, từ xa hàng cây số, ta đã trông thấy cái tán quả cầu xanh Mắc Chai in lừng lững trên nền trời xanh cùng bóng núi tím thẫm cao vời vợi như đang chờ đón đợi ta về…
Ở cây Mắc Chai như một điềm nghịch lý của tạo hóa: Cây thì cao to vật vã nhưng quả thì lại bé như quả trứng gà (có khác gì một bà mẹ to béo đẫy đà hết cỡ lại đẻ ra một chú bé tí hon?) - Quả Mắc Chai bé, hạt to chiếm tới 4/5 thể tích quả (thật là vô duyên, ăn chẳng bỏ) nhưng bù lại: Khi quả chín, chỉ một làn gió là nghe tiếng “lộp bộp”, một loạt quả tự rụng, ta nhặt lên bóp vân vê (như trước khi ăn quả vú sữa Miền Nam) rồi cắn đủ có một lỗ, rồi hút lấy nước cùi (bột vàng óng) thì ôi thôi rồi: Thơm ngon vượt cả nước quả xoài đóng hộp ở sân bay Mun Bai (bên Ấn Độ) mà Nguyễn Khôi tôi có lần Transis (ghé qua) được thưởng thức thơm mát đến lịm người dưới cái nắng 45oc cùng những người dân bản địa da đen như bồ hóng.
Thời chiến tranh, ai từ Thuận Châu về thị xã, lên tới đỉnh đèo Sơn La, dựng xe đạp vào gốc Mắc Chai, trải tấm Nylông, giở cơm nắm ra ăn, tu một hơi nước bi đông rồi ngả lưng đánh giấc. Vòm cây Mắc Chai như một cái lọng xanh vừa che mát, vừa che kín mắt bọn giặc trời Mỹ… thế là cứ yên chí nằm nghe chim hót, lũ sóc chuyền cành kiếm quả rồi ngủ thiếp đi lúc nào không biết nữa… và cây Mắc Chai như Mẹ hiền che chở ru cho ta một giấc ngủ bình yên để rồi (lấy sức) lại lên đường ra trận…
                             Cây Mắc Chai như ai đứng đợi
                             Đón ta về ngọt lịm giấc trưa.
ĐÔI NÉT VỀ LỊCH SỬ NGUỒN GỐC THÁI SƠN LA
* Người Thái - mơ hồ trong tên gọi? Gốc gác ở Trung Quốc (trong số 56 dân tộc; với 1,16 triệu người), tên xưa gọi “Thái Lặc” (Tai Lue) - “Dai” (Thái tây song bản nạp) 2 ngôn ngữ là Tày Pong và Thái Đam (Tày đăm). Ngoài ra là tiếng Tráng (choang).
Thư tịch cổ gọi Điền Việt, Kim Xì, Hắc Xỉ, Hoa Man, Bạch Y, Bạch Di, Bách Si, Bá Di…
Thời Hán quận Ích Châu là của người Thái (xem thất cầm Mạnh Hoạch - Tam Quốc Chí)? Rồi di cư theo dọc sông Lan Thương (Mê Kông) tới Myanma, Lào, Thái Lan, theo sông Hồng xuống Việt Nam.
* Người Thái ở Việt Nam:
Còn được gọi là Tày Khao (trắng) đăm (đen) Tày Mười, Tày Thanh (Man Thanh), hàng Tổng (Tày Mường), Pu Thay, Thổ Đà Bắc.
Nguồn gốc: Bách Việt, gồm với nhóm Choang (tráng), Tày, Nùng.
Di cư sang Việt Nam từ thế kỷ 7 - 13, trung tâm là Mường Theng (Điện Biên), từ đây họ tỏa đi Lào, Thái Lan, bang Shan (Myanma), đông bắc Ấn Độ cũng như ở Nam Việt Nam? (gốc đi từ - xíp xoong păn na).
Ở Việt Nam: Đời Lý 1067 có Ngưu Hống (rắn hổ mang - tô tem), chỉ người Thái vào triều Cống, sau 1280 dưới sự cai quản của triều Trần.
Các thủ lĩnh Thái được gọi là “Phụ đạo”.
- Họ Đèo cai quản các Châu Lai (lay), chiêu Tấn, Tuy Phụ, Hoàng Nhan.
- Họ Cầm cai trị Châu Phù Hoa (Phù Yên), Mai Sơn, Sơn La, Tuần Giáo, Châu Luân, Châu Ninh Biên.
- Họ Xa cai quản Châu Mộc
- Họ Hà cai quản Châu Mai
- Họ Bạc ở Châu Thuận
- Họ Hoàng ở Châu Việt (Mường Vạt - Yên Châu).
Dân số: 2009 có 1.550.423 người Thái (thứ 3 ở Việt Nam) có mặt khắp cả nước. (Sơn La có 572.441 người chiếm 53,2% toàn tỉnh); Nghệ An 295,132 người, Thanh Hóa có 225,336 người; Điện Biên 186,270 người, Lai Châu 119,803 người, Yên Bái 53,104 người, Hòa Bình 31,386 người, Đắc Lắk 17,135 người, Đắk Nông 10,311 người.
* Họ của người Thái: Bạc, Bế, Bua, Bum, Cà (Hà, Kha, Mài, Sa), Cầm, Chẩu, Chiêu, Đèo,  Điều, Điêu, Hà, Hoàng, Khằm, Leo, Lèo, Lềm, (Lâm, Lịm) Lý, Lò, (Lô, La), Lộc (Lục), Lự, Lường, (Lương), Manh, Mè, Nam, Nông, Ngần, Ngưu, Nho, Nhật, Panh, Pha, Phia, phìa, Quàng (Hoàng, Vàng), Quảng, Sầm, Tạ, Tày, Tao (Đào), Tạo, Tòng (Toòng), Vang, Vi (Vì) Xa (Sa), Xin.
- Ngôn ngữ: Nhóm ngôn ngữ gốc Thái của hệ ngôn ngữ Thái - Kađai.
- Kinh tế: Nông nghiệp (lúa nước, lúa nếp), các thứ hoa màu, chăn nuôi trâu, bò, lợn, gà, dê, cá… đan lát, dệt thổ cẩm, số nơi làm đồ gồm.
- Gia đình: Phụ hệ, vợ theo họ chồng, có tục ở rể.
Hôn nhân một vợ một chồng.
- Tục lệ ma chay: Chết là về Mường trời tiếp tục sống ở thế giới đó.
- Văn hóa: Thần thoại, cổ tích, truyền thuyết khá phong phú, có chữ viết riêng, có nhiều truyện thơ (sống chụ son sao, khum lú - Nàng ủa, tản chụ xiết xướng…).
- Nhà cửa: Người Thái đen có nhà nóc hình mai rùa, chỏm đẩu đốc có khau cút (hoa nhà) rất độc đáo.
- Trang phục: Đẹp, nhiều kiểu.
Nam giống với người Tày, Nùng, Kinh.
Nữ: Thái đen mặc áo ngắn (xửa cóm) màu tối (chàm, đen) cổ áo khác Thái trắng là loại cổ tròn đứng.
Đầu đội khăn Piêu thêu hoa văn theo môtyp từng mường. Váy ống (kín) giống Thái trắng, màu đen, cạp gấu váy phía trong nẹp đỏ.
Khi lấy chồng tóc búi ngược lên đỉnh đầu “tằng cẩu” (Thái trắng vẫn búi tóc sau gáy).
CÔNG TRÌNH KIẾN TRÚC
Người thái sang ở Sơn La đến nay đã trên 10 thế kỷ nhưng không thấy có dấu vết gì về các công trình kiến trúc gạch, đá…? Có lẽ chỉ có một cầu đá bản Cá bắc qua suối Nậm Cá chảy ra Nậm La ở đầu thị xã ra phía Chiềng Xôm? Và một số khu nhà xây của tỉnh trưởng Sơn La Bạc Cầm Qúy, (sau này trụ sở huyện ủy Thuận Châu, rồi bị bom Mỹ phá hủy hồi 1966 - 1973)… còn không hề thấy Đình, Chùa, đến Miếu gì ở Sơn La đất cũ?
Người Thái ở Sơn La không theo Tôn Giáo nào, chỉ thờ “Phi” (ma tưởng tượng) người chết làm lễ chia của “bỏ mả” là xong, không có giỗ chạp hàng năm, Tang ma có lễ gọi hồn, dẫn hồn về mường trời, xong coi là xong.
Nhà ở người Thái: hầu hết là gianh, tre, gỗ, nứa - đục đẽo đơn giản, đa số là không ngăn buồng (2 loài: cột chôn và cột kê) hoàn toàn là vật liệu tự nhiên sẵn có ở rừng núi bản địa.
.Người Thái ở Sơn La: Có 4 ngành (chi): tới 2009 có 58 vạn người.
-Thái trắng (Tày đón) cư trú ở Mường Chiên (Quỳnh Nhai), Ngọc Chiến (Mường La).
-Thái đen (Tày đăm) ở Thuận Châu, Mường La, Vai Sơn, Yên Châu, Sông Mã. Đặc biệt Thái đen ở Yên Châu lại khác hẳn so với ở vùng  trên cả về tiếng nói, ăn mặc, phong cách, tập tuc.
Chi (ngành) ở Mộc Châu, họ tự gọi là Thái đỏ (Tay đeng); cũng một chi ấy. Ở Bắc Yên, Phù Yên lại tự xưng là Tay đón (Thái trắng) ở xã Huy Bắc tự gọi là Tay khoong (người khoong) - “khoong” là một địa danh miền Tây Thanh Hóa (nơi họ từng ở ngày xưa). Nhóm Thái ở Pác Ngà (Bắc  Yên) tự gọi là Tay Eng (người Eng) “Eng” cũng là địa danh ở Thanh Hóa.
Tay đeng (Thái đỏ Mộc Châu) gốc gác từ Vân Nam qua Lào: từ Luông Pha Bang qua Mường Xáng; Mường Xăm, qua rừng Mường Xén vào đất giao chỉ (đời Lý) thuộc Nghệ An. Từ Mường xén họ tỏa ra Thanh Hóa qua Hồi Xuân, La Hán vào Mường Mun (Nai Châu) rồi lên Mộc Châu Sơn La.
Cuộc di cư này do chúa đất họ Vi Khăm (Vi Vàng dẫn đầu vùng em trai là Vi Ngân (vi bạc): Vi Ngân ở lại M ai Châu, người anh Vi Khăm ngược lên Mường  Moóc (Mường Xang - Mộc Châu).
Do đi tới nơi đất mới nên: Ở Mai Châu có bản Lác (bản lạ). Tòng Đậu nguyên âm là Toong Táu (Toong = lá, táu là cây gỗ Táu - cây to, lá to dùng để gói muối, lót xôi khi cúng lễ. Đồng Bảng nguyên âm là “Động Páng” (động:  rừng già, rừng cây cổ thụ, Páng là cây chuối rừng, nay ta qua Đồng Bảng vẫn thấy nhiều cây chuối rừng vì đất quanh năm ẩm ướt.
Họ “Vi Khăm” sau đổi thành họ Xa (Sa) có 2 truyền thuyết:
- Chúa Vi Khăm vào triều đình (nhà Lê Trịnh) qua cổng thành thì Quan coi cổng thành Thăng Long  vấn danh, hỏi họ tên gì ở đàu tới? Do ngôn ngữ bất đồng nên Chúa Vi Khăm trả lời sai ý đi “Tôi là ở xa đến” - Quan nghe ú ớ ghi “Chúa đất họ Xa - nay do chữ nghĩa chính tả lung tung ghi xa = Sa”?
Thuyết 2: Sau khi Chúa đất Vi Khăm qua đời - anh em trong nội tộc tranh giành… người anh thắng thế làm chúa, em phải xuống làm thường dân lấy họ “Vi Văn…” Người anh vì đã thề độc “cụ chí pái sá xịa mưng, mưng nha Pay năm hó phụ” (Tao sẽ từ mày, cạch từ đây không chung Họ nữa).
Từ đấy từ (Xá = Sa) thành họ chính của dòng Vi Khăm. Mãi về sau gọi chệch cho nhẹ đi Sá thành Sa… nhưng khi khấn cúng bái vẫn phải xưng là “Chúm mú Vi Khăm ” - (dòng họ Vi Khăm) cho đến ngày nay.
* Quan hệ xã hội Thái:
Cơ cấu xã hội cổ truyền là Bản mường hay chế độ Phìa Tạo Tông Tộc gọi là “Đằm”. Mỗi người có 3 quan hệ trọng yếu:
- Ải noọng: Nam giới 4 đời trong gia tộc (bên nội):
- Nhinh Sao: Tất cả thành viên nữ…
- Lúng ta: Tất cả thành viên Nam thuộc họ vợ (bên ngoại).
MƯỜNG TRỜI
Với người Thái: chia vũ trụ thành 3 tầng theo một trục dọc. Trên cùng là Mường Phạ (Mường Trời), ở giữa là Mường Lùm (mường người thấp) và dưới cùng nữa là lòng đất là Mường bọoc đai (Mường của những người lùn sống trong lòng đất). Còn gọi Mường Pha là Mường Bôn nhằm chỉ thế giới ở trên đỉnh đầu - ngoài ra còn gọi là Mường Then (Mường của các Then = thượng đế, thần linh). Người Thái ở Qùy Châu: “theo quan niệm hữu thức của người Thái thì Mường Phạ là nơi cao nhất của vũ trụ, đó là một khoảng rộng màu xanh, hình tròn úp lên mặt đất. Còn đất là một tấm rộng vô hạn mà trời chỉ úp được một phần. Tầng trên cùng là tầng riêng của các thế lực siêu nhiên, đó là một thế giới hỗn mang, chưa định hình, không rõ ràng, rất ít ảnh hưởng tới cuộc sống của con người.
Xuống thấp hơn là Mường Then của các vị thần linh, còn tổ tiên của người Thái thì ở một cỏi riêng khác: Nhóm Tày Thanh gọi là “đẳm chảo”, còn nhóm Tày Dọ (đều ở Nghệ An) thì gọi là “Đẳm Pang”. “Đẳm Chảo”là nơi trú ngụ của người  chết theo các dòng họ khác nhau, rồi lại còn phân đẳng cấp:Tầng lớp trên là cho các họ Lò Căm, Hủn Vi, Mừn Quang. Tầng lớp mới là các họ bình dân như Quản Quang, Quản Lự… (có 2 “đăm”:bậc giữa và bậc cuối).
Theo Cầm Trọng thì người Thái đen Sơn La cũng na ná là “đẳm hướn luông” (quý tộc) và “đẳm hướn nọi”cho thường dân.
Mường Then là hình ảnh thu nhỏ của thế giới trần gian: Cùng lao động sản xuất, đó là một xã hội giàu có trù phú, ruộng đồng quanh năm tươi tốt, dưới ao cá lội từng đàn, đèn thắp sáng quanh năm. (như thiên đường), vị thần chủ là “Then Luông” (Then lớn) - thường gọi là Pò Then: Cai quản cả thế giới.
Dưới Pò Then là một hệ thống các vị thần giúp việc như Then Ná, Then Ảo, Then Thao Ai, Then Thư ai, quản lý các dòng họ Quý tộc, thấp hơn là Châu Cuống Cảng (họ ở bậc trung) do các Then Thư Noọng cai quản  trông coi các họ bình dân… tuy vậy có những dòng họ khác nhau nhưng lại chung 1 Then Ná.
Ở Then Ná còn có các Mẹ Náng (bà mụ) là vợ các Then, làm nhiệm vụ Me bẩu (đúc nặn người cho đầu thai xuống trần gian), Me Náng nặn rồi chỉ sang Then Bẩu (khuôn), rồi qua Then Chằng để cân đo số mệnh rồi rơi xuống Then Chẳng cân đo xong rồi tiếp xuống Then Bắc để đi đầu thai…
Trên Then Ná còn có Mẹ Xuổn Ném và Pù Noọng Pả trông coi vườn mệnh và ao cá vía để giữ cho mệnh luôn được bình yên, trên Then Ná có một vườn mệnh trong đó có một máng nước chảy vào ao nuôi cá mệnh (Pa Vẳn) mỗi con tượng trưng cho một mệnh người dưới trần. Nếu nước chảy đều thì hồn khỏe mạnh, con người được bình an, nước không chảy thì cá chết, mệnh người cũng hết.
Chính vì vậy: Khi con người lên cao tuổi  thường tổ chức lễ “Tum bẩư nho bủn” (lau chài sửa lại vườn mệnh, đặt lại máng nước), để tăng tinh lực và sức sống cho con người.
Ở Mường Then còn có nhiều vị thần linh khác: “Then Khúm” trông coi việc  thiện, Then Tàng lo làm ra con người và loài vật, Then Bấu lo đúc người, Then Khạt (Then Chằng) đo số mệnh,… Then Bắc theo dõi sổ số mệnh, Then Kôm quan sát bốn phương trời, Then Cáo quản lý phạm nhân, Then Thùm coi lũ lụt, Then Lốm tạo mưa gió, Then Ú, Then Đá lo xử phạt sát sinh. Tầng cuối cùng của Mường Phạ là nơi ở của các hồn người chết (chết không bình thường) thì phải vào “Mường phi tai sút đuôn” ở gần Mường Lùm - Còn bình thường thì vào Đẳm Chào.
Trạm dừng chân đầu tiên do Mo dẫn hồn là Pặc Phắng Kén, nơi trời và trần gian gặp nhau là Táng Cộp “Táng cộp nừng hả phiền” - Chỗ gặp nhau (như kiểu chợ âm phủ) đan xen như cái nan xe kéo sợi, ở đây là trạm tiếp đón nên có nhiều xôi thịt do người trần cúng lễ. Do đó những hồn nghèo đói, chết không bình thường kéo tới đây kiếm ăn - vì thế người Thái rất sợ phải qua nơi này; khi đói loại ma này còn xuống cả Mường Lùm quấy nhiễu.
MƯỜNG NGƯỜI
Mường Lùm: Qua tụt  khỏi Mường Phạ, xuống dưới là Mường Lùm (cõi người) là mường ở dưới sàn trời “mường tớ cọng lùm phạ”.
Lùm là thấp, thung lũng - Còn gọi Mường Piếng (bằng phẳng) = mường bằng phẳng ở dưới gầm mường trời là mường có thật trong vũ trụ luận Thái, đây là thế giới của con người khác biệt về bản chất so với Mường Phạ - Mường Phạ là cõi hư, tâm linh, còn Mường Lùm là cõi thực của con người và các loài vật, là các bản mường của nhiều tộc người (kể cả Kinh, Lào…) và “dân số” của các loại Mường (Phạ, Lùm) bao gồm cả các thế lực siêu nhiên khác, kể cả ma quỷ. Ma quỷ đi lang thang ở các Mường Phi, người thì ở các Mường Côn (có phi pú ở núi cao, phi pá ở mường sâu, phi ngược ở vùng nước xoáy cùng cõi Mường Lùm do con người làm chủ thể).
MƯỜNG BOỌC ĐAI
Là “Mường trong lòng đất” của loại người tí hon “Táy boọc đai” đây là ở Quỳ Châu (Nghệ An), còn phía Sơn La - Tây Bắc không có khái niệm này. Đó là thứ “phi đóng kín” hay “phi dóc dách”.
“Cờ boọc đai” là cái ống nhỏ cuốn dùng tơ lấy ra từ kén tằm (cái suốt) - Boọc còn có nghĩa là “hoa”, đó là nụ tơ hoa biểu tượng của lũ người tí hon sống dưới lòng đất, đứng đầu là “vua hoa tơ” (Pủa boọc đai).
“Phi” với người Thái là gồm cả thần thánh, hồn người chết và cả hồn, vía người đang sống - “Phi” là tín ngưỡng thờ vật hinh, một thứ sơ khai của Tôn giáo.
Linh hồn người sống là “phi vẳn”, ở người chết là “phi bướn”, với các thần linh là “phi then”, các tổ sư nghề Mo (phi môn, phi một) rồi phi bản, phi mường, phi pú, phi huổi, phi pá…
Thế giới của Phi có ảnh hưởng rất lớn tới thế giới thực của con người (can thiệp, phù hộ) - do đó phải cúng bái cầu khẩn…
Theo Hoàng Nó (Sơn La) thì:
Quan niệm về trời đó là Mường Phạ, Mường Bôn hay Mường Then. Có 11 Then gốc gọi là “Then ngồi chõng” (Then năng chóng) và 22 Then anh em (Then Pi Noong), mỗi vị Then là một đấng “sáng tạo” tạo mưa, gió, nắng hạn, lụt…
11 Then gốc, đáng kể là Then Luông (cụ Then già Pú Then Thẩu) hay chủ Tum Vang (như Ngọc Hoàng).
Hai là “Then chăng tê ba” - chữ “tê ba” gốc chữ Pali  - Sancrít thì Têbra nghiã là “cõi trời” - hư vô ngự trên đỉnh Pha Bôn điều khiển đúc ra người… Ba là “Then Ban” tạo ra họa phúc, duyên phận, sang giàu…
* Tục lệ cúng Then: Có 3 lễ chính:
1. Căm xeng: Báo ngày kiêng cấm
2. Xên kẻ: Cúng giải hạn
3. Xên hươn: Cúng nhà tức tổ tiên
Tháng giêng Tạo kiêng kỹ
Tháng hai Tạo căm xeng
* Đêm của ngày kiêng cấm: Mỗi nhà lấy một bó cỏ gianh, bó lạt, một con dao buộc vào đòn gánh - tượng trưng để phi tổ tiên đem lên sửa chữa nhà cho Then. Đầu đòn gánh treo một túi xôi, gói thịt gà luộc để cho tổ tiên ăn - Đặc biệt bắt 1 con dế mèn đực bỏ vào giỏ để đêm chúng gáy - Dế Mèn sinh nở vào tháng 7, nó tượng trưng 1 con trâu để tổ tiên dắt lên cày bừa ruộng nhà Then. Còn có việc: Lấy 1 tổ hoang rỗng của ong bò vẽ treo lên mái nhà để báo hiệu nhà tôi đã thực hiện đầy đủ cúng căm xeng.
* Xên kẻ: Cúng đầu tháng 2, cụ tổ phải lên chầu Then phục dịch. Làm ở gian giữa nhà có đầu trâu hay đầu gà, phía sau bà Một ngồi, phía trước lót vải trắng đổ gạo nếp thành một đống con, trên đặt 1 quả trứng gà luồn trong 1 vòng tay bạc, xung quanh mâm có đốt nến (sáp ong).
Đọc hát bài Xên do bà Một gòi là “Á ní” mất 1 ngày đêm “lời thỉnh cầu Then xá tội cho tổ tiên, cầu xin phúc lộc”.
* Xên hươn còn gọi Ló Liêng tổ chức cúng nhà trong 3 tháng (giêng, hai, ba) vào các ngày 7, 8, 9, âm lịch thành một chuỗi lễ hội đan xen căm xeng - xên kẻ và xên hươn.
Xiên hươn là mời tổ tiên về ăn cỗ cuối buổi cúng, ông mo phải cúng cơm rượu để đưa tiễn đưa đi đưa lại để các vị về nơi Mường phi của các hồn.
XỬA CỎM, ÁO NGẮN PHỤ NỮ THÁI
Trong trang phục Thái thì cái áo ngắn (Xửa cỏm, xửa cóm) là độc đáo và đặc sắc nổi bật ít dân tộc tạo hình được đẹp như thế.
Áo phụ nữ Thái có nhiều kiểu dáng: Áo dài (xửa hí), áo ngắn dài tay có cúc bướm bạc (mắc pém) gọi là xửa cỏm, áo ngắn hở nách là “xửa khép”…
“Xửa cỏm” cổ truyền vừa là lễ phục vừa là thường phục, chỉ khác là về chất liệu vải (vải thường hay tơ lụa, cát bá, sa tanh) khi đi lễ thì quàng thêm tấm thổ cẩm rộng chừng ba bốn mươi phân hơi lệch chéo sang một bên, cách điệu một chút nghệ thuật ở phần hạ bán thân, chỗ ngay thắt lưng “xửa eo” xuống.
Màu sắc xửa cỏm tùy thị hiếu từng người có thể giữ nguyên màu vàng óng của tơ tằm hay nhuộm hồng nhạt hoa đào, xanh thanh thiên, màu tím hay màu nõn chuối… đó là những màu sắc được ưa chuộng (vải tự dệt) mua của người Kinh, người Hán…, còn Váy thì màu đen, đen nhánh, váy lụa thì nhuộm chàm, tím thẫm rồi nhúng bùn ao cho thật đen, thật mượt.
Xửa cỏm may thân áo bó sát người, tay áo rộng, từ nách khâu hẹp dần xuống. Gấu áo khâu lót thêm 2 lần vải, rộng chừng ba phân, khâu đột nịt chặt ôm lấy vòng eo thắt đúng lưng long, phần trên đủ ôm lấy bộ ngực nở nang khít khao gây ấn tượng. Mép gấu áo chỉ đủ chấm tới mép cạp váy, ngang thắt lưng nên khi cử động (cúi xuống hở tí eo lưng, dướn mình hay ngã về phía sau thì hơi hở nude (nuy) chỗ rốn khá gợi cảm. Trước ngực từ tới Rốn là 2 hàng cúc bạc “mắc pém” như một đàn bướm bay dọc trên 2 nẹp tà áo.
Về số cúc bướm (mắc pém) có 2 ý kiến:
1. Hàng mắc pém với số lẻ 11 cặp được bố trí khéo léo dày đặc lấp lánh trên ngực phụ nữ Thái - Số lẻ ở đây tượng trưng cho sự vận động, phát triển đi lên (số chẵn tượng trưng cho sự yên tĩnh, không động, không phát triển - những sản phẩm dùng cho phụ nữ đang sống thường  thiết kế với số lẻ, còn để cho thế giới hư vô “phi” là số chẵn).
Bậc cầu thang để lên xuống nhà này hàng ngày có số lẻ, chỉ làm chẵn khi đưa ma.
2. Hai là: Màu nền tà áo không trùng với màu áo và cúc bạc. Số cúc bao giờ cũng “số chẵn” với ý nghĩa đầy đặn, trọn vẹn dành cho chồng con - khác với những số lẻ trong kiến trúc nhà ở, “lẻ” là sự sinh sôi phát triển.
Hai ý kiến trên đều có lý lẻ… Thực tế ở mỗi vùng, mỗi chi (ngành) Thái có quan niệm khác nhau đôi chút - có lẽ là:
* Với con gái chưa chồng thì Xửa Cỏm có số hàng Mắc phém số lẻ.
* Khi có chồng con rồi thì xửa cỏm có số hàng cúc bướm số chẵn.
Cũng có thể số hàng chẵn hay lẻ phụ thuộc vào chiều dài của áo (áo người cao hay thấp) miễn sao cho nó cân đối hợp lý là đẹp.
Xửa cỏm của  phụ nữ Thái đen: Cổ áo cạp hai lần vải, khâu đột, cổ đứng có phần gò bó cứng nhắc thì xửa cỏm của chị em Thái trắng lại bẻ tai, chiết giấu mép, vòng cổ rộng hình trái tim mở dài hở đến trước ngực rất mềm mại duyên dáng.
Các cô gái rất ưa kiểu xửa cỏm này, còn các “bà xã” khi vẻ đẹp lý tưởng “eo kíu meng nhay” lưng eo con tò vò nữa, thì các chị rất ý tứ khi mặc xửa cỏm đã khéo léo dùng các móng tay ém đẩy lớp mỡ bụng lên (đã qua nhiều lần sinh đẻ) rồi vừa cài cúc bướm nên vẫn tạo được hình dáng thon thả gọn gang.
VÁY THÁI:
Có nhà thơ đã cảm:
“Váy em sắm lệch, nhiều khi cũng tình”
Váy (xỉn) của phụ nữ Thái màu đen, khâu kín mép kiểu váy ống, vòng ống rộng gấp đôi vòng eo, cạp váy màu trắng, còn độ dài tùy theo cao thấp của người mặc và thường là chùng quá bắp chân. Ở trong gấu váy, chị em cạp thêm một đường viền vải màu đỏ thắm rất cách điệu gợi cảm:
Ai đó hát ngất ngư Phố Bản
Lũ nghé tơ nhảy giỡn rộn bờ khe
Ngọn gió quẩn thổi tung viền váy đỏ
Làm ngả nghiêng lơi lả cánh rừng tre.
Váy mặc bó sát vào mông, tạo 1 đường cong thật đúng như một nhà Văn Trung Hoa đã khắc họa cái đẹp “phong nhũ phi đồn” (vú nở, mông to) của người phụ nữ đang thì của thời hoạt động tình dục mạnh mẽ, sinh con đẻ cái để nòi giống phát triển và trường tồn.
Khi mặc váy nếp phần thừa quấn vào một bên hông rồi gấp bẻ trở lại đằng trước thành một đường chiết ly thẳng từ eo xuống gấu váy. Tuy thế, nếp gấp này không làm mất đi nét uốn lượn ở phần hạ bán thân của người phụ nữ Thái.
Thắt lưng được làm bằng lụa tơ tằm dài gấp 2 lần rưỡi vòng eo, rộng chừng bốn năm phân, màu hoa lý hoặc màu xanh nõn chuối. Hai đầu chính nối thêm 2 mẩu vải màu đỏ chói gây chú ý.
Từ nhỏ các bà, các mẹ đã dạy con cách thắt khăn nơi thắt lưng (xài yêu) để sao “Eo kíu manh po” (thắt đáy lưng con tò vò).
Khi thắt lưng thì thắt ngay dưới cạp váy trên hông, mối đằng trước hơi chếch về phía bên hông một chút. Ngày nay, nhiều cô gái đã “cải tiến” dùng dây thắt lưng hoa nhiều màu gấp nếp - không thắt mà quấn giấu mối, trông khá điệu đàng, mảnh dẻ, kiêu sa. (Theo Phan Kiến Giang)
Khách quan mà chiêm ngường: Ngắm phụ nữ Thái với trang phục xửa cỏm ta ngỡ đó là một nàng vệ nữ rất cổ điển mà vẫn hiện đại, bó sát tạo eo, nổi bật các đường cong lý tưởng (như thi hoa hậu)… chị em Thái đã rất táo bạo trong sắp xếp đường nét (gây gợi cảm). Cái váy dài tha thướt xúng xính như muốn kéo dài thêm cho phận hạ bán thân, làm sao chân dài thêm; còn cái xửa cỏm thì cứ như hơi quá ngắn lại ôm xít thân thể vùng trên như dồn nén chật chội, căng phồng như muốn bung ra “bong ra” hiến dâng cho người tình “của em của anh đây mà” rất gần gũi thân thương đầy chất nhục cảm.
Khi may mặc bộ “xửa cỏm”, chị em rất chú ý bố trí phối hợp màu sắc (các tông màu) không diêm dúa, lộng lẫy mà vẫn giản dị, ấm cúng.
Váy đen nhánh thêm viền phía trong đỏ ở gấu váy, khi bước đi xao động cùng khăn piêu trên đầu, bộ xà tích bạc ở thắt lưng thật là vừa tạo hình, vừa tạo sắc (hai cái màu nóng tương phản): Màu đỏ ẩn hiện làm cho màu đen thăm thẳm, sâu hơn như ẩn sau đó là vùng “âm” của tình ái…
Sự tương phản lung linh sống động ấy trong một tồn tại ở một chỉnh thể thấp nhất, sự hài hòa cân bằng âm dương như “ải cắp êm” (bố với mẹ) đời đời bền vững hội nhập với áo sơ mi, quần Jin hiện đại vẫn không lạc mốt.
KHĂN PIÊU
“Piêu” tiếng Thái nghĩa là “khăn”. Đó là một tấm vải thổ cẩm tự dệt rộng chừng hai gang tay và dài một sải tay, mặt vải sợi dệt thô nhuộm chàm kỹ ngả màu xanh đen, còn nhấn thêm nước vỏ cây Ban cho đen nhánh bóng.
Khăn tuy dài nhưng khi đội thì chỉ một đầu khăn vắt trên đỉnh đầu rủ xuống trán và một đầu thả xuống sau lưng dưới gáy, chỉ những phần hở ngoài mới thêu trang trí hai đầu khăn, còn đoạn giữa để nguyên vải chàm thô.
Hai mép đầu Piêu được viền một diềm vải đỏ (hay vải ngũ sắc) kéo sang 2 bên mép cạnh bên bằng một đoạn bằng một nửa chiều rộng khăn, các góc khăn trên mép vải viền được tết chỉ màu thành các “cút Piêu” bằng chỉ nhiều màu thành các vòng tròn nhỏ mỗi đoạn vòng một màu. Tùy loại Piêu mà tết thành từng nhóm 3 hay 5 hay 7 cút.
“Cút Piêu”; hình tượng cây guột ở đoạn chồi là non xoắn hình trôn ốc nó cũng như 2 cái khău cút trên đỉnh đầu hồi nhà.
Ô vải vuông ở hai đầu khăn là gương mặt của Piêu, là nơi trổ tài thêu thùa của chị em… Bố cục vuông gấm, vải đỏ thành những ô vuông đồng tâm hay lệch 45o so với ô bao ngoài gần mép đầu khăn gây cảm giác chuyển động như bánh xe quay. Cũng có khi bao quanh vuông gấm là các ô vuông nhỡ xếp cạnh nhau thành 4 băng dọc theo các cạnh hình vuông, mảng vuông bên trong mới bố cục thành các ô vuông đồng tâm. Ở lối bố cục tất cả đều là những hình vuông được thêu thành các dải hồi văn các hình móc câu hay tam giác đồi đỉnh, hình răng cưa, hình ô trám, hình đàn khỉ, đàn ngựa đuổi nhau chạy vòng quanh các hình vuông, còn mặt hình vuông trong cùng thì thường thêu những ngôi sao ở cánh hay nhiều cách biến thể. Những hoa văn ấy đều phản ánh hiện thực, song không sao chép tự nhiên mà đã được cách điệu thật khái quát và hình học hóa, số kiểu hoa văn tuy không nhiều, song nhờ kết hợp khéo léo ở từng bàn tay vàng và theo tập quán từng vùng mà vừa mới lạ vừa quen thuộc lại như mở ra vô hạn (theo TS Chu Quang Trứ).
Về  màu sắc chỉ thêu thường là màu tươi cơ bản. Piêu Yên Châu sặc sỡ, ưa dùng các màu gốc đối chọi mạnh: Trên nền khăn xanh chàm đen, nổi bật lên là những màu sáng mạnh như đỏ rực, vàng nghệ, vàng chanh, trắng, xanh lá cây, xanh lơ tạo thành sự phối hợp màu khá mạnh bạo. Piêu Điện Biên ít màu hơn thiên về đằm thắm.
Khăn Piêu do các cô gái Thái làm ra để dùng, để tặng bạn tình làm quà kỷ niệm, tặng cha mẹ, cô bác, anh chị bên nhà chồng. Khăn Piêu rất tiện dụng: Dùng đội đầu, quấn cổ và khi cần thì buộc làm “địu” để địu con nhỏ.  Nó đẹp như câu hát:
“Chiếc khăn Piêu
Thêu chỉ hồng
Theo gió cuốn
Bay về đây
Dâng trên tay…”
Nó chính là nơi lắng đọng tâm hồn (tình yêu) và phẩm chất cao đẹp của người con gái Thái.
8/3/2012 – NK
LỜI ĂN TIẾNG NÓI
Lời ăn tiếng nói trong giao tiếp hàng ngày bộc lộ nhân cách, lối sống (tính cách) của một dân tộc. Nhiều khi chỉ một hiện tượng (một hành xử) cũng đã để người ta có cảm tình hay khó chịu về dân tộc đó. Ví dụ có người nhận xét:
Tính cách người Hàn Quốc qua hiện tượng lặng lẽ xếp hàng cả tiếng đồng hồ trước giờ lên máy bay (còn người Nhật thì qua vụ sóng thần và thảm họa nhà máy điện hạt nhân Fucưxima hồi  11/3/2011 từ người dân tới ông Thủ tướng đã hành động, ứng xử như thế nào (qua màn hình ti vi) đủ cho cả thế giới kính phục người xứ mặt trời mọc.
- Người Tàu (Trung Hoa) có  một nền văn minh rực rỡ cỡ 5000 năm lịch sử, nhưng khi tiếp cận với số đông cụ thể thì lại thấy như bước vào xã hội thiếu trật tự như “vào đến phòng đợi ở sân bay, đã thấy rất đông người ngồi la liệt trên ghế hoặc dưới đất, nói chuyện ồn ảo hoặc ăn uống nhồm nhoàm. Nét nổi bật của người Trung Quốc là ăn to, nói lớn… khi lên máy bay thì xô đẩy chen lấn, la hét chửi bới nhau, rồi giành giật chỗ để hành lý. Khi đã vào ghế ngồi yên vị rồi là họ bắt đầu mở miệng để chuyện trò, tranh luận to tiếng như một cái chợ”.
Hai tính cách nổi bật là: Chen lấn và sẵn safng xâm phạm vào sự riêng tư của người khác.
Về đi lại hình như người ta không bao giờ chú ý (nhường đường) hoặc có nhường họ thì cũng không có lời cảm ơn. Về sinh hoạt thì hở cái gì ra là mất cắp, tính vùng miền cục bộ (như ở ta là dân Nghệ Tĩnh) rất mạnh mẽ.
Việc khạc nhổ thì người Tàu đứng số một thế giới đến nỗi khi tổ chức Thế vận hội Bắc Kinh (2008…), lãnh đạo phải có chỉ thị cấm khạc nhổ ngoài đường phố Thủ Đô.
- Người Hà Nội: Xưa nổi tiếng là thanh lịch, hào hoa phong nhã, thì nay xuống cấp đáng báo động: Ra đường thấy bất cứ cái gì lạ (như tai nạn xe máy, cãi nhau) là xúm đông xúm đỏ gây tắc nghẽn giao thông. Ăn tục, nói tục thì chắc Tàu cũng phải chào thua: Xô đẩy chen lấn, nói to, trộm cắp…, đái bậy thì thôi rồi.
Tính khoe mẽ, trưởng giả, học làm sang (kể cả tham nhũng) đang trỗi dậy, hoành hành đáng sợ, sự coi thường kỷ cương, luật pháp diễn ra khá phức tạp.
Còn về người Thái, qua nhiều năm “cắm bản” Nguyễn Khôi tôi thấy có hai điều nổi bật: Chất phác thật thà (không nói dối = ba vẹo), không trộm cắp (kin lắc); nếu ai mắc phải thì bị cộng đồng dân bản tẩy chay, xua đuổi.
Đặc biệt trong sinh hoạt thường ngày của người Thái là nhẹ nhàng, dịu dàng, rất ít khi to tiếng (vợ chồng ít khi cãi nhau), không đánh mắng trẻ con, phụ nữ (phụ nữ được tôn trọng, yêu quý), trong các bữa liên hoan tiệc tùng diễn ra khá lớp lang, trật tự - khi vui là “hát” (khắp) là xòe (xe) là hút hai sừng trâu rượu cần, là cụng ly vài ba chén rượu cất (lẩu xiêu). Không đồng ý thì nói “đồng ý thôi” một cách nhẹ nhàng
Nói năng vào thưa ra gửi (xo phép), gặp nhau có lời chào “khẳn qua, xiểng qua” cho tặng nhau có lời cảm ơn chân thành và còn hẹn gặp lại. Dân bản sống với nhau kiểu công xã thị tộc nông thôn “tắt lửa, tối đèn”có nhau, chia ngọt sẻ bùi, tình nghĩa thủy chung.
Lời ăn tiếng nói của người Thái được bộc bạch trong “Quăm son Côn” (lòi khuyên răn người). Đó là những câu tục ngữ rất đậm đà bản sắc dân tộc.
- Về mặt “xưng hô” thì:
Thẩu hịa me/ Ké hịa lua
(Già gọi Mẹ/ vừa gọi Thím)
- Ăn xem nồi, ngồi trông hướng, có ý tứ:
Năng hảu bấng thí
Ní hảu bấng bón
(Ngồi phải xem chổ/ đi phải xem nơi)
Nung sửa bang nha ngoi táng
Nung xỉn hang nha ngoi tu
(Mặc áo mỏng (nữ) đừng đứng trước cửa sổ
Mặc váy mỏng đừng đứng trước cửa vào ra)
Au mia bấng me nai
Sự quai bấng me tổn lang
(Lấy vợ xem mẹ vợ/mua trâu xem trâu đầu đàn)
Thốm nặm sa lai hảu bấng chong
(nhổ nước miếng phải xem khe dát)
Khong xáu ca đi ca panh nha chăm xảu
(thấy người có của quí giá đừng sán đến gần)
Cốn tai pợ sốp/cốp tai pợ o
(người chết vì cái miệng/ ếch chết do lắm tiếng kêu)
Phua mia cu mưng nha va
(tình vợ chồng chớ gọi mày tao)
Quăm đi phăng cảu sok
Quăm hại hí cảu na
(chớ lời lành chôn chín tấc
Chở lời xấu dài chín xải)
Xép khẩu é kin nốt háy
Quây khanh né xỉ nột bản
(Đói bụng tưởng ăn hết cả chõ (xôi)
Buồi cương cứng tưởng địt được (nữ) cả bản.
Nha chằm díp nha khịt ton
(Khi cầm nắm xôi chấm chớ có
Kẹp thêm miếng thức ăn (cá thịt) - tức là đừng ăn tham - xấu.
Nhay pay đón mưa đăm
(Đừng có đi trắng về đen - ăn ở hai lòng).
Nha du chăm nưa xiêu
(Đừng có xán vào vợ người khác)
Chẩu bái ngắm xiêu ngăm
(Mình không nghĩ ngợi, ý tứ gì (vô tư) thì sẽ có người khác nghĩ (nhớ) đến mình).
Xin trích một số câu đã trích ra tiếng phố thông:
* Người Thái có luật Mường, lệ bản.
Có thấp có cao/ biết cao biết thấp.
* Nhiều người đắp thành bờ.
Một người phá thành thác.
* Không được ba hoa
Không được nói phét
Không được sợ việc
Không được lười biếng
Không được ngủ sớm
Không được dậy trưa…
* Không được nhai chộp choạp
Không được cái không bảo có
Không được kề cà say rượu
Không được đánh vợ
Không được ăn trộm
Không được nói dối
* Ăn cơm trước khi nuốt phải nhai
Giơ dao ba lần mới chém
Nghĩ ba lần mới nói
* Bố mẹ nuôi không bằng thầy dạy
Thầy dậy không bằng tự mình làm nên
* Đông con cháu, thiếu gạo ăn
Sướng con cu, mù con mắt.
Những cái buồn của người Thái:
“Con dại, vợ chết, bố mẹ mất sớm, anh em ở xa”
Vợ chồng xa nhau, bỏ nhau, thiếu cơm, thiếu muối
Đi thuyền không có mái chèo
Lạc rừng trời tối/ cơm không, chẳng có thức ăn. Đêm nằm không có vợ để ôm. Dằm (gai) chọc móng tay / ve cắn lỗ tai.
Mắt mù, tai điếc
Đào con dúi hang sâu / nói chuyện tình với gái nặng tai.
Đắp bờ phải bùn nhão.
Ăn không có bạn
Ở chẳng có phường
Đau bụng không có thuốc
Đau mắt, đói chữ chẳng có thầy.
Anh em ghét chẳng ai thương.
Lai côn đi/ lai phi pương cáy/ lai mạy pên hươn chăn
(Nhiều người thì tốt/ nhiều ma thì tốn gà - phải cúng/ nhiều cây thành nhà đẹp).
Đông luông báư mi mạy
Chí au săng pên pá
(núi rừng to không có cây
Thì lấy đâu thành rừng)
Lời ăn tiếng nói (tư cách đạo đức Thái) được đúc kết thành tục ngữ, thành luật Mường lệ bản để giáo dục mọi người sống, lao động trở thành những con người tốt, có kỷ cương, có tình nghĩa xây dựng bản mường - đất nước ngày một giàu đẹp.
Góc thành Nam Hà Nội 19/4/2011
 NK
QUẮM TỐ MƯƠNG
“Truyện kể bản Mường” là một bộ thông sử của tộc người Thái, ngành Thái đen trình bày những sự kiện nửa hư (truyền thuyết) nửa thực qua cuộc “mang gươm đi mở cõi” cách đây khoảng gần nghìn năm của chúa đất Thái đen ở Mường Lò (Nghĩa Lộ).
Qua phần huyền thoại … đến lúc Then (trời) cho tạo Tum Hoàng xuống làm chủ vùng đầu sông Nậm Lài, Ao Xe, Nậm Tè (Sông Đà), Nậm Tào (Sông Thao)… rồi tạo Tum Hoàng cho hai em là Tạo Xuông, Tạo Ngần xuống ăn đất Mường Ôm, Mường Ai ngoài vòm trời, rồi tới dựng Mường Lò Luông, cùng theo có các tay chân họ Lò, Lương, Quàng, Tòng, Lèo… tôn họ Lò làm chủ. Lúc đó đất Mường Lò đã có người. Mọi (Mường), người Mang cư trú. Xây dựng theo Mường Lò thì Tạo Xuông ở lại lấy vợ sinh ra Tạo Lò, cho Khun Lường làm mo, Tạo Lò làm chúa. Về sau Tạo Xuông cũng trở về quê cũ Mường Ôm, Mường Ai.
Tạo Lò lấy vợ sinh ra 7 con trai: Ta Đúc, Ta Đẩu, Lặp  Li, Lò Li, Lạng Ngang, Lạng Quang và Lạng Chượng… các con khôn lớn, Tạo Lò chia cho các con đi làm chúa các mường: Tạo Đúc “ăn” Lò Luông, Ta Đẩu “ăn” Lò cha, Lặp Li “ăn” Lò Gia, Lò Li “ăn” Mường Min, Lạng Ngạng “ăn” Mương Vân, Lạng Quang “ăn” Xí Xam, Bản Lọm. Ngoài ra Tạo còn cho bô lão già bản Xửa Cang Ho “ăn” Mường Pục, Mường Mẻng… Rồi các cháu nội được chia đi làm chúa miền đất đầu sông Thao nước đỏ.
Riêng con út Lạng Chượng không có Mường để “ăn” - “con út không có ngựa, con út không có Mường” (giàu con út khó con út là thế). Lạng Chượng mới bàn với các tay chân giúp việc là các ông ho hé, ông mo, ông nghe… triệu tập binh tướng, dân chúng mở lối đi tìm Mường. Quân đi đến Khau cả, Khau Pục, Mường Min thì tiến thoái lưỡng nan, chúa bèn cúng “pang cha đáp” cầu hồn ông nội là Tạo Xuông, Tạo Ngần xuống phù hộ.
Chọn ngày lành, quân Lạng Chượng đến Mường Lùng - dốc Khau Phạ nhìn thấy cánh đồng rộng (xã Ngọc Chiến bây giờ) bèn dốc quân vượt dốc Xam xíp vào Mường Chiến. Tạo Mường Chiến khiếp sợ xin gả con gái, Lạng Chượng ưng ý nhận đất Mường Chiến là Mường họ ngoại.
Tới Mường Chai, Tạo ở đây sợ phải dâng nhiều trâu.
Binh Chúa vượt rừng rậm, qua cầu mây Vạn Tọ, không thuyền bắc cây qua Nậm Tè (Sông Đà)… đến đây vấp phải sự chống cự của người “Xá Cắm Ca” (Khơ Mú) do Tù trưởng Khun Quàng cầm đầu. Mác Chúa ngắn nên chúa phải chạy, mác Quàng dài nên đuổi Chúa xuống Nậm Tè, bị bắt cạo trọc đầu phơi nắng, binh Chúa chết 800 người gan dạ… Rồi chúa rút binh về Ít Ong (Thủy điện Mường La hôm nay) để tang đồng đội.
Rồi sau một thời gian nghỉ dưỡng rút kinh nghiệm chúa Lạng Chượng thắng Khun Quàng chiếm được đất Mường La từ Nặm Bú qua Khau Pha, Kéo Tèo, qua Nặm Cá (Chiềng An), Chiềng Căm (Thị xã), Cọ, Kẹ qua núi Khau Hào lên Mường Muổi (Thuận Châu)… gặp quân Xá của Khun AmPoi ở núi Khau Tù, Khau Cả, quân chúa đánh nhiều lần bị thua… rồi chúa lập mưu “Mỵ Châu - Trọng Thủy”xưa, xin làm rể ĂmPoi… chọn ngày lành chúa mở tiệc chuốc rượu say cho Bố vợ, rồi giết chết đoạt đất Mường Muổi.
Quân Chúa tiến lên Mường Quài (Thiên Giáo) chê đất ở đây ẩm ướt tanh hôi, bé nhỏ, qua Mường Húa, Mường Ẳng tới Mường Phăng chế đất bé trũng như vũng trâu đằm, chim cuốc chạy qua, chim đa đa chạy lại cũng thấy. Quân chúa tiến vào Mường Thanh, đất này thật tốt “nhất Thanh, nhì Lò, tam Than, tứ Tấc” (4 cánh đồng rộng ở Tây Bắc) ở đây Mường rộng lớn, tròn như cạp nong, cong như sừng trâu, cho quân lính phá rừng khai hoang làm ruộng, chia đất thành hai vùng “Xoong Thanh” cho già Nà Lếch làm mo.
Lạng Chượng làm chúa Mường Thanh lấy vợ bản Pe sinh ra Khum Pe, rồi lấy vợ sinh ra Khun Mứn. Khun Pe mất sớm, ông nội đem cháu về nuôi, sau Khun Mứn sinh Tạo Pàn. Chúa Lạng Chượng già rồi mất… cháu tiếp là Tạo Chiêu lên “ăn” đất Mường Lay, Tạo Cằm về Mường Muổi.
Cứ tiếp là Tạo Chông, Tạo Thâng, Tạo Quá Lạn, Tạo Chương, Tạo Quạ, Tạo Quạ lấy nàng An Phấư ở Mường Lay làm vợ cả, và Nàng Xơ (người Xá dòng dõi Khun Quàng, ĂmPoi) làm vợ hai. Nàng Xơ sinh ra chúa Lò Lẹt.
Lò Lẹt lấy tên hiệu là Ngu Háu (rắn hổ mang) làm chủ đất Mường Muội nhiều năm vào đất triều cống Đại Việt từ đấy.
Cứ thế, cứ thế… ghi chép kéo dài cho tới năm Mầng Cậu (Đinh Hợi -Đồng Khánh nhà Nguyễn năm thứ 2) quân Pháp lên đánh chiếm Mường La (Thị xã). Thời đó Tây tiến lên Pa Tần bị Tạo Điêu Văn Tri đánh cho phải lui về - Mường Lay - Mường La, mãi sau Quan 6 ở Hà Nội sai Pa Vi lên dụ Tạo Tri hàng phục - Thế là 16 châu Thái bị Tây cai trị từ đấy cho đến 7/5/1954 chiến thắng Điện Biên…
* Bản Mường Thái dưới thời thực dân Pháp đô hộ (Thành Thái thứ 2: 1890 - 1954):
- Cầm Văn Oai làm chủ Mường Mụa (Mai Sơn)
- Ở Mường La: Tây đóng trụ sở (kiểu tỉnh lỵ ở Tạ Bú gọi là Vạn Bú)
- Cầm Văn Hoan làm Tuần phủ cai quản 9 châu Thái đen.
Cầm Văn Oai ở Mường Mụa kiêm chức Quản đạo Thái đen.
Điêu Văn Tri quản đạo vùng Thái trắng.
Bạc Cầm Hạc làm tri châu Mường Muổi
Hoàng Văn Cấp làm tri châu Mường Vạt
Xa Văn Cả làm tri châu Mường Xang.
1/2/1917 Chánh xứ Lô Mét mở trường dạy chữ Quốc ngữ và chữ Tây ở Sơn La. Cũng năm đó chủ Mường La là Cầm Văn Quế lên thay cha là Hoan vừa mất, Hoan làm chủ Mường La 33 năm, khi chết, làm ma mổ 32 trâu và trồng 36 cây heo ở mộ.
Năm 1919, Quế làm nhà ngói bắt dân mỗi “xổng” nộp 100 đồng bạc trắng.
Năm 1922 Tây bắt dân đổi tiền “cống chảy” lấy tiền “hua cỏm” hẹn một năm phải xong, cứ 3 đồng cống chảy được 1 đồng hua cỏm. Dân mường thời đó túng tiền lắm, họ phải bán gạo, trâu với giá rẻ mạt (trâu mộng 12 đồng/1 con và mua hàng với giá cắt cổ như sợi vải, thuốc lào, 1 kg muối giá 5 hào).
Năm 1931 Tây xây nhà tù Sơn La mở đường cái ô tô đi Tạ Khoa (qua đèo Chẹn), năm 1932 Tây lại mở đường đi Thượng Lào qua rẻo Pa Háng, rồi mở tiếp đoạn Mộc Châu về Suối Rút (đường 41) người Thái gọi đó là đường Pha Lỉ, Pha Tổ… dân phải đi phụ đục núi phá đá nhiều người bị chết - con gái phải gả bán sớm (lấy tiền) Bản mường không yên vui.
TÁY PÚ XẤC
Cùng với “quắm tố Mướng” là truyện Táy Pú Xấc “Người Thái đánh giặc” là một sử thi tầm cỡ về “kể ông cha chinh chiến”…
Táy ở đây dùng đa nghĩa, như “trên đường đi” gọi là Táy Tang, qua cầu là Táy Khua, đọc chữ là Táy Xư, kể chuyện là Táy Quắm Tố… Táy nghĩa là kể.
Pú là ông nội, người tôn kính  như “Bác”, Pú ở đây là ông cha, lãnh tụ, thủ lĩnh.
Xấc là chiến tranh: Đi trận là Pay xấc, đánh trộm là tặp xấc, dấy binh là diệt xấc, nổi loạn là xấc phản, giặc ngoại xâm là xấc chinh mương, hay xấc cướp mường, hay xấc pua mương. Mặt trận là nả xấc, cuộc chiến là Chộ xấc, đi chiếm đất là xấc to mương - “xấc” đánh nhau cả xâm lược lẫn tự vệ.
Nội dung thư theo lịch sử của Quắm tố mướng, mở đầu từ Tạo Lò tới Cầm Nho (Kăm nho) là 50 đời.
Sử thi viết theo lối hát “khắp” dùng rộng rãi trong sinh hoạt văn hóa đời thường và nghi lễ.
Mở đầu là:
Cạy hin pẻn ke ma bốc
Nộc tót háy tai thẩy
Tai thẩy tai ti non
Tai cuông côn cuông kon mạy xọk
Pú hók lộm khẩu heo Tông Lo
Chang nháư tai thót nguông thót nga pạt
phạk Tao, u, khong…
Ẩy đá dẹp đá tảng lên cạn
Chim gõ kiến chết già
Chết già tại nơi nằm
Chết trong bộng trong cành cây Xọ
Cụ Tổ đổ xuống vào  mộ đồng Lò
Voi lớn chết rụng vòi ngà bên sông Thao,
nậm u, MêKông…
Đoạn tả Lò Lạng Chượng đem quân đi đánh chiếm Mường La
Mi khỏi kôn pay cón
Hảư Ải Ón uôn tang
Tốc Xả chi, Xả cha
Tốc Mương Bá, Mương Ai
Tốc Mương Chai, Mương chiến
Tốc Pák chiến ti nặm hăm
Tốc Pák Păm ti nặm hạk
Pọng cánh quen phăn hủa
Phăn hủa hảư kôn xen kôn păn pú bải
Có chân sai đi trước
Cho Ải Ón dẫn đường
Đến Xá chi, Xá cha
Đến Mường Bá, Mường Ai
Đến Mường Chai, Mường chiến
Đến ngủ suối chiến nơi sóng cuộn
Đến ngủ suối Păm nơi nước phèn
Pọng và Quen (quan và dân) đóng thuyền
Đóng thuyền cho quân ức quân nghìn cụ bơi.
Đoạn kết:
Bản Lụa (Thuận Châu) Ho Luông Sinh pay xảng / lau diên ké xia tạu   
Thẩu xia bản xia na
Chắng púk hảư Ho Luông Tiên pay kín
Đin na Lụa na Lài to đaư coi xảng
Hák vá Sen Lộc lau Ké xia tạu
Thẩu xia bản xia na
Chẩu xáư hảư Pọng An dệt Sen
Đin na tạu tin đán
Bản Pán Vạy Mo Yên mưa khẩu
Bản Té pẩu chiên vạy bấu kha
Kọ pưa pang xên phon chu tang mãn hụ
Bản Lăng hảư sự Phúc mưa kin
Đin Na Lăng to đaư coi xảng
Cựt áo quảng hom pay chom tom.
Họ Luông sinh vun đắp Bản Lụa
Lại đã già lìa can
Khuất lìa bản lìa ruộng
Mới để Ho luông Tiên mà vào hưởng ăn
Bao đất ruộng Lụa, ruộng Lài hãy quản
Nhưng rồi Sen Lộc đã già lìa can
Khuất lìa bản lìa ruộng
Pọng An được cụ (chúa) cất nhắc làm Sen
Bao đất ruộng bản Mòn hãy quản
Ruộng trải tận chân lèn
Mo yên vào bản Pán
Bản thủa ông cha truyền lại không buông
Bởi thông thạo mọi đường cúng tế
Bản Lăng dành Sự phúc lên “ăn”
Bao ruộng đất (ở bản) Lăng hãy quản
Lo rộng tính xa dân chúng sum vầy.
(Theo Vương Trung).
THIẾT CHẾ XÃ HỘI THÁI XƯA
* Bản (làng): Là đơn vị hành chính nhỏ nhất, là cơ sở của Mường, là nơi cư trú của các gia đình phụ hệ thuộc nhiều dòng họ. Bản trung tâm của Mường gọi là Chiềng (phát âm ở Lào là Xiêng, Xiêng như Chiềng Lề (TX Sơn La) Xiềng Khọ, Xiêng Khoảng. Loại Chiềng thứ 2 là có một bản lớn, tồn tại độc lập không trở thành trung tâm kinh tế - xã hội và chính trị của một Mường nào đó (như Chiềng Đông, Chiềng Sàng, Chiềng Khoi ở Yên Châu) có nơi gọi là Viêng (Viêng Chăn - Lào, Viêng Lán ở Yên Châu).
Trong Mường có hai loại Bản:
- Bản của dân tự do (dân páy)
- Bản của dân lệ thuộc (dân Thín).
Đứng đầu Bản là Tạo Bản (Quan bản) thường là người dòng họ Tạo Mường - (Quý tộc) nắm giữ “Không cha truyền con nối”. Quyền lợi của  Tạo bản được cấp 1 số ruộng cấp tùy nơi “khoảng 1000 bó mạ (10.000m2), chức vị thứ 2 là chá bản (chá là nói)” truyền đạt mọi tin tức công việc của bản, ruộng được cấp bằng ½ Tạo Bản, khi thôi chức vụ phải trả lại ruộng.
Họ được dân bản đến giúp công xá, biếu xén thịt và sản vật.
* Xổng (Poọng) gồm 3 - 5 bản (như kiểu Tổng, Xã?), đứng đầu là Tạo Xổng thường là quý tộc, ruộng được cấp 2500 bó mạ (25.000m2), dân Xổng phải làm không công cho Tạo (được ăn cơm), dân cũng phải biếu xén Tạo Xổng.
Giúp việc Tạo Xổng có Quan Xổng, Chá Xổng… mất uy tín hay chết thì dân bầu lại.
* Mường: Gồm nhiều xổng, bản đứng đầu là Tạo Mường. Chết  dân bản bầu mới. Toàn bộ đất đai trong Mường là do Tạo Mường cai quản, gia đình Tạo chỉ “ăn” một đám ruộng là “lương” cấy 5000 bó mạ (50.000m2), dân phải đến làm không công cho Tạo.
Theo Quắm tố mướng thì chúa đưa dân đi chiếm đất “có ruộng mới tập trung được dân cư cũng như có nước mới giữ được cá”. Có ruộng đất thì mới có bản Mường. Từ khi Mường Lò (Văn Chấn, Nghĩa Lộ - quê tổ Thái đen Việt Nam) ra đời từ Tạo Lò thì bản Mường cũng dần dần được tổ chức thành hệ thống.
Nhiều bản hợp thành Xổng (Sổng), có nơi gọi là Ngụ (dưới cấp Lý Trưởng “xã”). Một hay ba Lộng (có nơi gọi là Ken) cộng với 3 - 4 Xổng thành một Mường. Từ 4 - 8 mường trở lên thành một “chu”. Các đơn vị từ Chu (Châu), Mường, Lộng, Bản là đơn vị hành chính mà Chu là đơn vị cao nhất (cỡ cấp huyện) của địa phương. Các đơn vị Xổng, Ngụ là dưới Mường Phìa (trực thuộc Phìa).
Mỗi Chu (Châu) khi mới xác lập mang tính chất tự trị, không tập quyền thành một tổ chức thống nhất ở địa phương (phong kiến sơ kỳ, có tính cát cứ sứ quân).
BỘ MÁY QUAN CHỨC Ở CÁC CHÂU THÁI SƠN LA - TÂY BẮC
Cánh đồng Mường Lò (Tông Lò) do Tạo Lò đứng đầu khai phá dựng bản, lập mường vào thế kỷ 11 (nhà Lý) đã là nhà nước phong kiến tập quyền) nhưng sử sách Thái không thấy ghi (kể cả sử Việt) vê bộ máy cai trị (quan lại) ở các Châu Thái Tây Bắc.
Theo Quắm Tố Mướng thì khi Mường Lò (mường khởi thủy) ra đời thì có phân chia:
Họ Lướng dệt mo
Họ Lò dệt Tạo
Họ Lường (Lương) làm Thầy mo
Họ Lò làm Tạo.
Như vậy Tạo Lò làm chủ (Chúa) Mường Lò.
Luật Mường đã xác định: Tất cả các thứ (kể cả đất đai) là của Vua, của Tạo - đó là quyền sở hữu Nhà nước.
An Nha (Quan Châu) phân quyền ban cấp tất cả các sản vật thiên nhiên trong rừng, trên đất, dưới nước cho các mường phìa, Lộng, Tạo, Bản đều thuộc quyền các quan chức ban cấp chiếm giữ.
Ai săn bắn được thú to, cá lớn đều phải trích phần nộp cho An Nha một đùi, cho phìa một đôi thăn, nếu không coi là phá tục lệ bản mường, tùy tội mà xử phạt. Do đó mỗi người dân phải luôn tự răn mình.
“Phít nọi sia quai
Phít lai bên khỏi
É pảo hữ dók mi
É khó hữ dók tạo quan”
“Sai phạm nhỏ mất trâu
Sai phạm lớn thành tôi tớ
Muốn có sẹo thì đùa với gấu
Muốn béo (sưng mặt), thì đùa với ong
Muốn nghèo khó thì đùa với Tạo Quan”
Quy định bổng lộc dành cho các Quan chức ở các Châu Thái Tây Bắc thời phong kiên - thực dân (trước thời giải phóng 1953) là: “Làm chủ vùng đất cai trị / hưởng nương dành ruộng chia / ruộng cày nương cuốc / cuông nhốc pụa làm tôi tớ. Suối cá/ ong vách đá / mật nhung hổ gấu hươu, nai, voi, tê giác tới rừng tre măng quý - dân ai vi phạm đều bị phạt tiền, dân được tham gia cử Tạo, dựng Quan (lời ca cổ”.
* VỀ TÊN GỌI BẢN MƯỜNG
Thường đặt địa danh theo tên sông suối, núi, đất (na, nà) cỏ cây, con gì.
Ở Việt Nam có 37 mường Thái chỉ có Mường Ai là có 1 bản.
“Mường” nghĩa hẹp là chỉ 1 đơn vị  hành chính…
“Mường” theo nghĩa rộng là 1 vùng miền, đất nước Quốc gia như Mường Ngô (Trung Quốc, nước Ngô thời Tam Quốc mà Giao Chỉ phụ thuộc), Mường Lá Púa (Mường Việt), Mường trời, Mường Ma, Mường Lùm (lúm) chỉ thiên hạ, cõi đời.
Đã có bản Mường là phải có Tạo (chủ mường):
Khột ma Phái mi mương
Tánh Mường phái mi Tạo
Khai ruộng phải có Mường
Dựng mường phải có Tạo
Chiềng hay Xiềng (Viêng):
Là đơn vị Bản trung tâm của Mường trong (mường cuông). Chữ “chiềng” bao giờ cũng có một tên riêng khác kèm theo để biến thành danh từ riêng. Ví dụ: Bản Ban là trung tâm của Châu Mường “Mường Mụa” (Mai Sơn) - lúc này chiềng Dong vừa là tên riêng chỉ bản Ban, vừa là tên gọi Mường trọng (trung tâm của Châu mường), đồng thời là tên của cả châu mường Mường Mụa.
Châu mường Mường Sang (Mộc Châu) là Chiềng Chu; Châu mường Mường Tấc (Phù Yên) là Chiềng Hoa.
Đất Chiềng ở nhiều Châu Mường xưa (Châu Lỵ) thường có hào lũy vây quanh để bảo vệ, hào lũy là (Viềng), từ đó danh từ này nhiều khi trở thành tên của Châu mường - như Viêng Lò, Viêng Chăn (Lào).
Châu mường Mường La có Viêng dựng ở bản Giảng (thị xã) nên gọi là Viêng Giảng đồn phòng thủ gọi là “che”, ở Mường La đặt ở bản Ái nên gọi là che Ái ở cách xa 10km.
Thời VNDCH phần lớn “Chiềng” được áp sang là “xã”.
Bản Mường trung tâm là Mường trong (Mường Cuông), ở ngoài là Mường Phìa ngoài (Mường Phìa Nọk) - Bản trung tâm của Mường Phìa ngoài cũng gọi là Chiêng (Chiềng), ví dụ:
Mường Chanh là mường ngoài của Châu mường Mường Mụa có tên Chiềng Quen, Mường Sại là mường ngoài của Châu mường Mường Muổi (Thuận Châu) có tên là Chiêng Muôn. Sau 1954, ta đổi gán “chiềng” là “xã”.
Bộ máy chính quyền các chức dịch phân chia thành hai đẳng cấp rõ rệt:
1. Dòng dõi quý tộc Châu mường gồm họ gốc có tên Lò Cầm (đó là họ Lò to, Lò luông) để phân biệt với Lò bé (Lò bình dân). Họ Lò  Cầm phân chia ra các họ: Cầm, Bạc Cầm, Điêu (Đeo, Tao), Hoàng.
Dòng dõi quý tộc Thái có có họ Vi Khăm, Kha Khăm, (Khăm = Căm = Kim = Cầm) phân thành họ Hà, Xa (Sa).
Người thuộc họ quý tộc được phép tham gia giữ các chức người đứng đầu Bản, Lọng (Quen), các Phìa và An Nha Châu Mường.
2. Người thuộc ngoài họ quý tộc như Lò, Lường, Cà, Tòng… thì chỉ được phép giữ chức dịch (cấp thấp) là người đứng đầu bản và các ông Quan hàng “Xổng”.
Đó là luật tục quy định, người nào đó có thế lực muốn phá vỡ quy định này dù là quý tộc hay bình dân thì đều phải đổi họ gọi là “nhập đẳm”(tư đẳm) - ví dụ họ Vi (bé) muốn làm Phìa, An Nha thì phải đổi thành họ quý tộc Vi (lớn) phải làm khá phức tạp, tốn kém, ngược lại người họ quý tộc muốn làm chức nhỏ như Pằn (xen), mo mường… thì cũng phải đổi họ xuống thành họ Lường, Cà…
Mọi chức dịch trong của bộ máy của Mường Phìa (chế độ Phìa Tạo) đều do An Nha (Chủ Châu (huyện) và Phìa Mường tiến cử, bổ nhiệm. Khi bổ nhiệm xong, họ nghiễm nhiên tổ hợp thành một tổ chức tương đương mang tên “Hội đồng bô lão toàn mường” (Thẩu ké hang mương) do chức ông Păn (xen) hoặc mo đứng đầu).
Quan hệ giữa cấp châu mường với bốn mường Phìa ngoài thì không hẳn, theo thứ cấp trên dưới mà theo cơ cấu truyền thống vòng đồng tâm xoay quanh trục. Cơ cấu này quy định: Mường trong với bản trung tâm gọi là Chiềng là Trục, còn các Mường ngoài ở vòng đồng tâm.
Trước thế kỷ 19, các Châu Mường Thái hợp thành khu vực “16 châu Thái” (Xíp hốc Châu Tay) - trong dó có 1 châu mường trung tâm, các châu mường khác tập hợp dưới hình thức thuần phục hay qui phục “Mường Luông” (Mường lớn).
Triều đình Trung Ương từ Lý, Trần, Lê, Nguyễn gọi đơn vị Mường Luông là “đại tri châu”, đến năm 1834 vua Minh Mạng đổi (xóa bỏ) chế độ đại Tri Châu và đặt ra các Châu (huyện vùng dân tộc), đặt các Châu Mường Thái thuộc tỉnh Hương Hóa (trung tâm ở Hương Hóa, bên bờ sông Thao, Phú Thọ hiện nay). Đến năm 1884, đất nước ta mất 6 Châu mường Thái nhập vào bản đồ Trung Quốc theo Hiệp định Thiên Tân ký giữa thực dân Pháp và triều đình Mãn Thanh.
Tổ chức xã hội theo các đơn vị Mường xưa là một bước đệm chuyển từ tổ chức thị tộc, bộ lạc nguyên thủy (xã hội Thái gọi là Đẳm) sang tổ chức Quốc gia dân tộc. Thuộc ngữ “Mường” không còn là như một quốc gia dân tộc nữa, người Thái ở Lào, Thái Lan đã mượn danh từ gốc Pali - SanoKis là Pa Thết để chỉ đất nước (Mường Pa thết Lào)
Đấy cũng là lý do, trong dân gian vẫn quen gọi nước Thái Lan là Mường Thay, Lào là Mường Lào. Người Thái ở Việt Nam như chậm hơn mới đi từ Đẳm đến trình đô bản mường (dưới cấp quốc gia) rồi phát triển gia nhập quốc gia dân tộc Việt Nam (Pa thết Việt Nam). (Thái Việt Nam chưa lập “Nhà nước riêng” mới ở dạng tự trị Bản Mường).
QUAN HỆ DÒNG HỌ GIA ĐÌNH VÀ HÔN NHÂN
            Người Thái có ba quan hệ về họ hàng:
1. Ải noọng: Gồm anh em, chị em chưa xây dựng gia đình sinh ra từ một (cùng mẹ cùng cha hay khác)-  nội tộc 4 đời.
2. Nhinh Sao: Là họ nhà trai hay thuộc khổi Ải noong và rể.
3. Lung Ta: Họ nhà gái (bên ngoại).
KHU TỰ TRỊ THÁI MÈO
Toàn cảnh thị xã Sơn La
Ngày 29 - 4 - 1945 chủ tịch Hồ Chí Minh (VNDCCH) ký sắc lệnh thành lập khu tự trị Thái Mèo (sau đổi là khu tự trị Tây Bắc).
Kỳ họp thứ hai Quốc hội khóa V phê chuẩn xóa bỏ cấp khu và hợp nhất 1 số tỉnh. Hội đồng nhân dân khu tự trị Tây Bắc họp ngày 19 - 20/1/1976 tại thị xã Sơn La (thủ phủ khu tự trị) công bố quyết định của Quốc hội (thời Tổng bí thư Lê Duẩn) kết thúc 20 năm tồn tại của khu tự trị.
Thành tựu: Theo báo cáo 20 năm hoạt động của khu tự trị Tây Bắc, ngày 19-1-1976 của UBHC khu thì:
1, Về chiến đấu đánh bại chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ xâm lược. Toàn khu có 82 xã trực tiếp chiến đấu, 16 xã bắn rơi máy bay mỹ và 21 xã bắt sống giặc lái, sản xuất được giữ vững, huy động 562000 lượt người với 95 nghìn mét khối vật liệu đá đảm bảo giao thông phục vụ chiến đấu.
2, Kinh tế: Từ 1954 thực hiện “cải cách dân chủ” (ở xuôi là cải cách ruộng đất) đã xóa bỏ chế độ bóc lột cuông nhốc (chế độ Phìa Tạo), xóa bỏ ruộng chức, chia ruộng cho nông dân lao động, đã đưa 79% hộ nông dân vào hợp tác xã nông nghiệp - 50% số HTX lập được kế hoạch sản xuất hàng năm, thực hiện 3 khoán - những HTX tiên tiến như Nậm Mùn, Bản Phủ (Lai Châu), Púng Luông, Cao Đa (Nghĩa Lộ), suối Lìn, Kim Chung (Sơn La)…
So với năm 1955 thì sau 20 năm, giá trị sản lượng nông nghiệp tăng 228%, bình quân hàng năm tăng 16%, diện tích trồng lúa tăng gấp 7 lần, diện tích hoa màu tăng 2 lần. Đã có 195 HTX đạt trên 5 tấn thóc/1 ha. Đã hình thành các vùng sản xuất chuyên canh lớn như bò, chè Mộc Châu, Cam Đường, vùng chè Văn Chấn, vùng lúa lợn Điện Biên, vùng ngô Nà Sản…
Hàng năm khai thác 28000 m3 gỗ, 2,5 triệu cây tre nứa, 7000m3 củi, có 13 lâm trường, 50 HTX nghề rừng.
Cây chè cả khu có 5000ha thu 7000 - 8000 tấn/ năm.
- Về chăn nuôi: Ngay sau ngày giải phóng 1953 - 1954 toàn khu mới có 63.000 con trâu, 28.000 con bò, 5000 ngựa, 137.000 lợn, sau 20 năm phát triển có 140.000 trâu, 43.000 bò, 52.000 ngựa, 313.000 lợn.
Hằng năm cung cấp cho miền xuôi: 2000 con trâu, bò cày kéo, trên 2000 tấn trâu bò thịt.
Về công nghiệp - thủ công nghiệp: Năm 1955 mới xây dựng được xí nghiệp đầu tiên “cơ khí Thuận Châu” với giá trị sản lượng khoảng 7000đ/năm, (giá 1kg gạo là 3 hào). Sản xuất công cụ: Từ 1962 phát triển công nghiệp địa phương (điện, cơ khí, vật liệu xây dựng, may mặc, chế biến nông sản…) sản xuất tới trên 40 loại sản phẩm, trị giá 1974 là 25 triệu đồng.
1955 cả khu mới có 1 nhà máy thủy điện 24 KW, chưa có điểm cơ khí nhỏ nào thì sau 20 năm đã có hàng nghìn KW nhiệt điện, 30 trạm thủy điện nhỏ từ 5 50 KW, có 250 điểm cơ khí nhỏ.
Giao thông: Đã mở mấy đường ô tô liên tỉnh, xuống tới huyện gần 3000km. Sơn La mở đường lên vùng cao CoMạ, Nghĩa lộ lên Trạm Tấu, Lai Châu lên Mường Tè, xây hàng trăm cầu cống lớn. Đảm bảo cho 1 đầu dân cung cấp hàng năm 6 kg muối; 4 mét vải, 3 kg dầu hỏa.
Giáo dục: Trước 1954: 99% dân mù chữ, chỉ có 25 trường tiểu học với khoảng 750 học sinh. Đến 1974 - 1975 thì đã có 1974 lớp mẫu giáo với 3720 cháu, 2181 lớp vỡ lòng với 49.982 học sinh, 449 trường phổ thông cấp 1 (tiểu học) với 24.989 học sinh, 107 trường cấp 2 (Trung học cơ sở) với 14.461 học sinh và 13 trường PT cấp 3 với 2193 học sinh, có trường dân tộc nội trú (riêng cho con em dân tộc Mèo) có 350 - 400 em theo học từ vỡ lòng đến cấp 2.
Y tế: 90% xã có trạm y tế, có 40 bệnh viện và bệnh xá với 2000 giường .
Văn hóa văn nghệ được phát triển.
Chính trị: Có 17 đại biểu Quốc hội khóa V (trong đó 13 là dân tộc thiểu số), bộ máy UBHC các cấp: Số cán bộ người daan tộc chiếm 76 - 80% (số cán bộ dân tộc 20 năm tăng từ 865 lên 9575 người, số có trình độ trung học, đại học là 934 người trong số 8722 người), số cán bộ lãnh đạo các cấp từ 375 người (1955) lên 4324 người (1974).
Trích báo cáo do ông Lò Văn Hặc
Chủ tịch UBHC khu tự trọ Tây Bắc trình bày.
LUẬT TỤC THÁI
(hồ Thuận Châu)
Luật tục Thái là một luật lệ bản Mường thời phong kiến sơ kỳ với uy quyền rất lớn của chúa đất mà cao nhất là An Nha (1 châu)
Luật tục Thái phân biệt rạch ròi với 47 loại người và 17 loại tội phạm trong xã hội.
Luật tục quan tâm cả các đấng thần linh, môi trường thiên nhiên, nó có ảnh hưởng rất lớn đến thái độ của con người đối với thiên nhiên, trời đất, núi sông, rừng rú.
Đây là cơ sở để thi hành công lý, ngăn ngừa tội ác, là đạo lý làm người. Mỗi Mường (Châu) có luật tục riêng.
- Phần đạo làm người: là những quy ước ứng xử cá nhân
- Phần tục lệ cưới xin
- Tang ma………….ví dụ
LUẬT LỆ NGƯỜI THÁI ĐEN Ở THUẬN CHÂU
Mở đầu: nói chút về lịch sử người Thái theo Quắm Tố Mướng.
1. Ranh giới đất Mường Muổi:
Tục ngữ có câu “Mườnng Muổi rộng phía sông Mã, Mường La rộng phía Sông Đà”. Mường chia ra các Xổng (ngũ), lộng, quen. Châu Mường Muổi có 5 mường Phìa:
- Mường Muổi (Chiềng Pha) là mường trong mường, vua kinh gọi là Xuân Mai. Các mường phìa phía ngoài có:
* Mường Lầm phía sông Mã, vua kinh gọi là Nam Trịnh
* Mường Sại phía Sông Đà, vua kinh gọi là xã Khinh Khoái.
* Mường Piêng (xã Thanh Bình)
* Chiềng Pấc (Trịnh Bắc)
Mỗi một Mường Phìa chia nhiều bản, nhiều Giáp. Giáp nào ở xa Mường thì gọi là “lộng”, lộng bé thì gọi là Quen. Mỗi một Mường Phìa chia thành nhiều xổng (vua kinh gọi là Ngũ) người Thái quen gọi là Xổng Ngụ. Mường trong Mường Muổi có 4 xổng ngụ, ngõ Mường phía ngoài có 3 xổng ngụ.
2. Phong cấp bậc hàng châu được xếp đặt theo lệ như sau:
- An Nha là gốc của Bản Mường (Tri Châu) giúp việc có Phìa Thổ (thư lại) phìa thông (thông lại). Mường phìa có Phìa Lý (vua kinh gọi là Lý trưởng); phìa phó (phó lý) 2 phìa này coi trông bản Mường mình. Có 8 chức ông ở Xổng (vua kinh gọi là kỳ mục) từ ông xen (pằn) đến tận ông chá hườn.
Có ông mo, ông nghè, ông chang, giúp quản lý luật lệ, cúng tế.
3. Quyền lợi bổng lộc các quan chức.
An Nha ăn 10 mẫu ruộng trong phạm vi bản chiềng đi (chiềng ly), thu “thóc lười” (tô thuế) của dân hàng Châu: mỗi mẫu phải nộp một tạ thóc.
Án Nha có 9 bản nhốc (làm dịch vụ)
Thư lại ăn 6 mẫu ruộng Chiềng Đi hưởng 3 bản nhốc.
Thông lại ăn 5 mẫu ruộng Chiềng Đi, 3 bản nhốc.
Phìa lý (lý trưởng) ăn 5 mẫu ruộng, phó lý ăn 3 mẫu ruộng.
Ông xen đứng đầu Xổng Pằn ăn 8 mẫu
Ông Pọng đứng đầu Xổng Pọng ăn 6 mẫu
Ông Ho Luông đứng đầu Xổng Ho Luông ăn 4 mẫu ruộng
Ông Pọng Cang đứng đầu Xổng Phọng Cang ăn 3 mẫu ruộng
Ông quan xư (ho cang) ăn 2 mẫu (giúp việc ông Xổng Phọng Caug)
Ông Ho Hé ở bản Lăng ăn 2 mẫu giúp việc ông Xổng Pằn.
Ông Pụa ở bản Púng ăn 2 mẫu giúp việc ông Xổng Pọng.
Ông Chá hươn ở bản Lẹng ăn 2 mẫu giúp việc ông Xổng Ho Luông.
Khi Phìa xức nộp thuế thì ông Xổng phải xức đến quan bản, quan bản bổ xuống đầu dân Mường phải nộp đầy đủ.
Khi Phìa xức phu phen xuống đến xổng nào, thì ông Xổng xức Quan bản cắt phiên đi phu từng nhà…ông Xổng dẫn phu nộp cho Phìa
Lúc nào An Nha, phìa cần gì thì gọi ông Xổng tới hầu
Mỗi xổng có:
Quan pách: về tư pháp (ăn 1,5 mẫu) các pách xông chia làm quan các bản
Dưới quan pách mỗi xổng có 2 giúp việc là Quan Phòng
Dưới quan phòng mỗi xổng còn có 2 Quan chiềng quản lý việc xây dựng nhà cửa, đốc thuế, mường phai, cúng mường, Quan chiêng ở xổng nào thì do người ở đó làm …vv…
Mỗi bản có quan bản (tạo bản) giúp việc có chá bản, 1 bản có 7-8 mẫu thì quan bản được 3,5-4 sào.
Ở Mường Muối ngoài 4 xổng ở trong Mường còn có 5 lộng (Mướng É, Mường Bán, bản Pịn, Muội Nọi, Chiềng Đa) mỗi Lộng có 1 Tạo Lộng.
Mỗi Lộng có bản Quen (Ken), do 1 Tạo Quan đứng đầu
4. Lệ xin làm chức dịch:
Ai có tên Quảng, tên xự (được Bản mường) đặt cho thì mới được phép xin làm Quan bản, đi từ thấp lên cao, có “tiền xin chức” nộp cho An Nha (tri châu).
5. Về kiện cáo, phạt vạ:
Án Nha có quyền phạt vạ thu từ 1,2 nến đến 12 nén bạc
Thư lại được phạt vạ từ 1,2 - 6 nén bạc
Quan chiềng, quan chá, quan bản được phép An nha (phạt vạ thu 5 đồng cân đến 4,4 lạng bạc).
6. Quy định về phu phen tay dịch
7. Về bắn súng nhầm, làm cháy nhà, do đi săn bắn nhầm chết người, phải góp tang ma:
- Dựng 1 cây “heo” có 20 vải cờ
- Mổ 1 con trâu tang lễ
- Tiền xuống nước, xuống lửa 3 lạng bạc
- Tiền đắp cản nước mắt 1,3 nén bạc
Làm cháy nhà mình để lây sang nhà khác bị phạt: 3 lạng, 2 trâu
8. Săn được thú to phải biếu xén:
- Đùi to sau biếu An Nha, các phìa
- Thịt thăn to biếu ông Xen
- Đường thịt thăn trong biếu ông Pọng
- Thăn treo biếu ông Ho Luông ..vv…
9. v.v làm cuông nhốc: quy định như sau:
Những bản phải làm cuông nhốc trong mường làm theo Luật định, bản ở xa ở xổng nào thì làm cho xổng đó.
Các chức dịch phải dẫn dân cuông nhốc bản mỉnh được đi vỡ hoang, làm thủy lợi, lập bản.
Người Xá Khao (Kháng) ở bản nào đều phải là cuông nhốc ở đó. Người Mèo không phải làm cuông nhốc nhưng phải nộp thuế, nộp lợn gà cúng tế ở mường.
10. V.v làm cho người (nữ) bị chửa hoang và chửa trước khi thành vợ:
- Án Nha, thư lại thông lại bị tội này cũng bị phạt 12 nén bạc, làm trước (ăn cơm trước kẻng) bị phạt 6 nén.
- Con chức dịch (Tạo và nàng) đi chơi bị làm chửa, phạt 6 nén bạc
Đàn bà góa nhà Án Nha phìa tạo tội chửa hoang phạt 12 nén bạc.
- Ai đó ngoại tình: phạt 12 nén bạc
- Làm chửa không chịu lấy (kể cả gái) bị phạt cho cả 2 phía.
- Quan chức bị phạt được An Nha giảm ½ số bạc.
11. Xử phạt trộm cắp:
- Ăn cắp hoa màu phạt 1,2 nén bạc, nếu là con nhà chức dịch thì bị tăng gấp 2
- Ăn cắp thóc lúa: đền gấp 2, phạt 1,2 nén bạc.
- Ăn cắp trâu bắt làm tôi đòi (nô lệ) cho Phìa Tạo, nếu không phải phạt gấp 3 lần (3 trâu)
12. Ngoại tình:
- Vợ ngoại tình: nếu chồng bắt được có quyền giết chết, đánh đập kể cả tình nhân, không coi bị án mạng, kiện thì được 12 nén bạc
- Đàn ông ngoại tình: bị chồng người ta đánh giết cũng không bị tội, kiện bị phạt 12 nén bạc.
13. Bổng lộc cho các quan trong phòng cúng lễ:
- Ông Mo ở bản Pán hưởng 3 mẫu ruộng, lấy người 2 bản làm nhốc
- Ông Nghè ở bản Pán hưởng 1 mẫu ruộng và 1 bản làm nhốc…
14. Đất nước, rừng và cúng lễ:
Mường bản chỗ nào mà chẳng có ma (phi) phù hộ: cấm không được vi phạm những nơi sông, núi, ao thiêng…
15. Cúng Mường: tục lệ quy định là:
1/- Xên cha (lễ cúng Mường) là lớn nhất thuộc lệ hàng Châu Mường, tổ chức vào ngày “cúng nhà” cho An Nha…
2/ Xên Mường: lễ có 1 trâu, 1 bò, 5 lợn, 1 chó, 1 vịt, 32 gà + rau quả…lễ ở gian “tạy” của nhà An Nha.
3/, Xên kẻ khó Mường (cúng giải hạn cho Mường): 1 trâu, 3 lợn, 10 gà, 1 chó cúng ở nơi “cửa hồn chiềng” phía “cửa xen” phía trên Mường mé cuối dòng suối.
4/, Cúng hồn chiềng: Cỡ như trên làm ở “cửa hồn chiềng” phía “cửa pọng”.
5/, Cúng tiễn tối tớ ma nhà:…. Dựng lều ở sân nhà An Nha.
6/, Lễ cúng điều lành.
7/, Tế đen trắng: 2 trâu 1đen/1 trắng cúng hồn Mường và họ ngoại Tạo ĂmPoi.
8/, Tế ở cửa suối Muội: Cửa sông Nặm Muội là nơi có khu rừng già nguyên sinh ở Mường Sại. Đó là nơi cụ chủ “Ngu Háu Cầm Lò Lẹt” đã dựng nhà cúng tế tổ họ Tạo - tổ tông người Thái đen: 1 trâu đen.
16. Lễ cúng cho mỗi người, mỗi nhà.
Nguyễn Khôi
http://sachhiem.net/





2 nhận xét:

Chùm thơ của Lưu Lãng Khách

Chùm thơ của Lưu Lãng Khách Ngoài kia xuân đang qua rồi sao!/ Thềm hoa hanh hao - trên trời cao/ Chim non ca vang như ngày nào/ Bên em anh...