Các loại đàn tranh ở Viễn Đông
Viễn Đông là một phần của Á châu và chịu ảnh hương văn minh
và văn hóa Trung Quốc rất sâu đậm. Các xứ Nhựt Bổn, Đại Hàn và Việt Nam đều sử
dụng Hán tự để diễn tả tư tưởng, dù rằng mỗi xứ đều có chữ viết riêng (Nhựt vớihiragana,
katakana, kanji; Đại Hàn với hyangul; Việt Nam vớiquốc ngữ). Vì thế, ảnh
hưởng của nhạc Trung Quốc đối với ba xứ vừa kể trên rất là hiển nhiên.
Cổ Cầm (Trung Quốc)
Dù muốn dù không, các cây đàn tranh ở Viễn Đông đều xuất xứ từ
Trung Quốc. Có lẽ cây đàn tranh cổ xưa nhứt là cây cổ cầm (ku qin) bên Trung Quốc.
Tiếng đàn khi khoang khi vồn, nghe rất du dương. Xưa kia, đức Khổng Tử chỉ nghe
tiếng đàn cổ cầm mà đã mất ăn mất ngủ ba tháng.
Theo truyền thuyết, cây đàn cổ cầm được sáng chế vào thời
Nghiêu Thuấn, và chỉ có 5 dây thôi, nên được gọi là “ngũ huyền cầm“. Về sau,
hai vị hoàng đế Văn và Võ, mỗi người thêm vào một dây làm thành cây đàn 7 dây
hay “thất huyền cầm“. Hai dây thứ 6 và thứ 7 được gọi là dây Văn và dây Võ. Nhà
thi hào Nguyễn Du có lẽ không am tường về nhạc nhiều nên nhà thơ Tố Như, lúc tả
Thúy Kiều khảy đàn mà chúng ta đã đặt nhiều giả thuyết không biết có phải là
cây đàn tỳ bà, hoặc cây đàn nguyệt, hoặc một cây đàn bốn dây nào đó, đã viết
như sau:
“So dần dây Võ dây Văn,
Bốn dây to nhỏ một vần cung thương”
Bốn dây to nhỏ một vần cung thương”
Dây Võ dây Văn chỉ có hai dây mà thôi, chứ làm sao mà bốn dây
được !!! Hơn nữa, hai dây Văn Võ chỉ dùng để nói đến hai dây thứ sáu và thứ bảy
của cây cổ cầm. Ở Việt Nam, Phạm Đình Hổ, trong quyển “Vũ Trung Tùy Bút“, có nhắc
đến một danh cầm đời nhà Trần là Nguyễn Sĩ Cố đánh đàn cổ cầm rất hay. Trong
quyển “Toàn Thư” cũng có nói tới một nhạc sĩ thời nhà Trần đàn cổ cầm 5 dây của
Trung Quốc thật điêu luyện, tên là Trần Cụ. Ở Nhựt Bổn và Đại Hàn không thấy
nói tới cây cổ cầm.
Hình dáng cây cổ cầm ra sao?
Cổ cầm gồm có một âm bảng bằng cây ngô đồng dài độ một thước
được sơn đen bóng nhoáng . Trên mặt âm bảng, ngoài 13 chấm tròn nạm xa cừ dùng
làm dấu để người đàn coi theo đó mà bấm dây, có 7 sợi dây căng dài từ đầu tới
cuối âm bảng . Đàn này không có trục và nhạn như đàn tranh thường thấy.
Đặc điểm của cổ cầm là cách sử dụng phiến thanh hay bồi âm
(sons harmoniques/harmonic sounds) giống như âm thanh phát ra từ cây đàn bầu
hay đàn độc huyền của Việt Nam. Cây cổ cầm rất khó đàn cho hay. Hiện nay chỉ
còn độ 200 người Trung quốc biết đàn cây đàn này. Số người này ngày càng thưa
thớt. Các ông thầy già rồi chết đi. Số nhạc sĩ trẻ đàn hay rất hiếm. Có vài
sinh viên Trung Quốc và Hồng Kông có viết luận án về cây cổ cầm. Cây đàn sắc 25
dây ngày nay không còn có ai biết đàn.
Nghệ sĩ Trung Hoa Liu Fang (Lưu Phương) trình tấu Guzheng
ZHENG (đọc là Tsân), đàn tranh Trung Quốc
Theo huyền thoại Trung Quốc, ngày xưa có một ông già sống
chung với hai cậu con trai trẻ, ngoan, và rất thích đàn. Trong nhà, ông bố có một
cây đàn tranh 25 dây. Ở đây, tôi xin mở dấu ngoặc, tự hỏi không biết có phải là
cây đàn sắc hay chăng? Vì cây đàn sắc có 25 dây. Đó chỉ là nghi vấn mà thôi. Trở
lại chuyện hai cậu học đàn tranh. Một hôm bỗng dưng hai cậu cùng muốn đàn tranh
một lúc. Trong nhà chỉ có mỗi một cây đàn tranh. Lúc đầu còn lời qua tiếng lại.
Dần dần, cãi nhau dữ dội. Ông bố nghe tiếng cãi lộn, mới đi vào hỏi cớ sự ra
làm sao. Khi hiểu ra sự tình, ông bố mới khuyên một trong hai người nên nhường
cho người kia đàn trước. Nhưng rốt cuộc không sao hòa giải được. Tức giận quá,
ông ta mới đi tìm một cây búa, rồi xách cây đàn chặt ra làm đôi theo chiều dọc
để làm thành hai cây đàn tranh: một cây 13 dây, bây giờ còn thấy ở miền Bắc
Trung Quốc và ở Nhựt Bổn, còn cây kia 12 dây hiện vẫn còn thấy ở Mông cổ và Đại
Hàn.
Lại có một giả thuyết khác cho rằng cây đàn tranh Trung Quốc
là do ông Mông Điềm sáng chế ra vào thế kỷ thứ ba trước Tây Lịch. Hình thù cây
đàn tranh Trung Quốc rất giống cây đàn tranh Việt Nam nhưng to hơn. Bề dài cây
đàn dài lối 1m,50. Mặt đàn làm bằng cây ngô đồng. Có 13 dây tơ theo truyền thống
Bắc Kinh hay 16 dây sắt theo truyền thống Quảng Đông, được căng dài trên mặt âm
bảng. Cũng có một hàng trục và một hàng nhạn xê dịch được. Người đàn dùng ngón
tay trỏ, ngón giữa và ngón áp út của bàn tay mặt để khảy và ba ngón trỏ, giữa
và áp út của bàn tay trái để nhấn. Họ chỉ dùng móng tay để khảy và rất ít khi
dùng móng sắt, hay đồi mồi như người Việt. Cây đàn thường để trên bàn trước mặt
người đàn hoặc để trên đùi.
Ngày nay ở Đài Loan, cây đàn tranh có cây ngắn độ 1 thước và
cây dài tới 1m,80. Kỹ thuật đóng đàn làm theo kỹ nghệ hóa. Khúc cây đưa vào máy
cắt, và khi ra khỏi máy đã gần thành cây đàn. Thành ra cây đàn tranh rất tốt,
kích thước không sai chạy, và hình dáng hoàn hảo, nhưng lại rất yếu về âm
thanh. Họ không còn tuyển lựa khúc cây tốt, già, có gân mà chỉ lấy bất cứ khúc
cây ngô đồng nào cũng được. Tất cả mọi việc đều kỹ nghệ hóa, máy móc hóa,
chuyên về lượng mà làm giảm đi phần phẩm. Ở Đài Loan, các cô học đàn mua cây
đàn tranh hoặc sơn xanh, sơn đỏ, sơn vàng. Mặt âm bảnh không còn là cây ngô đồng
mà là một loại ván ép rẻ tiền. Các ông thầy bị đồng tiền làm chi phối nghệ thuật
và thường đàn với mục đích thương mại. Đàn tranh thường được sử dụng độc tấu,
song tấu hoặc trong một dàn nhạc.
Đàn Kayakeum – Triều Tiên
KAYAKEUM (đọc là Cây đa-cum), đàn tranh Đại Hàn
Cây đàn tranh Kayakeum là một trong ba cây đàn tranh chính của
triều đại Silla, có 12 dây tơ căng dài trên mặt âm bảng, trên 12 con nhạn hình
chữ A, nhưng không có trục. Trong quyển Silla cổ ký, hoàng đế Kashil của vương
quốc Kaya đã sửa đổi thêm bớt một cây đàn của nhà Đường ên Trung Quốc. Theo
truyền thuyết cho rằng cây đàn tranh Kayakeum được phát triển từ một cây đàn
dây gọi là “cầm” (qin) đã có từ thời Tam Quốc. Như thế thì cây đàn tranh
Kayakeum có trước thời vương quốc Kaya.
Vào thế kỷ thứ 6 Công nguyên, một nhạc sĩ nổi tiếng tên là Uruk không những giỏi về tài đàn tranh Kayakeum, mà còn có tài sáng tác.
Vào thế kỷ thứ 6 Công nguyên, một nhạc sĩ nổi tiếng tên là Uruk không những giỏi về tài đàn tranh Kayakeum, mà còn có tài sáng tác.
Ông ở tại vương quốc Kaya. Khi vương quốc Kaya có loạn, ông
Uruk mới chạy sang vương quốc Silla và tại đây ông ta rất được hoàng đế Jinhung
mến chuộng. Ông Uruk mở lớp dạy đàn tranh Kayakeum, dạy hát và múa tại Kookwon
(bây giờ là Choongjoo, tỉnh Choongchung-bookdo). Ông Uruk đã sáng tác 12 bản nhạc
như là Ha-Karado, Sang Karado, vv…. Những nhạc phẩm của Uruk đều dựa trên nhạc
dân gian bởi vì tên các nhạc phẩm thường lấy tên các tỉnh lỵ thời đó. Ông Uruk
đã sáng tác hai điệu Hahlim và Noojook và 115 bản nhạc nhưng chỉ có 12 bản của
ông và ba bản nhạc của học trò ông là Eemoon, là còn được truyền tụng tới bây
giờ.
Có hai loại đàn tranh kayakeum: một loại gọi là Poongyoo
Kayakeum dành cho nhạc cổ điển và nhạc cung đình, và một loại gọi là Sanjo
Kayakeum dành cho nhạc dân gian. Kỹ thuật đánh đàn tranh của người Đại Hàn có
phần khác. Họ dùng phần thịt của lóng tay đầu của cả năm ngón tay của bàn tay mặt
và ba ngón tay trỏ giữa, và áp út của bàn tay trái để nhấn. Họ đàn rất mạnh, và
thường cây đàn tranh Kayakeum đi kèm với trống changgo, một loại trống giống
hình thù cái bồng của Việt Nam nhưng to hơn. Đàn tranh Kayakeum có thể độc tấu
chung với trống changgo như trong thể điệu Sanjo, hay đàn trong dàn nhạc cung
đình Ah-ak (Nhã nhạc), hay trong dàn nhạc Hyang-ak (Hàn nhạc). Từ 50 năm nay,
có nhiều nhạc sĩ soạn nhạc phẩm cận đại cho Kayakeum , nổi tiếng nhứt là nhạc
sĩ Hwang Byong Gi.
Đàn Koto – Nhật
KOTO (đọc là Cô tô), đàn tranh Nhựt
Theo truyền thuyết, một nhạc sĩ người Trung Quốc đem một cây
đàn tranh vào xứ Nhựt và cây đàn ấy gọi là So-no-koto hiện vẫn còn được sử dụng
trong vũ điệu cung đình cổ truyền Bugaku. Hoặc một huyền thoại cho rằng vào thế
kỷ thứ 7, có một bà thuộc dòng dõi quý tộc tên là Ishikawa Iroko, trong thời
gian đi nghỉ ở miền quê một hôm tình cờ bà nghe một âm thanh lạ khi đi dạo gần
một động núi bà mới đi lại gần nghe và gặp một ông đạo sĩ người Trung Quốc đang
khảy đàn tranh. Bà Ishikawa Iroko mê mẩn tâm thần và xin thọ giáo. Sau một thời
gian học tập, bà ta mới trở về nhà, thuật lại cho mọi người nghe. Không ai chịu
tin rằng chuyện đó có thật. Bà ta tức quá mới dẫn mọi người lại động núi thì
không thấy ai hết, mà chỉ thấy trên vòm trời xanh ngay trên đỉnh núi lơ lửng một
vần mây trắng.
Từ đó bà Ishikawa Iroko mở trường dạy đàn tranh và thành lập
môn phái Kyushu. Điều chắc chắn là đàn tranh Koto Nhựt có từ thời đại Nara
(710-793) được dùng trong dàn nhạc Gagaku (Nhã nhạc). Mãi tới đầu thế kỷ thứ
16, vào thời đại Momoyama (1574-1602), một nhà sư đạo Phật ở miền Bắc Kyushu
tên là Kenjun (1547-1636) sáng tác những bài hát đầu tiên với tiếng đệm của đàn
tranh. Loại nhạc mới này gọi là Tsukushi-goto lấy tên của tỉnh thành nơi nhà sư
đã sống.
Sau đó có một nhà sư khác tên là Yatsuhashi Kengyo
(1614-1685) ở Kyoto học cách đàn và hát theo thể nhạc mới tsukushi-goto và ông
lại tạo ra một thể điệu mới cho nhạc koto bằng cách phỏng theo hình thức cấu tạo
sáu bài hát của tsukushi-goto, và được gọi là kumi-uta. Sự khác biệt giữa hai
trường phái Tsukushi-goto và Yatsuhashi nằm trong cách lên dây đàn và cách sử dụng
điệu.
Trường phái Tsukushi-goto lên dây đàn theo điệu Ryo của nhã
nhạc (gagaku), nghĩa là âm giai với 12 bán cung trong khi trường phái
Yatsuhashi chỉ dùng hai điệu mới gọi là Hirajoshi (Sol- sol thấp một bát độ-SiĐo-Mi-Fa-La-SiĐo-Mi-Fa-La-Si)
và Kumoijoshi (Mi- La thấp một quãng 5 – Sib-Re-Mi-Fa-La-Sib-Re-Mi-Fa-La-Si) dựa
theo điệu In (âm) âm giai lên gồm các nốt: Mi-Fa-La-Si-Re-Mi trong khi âm giai
xuống gồm các nốt: MiĐo-Si-La-Fa-Mi. Hai điệu Hirajoshi và Kumoijoshi trở thành
hai thang âm tiêu biểu và đặc thu của nhạc Nhựt Bổn ngày nay.
Nhà sư Yatsuhashi và những người học trò của ông có sáng tác
một số bài độc tấu đàn tranh nhưng hầu hết các bài đặt ra đều là bài hát với phần
đệm đàn koto. Đồng lúc với sự phát triển thể nhạc mới Tsukushi-goto, nhạc
shamisen (shamisen là một đàn dây giống như cây đàn tam của Việt Nam) cũng bắt
đầu lộ diện ở Nhựt. Ông Ikuta Kengyo (1656-1715) mới phối hợp đàn shamisen và
đàn tranh koto trong khi trình diễn Ji-Uta ( một loại hát đệm đàn Shamisen). Từ
đó về sau, những bài bản gồm có một phần ngắn hát và một phần dài đàn tranh
koto.
Phần đánh đàn gọi là Te-goto và thể cách trình diễn các bài
hát kiểu đó gọi là Te-goto-monọ Trong khi Te-goto-mono được bành trướng mạnh ở
Kyoto và Osaka, thì ở Edo, một nhạc sĩ khác tên là Yamada Kengyo (1757-1817) mới
tạo ra một thể cách mới cho nhạc koto là phối hợp nhạc hiện đại shamisen và nhạc
koto. Vào cuối thời đại Edo (1603-1867) ông Yoshizawa Kengyo ở Nagoya lại nghĩ
ra cách để đàn koto một mình đệm bài hát mà thôi. Kiểu này đã từng dùng trong
Kumi-Uta, nhưng có khác là ông Yoshizawa Kengyo trích lời ca qua các bài thơ cổ
điển trong các cổ thi tuyển danh tiếng như Kokin Waka Shu, Kin Yo Shu, vv… Ông
ta lại chế ra một cách lên dây hoàn toàn khác hẳn hai điệu âm (In) và dương
(Ryo) và đặt tên là Kokin-joshi lấy từ tên Kokin Waka Shu mà ra. Âm giai như
sau: Mi-La-Si (thấp) -Re-Mi-Fa-La-Si-Re-Mi-Fa-La-Si.
Từ khi nhạc Tây Âu bắt đầu xâm nhập đất Phù Tang vào đầu thời
đại Meiji (1868 trở vềsau), nhiều nhạc sĩ cổ truyền Nhựt thử sử dụng các âm
giai mới vào trong nhạc Nhựt và một số ít đã thành công. Miyagi Michio
(1895-1956), nhà soạn nhạc Nhựt đầu tiên đã phối hợp hai luồng nhạc Á Âu, sử dụng
hai nhạc ngữ Đông Tây trong khi soạn các nhạc phẩm cho đàn koto. Từ đó những nhạc
sĩ trẻ tuổi và các người đánh đàn tranh koto đều bắt chước ông Miyagi Michio.
Có một số phê bình ông và lại thử một hướng đi khác. Gần đây, nhứt là từ khi
sau thế chiến thứ hai (1939), rất đông nhà soạn nhạc Nhựt thi đua nhau sáng tác
nhạc đương đại dựa trên nhạc cổ truyền.
Cây đàn tranh Koto làm bằng cây pawlonia, dài 1m80. Mười ba
dây tơ căng dài trên mặt âm bảng. Mười ba con nhạn hình chữ A hứng chịu 13 dây
đàn. Đàn tranh Koto không có trục giống như đàn Kayakeum của Đại Hàn. Người khảy
đàn mang móng vào ngón tay cái, trỏ và giữa của bàn tay mặt và dùng ba ngón tay
trỏ, giữa, và áp út của bàn tay trái mang móng đeo ở ngón tay thì đủ biết người
đàn thuộc trường phái nào (Gagaku, Tsukushi-goto, Ikuta, Yamada.
Đàn tranh koto có thể đàn độc tấu, tam tấu với với đàn tam
shamisen, ống tiêu shakuhachi, hay đàn trong dàn nhạc cổ điển hay cận đại.
Nhạc sư Nguyễn Vĩnh Bảo, người
chế tác Đàn Tranh 17, 19, 21
dây.
Đàn Tranh Việt
Có lẽ đàn tranh là cây đàn được nhiều người Việt biết đến nhiều
nhứt và có đông người học nhứt trong số các nhạc khí cổ truyền Việt Nam. Thật
ra đàn tranh không phải bắt nguồn từ Việt Nam mà đúng ra là từ Trung Quốc. Có một
giả thuyết cho rằng tiếng đàn khi đánh lên nghe giống như âm từ “tranh”. Nhưng
giả thuyết này không đứng vững. Về sau có một số giả thuyết khác cho rằng đàn
tranh là do chữ “tranh” có nghĩa là “tranh luận thêm một bộ trúc phía trên.
Giả thuyết này có đưa ra một huyền thoại. Nói rằng ngày xưa
có hai người tranh nhau một cây đàn “sắc” có 25 dây. Mông Điềm, một vị quan thời
nhà Tần, mới chặt cây đàn sắc ra làm hai, một cây đàn 12 dây và một cây đàn 13
dây. Từ đó người ta mới gọi là đàn tranh.
Một huyền thoại khác nói rằng dưới thời nhà Tần có hai chị em
nhà kia tranh nhau một cây đàn sắc có 25 dây. Dành qua dành lại, cây đàn rớt xuống
bể làm hai. Người chị lấy cây đàn có 13 dây, còn người em lấy cây đàn 12 dây. Từ
đó mới phát xuất tên đàn tranh.
Điều chắc chắn là đàn tranh Trung Quốc đọc là zheng (tsân) được
xuất hiện giữa khoảng thế kỷ thứ ba trước công nguyên vào cuối nhà Tần. Ở Việt
Nam, đàn tranh xuất hiện đầu tiên vào lúc nào, không ai biết rõ. Có thể vào cuối
thế kỷ thứ 9. Nhưng có điều chắc chắn là đàn tranh được nhắc đến lần đầu tiên
trong dàn tiểu nhạc dưới thời nhà Trần (1225-1400) trong quyển Vũ Trung Tùy Bút
của Phạm Đình Hổ. Ông Phạm Đình Hổ kể rằng cây đàn tranh chỉ có 15 dây chứ
không phải 16 dâỵ Người đánh đàn mang móng bằng bạc để khảy hoặc dùng hai khúc
cây sậy nhỏ đánh lên dây theo kiểu đánh đàn tam thập lục ngày nay. Cách dùng
cây sậy khỏ lên dây không còn được truyền tụng nữa.
Đàn Tranh còn được gọi là Đàn Thập Lục (16 dây). Thùng đàn
dài khoảng từ 100cm tới 110cm. Một đầu rộng từ 17cm tới 20cm, và một đầu nhỏ cỡ
12cm tới 15cm. Mặt âm bảng làm bằng cây ngô đồng hình cầu vòng. Thành đàn làm bằng
gỗ trắc. Đáy đàn làm bằng một miếng ván có khoét ba cái lỗ: lỗ hình bán cầu ở
phía dưới đầu đàn để có chỗ cột dây đàn cho đừng bị tuột dây; lỗ thứ nhì hình
chữ nhựt ở giữa đáy đàn dùng để cho người đàn có nơi để xách đàn, và lỗ thứ ba
tròn và nhỏ dùng để treo đàn trên vách tường sau khi hết muốn đàn nữa.
Đầu đàn có một sợi dây bằng đồng uốn cong gọi là “cầu đàn”
dùng làm điểm tựa cho 16 dây đàn bằng thép. Mỗi sợi dây căng từ cầu đàn tới trục
đều chạy trên một con nhạn (còn gọi là “ngựa đàn” – chevalet theo tiếng Pháp
hay bridge theo tiếng Anh). Nhạn có thể di chuyển tùy theo cách lên dây đàn
theo điệu Bắc, Nam, Xuân, Ai, Đảo, Oán, vv… Âm vực của đàn tranh cổ truyền là
ba bát độ hay quãng 8 (octave).
Theo truyền thống miền Trung và Bắc, người đàn sử dụng ngón
tay cái, trỏ và giữa của bàn tay mặt hoặc với móng tay thật để dài mà khảy
nhưng âm thanh phát ra không được trong trẻo) hoặc với móng gẩy
(onglet/plectrum) đeo vào. Ở miền Nam chỉ dùng có hai ngón tay mặt: ngón cái và
ngón trỏ mà thôi. Có nhiều thủ pháp cho tay mặt rất được phổ thông cho đàn
tranh. Cách gẩy lướt trên các dây đàn tạo thành một chuổi âm dài. Có hai cách
đàn chữ Á.
Á xuống gẩy với ngón cái từ các âm cao đến âm thấp khoảng 7
hay 8 dây liên bậc.
Á lên gẩy với ngón tay trỏ từ âm thấp tới âm cao. Kỹ thuật
này rất được ưa thích tại Việt Nam và nhứt là các nhạc sinh thế hệ trẻ sau này
thường đàn trong các nhạc phẩm mới sáng tác Đánh chồng âm, hợp âm thường được
thấy trong nhạc đàn tranh, có nghĩa là hai âm thanh cùng đánh một lúc tạo thành
hai âm cách nhau một quãng tám, gọi là song thanh (miền Nam), hay song long (miền
Bắc), có khi liên bậc hay có khi cách bậc.
Đánh song huyền là cách đánh hai dây cùng một lúc nhưng âm
thanh không cách nhau một quãng tám như song long/song thanh mà có thể là quãng
2, 3, 4, 5 vv…
Đánh nhiều dây là đánh cùng một lúc ba hay bốn dây tạo thành
một hợp âm. Kỹ thuật này mới được áp dụng sau này có chiều hướng tây phương.
Ngón vê là dùng các ngón tay mặt gẩy liên tục thật mau trên một
dây. Có thể vê hai dây. Một số thủ pháp như ngón láy rền, ngón vuốt, vv… làm
tăng thêm sự phong phú của kỹ thuật đàn tranh Việt Nam.
Thủ pháp của bàn tay trái góp phần để tạo rõ hiệu quả âm
thanh tính qua các ngón rung, ngón nhấn, ngón vỗ. Mấy lúc sau này tay trái còn
được sử dụng phối hợp với bàn tay mặt để đánh các chồng âm hay một vài kỹ thuật
khác.
Thủ pháp tay trái gồm có:
Ngón rung là dùng 2 hay 3 ngón tay trái rung nhẹ trên sợi
dây tạo một âm thanh phát ra giao động như làn sóng nhỏ.
Ngón nhấn thể nhấn nửa bậc, một bậc hay một bậc rưỡi
Ngón nhấn láy được dùng rất thường ở đàn tranh.
Ngón vỗ dùng ngón tay mặt gẩy dây cùng một lúc ngón tay
trái vỗ và nhấc lên ngay.
Ngón vuốt dùng tay mặt gẩy đàn, tiếp theo dùng 2 hay 3
ngón tay trái vuốt trên dây đàn đó làm tăng sức căng của dây đàn một cách đều đều,
liên tục âm thanh được nâng cao lên nửa cung hay một cung là thủ pháp của tay
trái mà trước đây quá ít người biết sử dụng. Có thể gẩy bằng hai tay để tạo
thêm chồng âm. Thường là tay trái gẩy những âm rải trong khi tay mặt phải sử dụng
ngón vê, hoặc trong khi tay mặt nghỉ. Đôi lúc có thể gẩy giai điệu trong bản nhạc,
đặc biệt là những đoạn nhạc êm dịu, trữ tình.
Bồi âm là kỹ thuật mới bắt nguồn từ kỹ thuật đàn bầu,
nghĩa là chạm cạnh bàn tay trái lên giữa dây đành tính từ cầu đàn tới con nhạn
trong khi tay mặt gẩy dây đó.
Cách lên dây đàn
Có nhiều cách lên dây đàn tranh tùy theo điệụ Sau đây là một
số lên dây căn bản:
Dây Bắc, Quảng: Sol – La – Do – Re – Mi – Sol
Dây Đảo: Sol – La – Do – Re – Fa- Sol
Dây Nam Ai, Xuân: Sol – Sib – Do – Re – Fa- Sol
Dây Vọng cổ: Sol – Sib + Do – Re – Mi – Sol
Sa Mạc: Sol – Sib+ Do – Re – Fa- Sol
Tây Nguyên: Sol – Si Đo – Re – Fa#- Sol
Dây Đảo: Sol – La – Do – Re – Fa- Sol
Dây Nam Ai, Xuân: Sol – Sib – Do – Re – Fa- Sol
Dây Vọng cổ: Sol – Sib + Do – Re – Mi – Sol
Sa Mạc: Sol – Sib+ Do – Re – Fa- Sol
Tây Nguyên: Sol – Si Đo – Re – Fa#- Sol
Bài bản căn bản
Về bài bản cho nhạc sinh học đàn tranh, tôi chỉ ghi lại đây một
số bài căn bản theo truyền thống miền Trung và miền Nam mà thôi.
Theo truyền thống miền Trung, dây Bắc có 10 bài ngự:
1. Phẩm tuyết
2. Nguyên tiêu
3. Hồ quảng
4. Liên hoàn
5. Bình nguyên
6. Tây mai
7. Kim tiền
8. Xuân phong
9. Long hổ
10. Tẩu mã
2. Nguyên tiêu
3. Hồ quảng
4. Liên hoàn
5. Bình nguyên
6. Tây mai
7. Kim tiền
8. Xuân phong
9. Long hổ
10. Tẩu mã
Về bài bản theo dây Nam thì có:
1. Nam ai (còn gọi là ai giang)
2. Hành vân
3. Nam xuân (còn gọi là Hạ giang hay Nam chiến)
4. Nam bình (còn gọi là vọng giang)
5. Chinh phụ
6. Tứ đại cảnh
7. Tương tư khúc
2. Hành vân
3. Nam xuân (còn gọi là Hạ giang hay Nam chiến)
4. Nam bình (còn gọi là vọng giang)
5. Chinh phụ
6. Tứ đại cảnh
7. Tương tư khúc
Truyền thống miền Nam trong nhạc đàn tài tử gồm có một số bài
dây Bắc:
8 bài nhỏ:
1. Lưu thủy đoản
2. Bình bán
3. Kim tiền Huế
4. Tây thi vắn
5. Khổng Minh tọa lầu
6. Mẫu tầm tử
7. Long Hổ hội
8. Thu hồ
2. Bình bán
3. Kim tiền Huế
4. Tây thi vắn
5. Khổng Minh tọa lầu
6. Mẫu tầm tử
7. Long Hổ hội
8. Thu hồ
6 bài lớn:
1. Lưu thủy trường
2. Phú lục
3. Bình bán chấn
4. Xuân Tình
5. Tây thi
6. Cổ bản
2. Phú lục
3. Bình bán chấn
4. Xuân Tình
5. Tây thi
6. Cổ bản
7 bài lớn trong nhạc lễ:
1. Xàng xê
2. Ngũ đối thượng
3. Ngũ đối hạ
4. Long đăng
5. Long ngâm
6. Vạn giá
7. Điệu khúc
2. Ngũ đối thượng
3. Ngũ đối hạ
4. Long đăng
5. Long ngâm
6. Vạn giá
7. Điệu khúc
Các bài điệu Quảng gồm có:
1. Ngũ điểm
2. Bài tạ
3. Khốc hoàng thiên
4. Xang xừ líu
2. Bài tạ
3. Khốc hoàng thiên
4. Xang xừ líu
Dây Nam gồm có:
1. Nam ai
2. Nam xuân
3. Đảo ngũ cung
4. Tứ đại oán
5. Văn Thiên Tường
6. Vọng cổ
2. Nam xuân
3. Đảo ngũ cung
4. Tứ đại oán
5. Văn Thiên Tường
6. Vọng cổ
Sự đóng góp của một số giáo sư cổ nhạc như GS Nguyễn Hữu Ba,
GS Bửu Lộc, GS Vĩnh Phan, GS Nguyễn Vĩnh Bảo, đã tạo ra một số nhạc sĩ trẻ có đầu
óc muốn cải tiến và phát triển như Phạm Thúy Hoan và các nhạc sĩ nhóm Hoa Sim
như Quỳnh Hạnh, Phương Oanh, Ngọc Dung ở Saigon trước 1975. GS Nguyễn Vĩnh Bảo
đã dựa trên các cây đàn tranh của Đài Loan, Nhựt Bổn mà chế biến những đàn
tranh 17, 19 và 21 dây với những âm thanh thật trầm và thật sống làm cho âm sắc
giàu hơn nhiều. Tại Paris, Trung Tâm Nghiên cứu nhạc Đông phương (Centre
d’Etudes de Musique Orientale/Centre of Studies for Oriental Music) do GS Trần
Văn Khê sáng lập vào năm 1958 đã đào tạo hàng trăm nhạc sinh đàn tranh đủ các
quốc tịch trong vòng 30 năm (tính cho tới năm 1988 là năm trung tâm này đóng cửa).
Ngày xưa, đàn tranh ít được phổ biến, chỉ hòa đàn trong dàn
nhạc ngũ tuyệt, đàn tài tử miền Nam, hay là độc tấu, hoặc đệm cho một người
hát. Ngày nay, với những kích thước lớn nhỏ khác nhau, với số dây từ 16 lên tới
21 dây hay nhiều hơn nữa, với những thủ pháp tân kỳ, đàn tranh có thể độc tấu,
hòa tấu, đệm cho hát, cho ngâm thơ và luôn cả trong nhạc điện thanh
(electro-acoustical music/ musique electro-acoustique) mà nhà sọan nhạc Nguyễn
Văn Tường và tôi đã cộng tác để thực hiện qua nhạc phẩm Về Nguồn trình bày lần
đầu tại Pháp năm 1975.
TS Lê Tuấn Hùng đã bảo vệ luận án tiến sĩ nhạc học về Đàn
Tranh, bài bản đàn tranh tại trường đại học Monash University, Melbourne, Úc
Châu vào năm 1991. Tại Pháp có GS Trần Văn Khê, Trần Thị Thủy Ngọc, Quỳnh Hạnh
và Phương Oanh mở lớp dạy đàn tranh. Tại Canada, có Đức Thành ở Montreal dạy
đàn tranh hàm thụ và trình diễn đàn tranh. Tại Úc châu có Lê Tuấn Hùng. Tại Hoa
kỳ có TS Nguyễn Thiếu Phong, BS Đào Duy Anh.
Tôi đã giới thiệu đàn tranh tại Pháp và ở hải ngoại từ năm
1966 qua hàng nghìn buổi trình diễn và tại hàng trăm đại hội liên hoan nhạc
truyền thống khắp năm châu. Với 23 dĩa hát thực hiện tại Pháp (15 dĩa như 33
vòng , 8 CD), tôi đã mang tiếng đàn tranh đi vào 60 quốc gia và nhờ đó ai ai đều
biết tới tiếng đàn tranh. Với một cái nhìn tổng quát về các loại đàn tranh ở Viễn
Đông, tôi hy vọng mang lại cho độc giả một cái nhìn xác thực về sự đa diện của
cây đàn tranh và sự giàu có về âm thanh, thủ pháp, bài bản, cũng như về các nhạc
sĩ, các nhà viết nhạc cho một nhạc khí đặc trưng của Viễn Đông: Đàn Tranh.
Tại Việt Nam ngoài Phạm Thúy Hoan, hiện nay còn có ba nữ nhạc
sĩ đàn tranh trẻ tuổi là Hải Phượng (đoạt giải Tài năng trẻ đàn tranh toàn quốc
1992), Vân Ánh (đoạt giải đàn tranh tài năng trẻ năm 1995), và Thanh Thủy (đoạt
giải tài năng trẻ đàn tranh năm 1998) . Một hội đàn tranh Châu Á lần đầu được tổ
chức tại Saigon từ 10 tới 14 tháng 9, 2000 với sự tham dự của hơn 200 nhạc sĩ
đàn tranh của Việt Nam, Đại Hàn, Nhựt Bổn và Tân Gia Ba thổi một luồng gió mới
vào nhạc dân tộc trong xứ, và có thể làm phát triển đàn tranh ở Việt Nam.
Chú thích: Sách tham khảo…
– Trần Quang Hải, 1989: Âm nhạc Việt Nam – biên khảo, 362
trang, nhà xuất bản Nhóm Bắc Đẩu, Paris.
– Trần Quang Hải/Michel Asselineau, Eugene Berel, 1994: Musics of the World, (Nhạc thế giới), nhà xuất bản JM Fuzeau, 360 trang, 3 CD, Courlay, Francẹ
– Trần Văn Khê, 1962: Musique traditionnelle vietnamienne (Nhạc cổ truyền Việt Nam), nhà xuất bản Presses Universitaires de France (PUF) 382 trang, Paris.
– Trần Văn Khê, 1967: Vietnam, Traditions Musicales (Vietnam, Truyền Thống Âm Nhạc), nhà xuất bản Buchet Chastel, 225 trang, Paris.
– Trần Quang Hải/Michel Asselineau, Eugene Berel, 1994: Musics of the World, (Nhạc thế giới), nhà xuất bản JM Fuzeau, 360 trang, 3 CD, Courlay, Francẹ
– Trần Văn Khê, 1962: Musique traditionnelle vietnamienne (Nhạc cổ truyền Việt Nam), nhà xuất bản Presses Universitaires de France (PUF) 382 trang, Paris.
– Trần Văn Khê, 1967: Vietnam, Traditions Musicales (Vietnam, Truyền Thống Âm Nhạc), nhà xuất bản Buchet Chastel, 225 trang, Paris.
Trả lờiXóaeva airline vietnam
giá vé máy bay eva đi mỹ
hang khong korean air
vé máy bay đi mỹ là bao nhiêu
đặt vé máy bay đi canada
Những Chuyến Đi Cuộc Đời
Ngau Hung Du Lich
Tri Thức Du Lịch