Thứ Hai, 30 tháng 11, 2015

Tiếng đàn Ta Lư

Tiếng đàn Ta Lư 
Ta Lư là nhạc cụ dây, phổ biến trong cộng đồng dân tộc Bru-Vân Kiều ở các tỉnh Quảng Bình, Quảng Trị, Việt Nam. Đàn Ta Lư không có hình dáng chuẩn mực. Nó có thể làm bằng một khúc gỗ, một ống tre hay một đoạn tre gốc đính cả tre.
Ta Lư không có bộ phận tăng âm. Người ta làm thân đàn bằng một khúc gỗ đặc. Nếu đàn làm bằng đoạn gốc tre có cả củ thì củ tre đặc được gọt đẽo thành bầu đàn, ống tre phía trên củ được vát để làm cần đàn. Tuy nhiên, hiện nay có loại đàn Ta Lư làm bằng ống tre có hai đầu mấu kín. Người ta bổ dọc ống này thành hai phần không đều nhau rồi lấy phần nhỏ hơn làm đàn. Họ lấy 1 mảnh mo măng tre bịt phía dưới ống để làm bộ phận tăng âm. Phần còn lại phía trên được vát làm cần đàn.
Đàn Ta Lư không có kích thước chuẩn, thông thường toàn bộ chiều dài của đàn khoảng 60 cm, riêng phần cần đàn khoảng 40 cm. Nhạc cụ này có 2 dây bằng sợi dứa dại se lại, điều chỉnh độ cao cách nhau quãng bốn hoặc quãng năm tùy theo địa phương thiết kế. Do không có bộ phận tăng âm nên tiếng đàn nhỏ và mảnh, cao độ âm thanh không chuẩn lắm. Nếu là đàn tre người ta đánh 2 dây buông, nếu là đàn gỗ thì có thể dùng những ngón tay trái bấm lên dây, tạo thành những âm khác nhau khi khảy đàn.
Theo truyền thống của người Bru-Vân Kiều, đàn Ta Lư do nam giới sử dụng. Họ dùng nhạc cụ này trong lúc coi lúa trong chòi canh, lúc nghỉ ngơi trên nương hay lúc dạo chơi trong bản.
Dưới đây mình có các bài:
– Độc đáo nhạc cụ truyền thống của người dân tộc Vân Kiều
– Giữ lấy nghề truyền thống của cha ông
Cùng với 1 clip đi sim của người Bru-Vân Kiều, trong đó có đoạn một nghệ nhân đánh đàn Ta Lư ở phút 10:55 để các bạn tiệc việc tham khảo và thưởng thức.
Mời các bạn.
Túy Phượng
(Theo Wikipedia)
Nghệ nhân Mai Sen biểu diễn đàn Ta lư.
Độc đáo nhạc cụ truyền thống của người dân tộc Vân Kiều
Bên cạnh các lễ hội, phong tục tập quán như Tết mừng lúa mới, Mừng hội sim, Lễ phong thần, Lễ hội đâm trâu… thì nguời Vân Kiều ở huyện Đakrông lại có thêm một kho tàng nhạc cụ dân gian truyền thống độc đáo với nhiều loại hình khác nhau.
Đồng bào dân tộc thiểu số Vân Kiều ở huyện Đakrông được biết đến là một cộng đồng dân tộc có nền văn hóa bản địa đa sắc màu với các đặc trưng văn hóa vật thể và phi vật thể phong phú và đa dạng. Bên cạnh các lễ hội, phong tục tập quán như Tết mừng lúa mới, Mừng hội sim, Lễ phong thần, Lễ hội đâm trâu… thì nguời Vân Kiều ở huyện Đakrông lại có thêm một kho tàng nhạc cụ dân gian truyền thống độc đáo với nhiều loại hình khác nhau. Chính những nhạc cụ này đã cấu thành nên những âm thanh đặc sắc của con người và cảnh vật núi rừng nơi đây. Nhạc cụ của người Vân Kiều chưa thật sự phong phú và kỹ năng chế tác còn thô sơ nhưng nó được xem là di sản quý báu trong kho tàng văn hóa dân gian của người Vân Kiều từ xưa đến nay.
Lịch sử mưu sinh của đồng bào dân tộc Vân Kiều gắn liền với núi rừng. Cuộc sống quanh năm gắn bó với con sông, con suối với cảnh nương rẫy, núi non trùng điệp đã tác động rất lớn đến sự hình thành nhân cách cũng như lối sống sinh hoạt đặc trưng của con nguời nơi đây. Và nhạc cụ truyền thống của họ cũng được hình thành theo lối sống sinh hoạt lao động đó. Bằng những nguyên liệu có từ thiên nhiên như tre, nứa, lá cây và một số loại cây rừng khác họ có thể chế tạo ra những loại nhạc cụ độc đáo thông qua đôi bàn tay lao động khéo léo và đầu óc cảm nhận âm thanh tuyệt mỹ. Nhạc cụ của họ là những sản phẩm thủ công nên mang tính thuần túy riêng biệt. Sáng tạo nhạc cụ từ cuộc sống sinh hoạt hằng ngày nên việc sử dụng nó cũng gắn liền với những sự kiện của đời sống. Vào các ngày lễ hội hay cưới hỏi chúng ta dễ dàng bắt gặp những nhạc cụ này. Tùy từng sự kiện khác nhau mà người dân nơi đây sẽ sử dụng loại nhạc cụ phù hợp.
Nhạc cụ truyền thống của người Vân Kiều tương đối nhiều. Tuy nhiên, hiện nay người ta chỉ sưu tầm và lưu giữ được một số loại tiêu biểu như: Sáo, khèn bè, Pluoaq, đàn ta lư, thanh la, chiêng, kèn… Trong số các loại nhạc cụ này, loại nhạc cụ phổ biến nhất phải kể đến là sáo. Sáo của người Vân Kiều có rất nhiều loại như Pi là loại sáo dùng để thổi trong lễ cúng tế, đặc biệt là lễ cúng cầu hồn, nó thể hiện sự trang trọng linh thiêng của các thấy mo. Nếu không cách điệu thì sáo Pi có thể nói là một nét văn hóa tín ngưỡng đặc sắc trong cúng tế của người Vân Kiều.
Sáo Khui là loại sáo phổ nhạc hát đệm làn điệu Xà nớt, thường để diễn tả, biểu đạt nhân tình thế thái về quan hệ xã hội, dòng tộc, làng bản. Qua sáo Khui người ta giải bày nhiều điều thầm kín trong lòng mà chỉ có cuộc giao lưu đó mới biểu đạt được một cách thấu đáo cái lý và cái tình. Sáo Teril là một loại nhạc cụ dùng cho thanh niên hát giao duyên bằng làn điệu Oát. Ngoài ra người Vân Kiều có Khèn môi là loại nhạc cụ dùng cho nam và nữ thổi trong lúc hát giao duyên, tâm tình tự sự. Pluaq là loại nhạc cụ được làm bằng ống nứa và có dây tơ rừng, nhìn kiểu như đàn nhị.
Đàn Ta lư hay còn gọi là Măngđôlin có 2 dây, được làm bằng gỗ mực, có thùng đàn rỗng. Loại nhạc cụ này phục vụ cho các đôi nam nữ vừa hát dân ca kết hợp với các bài hát đương đại, đặc biệt nó được dùng trong các lễ hội vui tươi, nhộn nhịp, tự nhiên và nó không bao giờ phục vụ trong đám đình. Khèn là loại nhạc cụ được người Vân Kiều sử dụng phổ biến trong các lễ hội tươi vui. Thanh la và Chiêng được làm bằng đồng. Chiêng là loại nhạc cụ thường sử dụng trong các lễ hội truyền thống như Mừng lúa mới, lễ Khơi, Lễ hội đâm trâu… còn Thanh la là loại nhạc cụ truyền thống mà người Vân Kiều dùng để hòa giải và thể hiện sự phẫn nộ của mình…
Trước đây, người Vân Kiều chỉ quen sử dụng các nhạc cụ này trong đời sống sinh hoạt và trong các nghi lễ của làng, bản. Điều đó được quy định rõ ràng. Nhưng nay khi cuộc sống ngày càng hiện đại, xã hội ngày càng văn minh thì việc sử dụng các nhạc cụ đó có phần tiến bộ hơn. Họ không bó hẹp phạm vi sử dụng mà thay vào đó họ đã biết mở rộng, biết đưa những nhạc cụ truyền thống kết hợp với các làn điệu dân ca và sử dụng trên sân khấu biểu diễn, mang cái truyền thống phổ biến rộng rãi đến quần chúng. Tuy nhiên để nhạc cụ truyền thống của người Vân Kiều có cơ hội phát huy giá trị trong đời sống hiện đại thì tất yếu cần sự hỗ trợ thích hợp để bảo tồn di sản văn hóa truyền thống này đúng nghĩa.
Ngày ngày anh Việt say sưa chế tác loại đàn Talư.
Giữ lấy nghề truyền thống của cha ông
LV
Dưới bàn tay điêu luyện của nghệ nhân Hồ Văn Việt (thôn Vực Leng, xã Tà Rụt, huyện Đakrông, Quảng Trị), cây đàn Talư (tiếng Pa Kô gọi là Preh) tiếp tục cuộc hành trình góp phần thôi thúc đồng bào vùng khó vươn lên dựng xây quê hương trù phú. Tuy nhiên, nỗi lo về sự mai một nghề truyền thống vẫn luôn làm bận tâm anh Việt và những người tâm huyết bảo tồn, phát triển cây đàn Talư…
Không chỉ yêu nghề
Những cây đàn Talư bằng gỗ đủ kích cỡ từ cây đã hoàn thiện đến cây đang làm dở dang được treo cẩn thận trên vách tường ngôi nhà sàn giản dị của Hồ Văn Việt. Đam mê với nghề chế tác đàn Talư của ông nội và bố từ thời tấm bé, anh không hề thấy nản khi hàng ngày, hàng giờ nghĩ suy làm sao duy trì và phát triển về mặt thẩm mỹ của loại đàn có đặc trưng riêng này một cách phù hợp nhất. Ngồi trên sàn nhà, nâng ly rượu trắng được nấu từ nếp bản và món lạp cá sông vừa câu về ban sáng ra mời khách, Việt say sưa nói về cách làm đàn Talư ngày xưa cũng như việc cách điệu đàn bây giờ.
Đàn Talư có từ hàng trăm năm trước, nó gắn bó với cuộc sống tinh thần của người Vân Kiều và Pa Kô. Đàn ngày xưa được làm chủ yếu từ nguyên liệu tre, dễ làm và không tốn nhiều thời gian. Chỉ cần chọn loại tre già, chắc bằng cổ tay, chặt tre thành một khúc dài khoảng 50-80 cm, khoét thông hai đầu ống. Chọn một mặt của thân tre để tạo nên mặt trên của ống, sau đó khoét một lỗ nhỏ giữa phần mặt trên hai đầu ống. Từ đây, bắt đầu hoàn thiện các phần dây đàn bằng tre (chỉ có 2 dây), dụng cụ điều chỉnh cho căng dây đàn. Thời chống Mỹ, sức mạnh cổ vũ tinh thần của loại đàn đã góp sức cùng bà con nơi đây tiếp lương, tải đạn, đi theo cách mạng. Lúc này, cây đàn được cải tiến to hơn, hình thức đẹp hơn, đàn Talư bằng gỗ vì thế ra đời.
Cầm trên tay cây đàn Talư, anh Việt tiếp tục nói về nhạc cụ mình tâm huyết. Cây đàn Talư bây giờ chủ yếu làm bằng gỗ. Vật liệu chính làm đàn là những cây mớc nhiều năm tuổi, sau đó dùng rựa tạo dáng cây đàn rồi treo trên giàn bếp cho khô. Đàn Talư nhìn bên ngoài gần giống cây đàn măng đô lin (của phương Tây) hay đàn nguyệt của dân tộc Việt nhưng nhìn kỹ lại rất khác biệt, thân đàn có hình bầu dục thon hơn và có 3 dây.
Đàn gồm các phần: bầu dưới (a pôộc), thân trên (proong), phần trên cùng (plo), các cung bậc (kâl lăng), dụng cụ điều chỉnh dây (parviêt), dây đàn (ưm preh). Tùy theo sở thích của từng người mà chế tạo đàn to hay nhỏ. Điều đặc biệt, cây đàn cách tân này vẫn giữ được âm thanh êm ái và trong trẻo như cây đàn Talư nguyên thủy. Thường thì loại đàn nhỏ dành cho phụ nữ, loại đàn to dành cho đàn ông đánh. Thời gian làm một chiếc đàn nhỏ khoảng 6-7 ngày, đàn to khoảng 10 ngày.
Khi chơi nhạc cụ này, đàn được đặt giữa lòng hai bàn tay, chỉ cần dùng 2 ngón tay cái để gãy đàn, các ngón tay khác luân chuyển tùy theo điệu nhạc. Âm thanh đàn phát ra rất trong. Người chơi đàn có thể vừa đánh đàn vừa hát bài hát mình yêu thích. Điều đặc biệt là đàn Talư dễ chơi có thể chơi bất cứ ở đâu, hoàn cảnh nào, không phân biệt già, trẻ, trai, gái. Thông qua cây đàn, người Vân Kiều, Pa Kô có thể tỏ tình cảm buồn, vui với nhau. Tiếng đàn còn để giải trí lúc nghỉ ngơi, ru con, giao duyên, cầu mưa thuận gió hòa, mừng lễ hội…
“Đàn Ta Lư là một nhạc cụ không thể thiếu được trong các buổi văn nghệ, lễ hội, nam nữ giải bày tình cảm… của các bản làng người Vân Kiều và Pa Kô. Tại liên hoan dân ca Việt Nam năm 2013 Khu vực Bắc Trung bộ diễn ra tại thành phố Huế, với tiết mục dân ca làn điệu lal lih chủ đề đoàn kết, đoàn huyện Đakrông đã đạt thành tích xuất sắc. Để có được kết quả đó có sự đóng góp quan trọng của tiếng đàn Talư do nghệ nhân Hồ Văn Việt biểu diễn. Anh không chỉ đam mê giữ gìn nghề truyền thống của cha ông mà còn tích cực tham gia các phong trào văn hóa, văn nghệ của địa phương”, anh Kray Sức tự hào khi nói về nghệ nhân Hồ Văn Việt ở quê mình.
Nguy cơ mai một
Hiện giờ, số nghệ nhân còn chú tâm làm đàn Talư ở Tà Rụt đếm trên đầu ngón tay. Cả xã chỉ còn 3 người cao tuổi thường xuyên chế tác đàn là các ông: Mai Hoa Sen, Côn Thay và Côn Máy. Những người trẻ tuổi như anh Việt giờ rất hiếm ai cất công dành thời gian và tâm sức để làm đàn Talư.
“Làm ra một cây đàn Talư mất khá nhiều thời gian và phải tỉ mẫn từng đường nét sao cho đúng âm thanh của cây đàn truyền thống. Bình quân mỗi tháng nếu dành nhiều thời gian tôi chỉ làm được khoảng 3- 4 cây. Tôi rất vui khi vừa rồi, anh Kray Sức có ý bỏ tiền túi để đặt tôi làm 5 cây đàn Talư phục vụ cho việc sưu tầm nhạc cụ truyền thống của anh. Cùng với sự phát triển của khoa học kỹ thuật, các phương tiện giải trí hiện đại, lớp trẻ bây giờ ít ai quan tâm học cách làm đàn. Do đầu ra cho sản phẩm rất khó khăn, nên phần lớn số đàn của tôi làm ra chỉ dành để tặng người thân hoặc nếu có ai đặt mua thì làm…”, anh Việt có vẻ buồn buồn nghĩ đến số phận sau này của đàn Talư.
Năm nay anh Việt đã 40 tuổi nhưng so với tuổi của các nghệ nhân chế tác đàn Talư ở Tà Rụt thì anh trẻ nhất. Nếu không có những chính sách động viên kịp thời, có giải pháp duy trì và phát triển “thương hiệu” đàn Talư thì liệu trong nay mai còn ai chăm chút giữ lấy nghề truyền thống cha ông như anh Hồ Văn Việt?.

Đi Sim Vẻ Đẹp Của Dân Tộc 
Bru Vân Kiều - Đàn Ta Lư
Tiếng đàn Ta Lư - Trang Nhung
Theo http://dotchuoinon.com/


1 nhận xét:

  Chùm thơ của Lưu Lãng Khách Ngoài kia xuân đang qua rồi sao!/ Thềm hoa hanh hao – trên trời cao/ Chim non ca vang như ngày nào/ Bên em a...