Sơn La ký sự 2
(Ghi chép về Bản cũ, Mường xưa)
Khoảng thời gian từ 1955 - 1975 thì 18 Châu Mường (huyện miền núi) phía Tây bắc Việt Nam là khu tự trị Thái Mèo, sau đổi là khu tự trị Tây Bắc. Tổ chức Nhà nước VNDCCH trên Trung ương là chính phủ ở Thủ đô Hà Nội, dưới là khu hay tỉnh rồi tới huyện, xã, thôn (bản). Thời đó chính quyền cơ sở (chiềng - xã) còn rất yếu: Chủ tịch xã, trưởng bản phần lớn nói tiếng phổ thông (kinh) còn chưa thông, mới võ vẽ đọc thông viết thạo…Để giúp cơ sở hoạt động có hiệu lực thì cấp tỉnh, huyện thường cử cán bộ xuống giúp xã “chỉ đạo” (kiểu cố vấn, trợ lý) gọi là “cán bộ phụ trách xã”, nôm na là “cán bộ cắm bản”, thực hiện “3 cùng” (cùng ăn, cùng ở, cùng làm với dân bản).
NK tôi sau khi tốt nghiệp Đại học Nông nghiệp lên Sơn La công tác (1963-1984) ở Ty Nông nghiệp, rồi Ban nông nghiệp tỉnh ủy nên đã có nhiều đợt làm “cán bộ cắm bản”, để lại nhiều kỷ niệm không thể phai mờ… Nay đã ngót 40 năm, xin ghi lại đôi dòng hồi ức “cắm bản” ghi chép về Bản cũ, Mường xưa.
Hà Nội, 28-2-2004
Nguyễn Khôi
QUAN CHỨC VÀ TRÍ THỨC
Người Thái ở Sơn La,
trước 1962 (tái lập tỉnh) coi như chiếm số đông nhất. Thời phong kiến tầng lớp
quý tộc, thầy mo đều được học hành, có chữ nghĩa…nên Phìa Tạo và con em họ
thường vừa là chức sắc (hay sẽ làm chức sắc) vừa là trí thức ở địa phương.
Thời Lê Trịnh, triều
đình đặt chức “phụ đạo” để cái quản các Châu Mường.
- Châu Phù Hoa (Phù
Yên): Phụ đạo là Cầm Nhân Đôi, sau con là Cầm Nhân Cai kế tập.
- Châu Mộc; phụ đạo là
Xa Văn Phấn (tổ tiên là Xa Khả Tham, làm quan Đại tư mã hồi đầu nhà Lê).
- Châu Mai: Phụ đạo là
Hà Công Ứng, sau con là Hà Công Bình kế tập.
- Châu Mai Sơn: Phụ
đạo Cầm Nhâm Tuần
- Châu Sơn La: Phụ đạo
Cầm Nhân Mang.
- Châu Thuân: Phụ đạo
là Bạc Cầm Chính.
- Châu Quỳnh Mai: Phụ
đạo là Điêu Chính Thiêm.
- Thời xã hội chủ
nghĩa (sau 1955…) về tri thức ở Sơn La nổi bật có
1/ - Gia đình nhà thơ
Cầm Biêu vốn là thầy giáo, sau làm trưởng ty văn hóa, em trai là Phó giáo sư -
Tiến sỹ Cầm Cường, giảng viên Đại học tổng hợp Hà Nội, ông có nhiều công trình
giá trị về Dân tộc học. Em trai là: Đạo diễn nổi tiếng Cầm Kỷ với các film
“Chom và Sa”, “Trở về Xam Sao”.
Con trai là Tiến sĩ
ngành ngân hàng Cầm Kiên, phó giám đốc Ngân hàng nông nghiệp Việt Nam.
2/ - Nhà dân tộc học
Cầm Trọng: với tác phẩm nổi tiếng “Người Thái ở Tây bắc Việt Nam” và nhiều tác
phẩm khác.
3/ - Hoàng Nó (Cầm Văn
Lượng) - nhà giáo nhà thơ - làm tới chức Bí thư tỉnh ủy Sơn La, ủy viên trung
ương Đảng CSVN.
4/ - Cầm Ngoan:
Phó chủ tịch khu, chủ tịch UBHC Nghĩa Lộ, Sơn La, phó chủ tịch Quốc Hội.
5/ - Cầm Liên (Cầm Văn
Yêu) - Chủ tịch UBND tỉnh Sơn La
6/ - Nhà văn Sa Phong
Ba (Sa Viết Sọi) sinh 1948, Thái ở Cao Đa (Bắc Yên) Hội Viên Hội nhà văn Việt
Nam, có nhiều truyện ngắn đặc sắc.
7/ - Điêu Chính Ngâu,
Thái trắng Quỳnh Nhai, dịch đầu tiên ra tiếng phổ thông “Sống chụ son sao”
(Tiễn dặn người yêu).
8/ - Nhà thơ Cầm Hùng
(1945) quê Chiềng Xôm (Thị xã Sơn La) thượng tá, chủ tịch Hội văn học nghệ
thuật tỉnh Sơn La.
9/ - Nhà nghiên cứu
văn nghệ dân gian Hoàng Trần Nghịch (1934) quê Sông Mã, đại học, có nhiều tác
phẩm sưu tầm, nghiên cứu dịch thuật.
10/ - Nhà thơ Lò Vũ
Vân (1943) Thái, Noong Đa (Bắc Yên).
11/ - Họa sĩ Lò An
Quang (Bản Cọ, TX)
12/ - Nhạc sĩ Cầm Bích
13/ - Nhạc sĩ Cầm Minh
Thuận (1944) Phù Yên, có “giao hưởng bài ca Tây Bắc” “Liên khúc tiễn dặn người
yêu”.
14/ - Nhà thơ Vương Trung
(Lường Vương Trung) Mường É, Thuận Châu - 1938 - Hội viên hội nhà văn VN.
Tác phẩm: Ing Éng
(thơ), Mối tình Mường Sinh (tiểu thuyết), dịch Táy Pú Xấc, Chương Han.
15/ - Nhà thơ Lò Văn
Cậy (1928-1994) quê Sốp Cộp (Sông Mã) Hội viên hội nhà văn Việt Nam. Có tuyển
tập thơ Lò Văn Cậy.
16/ - Nhà thơ Lò Văn E
(1933-1995) quê Sốp Cộp.
17/ - Phó giáo sư -
Tiến sĩ Hoàng Lương (1944) Thái Phù Yên, chủ nhiệm bộ môn Dân tộc học, khoa sử
Đại học Quốc gia có nhiều công trình về dân tộc học.
18/ - Nghệ sĩ ưu tú Vi
Hoa (nữ, hát)
19/ - Phát thanh viên
VTV1 Cà Kỳ Vọng (Người bản Phiêng Ngùa).
Đặc điểm: Các quan
chức ở Sơn La xưa và nay đứng đầu bản Mường, xã, huyện, tỉnh thường là trí thức
người bản địa (Thái, Mèo), có uy tín với nhân dân, có năng lực quản lý (cai
trị) có tín nhiệm với trung ương.
Từ sau khi tái lập
tỉnh các vị như Hoàng Nó (Bí thư tỉnh ủy), Cầm Liên (chủ tịch UBND tỉnh), Cần
Ngoan (Chủ tịch UBND tỉnh Kiêm phó chủ tịch Quốc hội), Thào Xuân Sùng (HMông,
Bí thư tỉnh ủy), Tòng Thị Phóng (Bí thư tỉnh ủy rồi là ủy viên Bộ chính trị,
phó chủ tịch Quốc hội), Lù Văn Que (phó chủ tịch UBND tỉnh, thứ trưởng UB dân
tộc của chính phủ); các tướng như Lò Văn Nhài, Cầm Xuân Ế…, các anh hùng liệt
sỹ như Lò Văn Giá, Chu Văn Thịnh là những tấm gương tiêu biểu, niềm tự hào của
nhân dân các dân tộc Sơn La qua 2 cuộc kháng chiến và xây dựng quê hương ngày
một giàu đẹp.
TANG LỄ THÁI
Nghi thức chung: nhà
nào có người mất, báo Trưởng tộc đến chủ trì, chọn 1 nhóm dâu rể đến túc trực -
rồi phát tang.
Chết, rất kiêng kỹ
ngày “mão” đó là ngày con Ong, ngày vất vả - nếu chết vào ngày này là phải đắp
chiếu coi như còn sống (Kiểu ở xuôi để cưới chạy tang) chờ hôm sau mới coi là
“chết”. Ngoài ra còn kỵ ngày Hợi, phải đợi giờ Dần làm giờ chết để trị các loại
ma (phí).
Sau khi tắt thở: con
cháu vuốt mắt, tắm nước lá thơm, thay quần áo mới nhất rồi khâu vài đồng bạc
trắng vào cổ áo (khót ngân khót có sửa) và vào 2 mông quần, khâu phía đầu mảnh
vải căng trên cây nêu (co cao) ngoài mộ.
Cây nêu làm bằng cây
tre cao 5-7 mét dựng hướng về Nậm toóc tát (thác đầu nguồn) có cành ngang để
treo áo người quá cố (đàn ông áo đỏ, đàn bà áo dài) trên dọc cây nêu có dải vải
màu trắng và đen ở giữa có mảng thổ cẩm, đối với người già, dải vải dài 7 xải,
tuổi trung niên 3 sải rộng 1 gang tay, đó là cờ ma (mạng lỉu heo). Trên cây cao
buộc con ngựa gỗ “ngày về trời theo cánh ngựa bay”, hướng về đầu thác nước để
hồn có ngựa cưỡi bay về trời. Bên cạnh cây nêu buộc 1 máng nứa có thóc có cỏ
cho ngựa (gỗ) ăn. Riêng hồn người thì không phải đem theo thức ăn vì đã có ông
thầy Mo cúng bái “làm tang” (dẫn nhập hồn vào Mường ma) “Pết cáy Xam háp
bung, Xam háp khẩu nặm pay toi” (gà vịt 3 gánh, cơm nước 3 gánh đem theo
nồi).
Cây nêu bên mộ sau 1
tháng tự đổ là điềm tốt nghĩa là hồn đã về trời (người kinh là sau 49 ngày cúng
cơm) chưa đổ là gở với gia chủ, nên do đó khi chon cây nêu phải chọn người biết
làm, gần gũi với tang chủ.
Khi khâm niệm (cộn
pang) phải có 2 mảnh thổ cẩm lót dọc 2 sườn xác - quần áo buộc dọc xác và có
dây buộc hộ tro hỏa táng (sai chaư). Mỗi con đẻ có 1 bộ quần áo để vào cái “sa”
đặt bên quan tài, con dâu thì mỗi người 1 dải vải trắng vắt buông phía trên
quan tài, con trai được đứng trước ngực người quá cố, con gái ngồi ngang thân
quan tài, con dâu đội khăn chóp trắng, áo đen dài, khẩu vải thổ cẩm đỏ vào tà
áo ngồi phục bên cửa vào của nhà sàn.
Không được đến gần nơi
quan thi hài. Khách viếng, con dâu ngồi phục cảm ơn tiễn khách, cơm trưa và
chiều cúng thủ lợn, 4 chân, tim gan, rể phải đưa cỗ vào cúng bố mẹ vợ, không có
thì cháu rể thay, cỗ có 3 mâm, mâm gạo và hoa quả, mâm vịt luộc, mâm lợn luộc:
mỗi mâm có 4 chén nước, 6 chén rượu và 50 xải vải trắng gấp gọn đặt trên 1
thang tre, con rể cả khấn “ông, bà đi, chúng tôi con cháu đã lo được mâm cỗ,
xin nhà ngoại nhận cho”.
Sau đó trải tấm vải
trắng lên quan tài, trên đó có những miếng vải nhỏ như đuôi cá viết chữ Thái kể
công đức người quá cố, cầu mong ông (bà) phù hộ. Xong xuôi bên rể nâng vải lên
đầu làm cẩu cho hồn đi qua tới khi ông mo đọc hết bài cúng.
Sau khi viếng,
cúng…đem thi hài đi hỏa tang. Xác được bó vải đặt trên 1 cái kiệu tre khiêng ra
gò đất cao cạnh Paheo (nghĩa địa - rừng ma) chất củi xung quanh đổ thêm dầu hỏa
rồi châm lửa đốt, tro xương cho vào 1 chum nhỏ đem chon vào huyệt mộ…
Tục ngữ có câu “cốc cồ
lộn báư bên/ vên tai báư hụ” (không tự nhìn thấy gáy mình/ ngày chết không ai
biết trước), sinh có hẹn, tử bất kỳ là vậy!
CỔ TÍCH
1, Tháp Mường Và: ở
Sốp Cộp (huyện mới tách từ huyện Sông Mã, là Tháp của dân tộc Lào).
2, Đền thờ vua Lê Thái
Tông (1423-1442) và văn bia Quế lâm ngự chế.
Là vua trẻ anh minh,
vua đã 2 lần thân chinh lên Sơn La dẹp loạn phản nghịch. Vào tháng 3 năm canh
thân 1440 và 1441 trên vách đá (núi) nhìn xuống cánh đồng Chiềng An có khắc 1
bài thơ chữ Hán “Quế Lâm Ngự Chế” nhằm khẳng định sự toàn vẹn lãnh thổ và mong thiên
hạ thái bình. Trải qua 500 năm chữ khắc vào đá còn rõ nét ở cửa Động La.
Đền thơ vua Lê Thái
Tông mang dáng dấp đền cổ Việt Nam (khởi công 9/2001, khánh thành 22/1/2003) để
ghi công đức vua và là nguyện vọng chính đáng của nhân dân Thành phố Sơn La hôm
nay ở tổ 2, phường Chiềng Lề.
Theo Đại Việt sử ký
toàn thư thì 2 năm 1440 và 1441 vua Lê Thái Tông đi đánh tên phản nghịch Nghiễm
ở Châu Thuận Ma, đem quân theo người Ai Lao (Lào) làm phản.
Vua thân chinh điều
khiển 6 quân tới trị nó. Thượng Nghiễm kế cùng lực tận, dâng voi xin hàng. Ta
thương nó quỳ bò không mang vũ khí, không nỡ chém, bàn tha tội cho nó, rồi đem
quân trở về, để lại bài thơ khắc trên vách hang Thẳm báo kế:
Nghĩ đến người xa đêm
khổ tâm,
Thổ tù sao lại dám
quên thân
Thế gian đã có anh hùng
chúa,
Thiên hạ ai tha kẻ
nghịch thần…
Đường xá khó khăn đừng
cậy hiểm,
Hang cùng đá ấm áp hơi
xuân
Dân xa được hưởng tấm
lòng nhân.
(Năm đầu niên hiệu Đại
Bảo)
Canh thân 1440.
Nguyên văn chữ Hán là:
Bộ chẩm lưu tâm niệm viễn
chân,
Man tù hà sự tốc vong
thân.
Thế gian nhược hữu anh
hùng chủ,
Thiên hạ thùy dung
phản nghịch thần.
Ồ đạo duyên vân không
thị hiềm,
Âm nhai rương noãn kỷ
diên xuân.
Cách trừ ô nhiễm an
dân thiện
Nhẫn sử hà mạnh ngoại
chí nhân.
3, Di tích nhà tù Sơn
La trên đồi Khau Cả (Thành phố Sơn La): Pháp xây dựng năm 1908, giai đoạn 1930
- 1945 chúng giam cầm đày ải 1007 lượt chiến sĩ cách mạng Việt Nam với các tên
tuổi lớn như các ông Lê Duẩn, Trường Chinh, Lê Đức Thọ, Trần Huy Liệu, Lê Thanh
Nghị, Song Hào, Văn Tiến Dũng, Nguyễn Cơ Thạch, Mai Chí Thọ, Trần Quốc Hoàn,
Hoàng Tùng, Tô Hiệu.
4, Nghĩa trang liệt sỹ
Tô Hiệu và các liệt sỹ hi sinh ở nhà tù Sơn La, ở thân đèo Khau Cả phía quốc lộ
6 lên Thuận Châu (Xem thơ “Qua thăm gốc ổi” của Trần Huy Liêu).
5, Sân bay Nà Sản:
Tháng 10/1952 quân đội ta bao vây tấn công đợt 3 vào Nà sản…đã làm quân Pháp mở
ra bài học để Đại tướng Henrie Navare hi vọng sử dụng căn cứ mạnh, có yểm hộ
của máy bay và lấy mẫu từ 1 căn cứ ở Miến Điện của quân Anh để xây dựng cứ điểm
Điện Biên Phủ “dụ” tướng Giáp lên quyết chiến…(căn cứ Nà Sản là để ngăn quân ta
tiến công quân Pháp ở Lào). Ngày 9 - 8 - 1953 quân Pháp rút khỏi Nà sản bằng
không vận sau 1 thời gian cầm cự.
6, Ngã ba Cò Nòi: 1
địa danh đã đi vào trang sử vàng chói lọi của TNXPVN, nơi có đài tưởng niệm 100
chiến sĩ TNXP hi sinh, tại đây để phục vụ chiến dịch Điện Biên Phủ.
7, Di tích cách mạng
Lào ở bản Lao Khô, Xã Phiêng Khoài, huyện Yên Châu.
ĐÈO PHA ĐIN
Núi vồng lên ôm ấp mây
trời
Cứ như thể ta bay vào
bát ngát
Giữa đất trời hạnh
phúc sóng đôi
(NK)-
Tên đèo Phạ là trời,
Địa là đất, hàm nghĩa đây là nơi tiếp giáp giữa đất và trời trên QL 6 từ Thuận
Châu Sơn La đi Tuần Giáo (Lai Châu) ở cây số 360 - 392, đèo dài 32 km, điểm cao
nhất 1648 mét, nơi có cột truyền hình nặng 70 tấn, chịu sức gió 200km/h; dốc
đèo 10% - 19%.
Ở chiến dịch Điện Biên
Phủ đoạn đường trên đèo Pha Đin phía ta có 8000 thanh niên xung phong “quyết tử
cho Tổ quốc quyết sinh”, suốt 48 ngày đêm máy bay Pháp dội bom chặn đường lên
của quân ta.
Từ năm 2006 - 2009 sửa
Quốc lộ 6, đèo cũ được bỏ (tránh), làm đường mới ở độ cao thấp hơn phía trái
Quốc lộ 6 cũ, cao khoảng 1000m (thấp hơn cũ 200 - 400m) xe cộ đi lại dẽ dàng.
Đèo Pha Đin có thể coi
là thắng cảnh “đệ nhất hùng quan” của Sơn La - Tây Bắc nắng gió, sương mù, mây
ngợp luôn, mát lạnh, thanh sạch như 1 cõi thần tiên khi ta lên tới đỉch.
10/3/2012.
1, Suối nước nóng Bản
Mòng (Thành phố Sơn La) cách trung tâm thành phố 6 km về phía Tây Nam có suối
nước nóng bản Mòng, nhiệt độ là 38oc nhiều chất khoáng tốt cho điều trị khớp,
thần kinh…
2, Suối nước nóng Ngọc
Chiến ở độ cao 1800m/s mặt biển, nơi cư trú 3 dân tộc: Thái trắng, Hmông, LaHa
nơi nhiều Táo mèo (Sơn tra). Có mỏ nước nóng chảy qua bản Lướt, tắm gội đẹp da.
3, Mỏ nước thần ở bản
Miềng, xã Mường Lèo, rất ấm từ núi chảy ra, tắm chữa bệnh.
4, Chỗ bản Ít tong
(huyện lỵ Mường La) cũng có 1 khúc suối nước nóng, mùa đông bốc hơi nghi ngút,
nóng gần 50o đượm mùi khoáng: tắm, uống đều thấy khỏe hẳn ra.
LỄ HỘI LUNG TA
Người Thái trắng
(Quỳnh Nhài và các noi) thường thì vào chiều 30 tết âm lịch…coi như thời điểm
chuyển giao từ năm cũ sang năm mới. Mọi nhà chuẩn bị tết, còn cá nhân thì tắm
gội mặc quần áo mới, tiếng chiêng trống vang lên đón tết…mọi người trong bản ra
suối, sông thăm gia “lễ gội đầu”, coi đây là lễ hội mở đầu cho 1 năm mới, đó là
để rửa trôi đi những cái vất vả, bệnh tật, những điều không may mắn của năm cũ,
tống tiễn tai ương theo dòng nước đi mãi không lặp lại…đồng thời cho con người
sức khỏe, năm mới tốt lành, gặp điều hay, làm ăn phát đạt. Để chuẩn bị cho lễ
hội gội đầu trước đó cả tuần chị em đã vo gạo nếp lấy nước, đổ vào cái nồi cất
giữ để cho càng lên mùi chua càng tốt. Đó là nước gội cho phụ nữ. Nồi nước tắm
là nồi nước thơm của cây mùi già. Còn cánh đàn ông gội nước bồ kết nướng ai nấy
áo cóm, váy đẹp cùng chiêng trống kéo ra bờ suối, bờ sông.
Chị em cởi trần, kéo
cạp váy lên phía trên ngực che vú, cúi đầu buông tóc tiến hành gội từ nước gạo
nếp chua, nước lá thơm, nồi xõa theo dòng nước…
Đàn ông thì quần cộc,
cởi trần gội,…Ngoài ra cánh đàn ông còn mang súng kíp ra bờ sông bắn nổ to vài
phát tiễn năm cũ đón năm mới hòa trong tiếng chiêng trống ấm vui của cả bản.
Gốc gác sự tích của
“lễ hội Lung ta” (lễ hội gội đầu) là trong buổi lễ: Ông Mo còn hát kể về công
lao của nữ tướng Nàng Han xưa (con gái 1 Tạo Mường) cầm quân đánh tan giặc
ngoại xâm, đuổi chúng tới tận cõi Mường Xo (Phong Thổ - Lai Châu)…Dẹp xong
giặc; cho quân sỹ nghỉ ngơi, tắm gội trên dòng Nậm Te (Sông Đà) để ăn mừng
chiến thắng…vì thế người Thái Trắng vùng Sông Đà đến nay vẫn còn lưu lại phong
tục này - đó là lễ hội lung ta (xuống bến nước làm lễ gội đầu) vừa là tẩy trần
sạch sẽ vừa là để tưởng nhớ vị anh hùng dân tộc…
DU LỊCH MỘC CHÂU
Cao nguyên Mộc Châu ở
độ cao 1050m so với mặt biển, cách Hà Nội gần 194 km (quốc lộ 6), rộng khoảng
25 km, dài 80 km với 16000 ha đồng cỏ, mùa hè mát mẻ (20oc) mùa đông rét đậm,
khô ráo, mù sương…
Đây là vùng lý tưởng
để nuôi bò sữa (toàn vùng đã nuôi 7200 con, công ty hò sữa Mộc Châu có 3514
con, đạt sản lượng 3200 tấn sữa tươi/năm, toàn vùng trên 7000 con đạt trên
28.000 tấn/năm, năng suất 20,5kg/con/ngày).
Đây là những đồi chè
nối tiếp nhau bát ngát, ta cứ ngỡ tới vùng chè Cameron Highland ở Malaysia? Từ
thị trấn nông trường, tới Tân Lập, Cờ đỏ đi vào Ngũ động bản Ôn là những sóng
đồi chè xanh tươi…toàn vùng có tới 3200 ha chè (toàn Sơn La khoảng trên 4000ha)
đó là chè Phiêng Khoài (Yên Châu), chè Nà Sản, Phiêng Cầm (Mai Sơn), chè Phòng
Lái, chiềng pha (Thuận Châu), chè Tà Xùa (Bắc Yên); ở Mộc Châu có 6 công ty -
nhà máy chè…trồng và chế biến các loại chè San Tuyết, trà Ô Long, trà Kim
Tuyên…tổng số trên 3000 ha các loại, trong đó hơn 2700 ha đạt năng suất cao
74,1 tạ/ha.
Mộc Châu đang là nơi
du lịch lý tưởng của người Hà Nội đến với vùng khí hậu ôn đới gần nhất: 194 km,
đi ô tô mất 3 giờ đồng hồ. Đó là các điểm:
- Đông Sơn Mộc Hương,
nằm ngay trung tâm thị trấn nông trường với diện tích 6915 mét vuông, từ quốc
lộ 6 đi vào có 150 mét, qua 240 bậc tới cửa hang, di tích người xưa 3000 - 3500
năm.
- Thác Dải Yếm (thác
Nàng) thuộc bản Vắt, khởi nguồn từ 2 khe nước Bó co lắm và Bó tá cháu chảy ra
thành suối Vắt, qua 5 km hòa vào suối Bó Sập giáp biên giới Việt Lào chảy về
phía Yên Châu tạo ra thác dải yếm mùa mưa, thác rộng 70m.
- Rừng thác sải yếm đi
ngược quốc lộ 43, khoảng 600 m rẽ sang 1 hẻm đi 300m là vào bản Vặt (Thái) khá
phát triển nghề dệt Thổ Cẩm - ở đây có lễ hội xe chá, ẩm thực trên hồ Noong Buông.
- Thắng cảnh đỉnh núi
Phiêng Luông cao 1500m (ngang Tam Đảo) trên đỉnh là 1 bãi bằng sông cỡ 10 ha
tha hồ hóng gió trông mây vùng biên giới Việt Lào.
- Ngoài ra còn tham
quan rừng thông Mộc Châu, thác Thái Hưng, chùa Chiền Viên.
Mùa xuân đẹp nào hơn
vườn đào Lõng luông, hoa mơ hoa mận ở vùng Mèo Vân Hồ?
- Ẩm thực: Các cửa
hàng ở thị trấn có các món “lợn cắp nách” “đặc sản gà dai” lẩu dê nấu ngải cứu
- các món nướng Thái, Lẩu xá, cơm lam, xôi thơm….
Có thể nói Mộc Châu -
miền xanh thẳm cao vời vợi lưng trời, 1 viên ngọc bích ở địa đầu miền Tây Bắc
của Tổ Quốc đó là vùng nông thôn miền núi ngàn đời hoang sơ dân dã đang công
nghiệp hiện đại hóa ở 1 trình độ cao…đến đây để ta vừa hoài niệm bâng khuâng,
vừa hứng khởi trông về tương lai tươi sáng và tràn trề hi vọng….
NGƯỜI BẮN HỔ
Tháng 6/1963, vào
huyện Sông Mã (vùng biên giới Việt Lào) và tôi được các anh ở đây kể câu chuyện
“anh Sáng bắn Hổ”.
Số là hồi 1952 - 1953,
vùng này là hậu địch, Việt Minh ta mới xây dựng được khu căn cứ nhỏ với 1 đội
du kích tuyên truyền vũ trang…anh em phải ở lán trong rừng, luôn di chuyển để
tránh địch, ăn thì nhờ lấy trộm gạo ở mả mấy người mới chết ngoài Paheo (rừng
ma), đào củ mài, hái rau rừng đợ bữa qua ngày. Trong đội có anh Lò Văn Sáng vác
súng kíp vào rừng tìm con don, con dím, con lợn rừng…Thế là vào 1 đêm anh đến
phục sau gốc cây bên bờ hồ, chờ lũ lợn về uống nước, khoảng 10 - 11 giờ khuya,
đám lợn vài con ủn ỉn đổ về ao (hồ), 1 ông ba mươi (hổ) to đùng, cỡ con bò tháu
cũng khẽ khàng bước ra “rình” vồ chú lợn choai (chắc mẩn, 1 bữa ngon), gốc cây
anh Sáng nằm phục cách hổ độ 7 mét… Đúng lúc Hổ vồ lợn thì anh Sáng cũng bất
thần nổ súng…một phát xuyên táo chết tươi 2 chú Hổ và lợn. Thật là hi hữu “trời
cho” may và tài, bình tĩnh chớp thời cơ…
Thế là 1 tiếng “hú”
đồng đội anh chay ra: người vác lợn, người khiêng hổ về căn cứ được 1 phen liên
hoan xả láng…
Tiếng lành đồn xa “anh
Lò Văn Sáng người bắn hổ” làm vang danh tiếng tăm đội du kích, làm bọn Pháp và
tay sai hết hồn mỗi khi quân ta tập kích đánh giặc trừ gian…cho đến ngày giải
phóng.
Sau này, anh Sáng tham
gia công tác thoát ly, hồi 1962 - 1963…anh Sáng đã trở thành Bác Lò Văn Sáng,
chủ tịch ủy ban hành chính huyện Sông Mã: 1 vị chủ tịch râu tóc bạc phơ, cao
ráo, cường tráng (đẹp lão) thông minh tháo vát, ung dung thư thái dẫn dắt (lãnh
đạo) nông dân huyện sông Mã cùng cả nước tiến lên xã hội chủ nghĩa.
CÂU CHUYỆN SĂN VOI
Tháng 8/1983, sau khi
đi họp Quốc hội kỳ giữa năm (tháng 6, về…bác Cầm Ngoan, chủ tịch UBND tỉnh Sơn
La, phó chủ tịch Quốc hội) goi tôi (NK) ra thì thầm: anh sang bảo anh Thường
(trưởng ty lâm nghiệp) 2 anh em vào sông Mã chỉ huy trạm kiểm lâm cùng đồn biên
phòng đi săn lấy 1 con voi rừng để đón chủ tịch Trường Chinh sắp tới (vào dịp
2/9 lên thăm tỉnh). (1)
Thế là NK tôi cùng anh
Nguyễn Xuân Thường (khoảng 52 tuổi hơn NK 7 tuổi, người Mường ở Yên Lập - Phú
Thọ sang công tác hậu địch xa nhà từ hồi 1950, hồi 1963 làm bí thư kiêm phó chủ
tịch huyện Sông Mã, Bác Lò Văn Sáng làm chủ tịch) lên 1 xe u oát, cùng khoảng 5
kg Keo Mậu dịch quốc doanh đem theo để làm quà cho bọn trẻ các nhà thân quen
(chẳng biết có đứa nào là “con gửi” của bí thư huyện ủy cũ hay không, có trời
mới biết?).
Đường dài 120km, qua 7
khúc suối (1 xe đi trên lòng suối), mất trên 10 tiếng đồng hồ thì tới Bản Địa
bên này bờ sông Mã, vào ở nhà chủ tịch xã Nà Nghịu, cũng là trung tâm thị trấn
huyện Ly. Điện thoại réo Hạt trưởng kiểm lâm (quân của trưởng ty lâm nghiệp) và
thượng úy đồn trưởng biên phòng về nhận lệnh…
Xong, cả tối 2 anh em
cùng chủ tịch xã, mới thêm cả phó chủ tịch huyện phụ trách nông nghiệp: 4 anh
em, 2 con vịt, ít cá sông, 1 hũ rượu cần, 1 chai lẩu xiêu “hảo hán nớ” - au
hảnh nớ…cạn chén bõ bao ngày xa cách (hồi tháng 6/1963, NK Tôi cách đấy 20 năm,
hồi mới ra trường, xung phong vào Sông Mã làm quân anh Thường xuống chỉ đạo sản
xuất ở xã Nà Nghịu…nên cả 2 anh em đều là người cũ, bạn cũ xa lâu mới về… cuộc
Kin lẩu (cuộc rượu) tới khoảng 11giờ đêm thì có tiếng vó ngựa lộc cộc của hạt
trưởng kiểm lâm chạy về: Báo cáo 2 anh đã trông thấy voi.
- Ừ thế thì tốt, ngồi
xuống, ta au hảnh (cạn chén) vài choác để lấy khí thế…
Chiều tối hôm sau, mấy
anh em đang ngồi hàn huyên trao đổi xây dựng vùng cánh kiến Sông Mã, xử lý vấn
đề sấy Long Nhãn của bà con khai hoang Hưng Yên nên như thế nào?... thì có
tiếng xe đạp (hồi này chưa có xe máy) của thượng úy trưởng đồn biên phòng chạy
về báo cáo:
- Thưa 2 anh, bọn
chúng em phối hợp với kiểm lâm đã tiếp cận voi, con này voi đực, ngà còn nhỏ,
cỡ 7 - 8 tạ…
- Được, cứ thế mà
triển khai…
Sáng hôm sau: Hạt
trưởng kiểm lâm cùng phó chủ tịch huyện đến:
- Báo cáo 2 anh em,
nếu bắn được voi bọn em dự kiến ăn chia như sau:
2 đùi sau, lá gan, vòi
và ngà xin gửi 2 anh về biếu tỉnh - còn lại: một ít huyện ủy, 1 ít ủy ban, còn
lại chia đều đầu người ở hạt kiểm lâm và đồn biên phòng.
- Thế cũng được; các
cậu xuống tận nơi xem anh em chúng nó “săn” thế nào, phải chắc ăn đấy…
Chờ 2 ngày, bặt tin
Đến ngày chờ thứ 3 thì
cả 2 hạt trưởng và trưởng đồn hớt hải chạy về:
- Báo cáo 2 anh, voi
nó đánh hơi thấy không lành, nó sợ, chạy về Lào (bên kia biên giới) mất rồi…
Ôi, thế là cụt vòi,
thế là hết chiều ni voi đi mãi…
Thật là vô vọng - 2
anh em (NK tôi và anh Nguyễn Xuân Thường) không ai nói với ai câu gì, chia tay
huyện còn dặn với 2 chú em:
- Các cậu cứ tiếp tục
theo dõi bám sát trận địa, phát hiện thấy voi thì “điện” ngay ra tỉnh…
Bữa tiệc chiêu đãi chủ
tịch Trường chinh lên thăm cán bộ, nhân dân tỉnh Sơn La năm ấy diễn ra bình
thường, Chủ tịch tuổi đã cao, ăn kiêng, không uống rượu, tính cụ vốn là tiết
kiệm (ăn uống đơn giản như Bác Hồ) nên các vị quan chức đầu tỉnh bữa ấy cũng
không dám “hảo hán nớ” - “au hảnh nớ”…
Và chú voi (săn hụt)
chắc là đang quay vòi vung vít như nhắn sang bên của biên giới:
- Vua chúa bây giờ có
ý thức bảo vê động vật hiếm quý, không ai được ăn thịt voi đâu nhé.
Chuyện thật như đùa
vậy!
Hà Nội, 11 - 3 - 2012
NK
(1)Lúc này NK đang làm
Thư ký Đ/c chủ tịch
tỉnh
Múa xòe, còn có tên
“xòe khăm khen” (múa cầm tay), có từ xưa có 32 điệu, nổi tiếng nhất là xòe
phong Thổ, xòe Mường Lò.
Phổ cập là điệu “khắm
khen” mọi người nắm tay nhau quay vòng tròn, biểu hiện cho tình đoàn kết; điệu
“khắm khăm mới lẩu” tức là nâng khăm mời rượu tỏ lòng yêu quý và mến khách;
điệu “đổn hôn” tức tiến, lùi nhào về phía trước ý nói trời đất dù có bão giông,
sống gió nhưng tình cảm con người với nhau thì luôn gắn chặt; Điệu “phá xí” tức
bỏ bốn, tượng trưng cho 4 phương trời đoàn kết giao lưu; điệu “nhôm khăn” tức
tung khăn thể hiện niềm vui mừng mùa màng thắng lợi, xây nhà mới, sinh thêm con
cháu, cưới xin…
Ở vùng Mộc Châu - Mai
Châu (Tày Đeng) có các điệu xòe chá, xòe ồng bổng, xòe kiếm, xòe đánh máng…
Xòe ông Bổng là 1 điệu
múa xưa, động tác đơn giản, mọi người cầm tay nhau nhảy nhót xung quanh đống
lửa theo nhịp “hò huậy, hò huây” mừng thắng lợi giòn giã sau cuộc đi săn về
hoặc xung quanh vò rượu cần mừng nhà mới.
Đặc điểm xòe này:
trang phục bình thường chỉ có đàn ông xòe, “nhạc” miệng là tự hô, cổ vũ người
xem, vui nhộn phóng khoáng. Điệu xòe “đánh máng” dành cho nữ giới, cứ 3 cặp mỗi
cặp dùng 2 chày gỗ gõ vào máng dùng để giã gạo, tạo ra tiếng chày giòn chắc,
nhịp điệu mỗi lúc 1 mạnh…cùng trống chiêng rộn rã.
Các điệu xòe (xe) được
các nghệ nhân dân gian xây dựng (32 điệu) luôn mang bóng dáng gần gũi với dân
bản như “xe cúp” (múa nón), xe tẳng chai (múa chai), xe kếp phắc (hái rau), xe
cáp (múa sạp)…
Các điệu xòe vòng sôi
nổi bao nhiêu thì các điệu xòe đơn, xòe tốp lại tinh tế duyên dáng bấy nhiêu -
với triết lý âm dương: trời đất, nước - lửa và ý nghĩa nhân sinh cao cả ẩn chứa
kỳ ảo trong các điệu xòe Thái từ xưa tới nay trong các cuộc vui liên hoan, lễ
hội.
NHẠC KHÍ THÁI
Từ xưa người Thái đã
làm “Pí” (sáo) để thổi chơi, gửi gắm nỗi niềm qua nốt nhạc tiếng sáo giữa núi
rừng mênh mông đèo heo hút, là công cụ để “pay ỉn sao” nói tiếng lòng vào con
tim người mà mình theo đuổi…
1, Pí tam lay (pí nốc
ống) cấu trúc gồm 2 phần: phần 1 là ống phát âm nối với ống 2 làn phần khuếch
thanh, ống 2 đôi khi được lắp thêm 1 gáo tre (to) để tăng độ vang của âm thanh.
2, Pí lào nọi (sáo lào
nhỏ): y hệt phần 1 của pí tam lay, bằng cây nứa tép, tuy khác là 1 hàng âm 6
lỗ.
Xuất xứ: từ “pí” (sáo)
có lẽ từ “pép” hoặc pép phan (pép hoẵng) do tục đi săn hoẵng (từ pép đẻ ra pí
cùng đồng âm). Trong đêm khuya ở rừng vẳng lên tiếng Hoẵng kêu (Hoẵng giác) đó
là lúc con đực đi tìm con cái để bắt chước tiếng Hoẵng gọi bạn tình phải chăng
vậy “pí” chỉ là 1 ống nứa tép mà véo von mà “bếp nhà sàn, tiếng pí thổi say mê”
là thế?
Ngoài sáo còn có KHÈN…
Xứ Thái, có thể nói là
xứ sở của hát thơ (khắp xư).
Vốn thơ ca cổ truyền
từ các tập biên niên sử “Quắm tố mướng” hoặc sử thi “Tày pú xấc” cho đến
các truyện thơ tình như Sống chụ son sao, Khun lú, Náng Ủa, Tản chụ xiết xương,
sử thi chương Han….với các bài thơ, ca dao đều được dùng để “khắp” (hát)….
Bước đầu đã có làn
điệu “lòng bản” và cách hát riêng cho mỗi loại bài thơ, xét theo hình thái sinh
hoạt âm nhạc phân ra làm 2 hệ - theo Dương Đình Minh Sơn thì:
- Hệ tín ngưỡng “hát
thơ mo” do giới mo then hát khi cúng tế lễ.
- Hệ dân gian: hát kể
chuyện tự sự, hát thơ tình, hát ví, hát hò trên sông, hát ru, hát đồng
dao……vv….
Ở người Thái 2 chữ
“thơ ca” quả là đầy đủ và ý nghĩa “Thơ để giải bầy nỗi lòng, ca (hát) để ngâm
vài lời thơ gửi đến những cõi lòng ai đó”.
Thơ Thái là 1 thứ
“kinh thi” bản địa, hồn quê hòa đồng với thiên nhiên trời đất. Thơ dân gian
Thái có 1 khối lượng đồ sộ với các truyện thơ, sử thi như đã nói ở trên đã trở
thành các tác phẩm thơ cổ điển nổi tiếng.
Thơ đương đại của các
tác giả Thái Sơn La (thời cách mạng xã hội chủ nghĩa) thường dùng lời thơ để
hát (khắp xư) nói lên chí khí vươn lên của dân tộc mình, làm chủ bản Mường,
cùng nhau đoàn kết các dân tộc anh em dưới sự lãnh đạo của Đảng, xây dựng Đất
nước ngày 1 giàu mạnh - xin dẫn 1 số bài mới:
HÀO QUANG KHẨU CẢ
(tác giả tự dịch)
Từ xa xưa ông cha đặt
tên Khau cả (1)
Là nói lên:
- Rắn hơn sắt thép,
cứng quá kim cương giống gieo trồng mọi đất xanh tươi cho lúa chín hạt, quả
ngọt nuôi người. Giặc Pháp muốn mượn oai hùng của núi, đặt trung tâm thống trị
tỉnh ta và thành nơi diệt nguồn anh hùng đất nước.
Nhưng:
Khâu Cả là lò luyện
con người gang thép chặt tan xiềng xích của thực dân, góp hun đúc những Trường
Chinh, Lê Duẩn, Nguyễn Lương Bằng, Tô Hiệu và bao chiến sĩ/ những trái tim của
cách mạng tỏa khắp non sông: chặt tan xiềng xích của thực dân Pháp, phong kiến/
góp phần đánh thắng hai đế quốc to. Đồi Khâu Cả cùng sóng cao cả nước giải
phóng mình, xóa phu, thuế, nguột cuông. Dựng chính quyền cùng cả nước Việt Nam
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc/ hào quang khâu cả vượt chín tầng/ mây như ánh sáng
soi đường cho ta bay bổng.
Sơn La, 9/7/1998
Hoàng Nó
(1) đồi Khâu Cả: ngọn
núi (đồi) ở giữa thị xã Sơn La, nơi trước 1945 Pháp xây dinh công xứ (tỉnh
trưởng) và nhà tù liền kề.
Sau là trụ sở UBHC khu
tự trị Tây Bắc, nay là trụ sở UBND tỉnh Sơn La.
ĐÔI BỜ THƯƠNG NHỚ
Mặt trời đi qua sàn
nhà người thương
Hạt nắng còn vương bên
thềm cửa sổ
Hoàng hôn đi mặt trời
không rủ
Để anh buồn trong nỗi
nhớ hoàng hôn.
Anh mượn gió gửi lời
câu thương nhớ
Mộc mạc thôi, tiếng
hát tự bao giờ
Mười sẽ quên và chín
sẽ quên
“Sông Mã cạn bằng đĩa
mới quên”
Chín lần quên để ngàn
lần thương nhớ!
Anh là con thuyền trôi
trong dòng sông đôi mắt
Để đôi bờ bên nhớ bên
thương
6/1997
Hà Trường Giang (1950)
Quê huyện sông Mã -
Sơn La
VÀNG VÀ THƠ
Một câu thơ, một hàng
vàng
Cân coi thử, ai nặng
hơn ai?
Nem công, chả quế ăn
vội
Không hóc cũng cay!
Cà dưa, tương ớt nhai
lâu hóa ngọt
Anh kiếm vàng chỉ bằng
nước bọt
Tôi làm thơ mệt óc,
mỏi tim
Cái gì giữ mãi hương thơm
Vàng bằng bọt dễ tan
theo bọt
Thơ bằng tim, đậm mãi
trong tim
Cầm Biêu (1920-1997)
Quê Mường Chanh - Mai
Sơn
LỜI MẸ
Yêu nhau bằng lời nói
Mẹ bảo chưa đủ
Bằng mân khiêng cỗ
nặng
Mẹ bảo cũng chưa no
Vội đón sau đón trước
Cành vướng sợi tơ lòng
Mẹ bảo!
Hãy lấy ngày làm gang
để đếm
Lấy tháng làm sải để
đo tấc lòng
Mưa to có cùng nhau
hứng?
Mặt trời làm tấm gương
soi
Soi vào khuôn mặt
Soi vào lòng dạ tim
gan
Ốm đau, ai tránh khỏi
đôi lần
Giầu nghèo có lúc cánh
cửa kẹp ngón tay
Đắng, ngọt, chua, cay,
nhạt…
Đầu lưỡi nếm cho rành
Tự đáy lòng mình “cân
đong”
Xử sự công bằng
1983
Lò Văn Cậy (1928 -
1994)
Quê Sốp Cộp - Sông Mã
HOA RỪNG
Thấy em lượm bông vạt
nương chân núi
Như đứng giữa dải ngân
hà
Anh vứt bó cây, chạy
ngay tới
Chẳng đợi em ưng ý
Anh cứ mà lượm theo.
Mới đầu anh lượm cây
này, em lượm cây kia
Rồi lượm chung cây
Lượm chung cành
Lượm cả tay nhau.
Ta trốn mặt trời dưới
rặng vừng bên nương
Tắm trong hương hoa
vừng thơm ngát
Gió ngàn ru nghiêng
ngả vừng xanh
Tia trời chiều vuốt ve
áo hoa em lay động
Hàng cúc bạc long lanh
Ngực em mười đôi cúc
bướm
Có mười đôi bóng anh
lẫn mười đôi bóng hoa vừng
Ngực rực hồng tia nắng
Ngực ngấn đầy hương
hoa.
Vương Trung (1938)
ÁNH CHỚP TRỜI XA
Mưa rơi trên núi
Giảng?
Chớp lóe sáng chân
mây!
Ai phơi gì sàn ngoài
quên dọn. Mau dọn!
Cụ bà vừa nhắc cháu
vừa than:
- Tháng 5, tháng trời
buồn, không buồn
Tháng 6, lặng mưa dông
- Sao dông (1)
“Rồng chọi rồng” ngày
đêm không ngớt.
Cất tiếng cười hai
cháu cầm tay
- Ánh lửa hàn nhà máy,
Bà ơi!
(1) Tục ngữ: Tháng 5:
trời buồn
Tháng 6: trời kiêng
mưa
Sơn La 19 - 5 - 1979
Lò Văn E (1933 - 1995)
Quê Sốp Cộp - Sông Mã
NHỚ CON
Có điều gì sánh được
Mẹ nhớ con
Thương từ những lỗi
lầm
Mưa lâm thâm mà lòng
mẹ thành bão
Nắng lên rồi nỗi nhớ
hóa là mây
Tình yêu của mẹ là
trái chín trên cây
Để cho con bốn mùa
hương vị ngọt thật đắm say
11 - 1992
Cầm Thị Phụi
(Phó chủ tịch HĐND
tỉnh)
ĐÊM HỘI MÚA XÒE
Tiếng trống, tiếng
cồng vang giục giã
Như chắp cánh niềm vui
bay cao
Cả “Khuống” mường bỗng
dưng nghiêng ngả
Với vòng xòe nhún nhẩy
say sưa
Đôi chân thon thon
quen theo lối nương.
Đôi chân bè đạp mòn
lối ruộng
Quyện bên nhau rập
rình
“Khắm xéo” quàng trên
áo cóm
Tất cả rung lên, cả
rừng hoa chao đảo
Cái dùi gỗ băm trên
mặt trống
Rền như giông, như sấm
“Họa…họa…Huệ…Huệ…”
Cả vòng xòe cuồng lên
Theo nhịp trống, nhịp
tim
Tung chân nhảy hết
mình, hết sức
“Đàn bướm” cúc muốn
bay khỏi ngực
Chiếc mũ nồi, cũng
chực bay theo
Vòng xòe quay, quay
mãi không ngừng
Lương Văn Tộ (1946)
Quê Sông Mã - Sơn La
(Tác giả tự dịch)
Ào ào bãi xoáy
Đá lăn, cây đổ
Thân sâng, gốc sở ngổn
ngang
Một cây Ban đứng điềm
nhiên
Cạnh lối lên nương làm
cỏ
Hỏi giông, hỏi gió
Sao Ban kia vẫn bình
yên phận thường?
Cây ban rằng: “hòa
tình yêu”
Trắng trong tuổi trẻ
Chung thủy tận già
Lửa mường đất gốc,
chưa thành than
(thì không thể chết
Gió dập thân, cành,
chưa tan tành em vẫn tươi xanh)
Một cây Ban
Đứng trên nương
Lò Xuân Thương (1936)
Quê Púng Tra - Thuận
Châu
CHIỀU BẾN
VẠN (1)
Bến cũ đâu hỡi sông?
Bến ở trong lòng nước
Miệt mài ngày đêm chảy
Về Hòa Bình khơi xa.
Bản tình ca bất tận
Gập ghềnh đá nơi đâu?
Ở trong lòng nước ấy
Với biển hồ phẳng lặng
Xóa những dòng vách
ngăn.
Và mai lên
Ngược xuôi
Thuyền đánh cá
Và chiều buông
Sương giăng tròn
Trăng xóa
Còi tàu vang xa, vang
xa
Bến Vạn Yên 1995
Hoàng Bạch Long 1949
Quê Huy Thượng - Phù
Yên
(1) Bến Vạn Yên: Phố
nhỏ Vạn Yên, bên bến Sông Đà, xã Tân Phong, Phù Yên ….xưa là Sông Đà ghềnh
thác, nay là Hồ Thủy điện mênh mông.
KHOẢNG XANH
Gió Lào mang hơi lửa
Hun sém cả trưa hè
Cháy khét tiếng ve
Rừng tre trơ trụi lá
Con chim vội vã sà
xuống khe trốn
Sợi nắng muốn chăng
đan mặt cỏ
Nhưng chẳng sao, chẳng
sao cả
Trái đất đã quen mùi
khắc nghiệt!
Đến con kiến cũng còn
phải ung dung thư thái
Miệt mài tha mồi về tổ
Ai như quả bứa chín
vàng mơ
Trong trẻo giữa trưa
hè
Thời gian nhòa vào im
lắng
Một khoảng không trống
vắng
Vỗ ào vào cánh xanh
Quê Bắc Yên - Sơn La
XUÂN BẢN THÀN
Tết
Ở bản Thàn
Cái vui
Sôi lên từ hũ rượu cần
Bụng trống
Vú chiêng
Rung lên
Cả mái sàn chao đảo
Đỉnh núi cao lúc lắc
cái đầu
Măng vầu
Măng sặt
Dỏng tai đón mưa rơi
Xuân 1996
Lò Vũ Vân
BIỂN Ở THẢO NGUYÊN
Ở độ cao một nghìn năm
mươi mét
Rất xa biển nên thèm
nghe sóng biển
Mượn gió ngàn làm sóng
vỗ lao xao
Ước có biển nên gom
mây về làm biển
Biển Thảo Nguyên biển
trắng vỗ mênh mông
Đảo là những ngọn
thông, chóp núi
Cho thuyền chim đi về
neo đậu
Thảo nguyên xanh đắm
mình trong màn huyền ảo
Đưa ta về thời xưa cổ
tích
Dưới đại dương lộng
lẫy thủy cung?
Biển Thảo Nguyên chỉ
trong trưa khoảnh khắc
Bỗng chốc tan - biển
biến về đâu?
Ánh nắng vàng chuốt
ngọc lên lá
Lại trong veo, ngời
sắc Thảo Nguyên.
Thảo Nguyên Mộc Châu
hè 1997
Lò Vũ Vân
NHỚ VỀ PHỐ VẠN
Chúng tôi dân tứ xứ
Gặp nhau ở nơi đây
Dựng nên một Phố nhỏ
Phố Vạn Yên, Vạn Yên
(1)
Anh Phúc Kiến, Quảng
Đông (2)
Tôi Mường Bi, Mường
Động (3)
Còn chị hay mơ mộng
Theo chồng lên nơi đây
Là dân Nam Định đó (4)
Một dãy phố nhỏ thôi
Bao dòng đời đã chảy
Tụ về Phố nhỏ này
Nhớ bến Vạn thuở ấy
Thuyền đuôi én ngược
xuôi
Ai đi xuống chợ Bờ
Ai ngược dòng Đà Giang
Lên Mường Chiên, Mường
Ét
Dòng sông vẫn êm trôi
Nối phố nhỏ của tôi
Với bao bờ thương nhớ
Ơi bến Vạn, phố Vạn
Phố của chúng tôi đó
Mùa đông heo hút gió
Tiếng pháo lại rộ vang
Tiếng chuông điểm đình
Ang (7)
Tiếng trống vang đình
Hán
Hồn thiên cổ bay về
Bản làng trong khói
hương
Mùa hè nóng rát bỏng
Những cây phượng trước
ngõ
Lại cháy đỏ màu hoa…
Nay phố đã đi xa
Chìm đáy nước sông Đà
Ôi phố núi nho nhỏ
Phố của chúng tôi đó
Vẫn cháy màu phượng đỏ
Trong lòng mỗi chúng
tôi
Rồi một ngày không xa
Hoa phượng lại rực đỏ
Trên phố mới nguy nga
Tôi lại viết bài ca
Về bến Vạn, phố Vạn
Phố của hoa phượng đỏ
Thắm mãi bên sông Đà
6/1996
(1) Bến phố Vạn Yên
(Tân Phong, Phù Yên)
(2) 2 tỉnh của quê gốc
người Hoa
(3) Thuộc Hòa Bình quê
người Mường
(4) Chợ Bờ (Hòa Bình),
nay chìm dưới hồ
(5) Thuộc Quỳnh Nhai
(6) Đình Ang, Đình Hán
là 2 ngôi đình thuộc xã Tâm Phong
Nhà thơ Đinh Tân
(1942)
Dân tộc Mường
Quê Tân Phong, Phù
Yên, Sơn La
CÁC DÂN TỘC Ở SƠN LA
Điều tra dân số
1/4/1999: Toàn tỉnh có 882.077 người (đến 1/4/2009 có 1.080.641 người). Có 12
dân tộc anh em.
Thái
|
482.985 Người
|
chiếm 54,7 %
|
Kinh
|
153.646 Người
|
chiếm 17,42%
|
Hmông
|
114.578 Người
|
chiếm 13,00%
|
Mường
|
71.906 Người
|
chiếm 8,15%
|
Các dân tộc khác
|
chiếm 6,73%
|
Trình độ dân trí tính
đến 2002:
Tỉ lệ biết chữ 70,8%
Học sinh phổ thông
220.430 em
Giáo viên 10.209 người
LỜI CUỐI SÁCH
“Sơn La ký sự” gồm 51
bài tùy bút, hồi ức, thơ, sưu tầm, ghi chép về xứ Thái một thời NK đã sống,
nhằm để con cháu, bạn bè, ai đó đọc xong “ờ Sơn La, người Thái nó là như thế…”
để thêm yêu cái xứ sở “Sơn La âm u núi khuất trong sương mù” rồi “nước Sơn La, ma
Hòa Bình” ngày xưa nó bí ẩn, lạ lẫm, đáng sợ làm sao?
Năm 1962 (vừa tái lập
tỉnh) Sơn La mới có 18 vạn dân, chủ yếu là người Thái, sau 1975, nhất là sau
1986 người xuôi (Thái Bình, Hưng Yên…) lên ồ ạt, đến nay 2009 dân số toàn tỉnh
10.080.641 trong đó dân tộc Thái trên 48 vạn người.
Mọi phong tục tập quán
kể cả tiếng nói chữ viết Thái đang bị “hòa nhập” hòa tan, bị lai ghép đã dần
mai một. SOS là thế…
Để kết cuốn sách này,
có lẽ hay hơn là nhờ Chế Lan Viên nói hộ:
“Nhớ bản sương giăng,
nhớ đèo mây phủ
Nơi nào qua lòng lại
chẳng yêu thương?
Khi ta ở chỉ là nơi
đất ở
Khi ta đi, đất đã hóa
tâm hồn!”
Góc thành nam Hà Nội
11.3.2012
Nguyễn Khôi (tên khai
sinh: Nguyễn Kim Khôi)
Sinh 1938, quê phố
Đình, phường Đình Bảng, thị xã Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh..
NR; 259/39 phố Vọng –
Hà Nội.
- Hội viên Hội Nhà văn
Hà Nội
- UV BCH Hội Văn nghệ
Dân gian Hà Nội
- UV BCH Hội VHNT các
Dân tộc Thiểu số VN (Khóa 2)
Chuyên viên Cao cấp,
nguyên Phó Vụ trưởng Văn phòng Quốc hội Việt Nam
Các tác phẩm đã xuất
bản:
- Trai Đình Bảng (thơ)
nxb Văn Học 1995,vhtt 2000
- Gửi Mường bản xa xăm
(thơ) nxb vhdt 1998 - Giải thưởng Hội VHTH các DTTS VN 1998.
- Trưa rừng ấy (thơ tứ
tuyệt 100 bài) nxb vhdt 2005
- Bắc Ninh thi thoại
(biên khảo) đã tái bản lần thư 3.
- Các dân tộc ở Việt
Nam-cách dùng họ và đặt tên (biên khảo nxb Vhdt 2006.
- Cổ Pháp cố sự- 4
tập, 920 trang nxb vhdt, viết về cội nguồn nhà Lý.
- Có thơ in ở: tuyển
tập thơ Việt Nam 1945-2000 (nxb lao động); tuyển tập thơ
Việt Nam 1975-2000,
nxb Hội Nhà Văn; tuyển tập Văn học Miền Núi-nxb giáo dục1998; tuyển tập thơ
Việt Nam thế kỷ 20 (nxb giáo dục-2005), tuyển tập thơ Việt Nam 10 năm đầu thế
kỷ 21(nxb Hội Nhà Văn 2010)vv…
Dịch thuật:
- Sống Chu Son Sao
(Tiễn Dặn Người Yêu) – truyện thơ dân tộc Thái
- Tiếng hát làm Dâu
(dân ca H’mông) vv…
Giải thưởng:
- Giải thưởng viết về
1000 năm Thăng Long - Hà Nội, bài thơ ”Về Hà Nội”.
- Giải thưởng Văn học
Nghệ thuật Thủ đô 2008 cho Bộ sử Làng Cổ Pháp cố sự.
Nguyễn Khôi
Trả lờiXóaeva air booking
vé máy bay đi mỹ là bao nhiêu
vé máy bay hãng korean air
vé máy bay đi mỹ rẻ
Vé máy bay đi canada
Những Chuyến Đi Cuộc Đời
Ngẫu Hứng Du Lịch
Tri Thức Du Lịch