Thứ Ba, 24 tháng 11, 2015

Sơn La ký sự 2

Sơn La ký sự 2
(Ghi chép về Bản cũ, Mường xưa)
LỜI THƯA
Khoảng thời gian từ 1955 - 1975 thì 18 Châu Mường (huyện miền núi) phía Tây bắc Việt Nam là khu tự trị Thái Mèo, sau đổi là khu tự trị Tây Bắc. Tổ chức Nhà nước VNDCCH trên Trung ương là chính phủ ở Thủ đô Hà Nội, dưới là khu  hay tỉnh rồi tới huyện, xã, thôn (bản). Thời đó chính quyền cơ sở (chiềng - xã) còn rất yếu: Chủ tịch xã, trưởng bản phần lớn nói tiếng phổ thông (kinh) còn chưa thông, mới võ vẽ đọc thông viết thạo…Để giúp cơ sở hoạt động có hiệu lực thì cấp tỉnh, huyện thường cử cán bộ xuống giúp xã “chỉ đạo” (kiểu cố vấn, trợ lý) gọi là “cán bộ phụ trách xã”, nôm na là “cán bộ cắm bản”, thực hiện “3 cùng” (cùng ăn, cùng ở, cùng làm với dân bản).
NK tôi sau khi tốt nghiệp Đại học Nông nghiệp lên Sơn La công tác (1963-1984) ở Ty Nông nghiệp, rồi Ban nông nghiệp tỉnh ủy nên đã có nhiều đợt làm “cán bộ cắm bản”, để lại nhiều kỷ niệm không thể phai mờ… Nay đã ngót 40 năm, xin ghi lại đôi dòng hồi ức “cắm bản” ghi chép về Bản cũ, Mường xưa.
Hà Nội, 28-2-2004
Nguyễn Khôi

QUAN CHỨC VÀ TRÍ THỨC
Người Thái ở Sơn La, trước 1962 (tái lập tỉnh) coi như chiếm số đông nhất. Thời phong kiến tầng lớp quý tộc, thầy mo đều được học hành, có chữ nghĩa…nên Phìa Tạo và con em họ thường vừa là chức sắc (hay sẽ làm chức sắc) vừa là trí thức ở địa phương.
Thời Lê Trịnh, triều đình đặt chức “phụ đạo” để cái quản các Châu Mường.
- Châu Phù Hoa (Phù Yên): Phụ đạo là Cầm Nhân Đôi, sau con là Cầm Nhân Cai kế tập.
- Châu Mộc; phụ đạo là Xa Văn Phấn (tổ tiên là Xa Khả Tham, làm quan Đại tư mã hồi đầu nhà Lê).
- Châu Mai: Phụ đạo là Hà Công Ứng, sau con là Hà Công Bình kế tập.
- Châu Mai Sơn: Phụ đạo Cầm Nhâm Tuần
- Châu Sơn La: Phụ đạo Cầm Nhân Mang.
- Châu Thuân: Phụ đạo là Bạc Cầm Chính.
- Châu Quỳnh Mai: Phụ đạo là Điêu Chính Thiêm.
- Thời xã hội chủ nghĩa (sau 1955…) về tri thức ở Sơn La nổi bật có
1/ - Gia đình nhà thơ Cầm Biêu vốn là thầy giáo, sau làm trưởng ty văn hóa, em trai là Phó giáo sư - Tiến sỹ Cầm Cường, giảng viên Đại học tổng hợp Hà Nội, ông có nhiều công trình giá trị về Dân tộc học. Em trai là: Đạo diễn nổi tiếng Cầm Kỷ với các film “Chom và Sa”, “Trở về Xam Sao”.
Con trai là Tiến sĩ ngành ngân hàng Cầm Kiên, phó giám đốc Ngân hàng nông nghiệp Việt Nam.
2/ - Nhà dân tộc học Cầm Trọng: với tác phẩm nổi tiếng “Người Thái ở Tây bắc Việt Nam” và nhiều tác phẩm khác.
3/ - Hoàng Nó (Cầm Văn Lượng) - nhà giáo nhà thơ - làm tới chức Bí thư tỉnh ủy Sơn La, ủy viên trung ương Đảng CSVN.
4/ -  Cầm Ngoan: Phó chủ tịch khu, chủ tịch UBHC Nghĩa Lộ, Sơn La, phó chủ tịch Quốc Hội.
5/ - Cầm Liên (Cầm Văn Yêu) - Chủ tịch UBND tỉnh Sơn La
6/ - Nhà văn Sa Phong Ba (Sa Viết Sọi) sinh 1948, Thái ở Cao Đa (Bắc Yên) Hội Viên Hội nhà văn Việt Nam, có nhiều truyện ngắn đặc sắc.
7/ - Điêu Chính Ngâu, Thái trắng Quỳnh Nhai, dịch đầu tiên ra tiếng phổ thông “Sống chụ son sao” (Tiễn dặn người yêu).
8/ - Nhà thơ Cầm Hùng (1945) quê Chiềng Xôm (Thị xã Sơn La) thượng tá, chủ tịch Hội văn học nghệ thuật tỉnh Sơn La.
9/ - Nhà nghiên cứu văn nghệ dân gian Hoàng Trần Nghịch (1934) quê Sông Mã, đại học, có nhiều tác phẩm sưu tầm, nghiên cứu dịch thuật.
10/ - Nhà thơ Lò Vũ Vân (1943) Thái, Noong Đa (Bắc Yên).
11/ - Họa sĩ Lò An Quang (Bản Cọ, TX)
12/ - Nhạc sĩ Cầm Bích
13/ - Nhạc sĩ Cầm Minh Thuận (1944) Phù Yên, có “giao hưởng bài ca Tây Bắc” “Liên khúc tiễn dặn người yêu”.
14/ - Nhà thơ Vương Trung (Lường Vương Trung) Mường É, Thuận Châu -  1938 - Hội viên hội nhà văn VN.
Tác phẩm: Ing Éng (thơ), Mối tình Mường Sinh (tiểu thuyết), dịch Táy Pú Xấc, Chương Han.
15/ - Nhà thơ Lò Văn Cậy (1928-1994) quê Sốp Cộp (Sông Mã) Hội viên hội nhà văn Việt Nam. Có tuyển tập thơ Lò Văn Cậy.
16/ - Nhà thơ Lò Văn E (1933-1995) quê Sốp Cộp.
17/ - Phó giáo sư - Tiến sĩ Hoàng Lương (1944) Thái Phù Yên, chủ nhiệm bộ môn Dân tộc học, khoa sử Đại học Quốc gia có nhiều công trình về dân tộc học.
18/ - Nghệ sĩ ưu tú Vi Hoa (nữ, hát)
19/ - Phát thanh viên VTV1 Cà Kỳ Vọng (Người bản Phiêng Ngùa).
Đặc điểm: Các quan chức ở Sơn La xưa và nay đứng đầu bản Mường, xã, huyện, tỉnh thường là trí thức người bản địa (Thái, Mèo), có uy tín với nhân dân, có năng lực quản lý (cai trị) có tín nhiệm với trung ương.
Từ sau khi tái lập tỉnh các vị như Hoàng Nó (Bí thư tỉnh ủy), Cầm Liên (chủ tịch UBND tỉnh), Cần Ngoan (Chủ tịch UBND tỉnh Kiêm phó chủ tịch Quốc hội), Thào Xuân Sùng (HMông, Bí thư tỉnh ủy), Tòng Thị Phóng (Bí thư tỉnh ủy rồi là ủy viên Bộ chính trị, phó chủ tịch Quốc hội), Lù Văn Que (phó chủ tịch UBND tỉnh, thứ trưởng UB dân tộc của chính phủ); các tướng như Lò Văn Nhài, Cầm Xuân Ế…, các anh hùng liệt sỹ như Lò Văn Giá, Chu Văn Thịnh là những tấm gương tiêu biểu, niềm tự hào của nhân dân các dân tộc Sơn La qua 2 cuộc kháng chiến và xây dựng quê hương ngày một giàu đẹp.
TANG LỄ THÁI
Nghi thức chung: nhà nào có người mất, báo Trưởng tộc đến chủ trì, chọn 1 nhóm dâu rể đến túc trực - rồi phát tang.
Chết, rất kiêng kỹ ngày “mão” đó là ngày con Ong, ngày vất vả - nếu chết vào ngày này là phải đắp chiếu coi như còn sống (Kiểu ở xuôi để cưới chạy tang) chờ hôm sau mới coi là “chết”. Ngoài ra còn kỵ ngày Hợi, phải đợi giờ Dần làm giờ chết để trị các loại ma (phí).
Sau khi tắt thở: con cháu vuốt mắt, tắm nước lá thơm, thay quần áo mới nhất rồi khâu vài đồng bạc trắng vào cổ áo (khót ngân khót có sửa) và vào 2 mông quần, khâu phía đầu mảnh vải căng trên cây nêu (co cao) ngoài mộ.
Cây nêu làm bằng cây tre cao 5-7 mét dựng hướng về Nậm toóc tát (thác đầu nguồn) có cành ngang để treo áo người quá cố (đàn ông áo đỏ, đàn bà áo dài) trên dọc cây nêu có dải vải màu trắng và đen ở giữa có mảng thổ cẩm, đối với người già, dải vải dài 7 xải, tuổi trung niên 3 sải rộng 1 gang tay, đó là cờ ma (mạng lỉu heo). Trên cây cao buộc con ngựa gỗ “ngày về trời theo cánh ngựa bay”, hướng về đầu thác nước để hồn có ngựa cưỡi bay về trời. Bên cạnh cây nêu buộc 1 máng nứa có thóc có cỏ cho ngựa (gỗ) ăn. Riêng hồn người thì không phải đem theo thức ăn vì đã có ông thầy Mo cúng bái “làm tang” (dẫn nhập hồn vào Mường ma) “Pết cáy  Xam háp bung, Xam háp khẩu  nặm pay toi” (gà vịt 3 gánh, cơm nước 3 gánh đem theo nồi).
Cây nêu bên mộ sau 1 tháng tự đổ là điềm tốt nghĩa là hồn đã về trời (người kinh là sau 49 ngày cúng cơm) chưa đổ là gở với gia chủ, nên do đó khi chon cây nêu phải chọn người biết làm, gần gũi với tang chủ.
Khi khâm niệm (cộn pang) phải có 2 mảnh thổ cẩm lót dọc 2 sườn xác - quần áo buộc dọc xác và có dây buộc hộ tro hỏa táng (sai chaư). Mỗi con đẻ có 1 bộ quần áo để vào cái “sa” đặt bên quan tài, con dâu thì mỗi người 1 dải vải trắng vắt buông phía trên quan tài, con trai được đứng trước ngực người quá cố, con gái ngồi ngang thân quan tài, con dâu đội khăn chóp trắng, áo đen dài, khẩu vải thổ cẩm đỏ vào tà áo ngồi phục bên cửa vào của nhà sàn.
Không được đến gần nơi quan thi hài. Khách viếng, con dâu ngồi phục cảm ơn tiễn khách, cơm trưa và chiều cúng thủ lợn, 4 chân, tim gan, rể phải đưa cỗ vào cúng bố mẹ vợ, không có thì cháu rể thay, cỗ có 3 mâm, mâm gạo và hoa quả, mâm vịt luộc, mâm lợn luộc: mỗi mâm có 4 chén nước, 6 chén rượu và 50 xải vải trắng gấp gọn đặt trên 1 thang tre, con rể cả khấn “ông, bà đi, chúng tôi con cháu đã lo được mâm cỗ, xin nhà ngoại nhận cho”.
Sau đó trải tấm vải trắng lên quan tài, trên đó có những miếng vải nhỏ như đuôi cá viết chữ Thái kể công đức người quá cố, cầu mong ông (bà) phù hộ. Xong xuôi bên rể nâng vải lên đầu làm cẩu cho hồn đi qua tới khi ông mo đọc hết bài cúng.
Sau khi viếng, cúng…đem thi hài đi hỏa tang. Xác được bó vải đặt trên 1 cái kiệu tre khiêng ra gò đất cao cạnh Paheo (nghĩa địa - rừng ma) chất củi xung quanh đổ thêm dầu hỏa rồi châm lửa đốt, tro xương cho vào 1 chum nhỏ đem chon vào huyệt mộ…
Tục ngữ có câu “cốc cồ lộn báư bên/ vên tai báư hụ” (không tự nhìn thấy gáy mình/ ngày chết không ai biết trước), sinh có hẹn, tử bất kỳ là vậy!
CỔ TÍCH
1, Tháp Mường Và: ở Sốp Cộp (huyện mới tách từ huyện Sông Mã, là Tháp của dân tộc Lào).
2, Đền thờ vua Lê Thái Tông (1423-1442) và văn bia Quế lâm ngự chế.
Là vua trẻ anh minh, vua đã 2 lần thân chinh lên Sơn La dẹp loạn phản nghịch. Vào tháng 3 năm canh thân 1440 và 1441 trên vách đá (núi) nhìn xuống cánh đồng Chiềng An có khắc 1 bài thơ chữ Hán “Quế Lâm Ngự Chế” nhằm khẳng định sự toàn vẹn lãnh thổ và mong thiên hạ thái bình. Trải qua 500 năm chữ khắc vào đá còn rõ nét ở cửa Động La.
Đền thơ vua Lê Thái Tông mang dáng dấp đền cổ Việt Nam (khởi công 9/2001, khánh thành 22/1/2003) để ghi công đức vua và là nguyện vọng chính đáng của nhân dân Thành phố Sơn La hôm nay ở tổ 2, phường Chiềng Lề.
Theo Đại Việt sử ký toàn thư thì 2 năm 1440 và 1441 vua Lê Thái Tông đi đánh tên phản nghịch Nghiễm ở Châu Thuận Ma, đem quân theo người Ai Lao (Lào) làm phản.
Vua thân chinh điều khiển 6 quân tới trị nó. Thượng Nghiễm kế cùng lực tận, dâng voi xin hàng. Ta thương nó quỳ bò không mang vũ khí, không nỡ chém, bàn tha tội cho nó, rồi đem quân trở về, để lại bài thơ khắc trên vách hang Thẳm báo kế:
Nghĩ đến người xa đêm khổ tâm,
Thổ tù sao lại dám quên thân
Thế gian đã có anh hùng chúa,
Thiên hạ ai tha kẻ nghịch thần…
Đường xá khó khăn đừng cậy hiểm,
Hang cùng đá ấm áp hơi xuân
Yên được dân lành nhơ nhớp hết,
Dân xa được hưởng tấm lòng nhân.
(Năm đầu niên hiệu Đại Bảo)
Canh thân 1440.
Nguyên văn chữ Hán là:
Bộ chẩm lưu tâm niệm viễn chân,
Man tù hà sự tốc vong thân.
Thế gian nhược hữu anh hùng chủ,
Thiên hạ thùy dung phản nghịch thần.
Ồ đạo duyên vân không thị hiềm,
Âm nhai rương noãn kỷ diên xuân.
Cách trừ ô nhiễm an dân thiện
Nhẫn sử hà mạnh ngoại chí nhân.
3, Di tích nhà tù Sơn La trên đồi Khau Cả (Thành phố Sơn La): Pháp xây dựng năm 1908, giai đoạn 1930 - 1945 chúng giam cầm đày ải 1007 lượt chiến sĩ cách mạng Việt Nam với các tên tuổi lớn như các ông Lê Duẩn, Trường Chinh, Lê Đức Thọ, Trần Huy Liệu, Lê Thanh Nghị, Song Hào, Văn Tiến Dũng, Nguyễn Cơ Thạch, Mai Chí Thọ, Trần Quốc Hoàn, Hoàng Tùng, Tô Hiệu.
4, Nghĩa trang liệt sỹ Tô Hiệu và các liệt sỹ hi sinh ở nhà tù Sơn La, ở thân đèo Khau Cả phía quốc lộ 6 lên Thuận Châu (Xem thơ “Qua thăm gốc ổi” của Trần Huy Liêu).
5, Sân bay Nà Sản: Tháng 10/1952 quân đội ta bao vây tấn công đợt 3 vào Nà sản…đã làm quân Pháp mở ra bài học để Đại tướng Henrie Navare hi vọng sử dụng căn cứ mạnh, có yểm hộ của máy bay và lấy mẫu từ 1 căn cứ ở Miến Điện của quân Anh để xây dựng cứ điểm Điện Biên Phủ “dụ” tướng Giáp lên quyết chiến…(căn cứ Nà Sản là để ngăn quân ta tiến công quân Pháp ở Lào). Ngày 9 - 8 - 1953 quân Pháp rút khỏi Nà sản bằng không vận sau 1 thời gian cầm cự.
6, Ngã ba Cò Nòi: 1 địa danh đã đi vào trang sử vàng chói lọi của TNXPVN, nơi có đài tưởng niệm 100 chiến sĩ TNXP hi sinh, tại đây để phục vụ chiến dịch Điện Biên Phủ.
7, Di tích cách mạng Lào ở bản Lao Khô, Xã Phiêng Khoài, huyện Yên Châu.
ĐÈO PHA ĐIN
Nơi trời ghé xuống hôn mặt đất
Núi vồng lên ôm ấp mây trời
Cứ như thể ta bay vào bát ngát
Giữa đất trời hạnh phúc sóng đôi
(NK)-
Tên đèo Phạ là trời, Địa là đất, hàm nghĩa đây là nơi tiếp giáp giữa đất và trời trên QL 6 từ Thuận Châu Sơn La đi Tuần Giáo (Lai Châu) ở cây số 360 - 392, đèo dài 32 km, điểm cao nhất 1648 mét, nơi có cột truyền hình nặng 70 tấn, chịu sức gió 200km/h; dốc đèo 10% - 19%.
Ở chiến dịch Điện Biên Phủ đoạn đường trên đèo Pha Đin phía ta có 8000 thanh niên xung phong “quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”, suốt 48 ngày đêm máy bay Pháp dội bom chặn đường lên của quân ta.
Từ năm 2006 - 2009 sửa Quốc lộ 6, đèo cũ được bỏ (tránh), làm đường mới ở độ cao thấp hơn phía trái Quốc lộ 6 cũ, cao khoảng 1000m (thấp hơn cũ 200 - 400m) xe cộ đi lại dẽ dàng.
Đèo Pha Đin có thể coi là thắng cảnh “đệ nhất hùng quan” của Sơn La - Tây Bắc nắng gió, sương mù, mây ngợp luôn, mát lạnh, thanh sạch như 1 cõi thần tiên khi ta lên tới đỉch.
10/3/2012.
SUỐI, MÓ NƯỚC NÓNG
1, Suối nước nóng Bản Mòng (Thành phố Sơn La) cách trung tâm thành phố 6 km về phía Tây Nam có suối nước nóng bản Mòng, nhiệt độ là 38oc nhiều chất khoáng tốt cho điều trị khớp, thần kinh…
2, Suối nước nóng Ngọc Chiến ở độ cao 1800m/s mặt biển, nơi cư trú 3 dân tộc: Thái trắng, Hmông, LaHa nơi nhiều Táo mèo (Sơn tra). Có mỏ nước nóng chảy qua bản Lướt, tắm gội đẹp da.
3, Mỏ nước thần ở bản Miềng, xã Mường Lèo, rất ấm từ núi chảy ra, tắm chữa bệnh.
4, Chỗ bản Ít tong (huyện lỵ Mường La) cũng có 1 khúc suối nước nóng, mùa đông bốc hơi nghi ngút, nóng gần 50o đượm mùi khoáng: tắm, uống đều thấy khỏe hẳn ra.
LỄ HỘI LUNG TA
Người Thái trắng (Quỳnh Nhài và các noi) thường thì vào chiều 30 tết âm lịch…coi như thời điểm chuyển giao từ năm cũ sang năm mới. Mọi nhà chuẩn bị tết, còn cá nhân thì tắm gội mặc quần áo mới, tiếng chiêng trống vang lên đón tết…mọi người trong bản ra suối, sông thăm gia “lễ gội đầu”, coi đây là lễ hội mở đầu cho 1 năm mới, đó là để rửa trôi đi những cái vất vả, bệnh tật, những điều không may mắn của năm cũ, tống tiễn tai ương theo dòng nước đi mãi không lặp lại…đồng thời cho con người sức khỏe, năm mới tốt lành, gặp điều hay, làm ăn phát đạt. Để chuẩn bị cho lễ hội gội đầu trước đó cả tuần chị em đã vo gạo nếp lấy nước, đổ vào cái nồi cất giữ để cho càng lên mùi chua càng tốt. Đó là nước gội cho phụ nữ. Nồi nước tắm là nồi nước thơm của cây mùi già. Còn cánh đàn ông gội nước bồ kết nướng ai nấy áo cóm, váy đẹp cùng chiêng trống kéo ra bờ suối, bờ sông.
Chị em cởi trần, kéo cạp váy lên phía trên ngực che vú, cúi đầu buông tóc tiến hành gội từ nước gạo nếp chua, nước lá thơm, nồi xõa theo dòng nước…
Đàn ông thì quần cộc, cởi trần gội,…Ngoài ra cánh đàn ông còn mang súng kíp ra bờ sông bắn nổ to vài phát tiễn năm cũ đón năm mới hòa trong tiếng chiêng trống ấm vui của cả bản.
Gốc gác sự tích của “lễ hội Lung ta” (lễ hội gội đầu) là trong buổi lễ: Ông Mo còn hát kể về công lao của nữ tướng Nàng Han xưa (con gái 1 Tạo Mường) cầm quân đánh tan giặc ngoại xâm, đuổi chúng tới tận cõi Mường Xo (Phong Thổ - Lai Châu)…Dẹp xong giặc; cho quân sỹ nghỉ ngơi, tắm gội trên dòng Nậm Te (Sông Đà) để ăn mừng chiến thắng…vì thế người Thái Trắng vùng Sông Đà đến nay vẫn còn lưu lại phong tục này - đó là lễ hội lung ta (xuống bến nước làm lễ gội đầu) vừa là tẩy trần sạch sẽ vừa là để tưởng nhớ vị anh hùng dân tộc…
DU LỊCH MỘC CHÂU
Cao nguyên Mộc Châu ở độ cao 1050m so với mặt biển, cách Hà Nội gần 194 km (quốc lộ 6), rộng khoảng 25 km, dài 80 km với 16000 ha đồng cỏ, mùa hè mát mẻ (20oc) mùa đông rét đậm, khô ráo, mù sương…
Đây là vùng lý tưởng để nuôi bò sữa (toàn vùng đã nuôi 7200 con, công ty hò sữa Mộc Châu có 3514 con, đạt sản lượng 3200 tấn sữa tươi/năm, toàn vùng trên 7000 con đạt trên 28.000 tấn/năm, năng suất 20,5kg/con/ngày).
Đây là những đồi chè nối tiếp nhau bát ngát, ta cứ ngỡ tới vùng chè Cameron Highland ở Malaysia? Từ thị trấn nông trường, tới Tân Lập, Cờ đỏ đi vào Ngũ động bản Ôn là những sóng đồi chè xanh tươi…toàn vùng có tới 3200 ha chè (toàn Sơn La khoảng trên 4000ha) đó là chè Phiêng Khoài (Yên Châu), chè Nà Sản, Phiêng Cầm (Mai Sơn), chè Phòng Lái, chiềng pha (Thuận Châu), chè Tà Xùa (Bắc Yên); ở Mộc Châu có 6 công ty - nhà máy chè…trồng và chế biến các loại chè San Tuyết, trà Ô Long, trà Kim Tuyên…tổng số trên 3000 ha các loại, trong đó hơn 2700 ha đạt năng suất cao 74,1 tạ/ha.
Mộc Châu đang là nơi du lịch lý tưởng của người Hà Nội đến với vùng khí hậu ôn đới gần nhất: 194 km, đi ô tô mất 3 giờ đồng hồ. Đó là các điểm:
- Đông Sơn Mộc Hương, nằm ngay trung tâm thị trấn nông trường với diện tích 6915 mét vuông, từ quốc lộ 6 đi vào có 150 mét, qua 240 bậc tới cửa hang, di tích người xưa 3000 - 3500 năm.
- Thác Dải Yếm (thác Nàng) thuộc bản Vắt, khởi nguồn từ 2 khe nước Bó co lắm và Bó tá cháu chảy ra thành suối Vắt, qua 5 km hòa vào suối Bó Sập giáp biên giới Việt Lào chảy về phía Yên Châu tạo ra thác dải yếm mùa mưa, thác rộng 70m.
- Rừng thác sải yếm đi ngược quốc lộ 43, khoảng 600 m rẽ sang 1 hẻm đi 300m là vào bản Vặt (Thái) khá phát triển nghề dệt Thổ Cẩm - ở đây có lễ hội xe chá, ẩm thực trên hồ Noong Buông.
- Thắng cảnh đỉnh núi Phiêng Luông cao 1500m (ngang Tam Đảo) trên đỉnh là 1 bãi bằng sông cỡ 10 ha tha hồ hóng gió trông mây vùng biên giới Việt Lào.
- Ngoài ra còn tham quan rừng thông Mộc Châu, thác Thái Hưng, chùa Chiền Viên.
Mùa xuân đẹp nào hơn vườn đào Lõng luông, hoa mơ hoa mận ở vùng Mèo Vân Hồ?
- Ẩm thực: Các cửa hàng ở thị trấn có các món “lợn cắp nách” “đặc sản gà dai” lẩu dê nấu ngải cứu - các món nướng Thái, Lẩu xá, cơm lam, xôi thơm….
Có thể nói Mộc Châu - miền xanh thẳm cao vời vợi lưng trời, 1 viên ngọc bích ở địa đầu miền Tây Bắc của Tổ Quốc đó là vùng nông thôn miền núi ngàn đời hoang sơ dân dã đang công nghiệp hiện đại hóa ở 1 trình độ cao…đến đây để ta vừa hoài niệm bâng khuâng, vừa hứng khởi trông về tương lai tươi sáng và tràn trề hi vọng….
NGƯỜI BẮN HỔ
Tháng 6/1963, vào huyện Sông Mã (vùng biên giới Việt Lào) và tôi được các anh ở đây kể câu chuyện “anh Sáng bắn Hổ”.
Số là hồi 1952 - 1953, vùng này là hậu địch, Việt Minh ta mới xây dựng được khu căn cứ nhỏ với 1 đội du kích tuyên truyền vũ trang…anh em phải ở lán trong rừng, luôn di chuyển để tránh địch, ăn thì nhờ lấy trộm gạo ở mả mấy người mới chết ngoài Paheo (rừng ma), đào củ mài, hái rau rừng đợ bữa qua ngày. Trong đội có anh Lò Văn Sáng vác súng kíp vào rừng tìm con don, con dím, con lợn rừng…Thế là vào 1 đêm anh đến phục sau gốc cây bên bờ hồ, chờ lũ lợn về uống nước, khoảng 10 - 11 giờ khuya, đám lợn vài con ủn ỉn đổ về ao (hồ), 1 ông ba mươi (hổ) to đùng, cỡ con bò tháu cũng khẽ khàng bước ra “rình” vồ chú lợn choai (chắc mẩn, 1 bữa ngon), gốc cây anh Sáng nằm phục cách hổ độ 7 mét… Đúng lúc Hổ vồ lợn thì anh Sáng cũng bất thần nổ súng…một phát xuyên táo chết tươi 2 chú Hổ và lợn. Thật là hi hữu “trời cho” may và tài, bình tĩnh chớp thời cơ…
Thế là 1 tiếng “hú” đồng đội anh chay ra: người vác lợn, người khiêng hổ về căn cứ được 1 phen liên hoan xả láng…
Tiếng lành đồn xa “anh Lò Văn Sáng người bắn hổ” làm vang danh tiếng tăm đội du kích, làm bọn Pháp và tay sai hết hồn mỗi khi quân ta tập kích đánh giặc trừ gian…cho đến ngày giải phóng.
Sau này, anh Sáng tham gia công tác thoát ly, hồi 1962 - 1963…anh Sáng đã trở thành Bác Lò Văn Sáng, chủ tịch ủy ban hành chính huyện Sông Mã: 1 vị chủ tịch râu tóc bạc phơ, cao ráo, cường tráng (đẹp lão) thông minh tháo vát, ung dung thư thái dẫn dắt (lãnh đạo) nông dân huyện sông Mã cùng cả nước tiến lên xã hội chủ nghĩa.
CÂU CHUYỆN SĂN VOI
Tháng 8/1983, sau khi đi họp Quốc hội kỳ giữa năm (tháng 6, về…bác Cầm Ngoan, chủ tịch UBND tỉnh Sơn La, phó chủ tịch Quốc hội) goi tôi (NK) ra thì thầm: anh sang bảo anh Thường (trưởng ty lâm nghiệp) 2 anh em vào sông Mã chỉ huy trạm kiểm lâm cùng đồn biên phòng đi săn lấy 1 con voi rừng để đón chủ tịch Trường Chinh sắp tới (vào dịp 2/9 lên thăm tỉnh). (1)
Thế là NK tôi cùng anh Nguyễn Xuân Thường (khoảng 52 tuổi hơn NK 7 tuổi, người Mường ở Yên Lập - Phú Thọ sang công tác hậu địch xa nhà từ hồi 1950, hồi 1963 làm bí thư kiêm phó chủ tịch huyện Sông Mã, Bác Lò Văn Sáng làm chủ tịch) lên 1 xe u oát, cùng khoảng 5 kg Keo Mậu dịch quốc doanh đem theo để làm quà cho bọn trẻ các nhà thân quen (chẳng biết có đứa nào là “con gửi” của bí thư huyện ủy cũ hay không, có trời mới biết?).
Đường dài 120km, qua 7 khúc suối (1 xe đi trên lòng suối), mất trên 10 tiếng đồng hồ thì tới Bản Địa bên này bờ sông Mã, vào ở nhà chủ tịch xã Nà Nghịu, cũng là trung tâm thị trấn huyện Ly. Điện thoại réo Hạt trưởng kiểm lâm (quân của trưởng ty lâm nghiệp) và thượng úy đồn trưởng biên phòng về nhận lệnh…
Xong, cả tối 2 anh em cùng chủ tịch xã, mới thêm cả phó chủ tịch huyện phụ trách nông nghiệp: 4 anh em, 2 con vịt, ít cá sông, 1 hũ rượu cần, 1 chai lẩu xiêu “hảo hán nớ” - au hảnh nớ…cạn chén bõ bao ngày xa cách (hồi tháng 6/1963, NK Tôi cách đấy 20 năm, hồi mới ra trường, xung phong vào Sông Mã làm quân anh Thường xuống chỉ đạo sản xuất ở xã Nà Nghịu…nên cả 2 anh em đều là người cũ, bạn cũ xa lâu mới về… cuộc Kin lẩu (cuộc rượu) tới khoảng 11giờ đêm thì có tiếng vó ngựa lộc cộc của hạt trưởng kiểm lâm chạy về: Báo cáo 2 anh đã trông thấy voi.
- Ừ thế thì tốt, ngồi xuống, ta au hảnh (cạn chén) vài choác để lấy khí thế…
Chiều tối hôm sau, mấy anh em đang ngồi hàn huyên trao đổi xây dựng vùng cánh kiến Sông Mã, xử lý vấn đề sấy Long Nhãn của bà con khai hoang Hưng Yên nên như thế nào?... thì có tiếng xe đạp (hồi này chưa có xe máy) của thượng úy trưởng đồn biên phòng chạy về báo cáo:
- Thưa 2 anh, bọn chúng em phối hợp với kiểm lâm đã tiếp cận voi, con này voi đực, ngà còn nhỏ, cỡ 7 - 8 tạ…
- Được, cứ thế mà triển khai…
Sáng hôm sau: Hạt trưởng kiểm lâm cùng phó chủ tịch huyện đến:
- Báo cáo 2 anh em, nếu bắn được voi bọn em dự kiến ăn chia như sau:
2 đùi sau, lá gan, vòi và ngà xin gửi 2 anh về biếu tỉnh - còn lại: một ít huyện ủy, 1 ít ủy ban, còn lại chia đều đầu người ở hạt kiểm lâm và đồn biên phòng.
- Thế cũng được; các cậu xuống tận nơi xem anh em chúng nó “săn” thế nào, phải chắc ăn đấy…
Chờ 2 ngày, bặt tin
Đến ngày chờ thứ 3 thì cả 2 hạt trưởng và trưởng đồn hớt hải chạy về:
- Báo cáo 2 anh, voi nó đánh hơi thấy không lành, nó sợ, chạy về Lào (bên kia biên giới) mất rồi…
Ôi, thế là cụt vòi, thế là hết chiều ni voi đi mãi…
Thật là vô vọng - 2 anh em (NK tôi và anh Nguyễn Xuân Thường) không ai nói với ai câu gì, chia tay huyện còn dặn với 2 chú em:
- Các cậu cứ tiếp tục theo dõi bám sát trận địa, phát hiện thấy voi thì “điện” ngay ra tỉnh…
Bữa tiệc chiêu đãi chủ tịch Trường chinh lên thăm cán bộ, nhân dân tỉnh Sơn La năm ấy diễn ra bình thường, Chủ tịch tuổi đã cao, ăn kiêng, không uống rượu, tính cụ vốn là tiết kiệm (ăn uống đơn giản như Bác Hồ) nên các vị quan chức đầu tỉnh bữa ấy cũng không dám “hảo hán nớ” - “au hảnh nớ”…
Và chú voi (săn hụt) chắc là đang quay vòi vung vít như nhắn sang bên của biên giới:
- Vua chúa bây giờ có ý thức bảo vê động vật hiếm quý, không ai được ăn thịt voi đâu nhé.
Chuyện thật như đùa vậy!
Hà Nội, 11 - 3 - 2012
NK
(1)Lúc này NK đang làm
Thư ký Đ/c chủ tịch tỉnh
XÒE THÁI
Múa xòe, còn có tên “xòe khăm khen” (múa cầm tay), có từ xưa có 32 điệu, nổi tiếng nhất là xòe phong Thổ, xòe Mường Lò.
Phổ cập là điệu “khắm khen” mọi người nắm tay nhau quay vòng tròn, biểu hiện cho tình đoàn kết; điệu “khắm khăm mới lẩu” tức là nâng khăm mời rượu tỏ lòng yêu quý và mến khách; điệu “đổn hôn” tức tiến, lùi nhào về phía trước ý nói trời đất dù có bão giông, sống gió nhưng tình cảm con người với nhau thì luôn gắn chặt; Điệu “phá xí” tức bỏ bốn, tượng trưng cho 4 phương trời đoàn kết giao lưu; điệu “nhôm khăn” tức tung khăn thể hiện niềm vui mừng mùa màng thắng lợi, xây nhà mới, sinh thêm con cháu, cưới xin…
Ở vùng Mộc Châu - Mai Châu (Tày Đeng) có các điệu xòe chá, xòe ồng bổng, xòe kiếm, xòe đánh máng…
Xòe ông Bổng là 1 điệu múa xưa, động tác đơn giản, mọi người cầm tay nhau nhảy nhót xung quanh đống lửa theo nhịp “hò huậy, hò huây” mừng thắng lợi giòn giã sau cuộc đi săn về hoặc xung quanh vò rượu cần mừng nhà mới.
Đặc điểm xòe này: trang phục bình thường chỉ có đàn ông xòe, “nhạc” miệng là tự hô, cổ vũ người xem, vui nhộn phóng khoáng. Điệu xòe “đánh máng” dành cho nữ giới, cứ 3 cặp mỗi cặp dùng 2 chày gỗ gõ vào máng dùng để giã gạo, tạo ra tiếng chày giòn chắc, nhịp điệu mỗi lúc 1 mạnh…cùng trống chiêng rộn rã.
Các điệu xòe (xe) được các nghệ nhân dân gian xây dựng (32 điệu) luôn mang bóng dáng gần gũi với dân bản như “xe cúp” (múa nón), xe tẳng chai (múa chai), xe kếp phắc (hái rau), xe cáp (múa sạp)…
Các điệu xòe vòng sôi nổi bao nhiêu thì các điệu xòe đơn, xòe tốp lại tinh tế duyên dáng bấy nhiêu - với triết lý âm dương: trời đất, nước - lửa và ý nghĩa nhân sinh cao cả ẩn chứa kỳ ảo trong các điệu xòe Thái từ xưa tới nay trong các cuộc vui liên hoan, lễ hội.
NHẠC KHÍ THÁI
Từ xưa người Thái đã làm “Pí” (sáo) để thổi chơi, gửi gắm nỗi niềm qua nốt nhạc tiếng sáo giữa núi rừng mênh mông đèo heo hút, là công cụ để “pay ỉn sao” nói tiếng lòng vào con tim người mà mình theo đuổi…
1, Pí tam lay (pí nốc ống) cấu trúc gồm 2 phần: phần 1 là ống phát âm nối với ống 2 làn phần khuếch thanh, ống 2 đôi khi được lắp thêm 1 gáo tre (to) để tăng độ vang của âm thanh.
2, Pí lào nọi (sáo lào nhỏ): y hệt phần 1 của pí tam lay, bằng cây nứa tép, tuy khác là 1 hàng âm 6 lỗ.
Xuất xứ: từ “pí” (sáo) có lẽ từ “pép” hoặc pép phan (pép hoẵng) do tục đi săn hoẵng (từ pép đẻ ra pí cùng đồng âm). Trong đêm khuya ở rừng vẳng lên tiếng Hoẵng kêu (Hoẵng giác) đó là lúc con đực đi tìm con cái để bắt chước tiếng Hoẵng gọi bạn tình phải chăng vậy “pí” chỉ là 1 ống nứa tép mà véo von mà “bếp nhà sàn, tiếng pí thổi say mê” là thế?
Ngoài sáo còn có KHÈN…
THƠ CA THÁI
Xứ Thái, có thể nói là xứ sở của hát thơ (khắp xư).
Vốn thơ ca cổ truyền từ các tập biên niên sử “Quắm tố mướng” hoặc sử thi  “Tày pú xấc” cho đến các truyện thơ tình như Sống chụ son sao, Khun lú, Náng Ủa, Tản chụ xiết xương, sử thi chương Han….với các bài thơ, ca dao đều được dùng để “khắp” (hát)….
Bước đầu đã có làn điệu “lòng bản” và cách hát riêng cho mỗi loại bài thơ, xét theo hình thái sinh hoạt âm nhạc phân ra làm 2 hệ - theo Dương Đình Minh Sơn thì:
- Hệ tín ngưỡng “hát thơ mo” do giới mo then hát khi cúng tế lễ.
- Hệ dân gian: hát kể chuyện tự sự, hát thơ tình, hát ví, hát hò trên sông, hát ru, hát đồng dao……vv….
Ở người Thái 2 chữ “thơ ca” quả là đầy đủ và ý nghĩa “Thơ để giải bầy nỗi lòng, ca (hát) để ngâm vài lời thơ gửi đến những cõi lòng ai đó”.
Thơ Thái là 1 thứ “kinh thi” bản địa, hồn quê hòa đồng với thiên nhiên trời đất. Thơ dân gian Thái có 1 khối lượng đồ sộ với các truyện thơ, sử thi như đã nói ở trên đã trở thành các tác phẩm thơ cổ điển nổi tiếng.
Thơ đương đại của các tác giả Thái Sơn La (thời cách mạng xã hội chủ nghĩa) thường dùng lời thơ để hát (khắp xư) nói lên chí khí vươn lên của dân tộc mình, làm chủ bản Mường, cùng nhau đoàn kết các dân tộc anh em dưới sự lãnh đạo của Đảng, xây dựng Đất nước ngày 1 giàu mạnh - xin dẫn 1 số bài mới:
HÀO QUANG KHẨU CẢ
(tác giả tự dịch)
Từ xa xưa ông cha đặt tên Khau cả (1)
Là nói lên:
- Rắn hơn sắt thép, cứng quá kim cương giống gieo trồng mọi đất xanh tươi cho lúa chín hạt, quả ngọt nuôi người. Giặc Pháp muốn mượn oai hùng của núi, đặt trung tâm thống trị tỉnh ta và thành nơi diệt nguồn anh hùng đất nước.
Nhưng:
Khâu Cả là lò luyện con người gang thép chặt tan xiềng xích của thực dân, góp hun đúc những Trường Chinh, Lê Duẩn, Nguyễn Lương Bằng, Tô Hiệu và bao chiến sĩ/ những trái tim của cách mạng tỏa khắp non sông: chặt tan xiềng xích của thực dân Pháp, phong kiến/ góp phần đánh thắng hai đế quốc to. Đồi Khâu Cả cùng sóng cao cả nước giải phóng mình, xóa phu, thuế, nguột cuông. Dựng chính quyền cùng cả nước Việt Nam Độc lập - Tự do - Hạnh phúc/ hào quang khâu cả vượt chín tầng/ mây như ánh sáng soi đường cho ta bay bổng.
Sơn La, 9/7/1998
Hoàng Nó
thi ca thái(Cầm Văn Lường - 1925 đã mất)- quê Chiềng Ban, Mai Sơn.
(1) đồi Khâu Cả: ngọn núi (đồi) ở giữa thị xã Sơn La, nơi trước 1945 Pháp xây dinh công xứ (tỉnh trưởng) và nhà tù liền kề.
Sau là trụ sở UBHC khu tự trị Tây Bắc, nay là trụ sở UBND tỉnh Sơn La.
ĐÔI BỜ THƯƠNG NHỚ
Mặt trời đi qua sàn nhà người thương
Hạt nắng còn vương bên thềm cửa sổ
Hoàng hôn đi mặt trời không rủ
Để anh buồn trong nỗi nhớ hoàng hôn.
Anh mượn gió gửi lời câu thương nhớ
Mộc mạc thôi, tiếng hát tự bao giờ
Mười sẽ quên và chín sẽ quên
“Sông Mã cạn bằng đĩa mới quên”
Chín lần quên để ngàn lần thương nhớ!
Anh là con thuyền trôi trong dòng sông đôi mắt
Để đôi bờ bên nhớ bên thương
6/1997
Hà Trường Giang (1950)
Quê huyện sông Mã - Sơn La
VÀNG VÀ THƠ
Một câu thơ, một hàng vàng
Cân coi thử, ai nặng hơn ai?
Nem công, chả quế ăn vội
Không hóc cũng cay!
Cà dưa, tương ớt nhai lâu hóa ngọt
Anh kiếm vàng chỉ bằng nước bọt
Tôi làm thơ mệt óc, mỏi tim
Cái gì giữ mãi hương thơm
Vàng bằng bọt dễ tan theo bọt
Thơ bằng tim, đậm mãi trong tim
Cầm Biêu (1920-1997)
Quê Mường Chanh - Mai Sơn
LỜI MẸ
Yêu nhau bằng lời nói
Mẹ bảo chưa đủ
Bằng mân khiêng cỗ nặng
Mẹ bảo cũng chưa no
Vội đón sau đón trước
Cành vướng sợi tơ lòng
Mẹ bảo!
Hãy lấy ngày làm gang để đếm
Lấy tháng làm sải để đo tấc lòng
Mưa to có cùng nhau hứng?
Mặt trời làm tấm gương soi
Soi vào khuôn mặt
Soi vào lòng dạ tim gan
Ốm đau, ai tránh khỏi đôi lần
Giầu nghèo có lúc cánh cửa kẹp ngón tay
Đắng, ngọt, chua, cay, nhạt…
Đầu lưỡi nếm cho rành
Tự đáy lòng mình “cân đong”
Xử sự công bằng
1983
Lò Văn Cậy (1928 - 1994)
Quê Sốp Cộp - Sông Mã
HOA RỪNG
Thấy em lượm bông vạt nương chân núi
Như đứng giữa dải ngân hà
Anh vứt bó cây, chạy ngay tới
Chẳng đợi em ưng ý
Anh cứ mà lượm theo.
Mới đầu anh lượm cây này, em lượm cây kia
Rồi lượm chung cây
Lượm chung cành
Lượm cả tay nhau.
Mặt trời bảo về, ta chưa muốn
Ta trốn mặt trời dưới rặng vừng bên nương
Tắm trong hương hoa vừng thơm ngát
Gió ngàn ru nghiêng ngả vừng xanh
Tia trời chiều vuốt ve áo hoa em lay động
Hàng cúc bạc long lanh
Ngực em mười đôi cúc bướm
Có mười đôi bóng anh lẫn mười đôi bóng hoa vừng
Ngực rực hồng tia nắng
Ngực ngấn đầy hương hoa.
Vương Trung (1938)
ÁNH CHỚP TRỜI XA
Mưa rơi trên núi Giảng?
Chớp lóe sáng chân mây!
Ai phơi gì sàn ngoài quên dọn. Mau dọn!
Cụ bà vừa nhắc cháu vừa than:
- Tháng 5, tháng trời buồn, không buồn
Tháng 6, lặng mưa dông - Sao dông (1)
“Rồng chọi rồng” ngày đêm không ngớt.
Cất tiếng cười hai cháu cầm tay
- Ánh lửa hàn nhà máy, Bà ơi!
(1) Tục ngữ: Tháng 5: trời buồn
Tháng 6: trời kiêng mưa
Sơn La 19 - 5 - 1979
Lò Văn E (1933 - 1995)
Quê Sốp Cộp - Sông Mã
NHỚ CON
Có điều gì sánh được
Mẹ nhớ con
Thương từ những lỗi lầm
Mưa lâm thâm mà lòng mẹ thành bão
Nắng lên rồi nỗi nhớ hóa là mây
Tình yêu của mẹ là trái chín trên cây
Để cho con bốn mùa hương vị ngọt thật đắm say
11 - 1992
Cầm Thị Phụi
(Phó chủ tịch HĐND tỉnh)
ĐÊM HỘI MÚA XÒE
Tiếng trống, tiếng cồng vang giục giã
Như chắp cánh niềm vui bay cao
Cả “Khuống” mường bỗng dưng nghiêng ngả
Với vòng xòe nhún nhẩy say sưa
Đôi chân thon thon quen theo lối nương.
Đôi chân bè đạp mòn lối ruộng
Quyện bên nhau rập rình
“Khắm xéo” quàng trên áo cóm
Tất cả rung lên, cả rừng hoa chao đảo
Cái dùi gỗ băm trên mặt trống
Rền như giông, như sấm
“Họa…họa…Huệ…Huệ…”
Cả vòng xòe cuồng lên
Theo nhịp trống, nhịp tim
Tung chân nhảy hết mình, hết sức
“Đàn bướm” cúc muốn bay khỏi ngực
Chiếc mũ nồi, cũng chực bay theo
Vòng xòe quay, quay mãi không ngừng
Lương Văn Tộ (1946)
Quê Sông Mã - Sơn La
CÂY BAN TRÊN RỪNG
(Tác giả tự dịch)
Ào ào bãi xoáy
Đá lăn, cây đổ
Thân sâng, gốc sở ngổn ngang
Một cây Ban đứng điềm nhiên
Cạnh lối lên nương làm cỏ
Hỏi giông, hỏi gió
Sao Ban kia vẫn bình yên phận thường?
Cây ban rằng: “hòa tình yêu”
Trắng trong tuổi trẻ
Chung thủy tận già
Lửa mường đất gốc, chưa thành than
(thì không thể chết
Gió dập thân, cành, chưa tan tành em vẫn tươi xanh)
Một cây Ban
Đứng trên nương
Lò Xuân Thương (1936)
Quê Púng Tra - Thuận Châu
CHIỀU BẾN VẠN                  (1)
Bến cũ đâu hỡi sông?
Bến ở trong lòng nước
Miệt mài ngày đêm chảy
Về Hòa Bình khơi xa.
Bản tình ca bất tận
Gập ghềnh đá nơi đâu?
Ở trong lòng nước ấy
Với biển hồ phẳng lặng
Xóa những dòng vách ngăn.
Và mai lên
Ngược xuôi
Thuyền đánh cá
Và chiều buông
Sương giăng tròn
Trăng xóa
Còi tàu vang xa, vang xa
Bến Vạn Yên 1995
Hoàng Bạch Long 1949
Quê Huy Thượng - Phù  Yên
(1) Bến Vạn Yên: Phố nhỏ Vạn Yên, bên bến Sông Đà, xã Tân Phong, Phù Yên ….xưa là Sông Đà ghềnh thác, nay là Hồ Thủy điện mênh mông.
KHOẢNG XANH
Gió Lào mang hơi lửa
Hun sém cả trưa hè
Cháy khét tiếng ve
Rừng tre trơ trụi lá
Con chim vội vã sà xuống khe trốn
Sợi nắng muốn chăng đan mặt cỏ
Nhưng chẳng sao, chẳng sao cả
Trái đất đã quen mùi khắc nghiệt!
Đến con kiến cũng còn phải ung dung thư thái
Miệt mài tha mồi về tổ
Ai như quả bứa chín vàng mơ
Trong trẻo giữa trưa hè
Thời gian nhòa vào im lắng
Một khoảng không trống vắng
Vỗ ào vào cánh xanh
Lò Vũ Vân 1943
Quê Bắc Yên - Sơn La
XUÂN BẢN THÀN
Tết
Ở bản Thàn
Cái vui
Sôi lên từ hũ rượu cần
Bụng trống
Vú chiêng
Rung lên
Cả mái sàn chao đảo
Đỉnh núi cao lúc lắc cái đầu
Măng vầu
Măng sặt
Dỏng tai đón mưa rơi
Xuân 1996
Lò Vũ Vân
BIỂN Ở THẢO NGUYÊN
Ở độ cao một nghìn năm mươi mét
Rất xa biển nên thèm nghe sóng biển
Mượn gió ngàn làm sóng vỗ lao xao
Ước có biển nên gom mây về làm biển
Biển Thảo Nguyên biển trắng vỗ mênh mông
Đảo là những ngọn thông, chóp núi
Cho thuyền chim đi về neo đậu
Thảo nguyên xanh đắm mình trong màn huyền ảo
Đưa ta về thời xưa cổ tích
Dưới đại dương lộng lẫy thủy cung?
Biển Thảo Nguyên chỉ trong trưa khoảnh khắc
Bỗng chốc tan - biển biến về đâu?
Ánh nắng vàng chuốt ngọc lên lá
Lại trong veo, ngời sắc Thảo Nguyên.
Thảo Nguyên Mộc Châu hè 1997
Lò Vũ Vân
NHỚ VỀ PHỐ VẠN
Chúng tôi dân tứ xứ
Gặp nhau ở nơi đây
Dựng nên một Phố nhỏ
Phố Vạn Yên, Vạn Yên (1)
Anh Phúc Kiến, Quảng Đông (2)
Tôi Mường Bi, Mường Động (3)
Còn chị hay mơ mộng
Theo chồng lên nơi đây
Là dân Nam Định đó (4)
Một dãy phố nhỏ thôi
Bao dòng đời đã chảy
Tụ về Phố nhỏ này
Nhớ bến Vạn thuở ấy
Thuyền đuôi én ngược xuôi
Ai đi xuống chợ Bờ
Ai ngược dòng Đà Giang
Lên Mường Chiên, Mường Ét
Dòng sông vẫn êm trôi
Nối phố nhỏ của tôi
Với bao bờ thương nhớ
Ơi bến Vạn, phố Vạn
Phố của chúng tôi đó
Mùa đông heo hút gió
Tết về câu đối đỏ
Tiếng pháo lại rộ vang
Tiếng chuông điểm đình Ang (7)
Tiếng trống vang đình Hán
Hồn thiên cổ bay về
Bản làng trong khói hương
Mùa hè nóng rát bỏng
Những cây phượng trước ngõ
Lại cháy đỏ màu hoa…
Nay phố đã đi xa
Chìm đáy nước sông Đà
Ôi phố núi nho nhỏ
Phố của chúng tôi đó
Vẫn cháy màu phượng đỏ
Trong lòng mỗi chúng tôi
Rồi một ngày không xa
Hoa phượng lại rực đỏ
Trên phố mới nguy nga
Tôi lại viết bài ca
Về bến Vạn, phố Vạn
Phố của hoa phượng đỏ
Thắm mãi bên sông Đà
6/1996
(1) Bến phố Vạn Yên (Tân Phong, Phù Yên)
(2) 2 tỉnh của quê gốc người Hoa
(3) Thuộc Hòa Bình quê người Mường
(4) Chợ Bờ (Hòa Bình), nay chìm dưới hồ
(5) Thuộc Quỳnh Nhai
(6) Đình Ang, Đình Hán là 2 ngôi đình thuộc xã Tâm Phong
Nhà thơ Đinh Tân (1942)
Dân tộc Mường
Quê Tân Phong, Phù Yên, Sơn La
CÁC DÂN TỘC Ở SƠN LA
Điều tra dân số 1/4/1999: Toàn tỉnh có 882.077 người (đến 1/4/2009 có 1.080.641 người). Có 12 dân tộc anh em.
Thái
482.985 Người
chiếm 54,7 %
Kinh
153.646 Người
chiếm 17,42%
Hmông
114.578 Người
chiếm 13,00%
Mường
71.906 Người
chiếm 8,15%
Các dân tộc khác

chiếm 6,73%
Trình độ dân trí tính đến 2002:
Tỉ lệ biết chữ 70,8%
Học sinh phổ thông 220.430 em
Giáo viên 10.209 người
Thầy thuốc (y, bác sỹ) 26 người/1 bệnh viện
LỜI CUỐI SÁCH
“Sơn La ký sự” gồm 51 bài tùy bút, hồi ức, thơ, sưu tầm, ghi chép về xứ Thái một thời NK đã sống, nhằm để con cháu, bạn bè, ai đó đọc xong “ờ Sơn La, người Thái nó là như thế…” để thêm yêu cái xứ sở “Sơn La âm u núi khuất trong sương mù” rồi “nước Sơn La, ma Hòa Bình” ngày xưa nó bí ẩn, lạ lẫm, đáng sợ làm sao?
Năm 1962 (vừa tái lập tỉnh) Sơn La mới có 18 vạn dân, chủ yếu là người Thái, sau 1975, nhất là sau 1986 người xuôi (Thái Bình, Hưng Yên…) lên ồ ạt, đến nay 2009 dân số toàn tỉnh 10.080.641 trong đó dân tộc Thái trên 48 vạn người.
Mọi phong tục tập quán kể cả tiếng nói chữ viết Thái đang bị “hòa nhập” hòa tan, bị lai ghép đã dần mai một. SOS là thế…
Để kết cuốn sách này, có lẽ hay hơn là nhờ Chế Lan Viên nói hộ:
“Nhớ bản sương giăng, nhớ đèo mây phủ
Nơi nào qua lòng lại chẳng yêu thương?
Khi ta ở chỉ là nơi đất ở
Khi ta đi, đất đã hóa tâm hồn!”
Góc thành nam Hà Nội 11.3.2012
Nguyễn Khôi (tên khai sinh: Nguyễn Kim Khôi)
Sinh 1938, quê phố Đình, phường Đình Bảng, thị xã Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh..
NR; 259/39 phố Vọng – Hà Nội.
- Hội viên Hội Nhà văn Hà Nội
- UV BCH Hội Văn nghệ Dân gian Hà Nội
- UV BCH Hội VHNT các Dân tộc Thiểu số VN (Khóa 2)
Chuyên viên Cao cấp, nguyên Phó Vụ trưởng Văn phòng Quốc hội Việt Nam
Các tác phẩm đã xuất bản:
- Trai Đình Bảng (thơ) nxb Văn Học 1995,vhtt 2000
- Gửi Mường bản xa xăm (thơ) nxb vhdt 1998 - Giải thưởng Hội VHTH các DTTS VN 1998.
- Trưa rừng ấy (thơ tứ tuyệt 100 bài) nxb vhdt 2005
- Bắc Ninh thi thoại (biên khảo) đã tái bản lần thư 3.
- Các dân tộc ở Việt Nam-cách dùng họ và đặt tên (biên khảo nxb Vhdt 2006.
- Cổ Pháp cố sự- 4 tập, 920 trang nxb vhdt, viết về cội nguồn nhà Lý.
- Có thơ in ở: tuyển tập thơ Việt Nam 1945-2000 (nxb lao động); tuyển tập thơ
Việt Nam 1975-2000, nxb Hội Nhà Văn; tuyển tập Văn học Miền Núi-nxb giáo dục1998; tuyển tập thơ Việt Nam thế kỷ 20 (nxb giáo dục-2005), tuyển tập thơ Việt Nam 10 năm đầu thế kỷ 21(nxb Hội Nhà Văn 2010)vv…
Dịch thuật:
- Sống Chu Son Sao (Tiễn Dặn Người Yêu) – truyện thơ dân tộc Thái
- Tiếng hát làm Dâu (dân ca H’mông) vv…
Giải thưởng:
- Giải thưởng viết về 1000 năm Thăng Long - Hà Nội, bài thơ ”Về Hà Nội”.
- Giải thưởng Văn học Nghệ thuật Thủ đô 2008 cho Bộ sử Làng Cổ Pháp cố sự.
Nguyễn Khôi
http://sachhiem.net/

1 nhận xét:

Chùm thơ của Lưu Lãng Khách

Chùm thơ của Lưu Lãng Khách Ngoài kia xuân đang qua rồi sao!/ Thềm hoa hanh hao - trên trời cao/ Chim non ca vang như ngày nào/ Bên em anh...