Hiện tượng Cung Tiến trong tân nhạc Việt Nam
Trong lịch sử tân nhạc Việt, dường như không có một nhạc sĩ
nào nổi tiếng ngay với sáng tác đầu tay, ở tuổi niên thiếu, khi chỉ mới 14, 15
tuổi, như trường hợp Cung Tiến. Có dễ chính vì thế mà, có người không ngần ngại
gọi hiện tượng Cung Tiến là thiên tài của bộ môn nghệ thuật này.
Nhạc sĩ Cung Tiến
Nói vậy, không có nghĩa chúng ta không có nhiều nhạc sĩ (cũng
như thi sĩ), bước vào sân chơi VHNT rất sớm. Thậm chí có người chỉ ở độ tuổi
lên 9, lên 10…Nhưng để được đám đông biết đến hay, được những người cùng giới
công nhận thì, chí ít cũng phải nhiều năm sau. Ở đây, chúng ta cũng không nên
loại trừ trường hợp, nếu có những nhạc sĩ (hay thi sĩ) thành danh chỉ với một
bài duy nhất thì, cũng có những người viết nhạc (làm thơ) trọn đời vẫn không được
dư luận biết tới!
Đề cập tới những trường hợp kém may mắn này, sinh thời, đôi lần
nhà văn Mai Thảo cho rằng, không phải tất cả những người bị định mệnh quay lưng
đó, là những người không có khả năng hoặc, không có tài mà, chỉ vì họ không có
“duyên” với văn học, nghệ thuật.
“Nếu mình chẳng may vô duyên với sự nổi tiếng thì chỉ có nước…
chịu chết thôi. Chẳng thể làm gì được…” Tác giả “Ta Thấy Hình Ta Những Miếu Đền”
nhấn mạnh.
Như đã nói, nhạc Cung Tiến là một hiện tượng ngoại lệ. Phần
tiểu sử của ông, trên trang mạng Wikipedia-Mở có thể tóm tắt như sau:
Nhạc sĩ Cung Tiến tên thật Cung Thúc Tiến, sinh ngày 27 tháng
11 năm 1938, tại Hà Nội, là một nhạc sĩ được dư luận liệt kê vào hàng ngũ những
nhạc sĩ theo dòng nhạc Tiền chiến. Ông được xem như nhạc sĩ trẻ nhất có 2 sáng
tác sớm được phổ biến rộng rãi là “Thu vàng” và “Hoài cảm”. Cả hai bài này được
họ Cung viết năm 14, 15 tuổi. Mặc dù xem âm nhạc như một thú tiêu khiển nhưng
Cung Tiến đã để lại những nhạc phẩm rất giá trị như “Hương xưa”, “Hoài cảm”.
Trang mạng Wikipedia-Mở cũng cho biết, thời trung học, Cung
Tiến đã học xướng âm và ký âm với hai nhạc sĩ nổi tiếng là Chung Quân và Thẩm
Oánh. Trong khoảng thời gian 1957 tới 1963, Cung Tiến du học tại Úc, ngành kinh
tế. Nhân cơ hội này, ông ghi tên tham dự các khóa về dương cầm, đối điểm, và phối
cụ tại Âm nhạc viện Sydney.
Trong những năm từ 1970 tới 1973, khi Cung Tiến nhận được một
học bổng Cao học về Kinh tế, của British Council để nghiên cứu kinh tế học phát
triển tại đại học Cambridge, Anh quốc; ông cũng đã ghi tên tham dự các lớp về
nhạc sử, nhạc học, và nhạc lý hiện đại…
Vẫn theo trang mạng kể trên thì, về ca khúc, Cung Tiến sáng
tác rất ít và phần lớn các tác phẩm của ông đều viết sau 1954, trừ bài “Thu
vàng”, “Hoài cảm” ông viết năm 1953 khi mới 14-15 tuổi. Tuy nhiên, các ca khúc
này lại thường được xếp vào dòng nhạc tiền chiến bởi chúng có cùng phong cách
trữ tình lãng mạn…
“Ra hải ngoại Cung Tiến viết nhạc tấu khúc Chinh phụ ngâm năm
1987, soạn cho 21 nhạc khí, trình diễn lần đầu vào ngày 27 tháng 3 năm 1988, tại
San Jose, California, với dàn nhạc thính phòng San Jose, và đã được giải thưởng
Văn Học nghệ thuật quốc khánh 1988…” Trang mạng kể trên viết. (1)
Theo dõi sinh hoạt sáng tác của Cung Tiến, kể từ sau biến cố
30 tháng 4-1975, ở hải ngoại, người ta được biết, ông dành nhiều thì giờ hơn
cho việc sáng tác – – Từ phổ nhạc thơ, cho tới những công trình nghiên cứu dân
ca Việt, nghiên cứu hình thái đặc thù của truyền thống Quan Họ Bắc Ninh v.v…
Bên cạnh lãnh vực âm nhạc, Cung Tiến cũng đóng góp nhiều cho
lãnh vực văn học thuộc giai đoạn 20 năm Văn học, Nghệ thuật miền Nam. Với bút
hiệu Thạch Chương, ông từng cộng tác với các tạp chí Sáng Tạo, Quan Điểm, và
Văn. Hai trong số những bản dịch thơ văn của Cung Tiến dưới bút hiệu Thạch
Chương, được nhiều người biết tới thời trước 1975 ở Saigon là “Hồi ký viết dưới
hầm” của Dostoievsky, và cuốn “Một ngày trong đời Ivan Denisovitch” của
Solzhenitsyn.
Cách đây nhiều năm, khi được một ký giả hỏi về ca khúc “Thu
vàng” viết từ thời niên thiếu, nhạc sĩ Cung Tiến đã tiết lộ, đại ý, sự thực, đó
chỉ là một bài tập trong thời gian ông mới bước vào khu rừng nhạc thuật mà
thôi.
Tiết lộ này của họ Cung, từng gây nên nhiều nguồn dư luận thuận
/ nghịch. Nhưng không vì thế mà “Thu vàng” có thể ra khỏi ký ức rộn rã những bước
chân tung tăng, nhảy nhót thương yêu của rất nhiều thế hệ. Đó là những bước
chân tung tăng đuổi theo không chỉ những chiếc lá vàng rơi mà, còn đuổi theo cả
một mùa thu thơ dại trên đường phố nữa:
Thu vàng - Cung Tiến - Thanh Lan
“Chiều hôm qua lang thang trên đường
Hoàng hôn xuống, chiều thắm muôn hương
chiều hôm qua mình tôi bâng khuâng
Có mùa thu về, tơ vàng vương vương
Hoàng hôn xuống, chiều thắm muôn hương
chiều hôm qua mình tôi bâng khuâng
Có mùa thu về, tơ vàng vương vương
“Một mình đi lang thang trên đường
Buồn hiu hắt và nhớ bâng khuâng
Lòng xa xôi và sầu mênh mông.
Có nghe lá vàng não nề rơi không
Buồn hiu hắt và nhớ bâng khuâng
Lòng xa xôi và sầu mênh mông.
Có nghe lá vàng não nề rơi không
“Mùa thu vàng tới là mùa lá vàng rơi
Và lá vàng rơi, khi tình thu vừa khơi
Nhặt lá vàng rơi, xem màu lá còn tươi
Nghe chừng đâu đây màu tê tái
Và lá vàng rơi, khi tình thu vừa khơi
Nhặt lá vàng rơi, xem màu lá còn tươi
Nghe chừng đâu đây màu tê tái
“Chiều hôm qua lang thang trên đường
Nhớ nhớ, buồn buồn với chán chường
Chiều hôm nay trời nhiều mây vương
Có mùa Thu Vàng bao nhiêu là hương. (2)
Nhớ nhớ, buồn buồn với chán chường
Chiều hôm nay trời nhiều mây vương
Có mùa Thu Vàng bao nhiêu là hương. (2)
Mặc dù trong ca từ “Thu vàng” của Cung Tiến, có câu “Nhớ nhớ,
buồn buồn với chán chường”, nhưng toàn cảnh vẫn là một trong rất ít những ca
khúc viết về mùa thu không bi lụy hóa, hoặc sầu thảm hóa như nội dung của hầu hết
những ca khúc viết về mùa thu, đã thành khuôn sáo từ hơn nửa thế kỷ trước. Thí
dụ ca khúc “Lá đổ muôn chiều” của Đoàn Chuẩn-Từ Linh:
Lá đổ muôn chiều - Đoàn Chuẩn -Từ Linh - Diễm Liên
“…Thu đi cho lá vàng bay,
lá rơi cho đám cưới về
Ngày mai, người em nhỏ bé ngồi trong thuyền hoa
lá rơi cho đám cưới về
Ngày mai, người em nhỏ bé ngồi trong thuyền hoa
tình duyên đành dứt
Có những đêm về sáng
Có những đêm về sáng
đời sao buồn chi mấy cố nhân ơi
đã vội chi men rượu nhấp đôi môi
mà phung phí đời em không tiếc nhớ
đã vội chi men rượu nhấp đôi môi
mà phung phí đời em không tiếc nhớ
“Lá đổ muôn chiều ôi lá úa,
phải chăng là nước mắt người đi
Em ơi đừng dối lòng
dù sao chăng nữa không nhớ đến tình đôi ta?
phải chăng là nước mắt người đi
Em ơi đừng dối lòng
dù sao chăng nữa không nhớ đến tình đôi ta?
“Thôi thế từ đây anh cố đành quên rằng có người
Cầm bằng như không biết mà thôi
Lá thu còn lại đôi ba cánh
đành lòng cho nước cuốn hoa trôi…” (3)
Cầm bằng như không biết mà thôi
Lá thu còn lại đôi ba cánh
đành lòng cho nước cuốn hoa trôi…” (3)
Khuôn sáo hay ước lệ này, theo tôi nó vẫn đeo đẳng, xuất hiện
trong rất nhiều ca khúc viết về mùa thu của những nhạc sĩ ở thế hệ sau! Làm
như, nếu mùa thu trong ca khúc (cũng như thơ) của họ, không bi lụy, không tan
tác, đổ vỡ, chia ly thì nó sẽ là một… mùa nào khác, chứ không phải là mùa thu vậy!?!
Nhiều người cùng giới với nhạc sĩ Cung Tiến cho rằng đa số ca
khúc của họ Cung được viết trên căn bản bán cổ điển tây phương, nên giai điệu rất
sang trọng. Theo tôi, chúng ta có không ít nhạc sĩ xây dựng sáng tác của mình
trên khung, nền bán cổ điển tây phương. Nhưng rất ít người cho phần ca từ của họ
nhiều hồn tính đông phương như Cung Tiến.
Ngay ca khúc thứ hai, họ Cung viết khi còn ở độ tuổi 15 là ca
khúc “Hoài cảm”, từ dòng chữ đầu tiên tới kết thúc, tính hoài cổ đã lồng lộng
trong từng con chữ của ông. Mặc dù nội dung toàn thể ca từ, cho thấy tấm lòng
thiết tha, trông ngóng về một tình yêu, vắng mặt. Nhưng, từ một góc độ nào
khác, hay ở mặt bên kia, phía khuất lấp của tấm lòng thiết tha, trông ngóng một
tình yêu, không nhất thiết phải là một người nữ (đối tượng cụ thể). Nó cũng có
thể là một thứ tình yêu hướng về thiên cổ. Tựa những tiếng gõ thiết tha lên
cánh cửa trăm năm, của một tâm hồn sớm cảm nhận được sự lạc lõng, bơ vơ của
mình, trước hiện cảnh:
Hoài cảm - Cung Tiến - Lệ Thu
“Chiều buồn len lén tâm-tư
Mơ hồ nghe lá thu mưa
Dạt dào tựa những âm xưa
Thiết tha ngân lên lời xưa
“Quạnh hiu về thấm không gian
âm thầm như lấn vào hồn
Buổi chiều chợt nhớ cố nhân
Sương buồn lắng qua hoàng hôn
“Lòng cuồng điên vì nhớ
ôi đâu người, đâu ân tình cũ?
Chờ hoài nhau trong mơ
Nhưng có bao giờ, thấy nhau lần nữa
“Một mùa thu xa vắng
Như mơ hồ về trong đêm tối
Cố nhân xa rồi, có ai về lối xưa?
“Chờ nhau hoài cố nhân ơi!
Sương buồn che kín nguồn đời
Hẹn nhau một kiếp xa xôi,
nhớ nhau muôn đời mà thôi!” (3)
Mơ hồ nghe lá thu mưa
Dạt dào tựa những âm xưa
Thiết tha ngân lên lời xưa
“Quạnh hiu về thấm không gian
âm thầm như lấn vào hồn
Buổi chiều chợt nhớ cố nhân
Sương buồn lắng qua hoàng hôn
“Lòng cuồng điên vì nhớ
ôi đâu người, đâu ân tình cũ?
Chờ hoài nhau trong mơ
Nhưng có bao giờ, thấy nhau lần nữa
“Một mùa thu xa vắng
Như mơ hồ về trong đêm tối
Cố nhân xa rồi, có ai về lối xưa?
“Chờ nhau hoài cố nhân ơi!
Sương buồn che kín nguồn đời
Hẹn nhau một kiếp xa xôi,
nhớ nhau muôn đời mà thôi!” (3)
Tôi muốn gọi ca từ của “Hoài cảm” của người nhạc sĩ tài hoa sớm
phát tiết này là “thi sĩ của hoài niệm quá khứ”. Cụ thể khi ông dùng những chữ như
“thấm” và “lấn” trong “Quạnh hiu về thấm không gian/ âm thầm như lấn vào hồn…”
Hoặc động tự “che” trong câu “Sương buồn che kín nguồn đời…”
Về phương diện tu từ học (rhetoric) thì những con chữ kể trên
của họ Cung, không chỉ được đặt đúng vị trí mà, nó còn cụ thể hóa những túc từ
trừu tượng đứng ngay sau nó nữa. Cũng thế, với “Hương xưa”, tính chất “vạn cổ sầu”
của tác giả còn rưng rưng nỗi niềm lạc loài, mất dấu hơn nữa. Tôi không biết
tác giả sáng tác ca khúc này, bao lâu sau “Hoài cảm”? Nhưng trong cảm nhận của
riêng tôi, nó vẫn những tiếng gõ thiết tha lên cánh cửa trăm năm hoặc, như những
ngọn lửa khêu thức niềm bơ vơ “thất thổ”:
Hương xưa - Cung Tiến - Lệ Thu
“Người ơi, còn nhớ mãi trưa nào thời nào vàng bướm bên ao
Người ơi, còn nghe mãi tiếng ru êm êm buồn trong ca dao
Còn đó tiếng khung quay tơ,
Còn đó con diều vật vờ
Còn đó, nói bao nhiêu lời thương yêu đến kiếp nào cho vừa
“Ôi, những đêm dài hồn vẫn mơ hoài một kiếp xa xôi
Buồn sớm đưa chân cuộc đời
Lời Đường Thi nghe vẫn rền trong sương mưa
Dù có bao giờ lắng men đợi chờ
Tình Nhị Hồ vẫn yêu âm xưa
Cung Nguyệt Cầm vẫn thương Cô-tô
Nên hồn tôi vẫn nghe trong mơ tiếng đàn đợi chờ mơ hồ
Vẫn thương muôn đời nàng Quỳnh Như thuở đó
“Ôi, những đêm dài hồn vẫn mơ hoài một giấc ai mơ
Dù đã quên lời hẹn hò
Thời Hoàng Kim xa quá chìm trong phôi pha
Chờ đến bao giờ tái sinh cho người
“Đời lập từ những đêm hoang sơ
Thanh bình như bóng trưa đơn sơ
Nay đời tan biến trong hư vô,
chết đầy từng mồ oán thù.
máu xương tơi bời nhiều mùa thu... (4)
Người ơi, còn nghe mãi tiếng ru êm êm buồn trong ca dao
Còn đó tiếng khung quay tơ,
Còn đó con diều vật vờ
Còn đó, nói bao nhiêu lời thương yêu đến kiếp nào cho vừa
“Ôi, những đêm dài hồn vẫn mơ hoài một kiếp xa xôi
Buồn sớm đưa chân cuộc đời
Lời Đường Thi nghe vẫn rền trong sương mưa
Dù có bao giờ lắng men đợi chờ
Tình Nhị Hồ vẫn yêu âm xưa
Cung Nguyệt Cầm vẫn thương Cô-tô
Nên hồn tôi vẫn nghe trong mơ tiếng đàn đợi chờ mơ hồ
Vẫn thương muôn đời nàng Quỳnh Như thuở đó
“Ôi, những đêm dài hồn vẫn mơ hoài một giấc ai mơ
Dù đã quên lời hẹn hò
Thời Hoàng Kim xa quá chìm trong phôi pha
Chờ đến bao giờ tái sinh cho người
“Đời lập từ những đêm hoang sơ
Thanh bình như bóng trưa đơn sơ
Nay đời tan biến trong hư vô,
chết đầy từng mồ oán thù.
máu xương tơi bời nhiều mùa thu... (4)
Ở phân khúc 6, để làm nổi bật thời “hoàng kim” – thanh bình
thuở xa xưa, tác giả nhắc tới cuộc kháng chiến tháng mùa thu 1945 của đất nước,
từ đó dẫn tới những thảm kịch thương đau, nhấn chìm sự sống của cả một dân tộc,
với câu “…Nay đời tan biến trong hư vô / chết đầy từng mồ oán thù/ máu xương
tơi bời nhiều mùa thu…”
Nhưng, tôi vẫn thấy được tố chất thi sĩ, với nhiều câu thơ đẹp
trong ca khúc. Như những câu: “Người ơi, còn nhớ mãi trưa nào thời nào vàng bướm
bên ao…” Hoặc: “Ôi, những đêm dài hồn vẫn mơ hoài một kiếp xa xôi/ Buồn sớm
đưa chân cuộc đời…” Hay (lập lại): “Ôi, những đêm dài hồn vẫn mơ hoài một giấc
ai mơ / Dù đã quên lời hẹn hò…” Tôi cho đó là những câu thơ mà, không ít người
làm thơ mơ ước viết được một lần trong đời mình. (5)
Tóm lại, những ca khúc của Cung Tiến nằm trong khoảng thời
gian 20 năm VHNT miền Nam, thủy chung, vẫn là nỗ lực tái hiện không gian nghìn
năm trước, cho đời sau cơ hội sống lại, dù mơ hồ, sương khói…
Tuy nhiên, Cung Tiến không chỉ đem được vào cõi-giới tân nhạc
của ông hồn tính đông phương, như một con bài chủ, một dấu ấn của riêng ông mà,
họ Cung còn là nhạc sĩ đầu tiên(?) phổ nhạc thơ tự do.
Lệ đá xanh - Cung Tiến - Khánh Ly
Bằng vào tình thân giữa ông và cố thi sĩ Thanh Tâm Tuyền,
Cung Tiến đã rất thành công khi soạn thành ca khúc bài thơ “Lệ đá xanh” của tác
giả “Tôi không còn cô độc”: “Đôi khi anh muốn tin, đôi khi anh muốn tin ngoài đời
chỉ còn trời sao đáng kể, mà bên vì sao lấp lánh đôi mắt em, và đôi mắt em lấp
lánh không thôi đến ngày cuối… / Đôi khi anh muốn tin, đôi khi anh muốn tin,
ngoài đời thơm thơm, cỏ hoa ươm hương dịu hiền / mà bên trái cây ngọt ngào đôi
môi em, ngọt ngào đôi môi em, ngọt ngào đôi môi em …/ Nguồn sữa mật khởi đầu/
Đôi khi anh muốn tin ngoài đời cỏ hoa tinh khiết, mà bên cỏ hoa quyến rũ cánh
tay em, vòng ân ái, vòng âu yếm/ Đôi khi anh muốn tin, đôi khi anh muốn tin…/
Ôi những người, ôi những
người khóc lẻ loi một mình/ Đau đớn lệ, đau đớn lệ là những
viên đá xanh/ Tim rũ rượi...” (6), (7)
Đề cập tới lãnh vực thơ phổ nhạc, những người yêu cõi-giới âm
nhạc Cung Tiến, hẳn sẽ không quên ca khúc “Thuở làm thơ yêu em”, thơ Trần Dạ Từ
hay; “Vết chim bay” thơ Phạm Thiên Thư… Tất cả những bài thơ này, đều được ông
soạn thành ca khúc trước 1975 ở Saigòn.
Nguyệt cầm - Cung Tiến - Thái Thanh
Nguyệt cầm - Cung Tiến - Anh Ngọc
Chú thích:
(5) Tôi không đề cập tới ca khúc “Nguyệt cầm” của họ Cung, mặc
dù sáng tác này vẫn nằm trong mạch chảy “…nỗ lực tái hiện không gian nghìn năm
trước” vì ca từ của bài này, vốn là thơ của nhà thơ Xuân Diệu.
(7) Tưởng cũng nên nói thêm, sau Cung Tiến, cố nhạc sĩ Phạm
Đình Chương cũng đã cho thấy tài hoa của ông, khi phổ nhạc 2 bài thơ tự do cũng
của Thanh Tâm Tuyền. Đó là các bài “Dạ tâm khúc” và “Bài ngợi ca tình yêu”.
Riêng cố nhạc sĩ Phạm Duy, đã bước thêm một bước nữa, khi phổ nhạc bài thơ xuôi
“Khi tôi về”, của nhà thơ Kim Tuấn.
đặt vé máy bay eva airline
giá vé máy bay đi mỹ hãng eva
hang ve may bay korean
vé máy bay đi mỹ giá rẻ
giá vé máy bay đi canada
Nhung Chuyen Di Cuoc Doi
Ngau Hung Du Lich
Kien Thuc Du Lich