“Chủ nhật buồn”, ca khúc
“chết người” của người Hung
“chết người” của người Hung
Có một bài ca, xuất phát từ một xứ sở nhỏ bé nằm giữa lòng
Đông Âu, đã được dịch ra hơn 100 thứ tiếng trên thế giới (trong đó có cả tiếng
Việt và Quốc tế ngữ) và được hơn 50 ca sĩ thể hiện trong vòng 70 năm qua, kể cả
những tên tuổi lớn như Billie Holiday, Sarah Vaughan, Ray Charles, Elvis
Costello, Marianne Faithfull, Diamanda Galás, Sinéad O’Connor, Sarah McLachlan,
Björk, Sarah Brightman…
Ca khúc ấy, có thời từng là khúc hát cửa miệng của nhiều kẻ
si tình trước giờ tự vẫn. Cho dù chung cuộc, vào năm 1999, nước Pháp đã chọn nó
là bản nhạc tình buồn nhất của thế kỷ XX, nhưng khi vừa chào đời và lan truyền,
bài ca đã bị cấm ở nhiều nước vì không ít kẻ đã tự kết liễu cuộc đời dưới ảnh
hưởng của nó.
Gần đây nhất, giai điệu bài hát đã vang lên trong bộ phim “Danh
sách Schindler” (Schindler’s list), từng được 10 giải Tượng vàng Oscar của đạo
diễn lừng danh Steven Spielberg, khiến không ít khán giả đứng tuổi bồi hồi nhớ
lại thời thanh xuân.
Đó là ca khúc “Chủ nhật buồn” (Szomorú Vasárnap), nhạc của
Seress Rezső, lời thơ của Jávor László và Seress Rezső, ra đời cách đây 73 năm,
được coi là thương hiệu tầm cỡ thế giới bậc nhất của Hungary trong âm nhạc, kể
từ ngày đó tới giờ.
Cho dù, lạ thay, ngày nay, ở chính quê hương của “Chủ nhật buồn”
(Hungary), cũng không mấy ai còn nhớ đến ca khúc. Thanh niên không nhớ, đã
đành. Nhưng lớp trung niên cũng chỉ còn biết đến nó qua lời kể của các bậc phụ
huynh.
Có chăng, chỉ một số rất ít thuộc lớp người đứng tuổi, thỉnh
thoảng lẩm nhẩm lại giai điệu bài ca để hoài niệm quá khứ một thời. Một thời để
yêu và một thời để nhớ…
Mùa thu năm 1933. Jávor László, một chàng trai Budapest 26 tuổi,
thợ đẽo đá kiêm phóng viên hình sự tờ “Báo 8 giờ” (8 Órai Újság), khi ấy hoàn
toàn vô vọng với tình yêu đặt ở nơi một thiếu nữ đã là vợ kẻ khác.
Trong buổi hẹn hò bí mật cuối cùng, chàng trai tuyên bố chấm
dứt hoàn toàn mối quan hệ này, đối với chàng, cô gái không còn tồn tại nữa.
Jávor László xin cô gái cho phép chàng giữ một kỷ niệm về mối tình với cô: lưu
khuôn mặt cô trong chiếc mặt nạ thạch cao để có thể âu yếm, cưng nựng ngay cả
khi đã xa cô!
Bài thơ “Chủ nhật buồn” đã ra đời như thế, nếu chúng ta có thể
tin được huyền thoại về nó. Và tại sao lại không tin? Cho dù, một lời lý giải
khác cũng đã được đưa ra, ít thi vị hơn nhiều: “Chủ nhật buồn” được lấy cảm hứng
sau một đêm thứ Bảy lu bù và nhà thơ chợt tỉnh giấc vì nhận ra anh không còn một
xu dính túi!
Dầu sao đi nữa thì tác phẩm cũng được “ra lò”, được phổ nhạc
và ngay tháng Mười một năm ấy, cả nước Hung đã chìm trong cơn sốt “Chủ nhật buồn”.
Các bà các cô quý phái ngồi phủ phục bên chiếc máy hát cũ, nước
mắt tuôn trào vì nỗi buồn “thiên thu” của bài hát. Cùng lúc đó, các cô sen cũng
cố nghe lỏm và sụt sùi, trong khi đang dọn nhà, lau chùi hoặc nấu nướng.
Kể từ khi văn hào Đức Goethe viết tác phẩm Werther, chưa ai
có thể khiến cả châu Âu hướng về mốt… đau buồn tập thể, dẫn đến… tự sát, như thế!
Không có gì đáng ngạc nhiên khi Jávor, chàng trai thất tình, bỗng nổi tiếng với
bài thơ “Chủ nhật buồn”, đã nói với ký giả tờ “Nhật ký Pest” khi nghe phong
thanh về thành công “chết người” của mình: “Giờ, người ta nghĩ đến tôi như kẻ
đào mồ với chiếc xẻng trong tay“. Và nhận xét ấy là chính xác! Bởi lẽ “Chủ nhật
buồn” luôn đi kèm với những câu chuyện buồn đau tan nát.
Báo chí Hung đương thời đã đăng tải một số mẩu chuyện thú vị,
nhưng rùng rợn, liên quan đến ca khúc. Tại một tiệm ăn ở Budapest, một thực
khách lăm lăm khẩu súng ngắn và dọa… tự tử, nếu dàn nhạc Tzigane không chơi
ngay lập tức “Chủ nhật buồn”. Và sau khi được nghe bài ca có sức mạnh thần bí,
ông ta gục xuống bàn, nức nở kể lại nỗi buồn của mình dù chẳng ai đề nghị.
Thậm chí, một làn sóng tự sát điên rồ đã diễn ra. Cô gái Kis
Eszter, trước khi uống độc dược còn cẩn thận và trau chuốt để bản nhạc “Chủ nhật
buồn” lên gối. Một chàng trai nghèo tỉnh lẻ, trái tim nhạy cảm không chịu nổi nỗi
u sầu trong bài ca, cũng qua đời vì nhồi máu cơ tim.
Ledig László, một nhân viên ngân hàng 23 tuổi, thì dùng súng
bắn thẳng vào tim khi đi trên một chiếc taxi, vào đúng một ngày Chủ nhật, vì
đêm trước anh đã thức đến sáng và nghẹn ngào trước giai điệu “Chủ nhật buồn”.
Jávor László tại Paris, theo lời mời
của những người hâm mộ
“Chủ nhật buồn”
Người ta nói nhiều đến “Chủ nhật buồn” như một bài ca có ma lực
vô cùng đặc biệt, khiến người nghe ảo não, sầu muộn đến độ phải tự tìm đến cái
chết. Không thể biết được đâu là sự thật, đâu là chứng cuồng tầm cỡ thế giới,
và đâu là món nghề quảng cáo của sự kinh doanh nghề sân khấu.
Quả thực, cạnh thi thể nhiều người tự vẫn, có bản nhạc của ca
khúc, nhất là ở Hung. Nhưng xứ sở này, dù có “Chủ nhật buồn” hay không, cũng đã
được liệt vào hàng những quốc gia hàng đầu thế giới trong các thống kê về số
người tự sát.
Bởi vậy, cái tít in chữ đậm trên trang nhất tờ “Thời báo New
York” (The New York Times) - “Dân Hung tự tử hàng loạt dưới tác động của một
bài ca” - có lẽ là quá cường điệu.
Thời kỳ 1935-36, khi bài hát ra đời, nhân loại đang đứng trước
cuộc Thế chiến sắp bùng nổ và cuộc khủng hoảng kinh tế đang ở độ trầm trọng.
Khi tìm hiểu nguyên do và bản chất của hiện tượng “Chủ nhật buồn”, những luận
văn “nặng ký” đã không quên điều đó.
Tuy nhiên, như mọi người đều nhận thấy, giai điệu đơn điệu, lặp
đi lặp lại theo cung đô thứ của bài ca, đã thể hiện một cái gì đó đáng kể. Và
quả thực, mỗi thời đại đều có một “bài ca chết người” của mình.
Khi đã rời quê hương, “giáo chủ” Phân tâm học Sigmund Freud,
đã nhận thấy sự chứng thực cho thuyết “Sonntagsneurose” (Chứng loạn thần kinh
chức năng ngày Chủ nhật) của ông trong bài ca này.
Ở Mỹ, những câu lạc bộ “Chủ nhật buồn” mọc lên như nấm, và
đúng lúc nghị sĩ Steven Carl đòi cấm bài hát ở Washington vì sự ủy mị trong ca
khúc có thể gây tác động xấu đến giới trẻ, thì ở Paris, người ta dựng tượng tác
giả bằng sáp. Coco Chanell thành công trên toàn thế giới với mốt “áo tử thần”
màu đen tuyền, và giới mỹ thuật châu Âu chế ra loại đàn dương cầm “Chủ nhật buồn”
hình sọ người.
Chỉ vài năm sau khi bài thơ của Jávor László ra đời, “Chủ nhật
buồn” - kèm giai điệu của Seress Rezső - đã được dịch ra gần 30 thứ tiếng; bản
nhạc và những chiếc đĩa hát “Chủ nhật buồn” tràn ngập thị trường thế giới, reo
rắc không khí buồn đau, chết chóc khắp châu Âu, Mỹ, Phi và cả Trung Quốc…
Thành công của thi phẩm “Chủ nhật buồn” vượt xa mọi mong đợi.
Cố nhiên, ngoài sự đau khổ của Jávor László, cần một ai khác phổ nhạc cho những
vần thơ tang tóc đó.
Seress Rezső (ảnh chụp giữa thập 20 thế kỷ trước)
Ấy là Seress Rezső, một nhạc sĩ tự học, vụng về nhưng thiên
tài: từ Quận VII bùn lầy nước đọng của thủ đô Budapest, ông đã có một bài
ca được các cây đại thụ trong làng nhạc quốc tế xưng tụng.
Chỉ cần nhắc một vài cái tên - Louis Armstrong, Bing Crosby,
Frank Sinatra, hay Ray Charles -, và sau đó, hễ một ngôi sao quốc tế nào đưa
“Chủ nhật buồn” (Gloomy Sunday) vào chương trình của mình, thì họ đã cầm chắc
trong tay sự thành công.
Chào đời năm 1899 trong một gia đình gốc Do Thái, tên thật là
Spitzer Rudi, tác giả phần nhạc “Chủ nhật buồn” thường được gọi với cái tên
“Seress bé nhỏ” vì ông chỉ cao hơn 1m55 chút đỉnh. Cả đời chỉ chơi nhạc
buổi tối ở Kulacs và Kispipa, hai tiệm ăn nhỏ và đầy khói thuốc lá ở Budapest,
nơi đầu thập niên 30 từng là nơi gặp gỡ của tầng lớp tiểu thị dân nghèo khó gồm
những cặp tình nhân rách mướt, những anh tài-xế say xỉn và những chị gái điếm rẻ
tiền.
Như hồi tưởng của người đương thời, chỉ ở giữa tiệm ăn họa
chăng còn chút hơi ấm của chiếc lò sưởi gạch màu nâu, chứ khách khứa ngồi gần cửa
ra vào vẫn phải mặc nguyên áo khoác vì lạnh lẽo. Hầu như thực khách không mấy
khi thấy rõ Seress ngồi khuất sau chiếc dương cầm.
Miệng phì phép thuốc lá, giọng khản đặc, chỉ chơi dương cầm
kiểu “mổ cò” với hai ngón của bàn tay phải, lần mò tìm nốt nhạc, vậy mà theo lời
kể của người đương thời, hàng ngày, từ 6 giờ tối đến rạng sáng, Seress đã tạo
nên một bầu không khí “bốc lửa” tại nơi ông chơi nhạc.
Sức hấp dẫn của ông là ở đó: cuốn sổ lưu niệm của ông, với thủ
bút và ý kiến của những nhân vật lừng danh đương thời cũng xác nhận điều này.
(Seress có một cuốn “Sổ vàng” bọc lụa đỏ mà sau khi ông mất, những kẻ thừa kế -
trong cơn thất vọng tràn trề - đã quẳng đại vào sọt rác.
Hầu như đó là một cẩm nang “Who is who?” của thế kỷ XX với những
tên tuổi như Arthur Rubinstein, Jascha Heifetz, Arturo Toscanini, Luchino
Visconti, Spencer Tracy, Wallace Beery, Sonja Hennie, John Steinbeck, Louis
Armstrong, Ray Charles, Paul Robeson, Cyrus Eaton, U Thant, Benjamino Gigli,
Conrad Veldt, George Cukor…)
Ngắn gọn, mà có lẽ chính xác hơn cả, là nhận xét của Otto
Klemperer, nhạc trưởng lừng danh người Đức: “Không phải nhạc sĩ - chỉ là thiên
tài” (Er ist kein Musiker - er ist ein Genie). Hẳn phải là như thế, vì
trong 40 năm ròng rã của đời nghệ sĩ, Seress không hề biết viết, biết đọc bản
nhạc, ông cũng không biết hát theo nghĩa thực của từ này.
Điều khiến ông thường xuyên có mặc cảm và lo lắng, nhất là
khi biết có một nhạc sĩ nổi tiếng nào đó đặt chân đến cái tiệm ăn tồi tàn để
nghe ông, là Seress cũng chẳng biết chơi dương cầm một cách “tử tế”. Ấy vậy mà
ông vẫn liên tục cho “ra lò” những ca khúc mà đa phần đều rất được ưa chuộng!
Cách sáng tác của Seress cũng đặc biệt: vừa huýt sáo, ông vừa
ngẫm nghĩ và khi được giai điệu nào “hợp lý”, ông nhờ người ghi lại thành bản
nhạc. Thô sơ vậy mà trong đa số các trường hợp, chỉ trong ít ngày, từ cậu bé
đánh giày, chị người ở đến các bà, các cô thị dân đều hát theo điệu nhạc của
Seress, một thành công chắc chắn của sự thành công! Cố nhiên, trong số đó thì
“Chủ nhật buồn” là đỉnh cao! Cho dù, không ít người đương thời cho rằng Seress
còn ít nhất 40 ca khúc khác, không tồi hơn, thậm chí, có thể còn hay hơn “Chủ
nhật buồn”!
Cuộc đời Seress đầy những chi tiết nổi trôi, và thực ra chúng
ta cũng không biết được nhiều về ông. Thời thanh niên, qua tấm hình trên tờ quảng
cáo, do mê một nữ tài tử xiếc uốn dẻo trên không mà Seress bỏ nhà theo một gánh
xiếc và chỉ nhờ một may mắn kỳ lạ mà chàng trai ấy đã không bỏ mạng trong một
buổi tập.
Về sau, Seress học kịch nghệ và biểu diễn tại một đoàn kịch ở
Budapest trong vòng 9 năm. Tại đây, ông tìm thấy một chiếc dương cầm cũ nát và
thử những giai điệu đầu tiên trên đó. Lũ trẻ rong chơi ngoài phố, giới quân
nhân nghỉ phép và các cô cậu giúp việc là những thính giả đầu tiên của Seress:
những tràng pháo tay tán thưởng các ca khúc ngẫu hứng do Seress sáng tác đã
khích lệ ông chuyển hẳn sang con đường âm nhạc.
Năm 1925, nhạc phẩm “Một đêm nữa” (Még egy éjszakát) khiến
tên tuổi Seress được biết đến trên toàn nước Hung; 16 ngàn bản nhạc được bán ra
và đây là kỷ lục thời đó ở Hungary. Năm 1935, báo chí viết về Seress như sau:
“Ở nước ngoài, nếu một nhạc sĩ chỉ sáng tác được một phần tư
số ca khúc được ưa thích so với Seress, thì người ấy hẳn phải sống vương giả,
có nhà lầu 6 phòng, xe hơi, và có thể lựa chọn các hợp đồng phim. Còn Seress
thì chơi dương cầm ở một quán nhỏ, thù lao “vương giả” mỗi tối là vài đồng và một
bữa tối thanh đạm“.
Cần biết là thời ấy, muốn sống thoải mái, người Hung cần độ
200 Ft hàng tháng. Ấy vậy mà Serres không buồn ra nước ngoài để nhận thù lao từ
các bản nhạc và đĩa hát được bán ra của ông, cho dù, chỉ riêng tại Ngân hàng
Irving Trust, người ta đã giữ cho ông khoản tiền 370 ngàn USD (gần 1 triệu rưởi
Ft)!
Các hợp đồng béo bở của ngoại quốc không khiến ông động lòng,
Seress cũng không buồn đến dự buổi hòa nhạc ngày lễ tại Carnegie Hall, cho dù
người Mỹ rất muốn tận mắt được thấy tác giả “Chủ nhật buồn” trong dịp đó!
Lẽ ra, Seress đã có thể sống giàu có, tiếng tăm như ông hằng
mơ ước - vậy mà ông đã lựa chọn những tiểu thị dân, những cô sen, những cậu bé
đánh giày… hàng ngày cứ đúng 6 giờ lại vào quán nghe ông chơi đàn và hát.
Cuối Đệ nhị Thế chiến, vì nguồn gốc Do Thái của mình, Seress Rezső
bị bắt vào trại tập trung và phải xa Pest trong vòng 4 năm; đây có lẽ là lần
duy nhất ông xa nhà. Trong khoảnh khắc kinh hoàng, khi phải tự đào hố chôn mình
ở trại tập trung, một sĩ quan Đức từng nghe ông hát “Chủ nhật buồn” tại
Budapest đã cứu ông khỏi cái chết chắc chắn.
Sau năm 1945, nước Hung đứng về phe bại trận và gia sản không
nhỏ của Seress tại các ngân hàng Mỹ đã bị “đóng băng” với lý do… nước Hung phải
bồi thường thiệt hại chiến tranh cho Đồng minh! Chưa hết, nhiều năm dưới thời
XHCN, cạnh những nhạc sĩ lừng lẫy của nước Hung như Liszt Ferenc, Bartók Béla,
Kodály Zoltán…, cái tên Seress Rezső cũng bị đưa vào danh mục cấm vì chính quyền
cộng sản cho rằng các sáng tác của ông mang yếu tố độc hại, hơn nữa, theo cách
nói thời bấy giờ, chúng “phục vụ cho chủ nghĩa đế quốc”.
Năm 1956, khi mấy trăm ngàn dân Hung di tản sau cuộc cách mạng
mùa thu bị Liên Xô đàn áp, Seress đã có thể ra nước ngoài và bạn bè ông cũng
khuyên nhà nhạc sĩ như vậy. Nhưng không gì khiến ông rời nước Hung! Seress nói
nửa đùa nửa thật: “Tôi không dám lên máy bay vì sợ độ cao - đứng ở vỉa hè mà
tôi cũng đã cảm thấy hoảng rồi! Hơn nữa, tôi có một giấc ác mộng là sẽ bị chết
trong một tai nạn máy bay!“
Nói vậy, chứ sự thực là có hàng ngàn lý do khiến Seress không
bao giờ muốn rời bỏ đất nước. Ông yêu vô cùng mảnh đất Budapest: trong 10 năm
cuối đời, không bao giờ ông bước khỏi Quận VII nơi ông sinh sống và chơi nhạc.
Ông đã quá yêu những con phố Pest, như trong ca khúc viết năm 1933:
Có một con phố
Nơi tôi tới để khóc
Đừng ai hay tôi chờ đợi ai
Có một con phố
Nơi chôn vùi hạnh phúc của tôi
Nước mắt tuôn trào xuống đá lạnh
Nơi tôi tới để khóc
Đừng ai hay tôi chờ đợi ai
Có một con phố
Nơi chôn vùi hạnh phúc của tôi
Nước mắt tuôn trào xuống đá lạnh
Có một con phố
Ở Pest, chỉ toàn điềm gở
Vậy mà, hàng đêm
Tôi vẫn tới, âm thầm
Nơi chôn vùi hạnh phúc của tôi
Nước mắt tuôn trào xuống đá lạnh
(”Con phố Pest”, Pesti utca)
Ở Pest, chỉ toàn điềm gở
Vậy mà, hàng đêm
Tôi vẫn tới, âm thầm
Nơi chôn vùi hạnh phúc của tôi
Nước mắt tuôn trào xuống đá lạnh
(”Con phố Pest”, Pesti utca)
Một điều nữa: Seress coi mình là một thi sĩ và với ông, một
anh đánh giày, một chị nướng bánh mỳ… hay bất cứ ai đều có thể rời quê hương,
chỉ thi sĩ thì không! Và Seress biết, ở Hung, những khán thính giả bình dân
không bao giờ rời bỏ ông! Nhất là, tại đó, ông có Helénke, cao hơn ông cả… hai
cái đầu, từng được coi là phụ nữ đẹp nhất Budapest, người đã rời bỏ chồng là một
đại tá hồi hưu sung túc để theo chàng nhạc sĩ nghèo với niềm tin sẽ có ngày
Seress được vinh hiển!.
Cùng vợ, nàng Helenke, từng được coi
là người đàn bà đẹp nhất
Pest
Sáu mươi chín tuổi, tháng 1-1968, khi biết mình lâm trọng bệnh,
Seress đã tìm đến cái chết vào một ngày thứ Hai buồn bã bằng cách nhảy từ cửa sổ
căn hộ ông sống, tại tầng 4 một tòa nhà.
Được đưa vào viện và vật lộn với vết thương nhiều ngày trời,
Seress lại tìm cách tự thắt cổ bằng sợi dây thép để ra đi nhanh chóng hơn. Cả đời
bị ám ảnh bởi cái chết, bài ca do ông phổ nhạc và đặt một lời cũng là một “tình
ca chết chóc”, ấy vậy mà chính cái chết đã đưa Seress vào bất tử, như bản “Chủ
nhật buồn” trước đó 35 năm.
“Chủ nhật buồn” được biết đến ở Việt Nam từ đầu thập niên 50,
qua lời Việt của nhạc sĩ Phạm Duy. Nhạc sĩ cho biết:
“Trong thời gian du học ở Pháp, tôi rất yêu những bản nhạc
tình của một nữ nhạc sĩ đang nổi tiếng tên là Nicole Louvier và có soạn lời tiếng
Việt cho một số bài của cô ta. Rất buồn là tôi đã quên hết. Nhưng tôi nhớ là có
vì cô mà soạn lời cho một trong những bài nhạc tình buồn nhất của thế giới.
Đó là bài SOMBRE DIMANCHE, được phóng tác từ nhạc dân ca
Hung-gia-lợi. Bài này có hơi nhạc rất gần gũi với hơi nhạc của Nicole Louvier.
Người đời có tạo một huyền thoại về bài CHỦ NHẬT BUỒN phóng tác từ nhạc
bohémien này, nói rằng đã có người tự tử khi nghe bản nhạc…” (trích “Ngàn lời
ca khác”).
Nơi yên nghỉ của nhà nhạc sĩ lớn tại Budapest
Trong vòng hơn 50 năm qua, cho dù ca khúc này tương đối khó
hát, nhiều thế hệ ca sĩ miền Nam và hải ngoại - từ Khánh Ly, Sỹ Phú, Chế Linh,
Duy Quang… đến Thiên Phượng… đã trình diễn “Chủ nhật buồn” qua lời Việt Phạm
Duy. Ca từ của bản tiếng Việt, mặc dù, như lời Phạm Duy, là được phỏng theo bản
tiếng Pháp, nhưng lại theo sát và phản ánh tinh thần của nguyên bản một cách
tài tình và đáng phục:
Chủ nhật buồn, đi lê thê
Cầm một vòng hoa đê mê.
Bước chân về với gian nhà,
Với trái tim cùng nặng nề.
Xót xa gì? Oán thương gì?
Đã biết nuôi hương chia ly.
Chót say mê đã yêu thì
Dẫu vô duyên còn nặng thề.
Cầm một vòng hoa đê mê.
Bước chân về với gian nhà,
Với trái tim cùng nặng nề.
Xót xa gì? Oán thương gì?
Đã biết nuôi hương chia ly.
Chót say mê đã yêu thì
Dẫu vô duyên còn nặng thề.
Ngồi một mình, nghe hơi mưa,
Mặc lệ tràn câu thiên thu.
Gió hiên ngoài nhắc một loài
Dế dun hoài ru thương ru.
Ru hỡi ru hời! …
Mặc lệ tràn câu thiên thu.
Gió hiên ngoài nhắc một loài
Dế dun hoài ru thương ru.
Ru hỡi ru hời! …
Chủ nhật buồn, tôi im hơi
Vì đợi chờ không nguôi ngoai.
Bước chân người nhớ thương tôi,
Đến với tôi thì muộn rồi!
Trước quan tài, khói hương mờ
Bốc lên như vạn ngàn lời.
Dẫu qua đi, mắt tôi cười
Vẫn đăm chiêu nhìn về người.
Vì đợi chờ không nguôi ngoai.
Bước chân người nhớ thương tôi,
Đến với tôi thì muộn rồi!
Trước quan tài, khói hương mờ
Bốc lên như vạn ngàn lời.
Dẫu qua đi, mắt tôi cười
Vẫn đăm chiêu nhìn về người.
Hồn lìa rồi, nhưng em ơi,
Tình còn nồng đôi con ngươi,
Nhắc cho ai biết cuối đời
Có một người yêu không thôi
Ru hỡi ru hời!
Tình còn nồng đôi con ngươi,
Nhắc cho ai biết cuối đời
Có một người yêu không thôi
Ru hỡi ru hời!
Bài ca do Phạm Duy đặt lời, nhiều người không để ý, có thể tưởng
nó là “thuần Việt”, vì nó được du nhập vào Việt Nam đúng lúc đất nước phân ly,
lòng người tan nát và tao loạn. Như nhạc sĩ Phạm Duy nhận xét, “Chủ nhật buồn”
có thể đã ảnh hưởng nhiều đến dòng nhạc tình nói về thân phận những cặp tình
nhân yêu nhau trong cơn mê sảng và nhức nhối, với tâm thức có thể xa nhau (vĩnh
viễn) bất cứ lúc nào, xuất hiện ở miền Nam cuối thập niên 50 thế kỷ trước.
Dòng nhạc tình ấy, hẳn nhiên, không còn phản ánh thứ “tình
xanh khi chưa lo sợ” của các nhạc sĩ tiền chiến như Lê Thương, Lê Yên, Hoàng
Giác, Dzoãn Mẫn, Đoàn Chuẩn…, mà “đã trở thành não nề và đánh vào não tính“. Phạm
Duy nhìn thấy ảnh hưởng và dấu ấn khá rõ ràng của “Chủ nhật buồn” trong “Lời buồn
thánh”, một nhạc phẩm tân lãng mạn của Trịnh Công Sơn:
Chiều chủ nhật buồn,
Nằm trong căn gác đìu hiu,
Ôi tiếng hát xanh xao của một buổi chiều,
Trời mưa, trời mưa không dứt,
Ô hay mình vẫn cô liêu…
Nằm trong căn gác đìu hiu,
Ôi tiếng hát xanh xao của một buổi chiều,
Trời mưa, trời mưa không dứt,
Ô hay mình vẫn cô liêu…
Hoặc giả, vẫn là Trịnh Công Sơn, trong nỗi buồn của ngày Chủ
nhật mùa mưa ở “Tuổi đá buồn”:
Trời còn làm mưa, mưa rơi mênh mang,
Từng ngón tay buồn em mang em mang,
Đi về giáo đường, ngày Chủ nhật buồn…
Từng ngón tay buồn em mang em mang,
Đi về giáo đường, ngày Chủ nhật buồn…
Gần đây nhất, ở trong nước, nhóm nhạc AC&M - trong album
“Những ca khúc bất tử” - cũng đã đem lại một nét mới cho bản tình ca này, và
đây có lẽ cùng là lần đầu tiên sau 1975, “Chủ nhật buồn” chính thức xuất hiện ở
Việt Nam. Và, kể từ khi mạng Internet toàn cầu được phổ biến, giới trẻ Việt Nam
hiện nay cũng đã có dịp biết đến những huyền thoại, những mẩu chuyện - có khi rùng
rợn - xung quanh “bài ca chết người” này.
Cho dù không phải tất cả những thông tin vàng thau lẫn lộn ấy
trên mạng đều là xác tín, thì một bài ca ở thuở xa xưa, ra đời khi nền Tân nhạc
Việt Nam còn chưa chính thức xuất hiện, ngày nay đã đi vào sự hiểu biết của người
yêu nhạc Việt Nam một cách rộng rãi, như thế.
H.Linh
Theo các tư liệu Hungary
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét