Nhạc Lam Phương ghi dấu
trong lòng người nghe bởi sự chân thành, mộc mạc, bình dị như chính bản chất của
ông.
Và hơn hết, nó là tiếng
lòng của Lam Phương, phản chiếu số phận long đong, chơi vơi của ông từ lúc mới
lọt lòng…
“Kiếp nghèo”
17 tuổi, Lam
Phương cùng mẹ và 5 người em chen chúc trong một căn phòng trọ ọp ẹp, chật
vật tại khu lao động nghèo ở Đa Kao. 17 tuổi, Lam Phương thấm thía mọi cay đắng,
cơ cực mà mình và gia đình đang chịu đựng. Dường như đời ông lúc nào cũng nằm
trong vòng lẩn quẩn tối đen, niềm vui thì ít mà nỗi buồn luôn đong đầy. Nói
như Lam Phương, nó như ngọn “đèn khuya” thỉnh thoảng lóe lên rồi lại tắt và mịt
mùng trong màn đêm vô tận.
Kiếp nghèo - Lam Phương - Hoàng Oanh
Kiếp nghèo - ca khúc
đánh dấu tên tuổi Lam Phương trên con đường sáng tác chuyên nghiệp - mà ông
viết không lâu sau đó đã tham chiếu mọi ngõ ngách sâu kín nhất của trạng thái
cô đơn, bi đát trước đời sống hiện thực của ông khi đó: “Đi về giữa đêm
mưa, trong cái cư xá lầy lội, nghèo khổ, tôi thấy mình thật cô đơn, bé nhỏ và
hình như bị đời ruồng rẫy đến vô tình. Tôi đi mãi cho tới khi về nhà, không kịp
thay quần áo, ôm cây đàn và cứ thế viết về kiếp nghèo, về phận bạc của mình”.
Tên thật là Lâm Đình
Phùng, Lam Phương chào đời tại Rạch Giá, Kiên Giang vào năm 1937, là con trai
cả trong gia đình. Tuổi thơ Lam Phương sớm chìm ngập trong thiếu thốn, khó
khăn và vất vả vì cha ông rời bỏ gia đình từ khi Lam Phương còn rất nhỏ. Bảy
miệng ăn trong nhà vì thế oằn lên vai người mẹ nghèo lam lũ quanh năm. Cũng
vì thế, ông đã dồn hết tình thương cho người mẹ quê mùa nhưng chất phát,
nghèo nàn về vật chất nhưng giàu tình thương của mình. Bà đã trở thành ngọn
nguồn nuôi dưỡng cảm xúc, giúp Lam Phương viết rất nhiều những ca khúc nổi tiếng,
trong đó có Khóc mẹ. Ông đã không ít lần bật khóc nức nở khi nhắc đến
người mẹ thân yêu đã qua đời vào năm 1979: “Tôi thương má tôi lắm. Má
tôi là một người đàn bà quê mùa nhưng mà thực lòng thương tôi lắm. Con trai lớn
mà! Má tôi chỉ cần nói một câu thôi mà tôi đã ráng làm muốn chết luôn”.
Lên mười tuổi, cậu bé Lam
Phương giã từ mái tranh xơ xác nơi vùng quê nghèo, bươn bả lên Sài Gòn làm
thuê làm mướn. Cũng chính tại đây, nhạc sĩ Hoàng Lang đã gieo vào lòng Lam
Phương những nốt nhạc đầu tiên và khơi dậy trong ông nhạc cảm tuyệt vời.
Không chỉ học với thầy, Lam Phương còn tự mua sách vở chong đèn mày mò học
thêm. Về sau, ông còn được nhạc sĩ Lê Thương tận tâm truyền nghề.
Bút hiệu Lam Phương được
ông sử dụng từ ca khúc đầu tay Chiều thu ấy(khi ông 15 tuổi) cho tới những
nhạc phẩm cuối cùng trong đời. Theo cách lý giải của ông, nó rất giản dị và bắt
nguồn từ chính tên thật của mình. Lâm Đình Phùng gần như chỉ lấy họ và tên của
mình để ghép thành hai từ: Lam Phương. Chính từ cái tên gợi sự nhẹ nhàng ấy, nền
tân nhạc Việt Nam đã có một tên tuổi gắn với 217 nhạc khúc (theo thống kê của
Thời báo Canada) với nhiều chủ đề, đồng hành cùng nhiều thăng trầm của dân tộc
và thời cuộc.
Chiều thu ấy được Lam
Phương xem như một kỷ niệm suốt đời không thể nào quên. Ông viết ca khúc này
làm nhạc nền cho một vở kịch tại trường. Ít ai có thể tượng tượng một cậu bé
15 tuổi, độ tuổi còn đầy mộng mơ, hồn nhiên và rất con trẻ lại có thể viết được
những ca từ khắc khoải và nặng nợ với duyên phận tình yêu đến vậy. Sau đó, nó
đã được những ca sỹ nổi tiếng nhất của Tân nhạc Việt Nam thời kỳ đó thể hiện
như Bích Thủy, Túy Hồng. Tuy nhiên, không một nhà sản xuất âm nhạc nào lại
dám tin vào ca khúc của cậu học sinh nhỏ tuổi, với vốn nhạc lý tầm thường mà
bỏ tiền ra xuất bản. Vì thế, Lam Phương đã có một quyết định vô cùng táo bạo - là vay mượn bạn bè được 600 đồng (khi đó rất lớn) để tự in bản nhạc rồi
thuê xe lam chở đi giao ở các quầy hàng bán lẻ khắp Sài Gòn. Tuy cũng gỡ gạc
được vốn nhưng Chiều thu ấy vẫn chưa phải là bước đột phá đưa Lam
Phương bước chân vào thiên đường tân nhạc.
Lam Phương tâm sự ông
không sao quên được niềm ao ước của mẹ ông là có được một căn nhà nhỏ, tươm tất
cho bầy con đông đúc. Từ sự thúc đẩy đó, ông quyết tâm dùng con đường âm nhạc
làm phương tiện để làm vui lòng mẹ. 1955, khi đã tự mình làm dày kiến thức âm
nhạc, Lam Phương mới bắt đầu trở lại và lần này là sự trở lại đầy mạnh mẽ với
một sức sáng tạo thần kỳ cùng Kiếp nghèo, Chuyến đò vĩ tuyến, Nhạc rừng
khuya, Trăng thanh bình, Nắng đẹp miền Nam, Khúc ca ngày mùa…
Những năm kế tiếp, nhạc của
Lam Phương dàn trải trên nhiều thể loại phong phú và được đón nhận một cách nồng
nhiệt, có thể coi là một loại nhạc phổ thông tiêu biểu ở miền Nam, với lời lẽ
mộc mạc, âm điệu sáng trong, gần gũi với quần chúng như Chờ Người, Tình
Bơ Vơ, Duyên Kiếp, Thành Phố Buồn, Tình Chết Theo Mùa Đông, Thu Sầu, Nghẹn
Ngào, Trăm Nhớ Ngàn Thương,… Chính sự giản dị ấy đã khiến nhạc của ông in sâu
vào tâm hồn người nghe một cách dễ dàng và trở thành một hình thức văn chương
truyền khẩu đầy nhạc tính và được quần chúng thay đổi lời ca cho phù hợp với
một số tình huống xã hội tiêu biểu.
Thu Sầu - Lam Phương - Ngọc Lan
Cuối đời chống chếnh
Giữa năm 1960, Lam Phương
chuyển sang cộng tác với các đoàn kịch nổi tiếng lúc bấy giờ như Hoàng Lan,
Văn Phụng. Chính trong thời điểm này ông đã gặp và yêu Túy Hồng. Vốn là bạn
thân của anh trai Túy Hồng, những ngày thứ bảy và chủ nhật, Lam Phương thường
đến nhà bạn để hòa nhạc và dạy hát cho Túy Hồng cùng vài nữ sinh khác. Thời
điểm này, Lam Phương lại đang hợp tác với ban nhạc kịch lớn Dân Nam nên liền
đề nghị Túy Hồng cùng với mình “đầu quân” về đó làm việc. Kể từ đó, Túy Hồng
bắt đầu trình diễn các ca khúc của Lam Phương và rất thành công, nhất là hai
bản Chiều tàn và Phút cuối. Gần nhau lại hợp nhau về nghệ thuật
nên Lam Phương - Túy Hồng đã quyết định tiến tới hôn nhân, làm thành một cặp
đẹp đôi trong giới văn nghệ sĩ lúc bấy giờ.
Chiều tàn - Lam Phương - Trúc Mai
Phút cuối hiều tàn - Lam Phương - Bảo Yến
Sau 1975, vợ chồng Lam
Phương di cư sang Paris và có những tháng năm hạnh phúc ở đây. Vậy mà, mối
tình đẹp ấy cũng đến hồi tan vỡ. Trong sự khủng hoảng tình cảm đó, Lam Phương
đã sống những chuỗi ngày mang nặng u buồn.
Sau một thời gian dài, bước
qua đau khổ, Lam Phương đã tìm được nguồn an ủi ở một cuộc tình khác. Như ông
đã giãi bày thì cuộc tình thứ hai này là cuộc tình đẹp nhất trong đời ông.
Trong mười năm chung sống ít ỏi, người phụ nữ này đã mang đến cho ông một luồng
gió mới, ấm áp, yêu thương và vỗ về. Nhạc của Lam Phương vì thế trở nên tha
thiết hơn, trau chuốt hơn với Bài tango cho em, Ngày hạnh phúc, Cỏ úa,… từng
rất thành công với tiếng hát Lê Hiếu, Đan Trường, Hồ Ngọc Hà.
Năm 1995, Lam Phương sang
Mỹ định cư. Càng về già cuộc sống của ông càng thấm đẫm nỗi cô đơn. Năm 1999,
ông bị tai biến và liệt nửa thân người. Biến cố này khiến ông trở về với nỗi
bi quan tưởng chừng như đã có thể dứt bỏ được. Gần đây, sức khỏe của ông đã
khả quan hơn rất nhiều. Ông đã có thể chống gậy đi quanh căn nhà xinh xắn của
mình.
Thời gian vẫn cứ trôi, có
những điều đã có thể giãi bày nhưng cũng có không ít điều vì một vài lý do,
và vì dung lượng bài viết, chưa thể nói tỏ tường. Thế nhưng, tôi tin sự vươn
lên của Lam Phương trong đời sống là tấm gương sáng cho bất cứ ai và với những
gì đã cống hiến, ông xứng đáng là một trong những nhạc sĩ hàng đầu của nền
tân nhạc Việt Nam.
Cuộc đời nhiều đắng cay,
chua xót, tình yêu cũng không ít lần nghẹn ngào, phôi pha nhưng vẫn sáng
lên trong những bài hát của Lam Phương sự lãng mạn của một tâm hồn nhiều cảm
xúc.
Hoàng Dung
ĐỌC THÊM
Nhạc sĩ Lam Phương: Đời là
vạn ngày sầu
Trong số tất cả những nhạc
sĩ đứng ở trên đỉnh cao danh vọng của Tân nhạc Việt Nam giai đoạn 1954-1975
như Từ Công Phụng, Ngô Thụy Miên hay Vũ Thành An… có lẽ nhạc sĩ Lam Phương
chênh vênh, long đong và lận đận hơn hết thảy. Suốt cuộc đời nhạc sĩ tài hoa
này chỉ ngập trong vùng trời thương đau, nước mắt, chia ly và nỗi buồn. Nỗi
buồn theo Lam Phương từ lúc ông mới chạm ngõ bình minh cuộc đời cho tới khi tựa
ngọn đèn leo lắt tắt dần trước gió.
Nhạc sĩ Lam Phương (áo trắng)
trong một ngày vui cùng bạn hữu
15 tuổi đã khắc khoải và nặng
nợ với duyên phận tình yêu
Nhạc sĩ Lam Phương tên thật
là Lâm Đình Phùng, sinh ngày 20/03/1937 tại Rạch Giá Kiên Giang. Nội tổ của
ông chính là người Hoa, bỏ xứ lênh đênh sang Việt Nam lập nghiệp. Đời ông nội
của ông đã bắt đầu lai dòng máu Việt và đến bố ông thì vẻ ngoài chẳng còn
chút gì sót lại của bóng dáng của người gốc Hoa nữa.
Lam Phương sinh trưởng
trong một gia đình nghèo khó có sáu anh em, ông là anh cả. Bố đã rời bỏ gia
đình theo người đàn bà khác từ khi Lam Phương còn rất bé. Thậm chí, ông không
nhớ nổi mặt cha vì lớn lên chỉ biết có mẹ. Cả thời thơ ấu của Lam Phương chìm
ngập trong thiếu thốn, khó khăn và vất vả. Mẹ ông, người đàn bà tảo tần sớm
khuya, người nuôi dưỡng cảm xúc, giúp ông viết trọn rất nhiều những ca khúc
hay và là người mà mỗi khi Lam Phương nhắc đến đều không thể ngăn được nước mắt
tuôn rơi đã một tay chăm lo cho cả đại gia đình. “Tôi thương má tôi lắm. Má
tôi là một người đàn bà quê mùa nhưng mà thực lòng thương tôi lắm. Con trai lớn
mà! Má tôi chỉ cần nói một câu thôi mà tôi đã ráng làm muốn chết luôn”, ông
nhớ về má mình trong hồi ức ấm áp bồi hồi.
Mười tuổi, Lam Phương giã
từ mái nhà tranh xơ xác nơi vùng quê nghèo, lên Sài Gòn làm thuê kiếm tiền phụ
giúp mẹ nuôi các em. Ông ở trong khu lao động tối tăm, hàng ngày làm thuê,
làm mướn tất cả các nghề để có tiền đi học và gửi về cho mẹ. Đây cũng chính
là thời điểm Lam Phương phát hiện mình có một đam mê, tình yêu mãnh liệt và
nhạc cảm tuyệt vời. Ông tự mua sách vở chong đèn mày mò học nhạc sau giờ đi
làm. Rồi được hai nhạc sĩ Hoàng Lan và Lê Thương truyền nghề.
Bút hiệu Lam Phương được
ông sử dụng cho sáng tác ca khúc đầu tay Chiều thu ấy (khi ông 15
tuổi) cho tới những nhạc phẩm cuối cùng trong đời. Theo cách lý giải của ông,
nó rất giản dị và bắt nguồn từ chính tên thật của mình. Lâm Đình Phùng gần
như chỉ lấy họ và tên của mình để ghép thành hai từ: Lam Phương. Chính từ cái
tên gợi sự nhẹ nhàng ấy, Tân nhạc Việt Nam có một tên tuổi gắn với 217 nhạc
khúc (theo thống kê của Thời báo Canada) với nhiều chủ đề, đồng hành cùng nhiều
thăng trầm của dân tộc và thời cuộc.
Nói về ca khúc Chiều thu ấy,
Lam Phương coi nó như một hộp âm kỷ niệm suốt đời không thể nào quên. Ít ai
có thể tượng tượng một cậu bé 15 tuổi, độ tuổi còn đầy mộng mơ, hồn nhiên và
rất con trẻ lại có thể khắc khoải và nặng nợ với duyên phận tình yêu đến vậy.
Một tình khúc với lời ca khúc triết, đầy suy tư. Sau đó, nó đã được những ca
sỹ nổi tiếng nhất của Tân nhạc Việt Nam thời kỳ đó thể hiện như Bích Thủy,
Túy Hồng. Lúc này, Lam Phương đã có một quyết định- theo ông là liều lĩnh nhất
trong cuộc đời thanh niên đó là vay mượn bạn bè khắp nơi được 600 đồng (khi
đó rất lớn) để tự in bản nhạc rồi thuê xe lam chở đi giao ở các quầy hàng bán
lẻ khắp Sài Gòn. Tuy cũng gỡ gạc được vốn nhưng Chiều thu ấy vẫn chưa phải là
cú nổ đột phá để đưa Lam Phương chính thức có một tấm vé bước chân vào thiên
đường Tân nhạc.
Nhạc sĩ Lam Phương
Những bản nhạc tựa nửa hồn
thương đau
1955, sau ba năm âm thầm
và tự mình làm dày kiến thức âm nhạc, Lam Phương mới bắt đầu trở lại và lần
này là sự trở lại đầy mạnh mẽ với một sức sáng tạo thần kỳ. Ông tung ra một số
ca khúc làm nổ tung các sân khấu dành cho sinh viên, học sinh và nổi đình nổi
đám tại khắp các hang cùng ngõ hẻm Sài thành. Kiếp nghèo, Chuyến đò vĩ tuyến,
Nhạc rừng khuya, Trăng thanh bình, Nắng đẹp miền Nam, Khúc ca ngày mưa…lần lượt
được háo hức đón nhận và tung hô như một hiện tượng độc đáo trên bầu trời Tân
nhạc khi ấy.
Đặc biệt với ca khúc Kiếp
nghèo tựa tiếng lòng Lam Phương mà ngân vang đồng điệu với hàng triệu trái
tim sống cảnh túng quẫn, thiếu thốn khi đó “Mưa chẳng yêu kiếp sống mong
manh”. Ca khúc này được ông coi như một phiên bản tâm trạng, tham chiếu mọi
ngõ ngách sâu kín nhất trong trạng thái cô đơn, bất lực trước đời sống hiện
thực của ông khi đó: “Tôi sáng tác Kiếp nghèo trong hoàn cảnh thật. Đó là một
đêm mưa rất to, tôi đạp xe đi lang thang trong đêm, đi mãi mà không nhìn thấy
bất cứ một ngôi nhà nào để chạy vào xin nhờ trú mưa. Lúc đó, tôi thấy mình thật
cô đơn, thấy mình bé nhỏ và hình như bị đời ruồng rẫy đến vô tình. Tôi đi mãi
cho tới khi về nhà, không kịp thay quần áo, ôm cây đàn và cứ thế viết về Kiếp
nghèo, về phận bạc của mình”.
17 tuổi với Kiếp nghèo,
Lam Phương thấm thía mọi cay đắng và những cơ cực mà mình và gia đình đang phải
chịu đựng. Dường như, đời ông lúc nào cũng nằm sẵn trong vòng lẩn quẩn tối
đen, niềm vui thì ít mà nỗi buồn thì nhiều. Nói như Lam Phương nó cũng gần
tương tự ngọn đèn khuya thỉnh thoảng lóe lên trong tim rồi lại tắt và mịt
mùng trong màn đêm vô tận
Thứ âm nhạc bình dân, mộc
mạc được viết từ trải nghiệm cá nhân và hòa vào với bộn bề của không khí thời
đại đã trở thành tiếng ca mãnh liệt đến với đông đảo trái tim mọi người yêu
nhạc. Nhạc của Lam Phương có độ phủ rộng rãi, là lời đầu môi của nhiều bạn trẻ
theo suốt dọc dài đất nước. Ở đâu, nhất là trong các trường học, người ta
cũng cho học sinh, sinh viên hát nhạc Lam Phương. Những bài đồng ca tươi vui,
lành mạnh, đầy hào sảng như Nắng đẹp miền Nam hay Khúc ca ngày mưa có thể coi
là những sáng tác cởi mở của ông.
Ở giai đoạn đầu trong cuộc
đời Lam Phương dù không ít hơi thở bi ai thì vẫn như một lời tuyên thệ có giá
trị về vẻ đẹp quê hương và niềm tin chiến thắng vào một ngày đất nước được
toàn vẹn thanh bình. Trong dáng hình của những ca khúc ngập tràn hơi thở thời
đại ấy, người ta vẫn phác họa được chân dung của một kẻ sĩ nhìn đời bằng nửa
hồn thương đau, nửa hồn lạc quan, trong sáng.
Hồn nhạc là thứ trời cho
Chính cuộc đời đầy bóng
tối không có nhiều tia sáng ấy lại trở thành một động lực sống mãnh liệt
thôi thúc Lam Phương viết nhạc. Giữa lúc phong trào phản chiến, lối sống
Hippie và dòng nghệ thuật hiện sinh phát triển như vũ bão với nhiều tác phẩm
đầy ắp tiếng thở than, chỉ toàn một màu tro bụi thì âm nhạc Lam Phương lại
đi trở ngược những nguyên tắc và giá trị đầy khinh bạc cuộc đời ấy. Buồn lượm
vào đời từ nhỏ, nhưng nếu nghe kỹ các tác phẩm mà ông viết vẫn thấy một tin
yêu, một dấu vết của những khao khát hồi sinh trong đời.
Sau này, nhắc đến kỷ niệm
đi học nhạc của mình, Lam Phương vẫn bùi ngùi: “Tôi vẫn không bao giờ quên
câu mà ông thầy Lê Thương nói với mình khi buổi đầu tiên bước vào lớp học
nhạc: “Anh có thể dạy cho em tất cả kỹ thuật nhưng hồn nhạc thứ trời cho
thì anh không dạy được. Cái này chỉ phụ thuộc vào em” . “Buồn vì trời mưa
hay vì bão trong tim?”- Câu hát trong nhạc khúc của ông từng được đông đảo
thanh niên Sài Gòn trước 1975 yêu thích cũng là một câu hỏi lớn mà suốt đời
Lam Phương tìm kiếm nhưng vô vọng. Có lẽ trời đã đày một thiên tài rớt xuống
nhân gian, đã khiến một tâm hồn yếu đuối suốt đời phải rơi lệ, thống thiết
và nức nở mà chỉ biết gói gọn giãi bày trong những thang âm trầm bổng của
cung đàn.
Hương Giang
Lam Phương: Hỏi Người Còn Nhớ Ta Không? (1)
Lê
Văn Phúc
Trong tân nhạc, Lam
Phương là một tên tuổi được rất nhiều người yêu mến.
Người ta yêu mến anh không chỉ vì anh có những bản nhạc nổi tiếng mà quan
trọng hơn nữa, anh lại còn là con người hiền hoà, khiêm tốn nên chiếm được
cảm tình của mọi giới đồng bào.
Trung tuần tháng 10 năm
2004, vùng Hoa Thịnh Đốn sẽ có một buổi hội ngộ với nhạc sĩ Lam Phương qua
một chương trình âm nhạc thật đặc biệt.
Dịp này, Lam Phương dù không được khoẻ cũng cố gắng có mặt để gặp gỡ những
người thương mến anh.
Để bạn đọc hằng có thiện
cảm với Lam Phương biết thêm về cuộc đời của một nghệ sĩ từng làm rung động
không biết bao nhiêu con tim qua những nhạc phẩm tuyệt vời, chúng tôi xin
mượn dịp này để lần lượt nói về người nhạc sĩ tài hoa qua vài kỳ báo. Xin
chia làm 3 phần: Phần 1: Nhận xét của người trong giới văn nghệ,
Phần 2: Những bài ca nổi tiếng của Lam Phương,
Phần 3: Nói chuyện với Lam Phương qua “điện đàm” và “ bút đàm” những chuyện
riêng tư, chưa tiết lộ bao giờ…
PHẦN 1: NHẬN
XÉT CỦA GIỚI VĂN NGHỆ
Lam Phương tên thực là Lâm Đình Phùng, sinh năm 1937 tại làng Vĩnh Thanh
Vân, tỉnh Kiên Giang. Thiếu thời, gia đình nghèo khó, cha bỏ đi theo tiếng gọi
của con tim nên mẹ con sống cơ cực, bần hàn. Bởi thế, tình mẫu tử với anh rất
nặng, bao giờ anh cũng thương yêu và nhớ ơn mẹ suốt đời.
Cảnh nhà túng quẫn, anh phải lên Saigon làm mướn, gánh thuê để có tiền ăn học.
Vốn thích nhạc, anh dành tiền mua những bản nhạc về hát nghêu ngao sau những
giờ phút đổ mồ hôi.
Anh theo học nhạc sĩ
Hoàng Lang. Ông thầy thấy anh yêu nhạc mà lại quá nghèo nên dậy miễn
phí.
Anh thầm ước ao trở thành một nhạc sĩ nên khi chàng thiếu niên khởi sự sáng
tác thì bản đầu tay của anh là “Chiều thu ấy”. Không có nhà xuất bản nào chịu
mua nhưng anh không lấy thế làm nản lòng. Anh buồn nhưng không thất vọng,
tiếp tục tự học và tự nhủ rằng: Nhạc phải đáp ứng được sở thích của đại đa
số mới có cơ may bán trong tiệm sách, ngoài lề đường.
Về phần má của Lam
Phương, sau nhiều năm nhớ con nên cũng bán nốt khu vườn kỷ niệm, gom góp vốn
liếng lên Saigon, hai mẹ con mua một căn nhà ván nhỏ ở xóm Vạn Chài, sớm tối
mẹ con no đói có nhau.
Những ngày tháng nghèo khổ ấy đã tích lũy, làm “vốn liếng” cho Lam Phương
sáng tác bản “Kiếp nghèo”, đã được quần chúng đón nhận nồng nhiệt và báo
chí khen ngợi hết mình, vì đã diễn tả cùng cực một kiếp nghèo trong xã hội:
“ Đường về đêm nay vắng
tanh
Dạt dào hạt mưa rớt nhanh
Lạnh lùng mưa xuyên mái tranh
Mưa chẳng yêu kiếp sống mong manh
Lầy lội qua muôn lối quanh
Gập ghềnh đường đê tối tăm
Ngập ngừng dừng bên mái tranh
Nghe trẻ thơ thức giấc bùi ngùi…”
Đoạn cuối là một lời nguyện cầu:
“ Trời cao có thấu, cúi xin người ban phước cho đời con
Một mái tranh yêu, một mối tình chung thủy không hề phai
Và một ngày mai, mưa không nghe tiếng khóc trong đêm dài
Đây cả nỗi niềm, biết ngày nào ai thấu cho lòng ai…”
Một nhận xét mà ai cũng
công nhận là lời trong bản nhạc của Lam Phương rất bình dị, dễ nhớ, dễ hát,
dễ hiểu nên thường “bị” hay thường “được” người ta đổi lời. Bản nhạc nào được
đổi lời, thường là bài hát thành công.
Lam Phương có nhiều bài như thế.
Chẳng hạn như bài “Duyên
kiếp”:
“ Em ơi nếu mộng không thành thì sao?
Non cao đất rộng biết đâu mà tìm?…”
Thì được đổi ra
là:
“ Em ơi nếu bụng em phình thì sao?
Mua chai thuốc chuột uống cho rồi đời…”
Hoặc bài “Nắng đẹp miền
Nam” có câu:
“ Đến mai sẽ là ngày muôn hạt chín vàng tươi
Mình ngắm nhau cười”
Thì bị đổi ra là:
“Đến mai sẽ là ngày ông này lấy bà kia,
mình đứng ra rìa…”
Và còn nhiều lắm. Đây
cũng là đề tài để những cây cười Trần Văn Trạch, Tùng Lâm, Xuân Phát, Phi
Thoàn… đem ra diễu trong thoại kịch.
Lam Phương đã thành danh ngay từ khi còn ở dưới tuổi đôi mươi.
Rồi Lam Phương đến tuổi thi hành quân dịch, nhập ngũ năm 1958, phục vụ
trong Ban Tâm Lý Chiến Biệt Khu Thủ Đô. Hết thời hạn quân dịch năm sau, anh
tiếp tục sáng tác, sinh hoạt với các ban nhạc Đài Saigon và Đài Quân Đội, lập
Ban Kịch “Sống” với Túy Hồng, quy tụ nhiều nghệ sĩ tài danh cùng hợp tác,
trình diễn trên đài truyền hình.
Khi mất nước, anh đem
gia đình lên tầu Trường Xuân của thuyền trưởng Phạm Ngọc Lũy, tị nạn tại Mỹ.
Anh thay đổi chỗ ở khá
nhiều, khi thì Houston, Virginia. DC, khi thì Paris, Quận Cam bên
Cali.
Anh thích nhất Paris và yêu nhất là Garden Grove!
Khi tâm sự với nhà văn
Nguyễn ngọc Ngạn trên Thúy Nga Paris By Night, anh nói rằng thời gian ở
Paris là thời gian anh “tị nạn ái tình”. Bởi ở Paris có cuộc tình thực và bản
nhạc thực do anh viết ra, đưa dòng nhạc Lam Phương đến một khúc rẽ khác mới
mẻ, lạ tai. Sự chuyển hướng này, Lam Phương giải thích rằng xưa nay anh viết
nhạc theo nhu cầu của nhà xuất bản, các hãng thu đĩa, nghĩa là “theo đơn đặt
hàng” để sinh nhai. Nay, cuộc sống đã ổn định, anh viết nhạc cho chính
mình. Như các bài: Cho em quên tuổi ngọc, Bãi nắng, Như giấc chiêm bao, Mưa
lệ, Em đi rồi, Tình đau, Kiếp phiêu bồng…
Ở cái tuổi gần 60, Lam
Phương vẫn giữ được cái nét trẻ trung, đam mê. Và qua sự trình diễn của các
ca sĩ nổi tiếng đã nâng tiếng nhạc lời ca lên một cung bậc hấp dẫn và quyến
rũ hơn trước ánh đèn sân khấu: Ý Lan, Hương Lan, Như Quỳnh, Aùi Vân, Thái
Châu, Anh Khoa, Duy Quang, Phi Khanh, Hoàng Oanh…
Và người thưởng thức dù
khắt khe đến mấy cũng không thể nào quên được giọng hát Bạch Yến vút cao
khi ca bài “Cho em quên tuổi ngọc”!
Lam Phương là một tâm hồn đa dạng, ẩn núp sau cái cá tính bình dị , hiền
hoà là một tình yêu quê hương rất nồng nàn, thắm thiết, qua những bài hát
ca ngợi đồng quê, tình tự Việt Nam trong: Nắng đẹp miền Nam, Khúc ca ngày
mùa, Đường về quê hương, Trăng thanh bình, Chiều Tây Đô…
Lam Phương yêu đời quân
ngũ và thương những người lính chiến đấu gian khổ nơi đồn xa biên trấn nên
viết những bài thật là tuyệt vời như: Chiều hành quân, Tình anh lính chiến,
Đêm dài chiến tuyến…
Và chuyện tình của anh
thì coi như chiếm rất nhiều chỗ trong lòng, trên những dòng nhạc và lời ca,
phần lớn là buồn bã, đau thương, khắc khoải, đợi chờ…Như: Trên đỉnh đau
thương, Mộng Ước, Phút cuối, Tình nghĩa đôi ta chỉ thế thôi, Tình vẫn chưa
yên, Lầm, Bài Tango cho em, Tình đẹp như mơ, Từ ngày có em về…
Lam Phương sáng tác mạnh,
như diều gặp gió, bản nhạc của anh bán khắp miền Nam, nhạc của anh được ca
hát trên các đài phát thanh, đài truyền hình. Con đường anh theo đuổi đã
đem lại cho anh một món quà hi hữu: Anh đổi chiếc xe lambretta cũ, tậïu chiếc
“Pơ-Giô 403” và giã từ xóm Vạn Chài, hai mẹ con dọn về ở một căn nhà trong
cư xá Lữ Gia khang trang, rộng mát.
Thoát khỏi kiếp nghèo mạt
rệp, anh tiếp tục sáng tác, bán nhạc, mở đại nhạc hội, trình diễn những ca
khúc nổi tiếng.
Dù thành công vượt bực như thế nhưng anh cũng không tránh khỏi cái họa khi
lưu diễn miền Trung, bị người ta lừa đảo in vé giả bán hết sạch. Khán giả
ngồi coi đầy rạp mà ông bầu chẳng thu hoạch được bao nhiêu. Sau phải bán cả
cái xe hơi mới trang trải được nợ nần!
Thưa bạn đọc, trên đây
là vài nét vắn tắt về cuộc đời thăng trầm của nhạc sĩ Lam Phương.
Bây giờ, chúng ta nghe một
vài người trong giới văn nghệ bầy tỏ cảm nghĩ về người nhạc sĩ tài hoa
này.
Nguyễn Đình Toàn phát biểu
ngắn gọn:
“Con kênh đầy vơi với thủy
triều. Trước khi nước rút đi, nó phơi bầy đến cả sự khô cạn, như một tấm
lòng khi cho hết và cũng chẳng còn gì để che dấu. Lúc thủy triều trở lại,
kênh lại tràn đầy, nhảy bờ.
Nhạc của Lam Phương, tình ca của Lam Phương đầy ắp cái cho đi đã hết và chờ
đợi phút phục sinh để có thể cho đi thêm nữa…”
Vũ Anh viết về Lam
Phương:
“Tôi không thể viết để
vinh danh Lam Phương. Công trình này đã được dành cho nhiều bậc thức giả, một
số tổ chức văn hoá và những thính giả từng yêu và say mê nhạc của anh. Hơn
nữa, con số 40 năm cũng chưa thể nói hết được con đường mà Lam Phương đã
đóng góp, đã hiến dâng trọn đời mình cho nền tân nhạc Việt Nam, những đóng
góp đã thể hiện rất rõ ràng một tấm lòng và cái chất lãng mạn đặc thù của
người miền Nam Việt nam…”
Đoạn khác, Vũ Anh tâm sự:“
Suốt những năm tháng dài, chúng tôi gặp nhau trên sân quần vợt, người nào
cũng hoạt động trong giới báo chí hay truyền thông mà chẳng có người nào
nói chuyện với Lam Phương về âm nhạc. Chúng tôi chỉ nghe nhạc của anh và
coi anh như một nhạc sĩ mà mình ngưỡng mộ ở một thế giới hoàn toàn tách biệt
với môn thể thao mà chúng tôi ưa thích.
Phải nói một cách thành thực rằng, cả một công trình đóng góp to lớn của
Lam Phương vào sự phát triển của tân nhạc Việt Nam là những bàn cân còn nhẹ
nhàng đối với chúng tôi lúc đó. Chỉ đến khi chúng tôi đã nằm trong trại cải
tạo rồi, đã xa Lam Phương rồi, những giòng nhạc buồn mênh mang của anh mới
làm cho chúng tôi sống trọn vẹn những kỷ niệm của một thời. Những lúc bị đẩy
sâu vào trong đói khổ, tôi cứ tưởng là không còn cần tới những chất lãng mạn
như nhạc Lam Phương. Nhưng không phải thế. Bên cạnh những bản tù ca, bên cạnh
những lời nhạc hừng hực trong những đêm tranh đấu trong tù, đời sống lưu đầy
vẫn cần những cung bậc mượt mà và tài hoa mà Lam Phương đã thể hiện trong
những tác phẩm của anh…”
Và Vũ Anh đưa đến những
nhận xét về Lam Phương:“Cuộc đời khởi đi từ sự nghèo khổ của Lam Phương ở
tuổi chưa đầy 20 bằng những giai điệu đầy lãng mạn này khiến nó không trở
thành một thứ tình cảm buồn đến tuyệt vọng. Ngược lại, đó là một lời than
thở nhẹ nhàng, một lời trách móc gửi đi cho gió. Những kỷ niệm ấy vẫn còn lắng
đọng trong tâm tư của con người đã ngụp lặn trong sóng gió của lịch sử và của
cuộc đời mình. Nó không hề gây cho anh một lòng thù hận nào đối với xã hội,
bởi vì tài năng dã làm cho cái nghèo ấy trở thành những hình ảnh lãng mạn.
Những tác phẩm giá trị đã làm cho tên tuổi của anh bừng sáng và đem lại cho
anh một số thu hoạch đáng kể..
Nói đến những giai đoạn của lịch sử đất nước, Lam Phương cũng được các nhà
phê bình xếp vào loại các nhạc sĩ có cuộc sống thành thực, không trốn tránh
trách nhiệm của trai thời chiến. Lam Phương viết những nhạc phẩm về người
đi chiến đấu, thấp thoáng như những bi hùng ca. Nó là bức tranh thủy mặc về
cuộc chiến, vẫn muốn chiến tranh không thể phá tan hy vọng của con người.
Dòng nhạc Lam Phương là hình ảnh bi hùng của người lính chiến đậm nét tình
tứ của âm điệu Boléro. Nghe như đâu đó trên quê hương, chiến tranh là một
điều đáng buồn, là tiếng kêu thảng thốt của cả một dân tộc chứ không riêng
gì cho một miền Nam.
Trong những ngày tháng đầy
rẫy khó khăn mà bất cứ người lưu vong nào cũng phải đương đầu, từ những cay
đắng bị bứng bật gốc rễ cho đến nhữn khắc khoải của nỗi sầu viễn xứ, Lam
Phương còn phải trải qua những kinh nghiệm chua chát của riêng anh.
Những gì anh đã trải qua, đã sống chính là những bối cảnh giúp cho Lam
Phương đa dạng hoá những sáng tác của anh.
Lam Phương nói rằng số sáng tác cuả anh so với những nhạc sĩ khác không đồ
sộ như nhiều người tưởng.
Sở dĩ nhạc của anh được nhắc nhở nhiều vì lời ca lãng mạn mà bình dị khiến
cho khó có ai quên…”
Nhà văn Duyên Anh đã có
những cảm nghĩ, so sánh về con người Lam Phương nghệ sĩ.
Chúng ta hãy nghe Duyên
Anh bầy tỏ qua những trích đoạn sau đây:
“…Tôi muốn ví Lam Phương
với Lục Vân Tiên.
Miền Nam là quê hương của vọng cổ. Thoại kịch và tân nhạc xem chừng rất xa
lạ với người miềân Nam trước năm 1954. Tôi không rõ những năm kháng chiến
chống Pháp ngoài Hoàng Hiệp, Trần Kiết Tường, Quốc Hương còn những ai. Hình
như, tiền chiến – hiểu là tiền đệ nhị thế chiến – chỉ có Mỹ Ca với nhạc phẩm
Dạ Khúc duy nhất. Lưu hữu Phước và Mai văn Bộ. Khoảng thời gian từ 1948 đến
1953, nhạc sĩ Trần văn Nhơn, chuyên viên kỹ thuật của đài phát thanh Hà Nội,
đã sáng tác Hà Nội 49, Aûo Aûnh Chiều Thu, Saigon Xa Hoa. Trần văn Nhơn,
người Saigon ra Hà Nọi làm việc. Tôi biết thêm Văn Thủy với nhạc phẩm Dứt
Đường Tơ, Anh Việt với Lỡ Chuyến Đò, Bến Cũ. Sau những nhạc sĩ kể trên là
Lam Phương. Mười lăm tuổi, Lam Phương viết nhạc phẩm Chiều Thu Aáy . Lam
Phương thành công ngay bằng ca khúc đầu đời. Thuở ấy, năm 1952, nam ca sĩ
Trọng Nghĩa và nữ ca sĩ Ngọc Hà là hai giọng ca sáng giá của đài phát thanh
Pháp Á. Hai ca sĩ này và Bích Thủy đã truyền đạt bản thông điệp tình yêu thứ
nhất của cậu học trò Lâm đình Phụng trên làn sóng điện liên tiếp mấy
tháng.
Chiều Thu Ấáy là buổi chiều thu đưa cậu học trò Lâm đình Phùng vào lối nhạc
để biến cậu thành Lam Phương (Ghi chú của người viết: Tại sao có tên Lam
Phương? Đón đọc phần 3 của loạt bài này).
Biển sóng vọng cổ đã bốc
lên một vệt khói tân nhạc. Và vệt khói ấy làm cay mắt tuổi trẻ thành thị.
Những ngưởi tuổi trẻ thành thị bắt đầu yêu nhạc mới. Họ cũng bắt đầu hiểu
những rung động của thời đại họ không còn nằm ở trái tim vọng cổ, xàng xê.
Cái đàn ngũ huyền phím trũng nẩy những giọt ca ủ ê quá. Nó chỉ hoài vọng một
dĩ vãng đau thương mà không thể thôi thúc một lên đường cho tương
lai.
Cầm thiết một cây đàn lục
huyền cầm, những hành khúc và những nhịp điệu reo mừng ánh sáng.
Nhạc sĩ Văn Thủy chả kêu
gọi dứt đường tơ, dứt những đường tơ “đày vơi cung oán mơ mộng” đó sao.
Không còn gì mỉa mai hơn khi đất nước đang chiến tranh, khi máu cuả dân tộc
đang thấm quê hương mà cứ rên rỉ chuyện tình Trương quân Thụy – Thôi Oanh
Oanh. Lịch sử đấu tranh được đánh thức bởi học trò Trần văn Ơn và rồi được
dục đã thoát ra con ngõ buồn tênh cổ nhạc bởi ca khúc Lam Phương. Cậu Lam
Phương không ngờ, lúc ấy và ngay cả ngày hôm nay, cậu đã phát động phong
trào hát và nghe tân nhạc ở miền Nam.
Hãy để Lam Phương khiêm
tốn lắc đầu từ chối. Chàng luôn luôn khiêm tốn, bảo chàng đã mời gọi tuổi
trẻ thành thị miền Nam hát và nghe tân nhạc, chàng cũng không dám nhận. Thực
ra, Lam Phương đã phát động một phong trào. Từ trường học, ở những liên
hoan mừng xuân hay ngày hè tạm biệt, cây lục huyền cầm đã lấn lướt cây ngũ
huyền cầm.
Nhạc Hoàng Quý, Hoàng Trọng,
Đoàn Chuẩn, Phạm Duy, Ngọc Bích ào ạt vào Saigon. Chương trình âm nhạc của
đài Pháp Á tăng lên. Người ta tổ chức thi tuyển lựa ca sĩ hàng tuần tại rạp
Norodom. Cậu Lâm đình Phụng, học trò trường Les Lauriers sáng tác ca khúc
thứ hai: Trăng thanh bình. Đến năm 1954, Khúc ca ngày mùa thì Lam Phương trở
thành hoàng tử của tân nhạc miền Nam. Vẫn một mình cậu sáng tác nhạc và lời.
Lời cậu đơn giản. Nhạc cậu bình dị. Đơn giản và bình dị là bản chất miền
Nam.
Nhờ ban Sầm Giang của Trần
văn Trạch phổ biến nồng nhiệt trên các làn sóng điện, nhạc Lam Phương lênh
đênh theo dòng Tiền Giang, Hậu Giang, chảy vô nghìn nhánh sông nhỏ, vạn con
kinh bé đổ vào tâm hồn nông dân Nam Bộ. Nếu thôn quê miền Bắc thơm ngát nhạc
Phạm Duy thì thôn quê miền Nam ngọt bùi âm nhạc Lam Phương trong tân cổ
giao duyên của các vở tuồng cải lương.
Và đó, Lam Phương nằm giữa trái tim Nam Bộ, câu giải thích rõ ràng.
Người già kể Lục Vân Tiên:
Nói thôi trao chiếc trâm vàng
Gọi là vật nhỏ tặng chàng làm tin
Vân Tiên ngoảnh mặt chẳng nhìn
Nguyệt Nga lúc ấy càng nhìn nết na
Thưa rằng “Vật mọn gọi là
Thiếp phần chưa dứt chàng đà làm ngơ
Của này dù của vất vơ
Lòng chê cũng đáng, mặt ngơ sau đành
Vân Tiên khó đỗi làm thinh
Chữ ân buộc với chữ tình một giây…
…Nếu bạn được nghe kể Lục vân Tiên dưới ánh trăng bên bờ kinh, giữa trưa hè
trong vườn vắng, bạn mới hiểu tâm hồn đất mới, thứ tâm hồn của “Tình nghĩa ấy
mộc mạc và cung cách tỏ tình cũng mộc mạc”. Như Kiều Nguyệt Nga của Lục vân
Tiên.
Rời xa điệu hò lơ, tiếng ru ù ơ, câu kể Lục vân Tiên, lời vọng cổ, khúc thủ
phong nguyệt, đoạn Lý Ngựa Ô là rời xa tình tự miền Nam. Và mất chất miền
Nam.
Lam Phương, thuở ban đầu của âm nhạc là Lam Phương thuần hương vị miền Nam.
Dân chúng đón tiếp anh như nhánh sông đón tiếp phù sa của Hậu Giang. Phù sa
âm nhạc Lam Phương bảng lảng âm điệu hai trăm năm đất mới. Anh gần gũi người
miền Nam vì anh cảm xúc niềm xúc cảm của người miền Nam.
Âm nhạc Lam Phương ví
như con thuyền chở đầy trăng nhẹ trôi trên mặt sông Tiền, sông Hậu. Nó buồn
vui cái buồn vui của Kiều Nguyệt Nga, Lục Vân Tiên. Nó được hát bởi những
giọng kể Lục Vân Tiên đơn sơ và đôn hậu.
Cả triệu người đã say mê nhạc Lam Phương. Nhạc Lam Phương lãng đãng trên đồng
luá bát ngát, trên sông nước mênh mông. Nó từ ngõ hẻm thành phố về đường
mòn thôn ổ. Nó trong trường học. Nó ngoài chiến trường. Nó xanh mắt thanh niên.
Nó hồng môi thiếu nữ. Luôn luôn bình dị. Mãi mãi Lục Vân Tiên.
Hãy ví Lam Phương như Lục Vân Tiên đi…
Niềm mong ước của tôi, của những người yêu mến Lam Phương là, ngày nào đó,
anh tìm lại Kiều Nguyệt Nga, đứng trên bờ sông tâm tưởng cũ, mở lối về nguồn,
khơi vết trăm nhánh nghìn con.
Để dân tộc có nhiều, thật nhiều ca khúc mang hơi thở nồng nàn, đôn hậu, xao
xuyến, bồi hồi của miền Nam yêu dấu”. Duyên Anh.
Đoạn cuối của phần này
là nhận xét của nhà văn Nguyễn Ngọc Ngạn từ Canada, tháng 7 năm 1992. Anh
viết:
“Thuở miền Nam thanh
bình, anh có “Khúc Ca Ngày Mùa” cả nước cùng hát. Lúc quê hương đi vào cuộc
chiến, âm nhạc của anh cũng từ giã thành thị, len lỏi theo bước chân người
đi giữ nước. Anh rung cảm cùng “Tình Anh Lính Chiến” trong những buổi “Chiều
Hành Quân” vừa gian nan vừa oai hùng. Hát nhạc Lam Phương, người ta dễ dàng
nhận ra tấm lòng chan hoà của anh, khao khát được chia sẻ thăng trầm với mọi
cảnh đời chung quanh. Bài tango “Kiếp Nghèo” không thể là những cảm xúc giả
tạo. Nỗi bâng khuâng của “Ngày Tạm biệt” không thể là những xao xuyến vay
mượn. Phải xuất phát từ một tâm hồn nghệ sĩ có trái tim độ lượng đích thực,
mới cho đời được những dòng nhạc như thế.
Ra hải ngoại, Lam Phương
không dừng lại. Khung cảnh xã hội mới, những khắt khe của cuộc sống xứ người,
những xáo trộn bất thường về tình cảm, ở Lam Phương, không ảnh hưởng đến khả
năng của người nghệ sĩ, mà ngược lại, làm phong phú thêm vốn liếng sáng tạo.
Anh vẫn viết đều, miệt mài đưa ra hàng loạt tác phẩm mới trong điều kiện phổ
biến khó khăn hơn, bởi cộng đồng người Việt trải rộng khắp năm châu.
Từ khoảng 81, 82 tôi đã
được nghe một loạt tình ca của anh viết ở Paris. Có lúc thấy anh buồn vì
“Tình Vẫn Chưa Yên”. Vài năm sau lại thấy anh vui, có lẽ bởi vì “Từ Ngày Có
Em Về” đã làm nguồn hứng gần gũi để anh viết “Bài Tango Cho Em” rất đặc sắc.
Trong lúc nhiều nhạc sĩ trước 75 đã rút lui vào hậu trường thì Lam Phương vẫn
là điểm sáng trên sân khấu hải ngoại rộng lớn.
Gần đây nhất,anh cho người yêu nhạc một loạt tặng phẩm quí, gói ghém trong
hai mươi tình khúc mới. Đợt tình ca có những bản nhạc đã nhanh chóng trở
thành niềm yêu thương của người sành điệu. Từ “Em Đi Rồi” đến “Cỏ Úa”, đã
được thâu trong băng Thúy Nga cho tôi thấy dòng nhạc sung mãn của Lam
Phương như một nguồn suối bất tận, chẩy mãi, cống hiến mãi không ngừng nghỉ.
Tôi không hy vọng, qua
vài lời giới thiệu ngắn ngủi của tôi, có thể nói lên được một phần những
công trình lớn lao trong vườn hoa âm nhạc của Lam Phương. Mấy dòng mạo muội
này, chỉ hoàn toàn để bầy tỏ một cách chủ quan lòng quí trọng và ngưỡng phục
đối với người nghệ sĩ đã đóng góp cho nhạc Việt Nam bốn thập niên qua, những
tác phẩm có giá trị nhất định mà mãi mãi người đời sẽ ghi nhận.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét