Thứ Năm, 26 tháng 11, 2015

Nhạc sĩ Lam Phương: Một đời thăng trầm

Nhạc sĩ Lam Phương: Một đời thăng trầm
Nhạc Lam Phương ghi dấu trong lòng người nghe bởi sự chân thành, mộc mạc, bình dị như chính bản chất của ông.
Và hơn hết, nó là tiếng lòng của Lam Phương, phản chiếu số phận long đong, chơi vơi của ông từ lúc mới lọt lòng…
“Kiếp nghèo”
17 tuổi, Lam Phương cùng mẹ và 5 người em chen chúc trong một căn phòng trọ ọp ẹp, chật vật tại khu lao động nghèo ở Đa Kao. 17 tuổi, Lam Phương thấm thía mọi cay đắng, cơ cực mà mình và gia đình đang chịu đựng. Dường như đời ông lúc nào cũng nằm trong vòng lẩn quẩn tối đen, niềm vui thì ít mà nỗi buồn luôn đong đầy. Nói như Lam Phương, nó như ngọn “đèn khuya” thỉnh thoảng lóe lên rồi lại tắt và mịt mùng trong màn đêm vô tận.
Kiếp nghèo - Lam Phương - Hoàng Oanh
Kiếp nghèo - ca khúc đánh dấu tên tuổi Lam Phương trên con đường sáng tác chuyên nghiệp - mà ông viết không lâu sau đó đã tham chiếu mọi ngõ ngách sâu kín nhất của trạng thái cô đơn, bi đát trước đời sống hiện thực của ông khi đó: “Đi về giữa đêm mưa, trong cái cư xá lầy lội, nghèo khổ, tôi thấy mình thật cô đơn, bé nhỏ và hình như bị đời ruồng rẫy đến vô tình. Tôi đi mãi cho tới khi về nhà, không kịp thay quần áo, ôm cây đàn và cứ thế viết về kiếp nghèo, về phận bạc của mình”.
Tên thật là Lâm Đình Phùng, Lam Phương chào đời tại Rạch Giá, Kiên Giang vào năm 1937, là con trai cả trong gia đình. Tuổi thơ Lam Phương sớm chìm ngập trong thiếu thốn, khó khăn và vất vả vì cha ông rời bỏ gia đình từ khi Lam Phương còn rất nhỏ. Bảy miệng ăn trong nhà vì thế oằn lên vai người mẹ nghèo lam lũ quanh năm. Cũng vì thế, ông đã dồn hết tình thương cho người mẹ quê mùa nhưng chất phát, nghèo nàn về vật chất nhưng giàu tình thương của mình. Bà đã trở thành ngọn nguồn nuôi dưỡng cảm xúc, giúp Lam Phương viết rất nhiều những ca khúc nổi tiếng, trong đó có Khóc mẹ. Ông đã không ít lần bật khóc nức nở khi nhắc đến người mẹ thân yêu đã qua đời vào năm 1979: “Tôi thương má tôi lắm. Má tôi là một người đàn bà quê mùa nhưng mà thực lòng thương tôi lắm. Con trai lớn mà! Má tôi chỉ cần nói một câu thôi mà tôi đã ráng làm muốn chết luôn”.
Lên mười tuổi, cậu bé Lam Phương giã từ mái tranh xơ xác nơi vùng quê nghèo, bươn bả lên Sài Gòn làm thuê làm mướn. Cũng chính tại đây, nhạc sĩ Hoàng Lang đã gieo vào lòng Lam Phương những nốt nhạc đầu tiên và khơi dậy trong ông nhạc cảm tuyệt vời. Không chỉ học với thầy, Lam Phương còn tự mua sách vở chong đèn mày mò học thêm. Về sau, ông còn được nhạc sĩ Lê Thương tận tâm truyền nghề.
Bút hiệu Lam Phương được ông sử dụng từ ca khúc đầu tay Chiều thu ấy(khi ông 15 tuổi) cho tới những nhạc phẩm cuối cùng trong đời. Theo cách lý giải của ông, nó rất giản dị và bắt nguồn từ chính tên thật của mình. Lâm Đình Phùng gần như chỉ lấy họ và tên của mình để ghép thành hai từ: Lam Phương. Chính từ cái tên gợi sự nhẹ nhàng ấy, nền tân nhạc Việt Nam đã có một tên tuổi gắn với 217 nhạc khúc (theo thống kê của Thời báo Canada) với nhiều chủ đề, đồng hành cùng nhiều thăng trầm của dân tộc và thời cuộc.
Chiều thu ấy được Lam Phương xem như một kỷ niệm suốt đời không thể nào quên. Ông viết ca khúc này làm nhạc nền cho một vở kịch tại trường. Ít ai có thể tượng tượng một cậu bé 15 tuổi, độ tuổi còn đầy mộng mơ, hồn nhiên và rất con trẻ lại có thể viết được những ca từ khắc khoải và nặng nợ với duyên phận tình yêu đến vậy. Sau đó, nó đã được những ca sỹ nổi tiếng nhất của Tân nhạc Việt Nam thời kỳ đó thể hiện như Bích Thủy, Túy Hồng. Tuy nhiên, không một nhà sản xuất âm nhạc nào lại dám tin vào ca khúc của cậu học sinh nhỏ tuổi, với vốn nhạc lý tầm thường mà bỏ tiền ra xuất bản. Vì thế, Lam Phương đã có một quyết định vô cùng táo bạo - là vay mượn bạn bè được 600 đồng (khi đó rất lớn) để tự in bản nhạc rồi thuê xe lam chở đi giao ở các quầy hàng bán lẻ khắp Sài Gòn. Tuy cũng gỡ gạc được vốn nhưng Chiều thu ấy vẫn chưa phải là bước đột phá đưa Lam Phương bước chân vào thiên đường tân nhạc.
Lam Phương tâm sự ông không sao quên được niềm ao ước của mẹ ông là có được một căn nhà nhỏ, tươm tất cho bầy con đông đúc. Từ sự thúc đẩy đó, ông quyết tâm dùng con đường âm nhạc làm phương tiện để làm vui lòng mẹ. 1955, khi đã tự mình làm dày kiến thức âm nhạc, Lam Phương mới bắt đầu trở lại và lần này là sự trở lại đầy mạnh mẽ với một sức sáng tạo thần kỳ cùng Kiếp nghèo, Chuyến đò vĩ tuyến, Nhạc rừng khuya, Trăng thanh bình, Nắng đẹp miền Nam, Khúc ca ngày mùa…
Những năm kế tiếp, nhạc của Lam Phương dàn trải trên nhiều thể loại phong phú và được đón nhận một cách nồng nhiệt, có thể coi là một loại nhạc phổ thông tiêu biểu ở miền Nam, với lời lẽ mộc mạc, âm điệu sáng trong, gần gũi với quần chúng như Chờ Người, Tình Bơ Vơ, Duyên Kiếp, Thành Phố Buồn, Tình Chết Theo Mùa Đông, Thu Sầu, Nghẹn Ngào, Trăm Nhớ Ngàn Thương,… Chính sự giản dị ấy đã khiến nhạc của ông in sâu vào tâm hồn người nghe một cách dễ dàng và trở thành một hình thức văn chương truyền khẩu đầy nhạc tính và được quần chúng thay đổi lời ca cho phù hợp với một số tình huống xã hội tiêu biểu.
Thu Sầu - Lam Phương - Ngọc Lan
Cuối đời chống chếnh
Giữa năm 1960, Lam Phương chuyển sang cộng tác với các đoàn kịch nổi tiếng lúc bấy giờ như Hoàng Lan, Văn Phụng. Chính trong thời điểm này ông đã gặp và yêu Túy Hồng. Vốn là bạn thân của anh trai Túy Hồng, những ngày thứ bảy và chủ nhật, Lam Phương thường đến nhà bạn để hòa nhạc và dạy hát cho Túy Hồng cùng vài nữ sinh khác. Thời điểm này, Lam Phương lại đang hợp tác với ban nhạc kịch lớn Dân Nam nên liền đề nghị Túy Hồng cùng với mình “đầu quân” về đó làm việc. Kể từ đó, Túy Hồng bắt đầu trình diễn các ca khúc của Lam Phương và rất thành công, nhất là hai bản Chiều tàn và Phút cuối. Gần nhau lại hợp nhau về nghệ thuật nên Lam Phương - Túy Hồng đã quyết định tiến tới hôn nhân, làm thành một cặp đẹp đôi trong giới văn nghệ sĩ lúc bấy giờ.
Chiều tàn - Lam Phương - Trúc Mai
Phút cuối hiều tàn - Lam Phương - Bảo Yến
Sau 1975, vợ chồng Lam Phương di cư sang Paris và có những tháng năm hạnh phúc ở đây. Vậy mà, mối tình đẹp ấy cũng đến hồi tan vỡ. Trong sự khủng hoảng tình cảm đó, Lam Phương đã sống những chuỗi ngày mang nặng u buồn.
Sau một thời gian dài, bước qua đau khổ, Lam Phương đã tìm được nguồn an ủi ở một cuộc tình khác. Như ông đã giãi bày thì cuộc tình thứ hai này là cuộc tình đẹp nhất trong đời ông. Trong mười năm chung sống ít ỏi, người phụ nữ này đã mang đến cho ông một luồng gió mới, ấm áp, yêu thương và vỗ về. Nhạc của Lam Phương vì thế trở nên tha thiết hơn, trau chuốt hơn với Bài tango cho em, Ngày hạnh phúc, Cỏ úa,… từng rất thành công với tiếng hát Lê Hiếu, Đan Trường, Hồ Ngọc Hà.
Năm 1995, Lam Phương sang Mỹ định cư. Càng về già cuộc sống của ông càng thấm đẫm nỗi cô đơn. Năm 1999, ông bị tai biến và liệt nửa thân người. Biến cố này khiến ông trở về với nỗi bi quan tưởng chừng như đã có thể dứt bỏ được. Gần đây, sức khỏe của ông đã khả quan hơn rất nhiều. Ông đã có thể chống gậy đi quanh căn nhà xinh xắn của mình.
Thời gian vẫn cứ trôi, có những điều đã có thể giãi bày nhưng cũng có không ít điều vì một vài lý do, và vì dung lượng bài viết, chưa thể nói tỏ tường. Thế nhưng, tôi tin sự vươn lên của Lam Phương trong đời sống là tấm gương sáng cho bất cứ ai và với những gì đã cống hiến, ông xứng đáng là một trong những nhạc sĩ hàng đầu của nền tân nhạc Việt Nam.
Cuộc đời nhiều đắng cay, chua xót, tình yêu cũng không ít lần nghẹn ngào, phôi pha nhưng vẫn sáng lên trong những bài hát của Lam Phương sự lãng mạn của một tâm hồn nhiều cảm xúc.
Hoàng Dung 
ĐỌC THÊM
Nhạc sĩ Lam Phương: Đời là vạn ngày sầu
Trong số tất cả những nhạc sĩ đứng ở trên đỉnh cao danh vọng của Tân nhạc Việt Nam giai đoạn 1954-1975 như Từ Công Phụng, Ngô Thụy Miên hay Vũ Thành An… có lẽ nhạc sĩ Lam Phương chênh vênh, long đong và lận đận hơn hết thảy. Suốt cuộc đời nhạc sĩ tài hoa này chỉ ngập trong vùng trời thương đau, nước mắt, chia ly và nỗi buồn. Nỗi buồn theo Lam Phương từ lúc ông mới chạm ngõ bình minh cuộc đời cho tới khi tựa ngọn đèn leo lắt tắt dần trước gió.
Nhạc sĩ Lam Phương (áo trắng) trong một ngày vui cùng bạn hữu
15 tuổi đã khắc khoải và nặng nợ với duyên phận tình yêu
Nhạc sĩ Lam Phương tên thật là Lâm Đình Phùng, sinh ngày 20/03/1937 tại Rạch Giá Kiên Giang. Nội tổ của ông chính là người Hoa, bỏ xứ lênh đênh sang Việt Nam lập nghiệp. Đời ông nội của ông đã bắt đầu lai dòng máu Việt và đến bố ông thì vẻ ngoài chẳng còn chút gì sót lại của bóng dáng của người gốc Hoa nữa.
Lam Phương sinh trưởng trong một gia đình nghèo khó có sáu anh em, ông là anh cả. Bố đã rời bỏ gia đình theo người đàn bà khác từ khi Lam Phương còn rất bé. Thậm chí, ông không nhớ nổi mặt cha vì lớn lên chỉ biết có mẹ. Cả thời thơ ấu của Lam Phương chìm ngập trong thiếu thốn, khó khăn và vất vả. Mẹ ông, người đàn bà tảo tần sớm khuya, người nuôi dưỡng cảm xúc, giúp ông viết trọn rất nhiều những ca khúc hay và là người mà mỗi khi Lam Phương nhắc đến đều không thể ngăn được nước mắt tuôn rơi đã một tay chăm lo cho cả đại gia đình. “Tôi thương má tôi lắm. Má tôi là một người đàn bà quê mùa nhưng mà thực lòng thương tôi lắm. Con trai lớn mà! Má tôi chỉ cần nói một câu thôi mà tôi đã ráng làm muốn chết luôn”, ông nhớ về má mình trong hồi ức ấm áp bồi hồi.
Mười tuổi, Lam Phương giã từ mái nhà tranh xơ xác nơi vùng quê nghèo, lên Sài Gòn làm thuê kiếm tiền phụ giúp mẹ nuôi các em. Ông ở trong khu lao động tối tăm, hàng ngày làm thuê, làm mướn tất cả các nghề để có tiền đi học và gửi về cho mẹ. Đây cũng chính là thời điểm Lam Phương phát hiện mình có một đam mê, tình yêu mãnh liệt và nhạc cảm tuyệt vời. Ông tự mua sách vở chong đèn mày mò học nhạc sau giờ đi làm. Rồi được hai nhạc sĩ Hoàng Lan và Lê Thương truyền nghề.
Bút hiệu Lam Phương được ông sử dụng cho sáng tác ca khúc đầu tay Chiều thu ấy (khi ông 15 tuổi) cho tới những nhạc phẩm cuối cùng trong đời. Theo cách lý giải của ông, nó rất giản dị và bắt nguồn từ chính tên thật của mình. Lâm Đình Phùng gần như chỉ lấy họ và tên của mình để ghép thành hai từ: Lam Phương. Chính từ cái tên gợi sự nhẹ nhàng ấy, Tân nhạc Việt Nam có một tên tuổi gắn với 217 nhạc khúc (theo thống kê của Thời báo Canada) với nhiều chủ đề, đồng hành cùng nhiều thăng trầm của dân tộc và thời cuộc.
Nói về ca khúc Chiều thu ấy, Lam Phương coi nó như một hộp âm kỷ niệm suốt đời không thể nào quên. Ít ai có thể tượng tượng một cậu bé 15 tuổi, độ tuổi còn đầy mộng mơ, hồn nhiên và rất con trẻ lại có thể khắc khoải và nặng nợ với duyên phận tình yêu đến vậy. Một tình khúc với lời ca khúc triết, đầy suy tư. Sau đó, nó đã được những ca sỹ nổi tiếng nhất của Tân nhạc Việt Nam thời kỳ đó thể hiện như Bích Thủy, Túy Hồng. Lúc này, Lam Phương đã có một quyết định- theo ông là liều lĩnh nhất trong cuộc đời thanh niên đó là vay mượn bạn bè khắp nơi được 600 đồng (khi đó rất lớn) để tự in bản nhạc rồi thuê xe lam chở đi giao ở các quầy hàng bán lẻ khắp Sài Gòn. Tuy cũng gỡ gạc được vốn nhưng Chiều thu ấy vẫn chưa phải là cú nổ đột phá để đưa Lam Phương chính thức có một tấm vé bước chân vào thiên đường Tân nhạc.
Nhạc sĩ Lam Phương
Những bản nhạc tựa nửa hồn thương đau
1955, sau ba năm âm thầm và tự mình làm dày kiến thức âm nhạc, Lam Phương mới bắt đầu trở lại và lần này là sự trở lại đầy mạnh mẽ với một sức sáng tạo thần kỳ. Ông tung ra một số ca khúc làm nổ tung các sân khấu dành cho sinh viên, học sinh và nổi đình nổi đám tại khắp các hang cùng ngõ hẻm Sài thành. Kiếp nghèo, Chuyến đò vĩ tuyến, Nhạc rừng khuya, Trăng thanh bình, Nắng đẹp miền Nam, Khúc ca ngày mưa…lần lượt được háo hức đón nhận và tung hô như một hiện tượng độc đáo trên bầu trời Tân nhạc khi ấy.
Đặc biệt với ca khúc Kiếp nghèo tựa tiếng lòng Lam Phương mà ngân vang đồng điệu với hàng triệu trái tim sống cảnh túng quẫn, thiếu thốn khi đó “Mưa chẳng yêu kiếp sống mong manh”. Ca khúc này được ông coi như một phiên bản tâm trạng, tham chiếu mọi ngõ ngách sâu kín nhất trong trạng thái cô đơn, bất lực trước đời sống hiện thực của ông khi đó: “Tôi sáng tác Kiếp nghèo trong hoàn cảnh thật. Đó là một đêm mưa rất to, tôi đạp xe đi lang thang trong đêm, đi mãi mà không nhìn thấy bất cứ một ngôi nhà nào để chạy vào xin nhờ trú mưa. Lúc đó, tôi thấy mình thật cô đơn, thấy mình bé nhỏ và hình như bị đời ruồng rẫy đến vô tình. Tôi đi mãi cho tới khi về nhà, không kịp thay quần áo, ôm cây đàn và cứ thế viết về Kiếp nghèo, về phận bạc của mình”.
17 tuổi với Kiếp nghèo, Lam Phương thấm thía mọi cay đắng và những cơ cực mà mình và gia đình đang phải chịu đựng. Dường như, đời ông lúc nào cũng nằm sẵn trong vòng lẩn quẩn tối đen, niềm vui thì ít mà nỗi buồn thì nhiều. Nói như Lam Phương nó cũng gần tương tự ngọn đèn khuya thỉnh thoảng lóe lên trong tim rồi lại tắt và mịt mùng trong màn đêm vô tận
Thứ âm nhạc bình dân, mộc mạc được viết từ trải nghiệm cá nhân và hòa vào với bộn bề của không khí thời đại đã trở thành tiếng ca mãnh liệt đến với đông đảo trái tim mọi người yêu nhạc. Nhạc của Lam Phương có độ phủ rộng rãi, là lời đầu môi của nhiều bạn trẻ theo suốt dọc dài đất nước. Ở đâu, nhất là trong các trường học, người ta cũng cho học sinh, sinh viên hát nhạc Lam Phương. Những bài đồng ca tươi vui, lành mạnh, đầy hào sảng như Nắng đẹp miền Nam hay Khúc ca ngày mưa có thể coi là những sáng tác cởi mở của ông.
Ở giai đoạn đầu trong cuộc đời Lam Phương dù không ít hơi thở bi ai thì vẫn như một lời tuyên thệ có giá trị về vẻ đẹp quê hương và niềm tin chiến thắng vào một ngày đất nước được toàn vẹn thanh bình. Trong dáng hình của những ca khúc ngập tràn hơi thở thời đại ấy, người ta vẫn phác họa được chân dung của một kẻ sĩ nhìn đời bằng nửa hồn thương đau, nửa hồn lạc quan, trong sáng.
Hồn nhạc là thứ trời cho
Chính cuộc đời đầy bóng tối không có nhiều tia sáng ấy lại trở thành một động lực sống mãnh liệt thôi thúc Lam Phương viết nhạc. Giữa lúc phong trào phản chiến, lối sống Hippie và dòng nghệ thuật hiện sinh phát triển như vũ bão với nhiều tác phẩm đầy ắp tiếng thở than, chỉ toàn một màu tro bụi thì âm nhạc Lam Phương lại đi trở ngược những nguyên tắc và giá trị đầy khinh bạc cuộc đời ấy. Buồn lượm vào đời từ nhỏ, nhưng nếu nghe kỹ các tác phẩm mà ông viết vẫn thấy một tin yêu, một dấu vết của những khao khát hồi sinh trong đời.
Sau này, nhắc đến kỷ niệm đi học nhạc của mình, Lam Phương vẫn bùi ngùi: “Tôi vẫn không bao giờ quên câu mà ông thầy Lê Thương nói với mình khi buổi đầu tiên bước vào lớp học nhạc: “Anh có thể dạy cho em tất cả kỹ thuật nhưng hồn nhạc thứ trời cho thì anh không dạy được. Cái này chỉ phụ thuộc vào em” . “Buồn vì trời mưa hay vì bão trong tim?”- Câu hát trong nhạc khúc của ông từng được đông đảo thanh niên Sài Gòn trước 1975 yêu thích cũng là một câu hỏi lớn mà suốt đời Lam Phương tìm kiếm nhưng vô vọng. Có lẽ trời đã đày một thiên tài rớt xuống nhân gian, đã khiến một tâm hồn yếu đuối suốt đời phải rơi lệ, thống thiết và nức nở mà chỉ biết gói gọn giãi bày trong những thang âm trầm bổng của cung đàn.
Hương Giang
Lam Phương: Hỏi Người Còn Nhớ Ta Không? (1)
 Lê Văn Phúc
Trong tân nhạc, Lam Phương là một tên tuổi được rất nhiều người yêu mến.
Người ta yêu mến anh không chỉ vì anh có những bản nhạc nổi tiếng mà quan trọng hơn nữa, anh lại còn là con người hiền hoà, khiêm tốn nên chiếm được cảm tình của mọi giới đồng bào. 
Trung tuần tháng 10 năm 2004, vùng Hoa Thịnh Đốn sẽ có một buổi hội ngộ với nhạc sĩ Lam Phương qua một chương trình âm nhạc thật đặc biệt.
Dịp này, Lam Phương dù không được khoẻ cũng cố gắng có mặt để gặp gỡ những người thương mến anh. 
Để bạn đọc hằng có thiện cảm với Lam Phương biết thêm về cuộc đời của một nghệ sĩ từng làm rung động không biết bao nhiêu con tim qua những nhạc phẩm tuyệt vời, chúng tôi xin mượn dịp này để lần lượt nói về người nhạc sĩ tài hoa qua vài kỳ báo. Xin chia làm 3 phần:
Phần 1: Nhận xét của người trong giới văn nghệ,
Phần 2: Những bài ca nổi tiếng của Lam Phương,
Phần 3: Nói chuyện với Lam Phương qua “điện đàm” và “ bút đàm” những chuyện riêng tư, chưa tiết lộ bao giờ…
PHẦN 1: NHẬN XÉT CỦA GIỚI VĂN NGHỆ
Lam Phương tên thực là Lâm Đình Phùng, sinh năm 1937 tại làng Vĩnh Thanh Vân, tỉnh Kiên Giang. Thiếu thời, gia đình nghèo khó, cha bỏ đi theo tiếng gọi của con tim nên mẹ con sống cơ cực, bần hàn. Bởi thế, tình mẫu tử với anh rất nặng, bao giờ anh cũng thương yêu và nhớ ơn mẹ suốt đời.
Cảnh nhà túng quẫn, anh phải lên Saigon làm mướn, gánh thuê để có tiền ăn học. Vốn thích nhạc, anh dành tiền mua những bản nhạc về hát nghêu ngao sau những giờ phút đổ mồ hôi. 
Anh theo học nhạc sĩ Hoàng Lang. Ông thầy thấy anh yêu nhạc mà lại quá nghèo nên dậy miễn phí.
Anh thầm ước ao trở thành một nhạc sĩ nên khi chàng thiếu niên khởi sự sáng tác thì bản đầu tay của anh là “Chiều thu ấy”. Không có nhà xuất bản nào chịu mua nhưng anh không lấy thế làm nản lòng. Anh buồn nhưng không thất vọng, tiếp tục tự học và tự nhủ rằng: Nhạc phải đáp ứng được sở thích của đại đa số mới có cơ may bán trong tiệm sách, ngoài lề đường. 
Về phần má của Lam Phương, sau nhiều năm nhớ con nên cũng bán nốt khu vườn kỷ niệm, gom góp vốn liếng lên Saigon, hai mẹ con mua một căn nhà ván nhỏ ở xóm Vạn Chài, sớm tối mẹ con no đói có nhau.
Những ngày tháng nghèo khổ ấy đã tích lũy, làm “vốn liếng” cho Lam Phương sáng tác bản “Kiếp nghèo”, đã được quần chúng đón nhận nồng nhiệt và báo chí khen ngợi hết mình, vì đã diễn tả cùng cực một kiếp nghèo trong xã hội: 
“ Đường về đêm nay vắng tanh
Dạt dào hạt mưa rớt nhanh
Lạnh lùng mưa xuyên mái tranh
Mưa chẳng yêu kiếp sống mong manh
Lầy lội qua muôn lối quanh
Gập ghềnh đường đê tối tăm
Ngập ngừng dừng bên mái tranh
Nghe trẻ thơ thức giấc bùi ngùi…”
Đoạn cuối là một lời nguyện cầu:
“ Trời cao có thấu, cúi xin người ban phước cho đời con
Một mái tranh yêu, một mối tình chung thủy không hề phai
Và một ngày mai, mưa không nghe tiếng khóc trong đêm dài
Đây cả nỗi niềm, biết ngày nào ai thấu cho lòng ai…” 
Một nhận xét mà ai cũng công nhận là lời trong bản nhạc của Lam Phương rất bình dị, dễ nhớ, dễ hát, dễ hiểu nên thường “bị” hay thường “được” người ta đổi lời. Bản nhạc nào được đổi lời, thường là bài hát thành công.
Lam Phương có nhiều bài như thế. 
Chẳng hạn như bài “Duyên kiếp”:
“ Em ơi nếu mộng không thành thì sao?
Non cao đất rộng biết đâu mà tìm?…” 
Thì được đổi ra là:
“ Em ơi nếu bụng em phình thì sao?
Mua chai thuốc chuột uống cho rồi đời…” 
Hoặc bài “Nắng đẹp miền Nam” có câu:
“ Đến mai sẽ là ngày muôn hạt chín vàng tươi
Mình ngắm nhau cười”
Thì bị đổi ra là:
“Đến mai sẽ là ngày ông này lấy bà kia,
mình đứng ra rìa…” 
Và còn nhiều lắm. Đây cũng là đề tài để những cây cười Trần Văn Trạch, Tùng Lâm, Xuân Phát, Phi Thoàn… đem ra diễu trong thoại kịch.
Lam Phương đã thành danh ngay từ khi còn ở dưới tuổi đôi mươi.
Rồi Lam Phương đến tuổi thi hành quân dịch, nhập ngũ năm 1958, phục vụ trong Ban Tâm Lý Chiến Biệt Khu Thủ Đô. Hết thời hạn quân dịch năm sau, anh tiếp tục sáng tác, sinh hoạt với các ban nhạc Đài Saigon và Đài Quân Đội, lập Ban Kịch “Sống” với Túy Hồng, quy tụ nhiều nghệ sĩ tài danh cùng hợp tác, trình diễn trên đài truyền hình. 
Khi mất nước, anh đem gia đình lên tầu Trường Xuân của thuyền trưởng Phạm Ngọc Lũy, tị nạn tại Mỹ. 
Anh thay đổi chỗ ở khá nhiều, khi thì Houston, Virginia. DC, khi thì Paris, Quận Cam bên Cali.
Anh thích nhất Paris và yêu nhất là Garden Grove! 
Khi tâm sự với nhà văn Nguyễn ngọc Ngạn trên Thúy Nga Paris By Night, anh nói rằng thời gian ở Paris là thời gian anh “tị nạn ái tình”. Bởi ở Paris có cuộc tình thực và bản nhạc thực do anh viết ra, đưa dòng nhạc Lam Phương đến một khúc rẽ khác mới mẻ, lạ tai. Sự chuyển hướng này, Lam Phương giải thích rằng xưa nay anh viết nhạc theo nhu cầu của nhà xuất bản, các hãng thu đĩa, nghĩa là “theo đơn đặt hàng” để sinh nhai. Nay, cuộc sống đã ổn định, anh viết nhạc cho chính mình. Như các bài: Cho em quên tuổi ngọc, Bãi nắng, Như giấc chiêm bao, Mưa lệ, Em đi rồi, Tình đau, Kiếp phiêu bồng… 
Ở cái tuổi gần 60, Lam Phương vẫn giữ được cái nét trẻ trung, đam mê. Và qua sự trình diễn của các ca sĩ nổi tiếng đã nâng tiếng nhạc lời ca lên một cung bậc hấp dẫn và quyến rũ hơn trước ánh đèn sân khấu: Ý Lan, Hương Lan, Như Quỳnh, Aùi Vân, Thái Châu, Anh Khoa, Duy Quang, Phi Khanh, Hoàng Oanh… 
Và người thưởng thức dù khắt khe đến mấy cũng không thể nào quên được giọng hát Bạch Yến vút cao khi ca bài “Cho em quên tuổi ngọc”!
Lam Phương là một tâm hồn đa dạng, ẩn núp sau cái cá tính bình dị , hiền hoà là một tình yêu quê hương rất nồng nàn, thắm thiết, qua những bài hát ca ngợi đồng quê, tình tự Việt Nam trong: Nắng đẹp miền Nam, Khúc ca ngày mùa, Đường về quê hương, Trăng thanh bình, Chiều Tây Đô… 
Lam Phương yêu đời quân ngũ và thương những người lính chiến đấu gian khổ nơi đồn xa biên trấn nên viết những bài thật là tuyệt vời như: Chiều hành quân, Tình anh lính chiến, Đêm dài chiến tuyến… 
Và chuyện tình của anh thì coi như chiếm rất nhiều chỗ trong lòng, trên những dòng nhạc và lời ca, phần lớn là buồn bã, đau thương, khắc khoải, đợi chờ…Như: Trên đỉnh đau thương, Mộng Ước, Phút cuối, Tình nghĩa đôi ta chỉ thế thôi, Tình vẫn chưa yên, Lầm, Bài Tango cho em, Tình đẹp như mơ, Từ ngày có em về… 
Lam Phương sáng tác mạnh, như diều gặp gió, bản nhạc của anh bán khắp miền Nam, nhạc của anh được ca hát trên các đài phát thanh, đài truyền hình. Con đường anh theo đuổi đã đem lại cho anh một món quà hi hữu: Anh đổi chiếc xe lambretta cũ, tậïu chiếc “Pơ-Giô 403” và giã từ xóm Vạn Chài, hai mẹ con dọn về ở một căn nhà trong cư xá Lữ Gia khang trang, rộng mát. 
Thoát khỏi kiếp nghèo mạt rệp, anh tiếp tục sáng tác, bán nhạc, mở đại nhạc hội, trình diễn những ca khúc nổi tiếng.
Dù thành công vượt bực như thế nhưng anh cũng không tránh khỏi cái họa khi lưu diễn miền Trung, bị người ta lừa đảo in vé giả bán hết sạch. Khán giả ngồi coi đầy rạp mà ông bầu chẳng thu hoạch được bao nhiêu. Sau phải bán cả cái xe hơi mới trang trải được nợ nần! 
Thưa bạn đọc, trên đây là vài nét vắn tắt về cuộc đời thăng trầm của nhạc sĩ Lam Phương. 
Bây giờ, chúng ta nghe một vài người trong giới văn nghệ bầy tỏ cảm nghĩ về người nhạc sĩ tài hoa này. 
Nguyễn Đình Toàn phát biểu ngắn gọn: 
“Con kênh đầy vơi với thủy triều. Trước khi nước rút đi, nó phơi bầy đến cả sự khô cạn, như một tấm lòng khi cho hết và cũng chẳng còn gì để che dấu. Lúc thủy triều trở lại, kênh lại tràn đầy, nhảy bờ.
Nhạc của Lam Phương, tình ca của Lam Phương đầy ắp cái cho đi đã hết và chờ đợi phút phục sinh để có thể cho đi thêm nữa…” 
Vũ Anh viết về Lam Phương: 
“Tôi không thể viết để vinh danh Lam Phương. Công trình này đã được dành cho nhiều bậc thức giả, một số tổ chức văn hoá và những thính giả từng yêu và say mê nhạc của anh. Hơn nữa, con số 40 năm cũng chưa thể nói hết được con đường mà Lam Phương đã đóng góp, đã hiến dâng trọn đời mình cho nền tân nhạc Việt Nam, những đóng góp đã thể hiện rất rõ ràng một tấm lòng và cái chất lãng mạn đặc thù của người miền Nam Việt nam…” 
Đoạn khác, Vũ Anh tâm sự:“ Suốt những năm tháng dài, chúng tôi gặp nhau trên sân quần vợt, người nào cũng hoạt động trong giới báo chí hay truyền thông mà chẳng có người nào nói chuyện với Lam Phương về âm nhạc. Chúng tôi chỉ nghe nhạc của anh và coi anh như một nhạc sĩ mà mình ngưỡng mộ ở một thế giới hoàn toàn tách biệt với môn thể thao mà chúng tôi ưa thích.
Phải nói một cách thành thực rằng, cả một công trình đóng góp to lớn của Lam Phương vào sự phát triển của tân nhạc Việt Nam là những bàn cân còn nhẹ nhàng đối với chúng tôi lúc đó. Chỉ đến khi chúng tôi đã nằm trong trại cải tạo rồi, đã xa Lam Phương rồi, những giòng nhạc buồn mênh mang của anh mới làm cho chúng tôi sống trọn vẹn những kỷ niệm của một thời. Những lúc bị đẩy sâu vào trong đói khổ, tôi cứ tưởng là không còn cần tới những chất lãng mạn như nhạc Lam Phương. Nhưng không phải thế. Bên cạnh những bản tù ca, bên cạnh những lời nhạc hừng hực trong những đêm tranh đấu trong tù, đời sống lưu đầy vẫn cần những cung bậc mượt mà và tài hoa mà Lam Phương đã thể hiện trong những tác phẩm của anh…” 
Và Vũ Anh đưa đến những nhận xét về Lam Phương:“Cuộc đời khởi đi từ sự nghèo khổ của Lam Phương ở tuổi chưa đầy 20 bằng những giai điệu đầy lãng mạn này khiến nó không trở thành một thứ tình cảm buồn đến tuyệt vọng. Ngược lại, đó là một lời than thở nhẹ nhàng, một lời trách móc gửi đi cho gió. Những kỷ niệm ấy vẫn còn lắng đọng trong tâm tư của con người đã ngụp lặn trong sóng gió của lịch sử và của cuộc đời mình. Nó không hề gây cho anh một lòng thù hận nào đối với xã hội, bởi vì tài năng dã làm cho cái nghèo ấy trở thành những hình ảnh lãng mạn.
Những tác phẩm giá trị đã làm cho tên tuổi của anh bừng sáng và đem lại cho anh một số thu hoạch đáng kể..
Nói đến những giai đoạn của lịch sử đất nước, Lam Phương cũng được các nhà phê bình xếp vào loại các nhạc sĩ có cuộc sống thành thực, không trốn tránh trách nhiệm của trai thời chiến. Lam Phương viết những nhạc phẩm về người đi chiến đấu, thấp thoáng như những bi hùng ca. Nó là bức tranh thủy mặc về cuộc chiến, vẫn muốn chiến tranh không thể phá tan hy vọng của con người. Dòng nhạc Lam Phương là hình ảnh bi hùng của người lính chiến đậm nét tình tứ của âm điệu Boléro. Nghe như đâu đó trên quê hương, chiến tranh là một điều đáng buồn, là tiếng kêu thảng thốt của cả một dân tộc chứ không riêng gì cho một miền Nam. 
Trong những ngày tháng đầy rẫy khó khăn mà bất cứ người lưu vong nào cũng phải đương đầu, từ những cay đắng bị bứng bật gốc rễ cho đến nhữn khắc khoải của nỗi sầu viễn xứ, Lam Phương còn phải trải qua những kinh nghiệm chua chát của riêng anh.
Những gì anh đã trải qua, đã sống chính là những bối cảnh giúp cho Lam Phương đa dạng hoá những sáng tác của anh.
Lam Phương nói rằng số sáng tác cuả anh so với những nhạc sĩ khác không đồ sộ như nhiều người tưởng.
Sở dĩ nhạc của anh được nhắc nhở nhiều vì lời ca lãng mạn mà bình dị khiến cho khó có ai quên…” 
Nhà văn Duyên Anh đã có những cảm nghĩ, so sánh về con người Lam Phương nghệ sĩ. 
Chúng ta hãy nghe Duyên Anh bầy tỏ qua những trích đoạn sau đây: 
“…Tôi muốn ví Lam Phương với Lục Vân Tiên.
Miền Nam là quê hương của vọng cổ. Thoại kịch và tân nhạc xem chừng rất xa lạ với người miềân Nam trước năm 1954. Tôi không rõ những năm kháng chiến chống Pháp ngoài Hoàng Hiệp, Trần Kiết Tường, Quốc Hương còn những ai. Hình như, tiền chiến – hiểu là tiền đệ nhị thế chiến – chỉ có Mỹ Ca với nhạc phẩm Dạ Khúc duy nhất. Lưu hữu Phước và Mai văn Bộ. Khoảng thời gian từ 1948 đến 1953, nhạc sĩ Trần văn Nhơn, chuyên viên kỹ thuật của đài phát thanh Hà Nội, đã sáng tác Hà Nội 49, Aûo Aûnh Chiều Thu, Saigon Xa Hoa. Trần văn Nhơn, người Saigon ra Hà Nọi làm việc. Tôi biết thêm Văn Thủy với nhạc phẩm Dứt Đường Tơ, Anh Việt với Lỡ Chuyến Đò, Bến Cũ. Sau những nhạc sĩ kể trên là Lam Phương. Mười lăm tuổi, Lam Phương viết nhạc phẩm Chiều Thu Aáy . Lam Phương thành công ngay bằng ca khúc đầu đời. Thuở ấy, năm 1952, nam ca sĩ Trọng Nghĩa và nữ ca sĩ Ngọc Hà là hai giọng ca sáng giá của đài phát thanh Pháp Á. Hai ca sĩ này và Bích Thủy đã truyền đạt bản thông điệp tình yêu thứ nhất của cậu học trò Lâm đình Phụng trên làn sóng điện liên tiếp mấy tháng.
Chiều Thu Ấáy là buổi chiều thu đưa cậu học trò Lâm đình Phùng vào lối nhạc để biến cậu thành Lam Phương (Ghi chú của người viết: Tại sao có tên Lam Phương? Đón đọc phần 3 của loạt bài này). 

Biển sóng vọng cổ đã bốc lên một vệt khói tân nhạc. Và vệt khói ấy làm cay mắt tuổi trẻ thành thị. Những ngưởi tuổi trẻ thành thị bắt đầu yêu nhạc mới. Họ cũng bắt đầu hiểu những rung động của thời đại họ không còn nằm ở trái tim vọng cổ, xàng xê. Cái đàn ngũ huyền phím trũng nẩy những giọt ca ủ ê quá. Nó chỉ hoài vọng một dĩ vãng đau thương mà không thể thôi thúc một lên đường cho tương lai. 
Cầm thiết một cây đàn lục huyền cầm, những hành khúc và những nhịp điệu reo mừng ánh sáng. 
Nhạc sĩ Văn Thủy chả kêu gọi dứt đường tơ, dứt những đường tơ “đày vơi cung oán mơ mộng” đó sao. Không còn gì mỉa mai hơn khi đất nước đang chiến tranh, khi máu cuả dân tộc đang thấm quê hương mà cứ rên rỉ chuyện tình Trương quân Thụy – Thôi Oanh Oanh. Lịch sử đấu tranh được đánh thức bởi học trò Trần văn Ơn và rồi được dục đã thoát ra con ngõ buồn tênh cổ nhạc bởi ca khúc Lam Phương. Cậu Lam Phương không ngờ, lúc ấy và ngay cả ngày hôm nay, cậu đã phát động phong trào hát và nghe tân nhạc ở miền Nam. 
Hãy để Lam Phương khiêm tốn lắc đầu từ chối. Chàng luôn luôn khiêm tốn, bảo chàng đã mời gọi tuổi trẻ thành thị miền Nam hát và nghe tân nhạc, chàng cũng không dám nhận. Thực ra, Lam Phương đã phát động một phong trào. Từ trường học, ở những liên hoan mừng xuân hay ngày hè tạm biệt, cây lục huyền cầm đã lấn lướt cây ngũ huyền cầm. 
Nhạc Hoàng Quý, Hoàng Trọng, Đoàn Chuẩn, Phạm Duy, Ngọc Bích ào ạt vào Saigon. Chương trình âm nhạc của đài Pháp Á tăng lên. Người ta tổ chức thi tuyển lựa ca sĩ hàng tuần tại rạp Norodom. Cậu Lâm đình Phụng, học trò trường Les Lauriers sáng tác ca khúc thứ hai: Trăng thanh bình. Đến năm 1954, Khúc ca ngày mùa thì Lam Phương trở thành hoàng tử của tân nhạc miền Nam. Vẫn một mình cậu sáng tác nhạc và lời. Lời cậu đơn giản. Nhạc cậu bình dị. Đơn giản và bình dị là bản chất miền Nam. 
Nhờ ban Sầm Giang của Trần văn Trạch phổ biến nồng nhiệt trên các làn sóng điện, nhạc Lam Phương lênh đênh theo dòng Tiền Giang, Hậu Giang, chảy vô nghìn nhánh sông nhỏ, vạn con kinh bé đổ vào tâm hồn nông dân Nam Bộ. Nếu thôn quê miền Bắc thơm ngát nhạc Phạm Duy thì thôn quê miền Nam ngọt bùi âm nhạc Lam Phương trong tân cổ giao duyên của các vở tuồng cải lương.
Và đó, Lam Phương nằm giữa trái tim Nam Bộ, câu giải thích rõ ràng.
Người già kể Lục Vân Tiên:
Nói thôi trao chiếc trâm vàng
Gọi là vật nhỏ tặng chàng làm tin
Vân Tiên ngoảnh mặt chẳng nhìn
Nguyệt Nga lúc ấy càng nhìn nết na
Thưa rằng “Vật mọn gọi là
Thiếp phần chưa dứt chàng đà làm ngơ
Của này dù của vất vơ
Lòng chê cũng đáng, mặt ngơ sau đành
Vân Tiên khó đỗi làm thinh
Chữ ân buộc với chữ tình một giây…
…Nếu bạn được nghe kể Lục vân Tiên dưới ánh trăng bên bờ kinh, giữa trưa hè trong vườn vắng, bạn mới hiểu tâm hồn đất mới, thứ tâm hồn của “Tình nghĩa ấy mộc mạc và cung cách tỏ tình cũng mộc mạc”. Như Kiều Nguyệt Nga của Lục vân Tiên.

Rời xa điệu hò lơ, tiếng ru ù ơ, câu kể Lục vân Tiên, lời vọng cổ, khúc thủ phong nguyệt, đoạn Lý Ngựa Ô là rời xa tình tự miền Nam. Và mất chất miền Nam.
Lam Phương, thuở ban đầu của âm nhạc là Lam Phương thuần hương vị miền Nam. Dân chúng đón tiếp anh như nhánh sông đón tiếp phù sa của Hậu Giang. Phù sa âm nhạc Lam Phương bảng lảng âm điệu hai trăm năm đất mới. Anh gần gũi người miền Nam vì anh cảm xúc niềm xúc cảm của người miền Nam. 
Âm nhạc Lam Phương ví như con thuyền chở đầy trăng nhẹ trôi trên mặt sông Tiền, sông Hậu. Nó buồn vui cái buồn vui của Kiều Nguyệt Nga, Lục Vân Tiên. Nó được hát bởi những giọng kể Lục Vân Tiên đơn sơ và đôn hậu.
Cả triệu người đã say mê nhạc Lam Phương. Nhạc Lam Phương lãng đãng trên đồng luá bát ngát, trên sông nước mênh mông. Nó từ ngõ hẻm thành phố về đường mòn thôn ổ. Nó trong trường học. Nó ngoài chiến trường. Nó xanh mắt thanh niên. Nó hồng môi thiếu nữ. Luôn luôn bình dị. Mãi mãi Lục Vân Tiên.
Hãy ví Lam Phương như Lục Vân Tiên đi…
Niềm mong ước của tôi, của những người yêu mến Lam Phương là, ngày nào đó, anh tìm lại Kiều Nguyệt Nga, đứng trên bờ sông tâm tưởng cũ, mở lối về nguồn, khơi vết trăm nhánh nghìn con.
Để dân tộc có nhiều, thật nhiều ca khúc mang hơi thở nồng nàn, đôn hậu, xao xuyến, bồi hồi của miền Nam yêu dấu”. Duyên Anh. 
Đoạn cuối của phần này là nhận xét của nhà văn Nguyễn Ngọc Ngạn từ Canada, tháng 7 năm 1992. Anh viết: 
“Thuở miền Nam thanh bình, anh có “Khúc Ca Ngày Mùa” cả nước cùng hát. Lúc quê hương đi vào cuộc chiến, âm nhạc của anh cũng từ giã thành thị, len lỏi theo bước chân người đi giữ nước. Anh rung cảm cùng “Tình Anh Lính Chiến” trong những buổi “Chiều Hành Quân” vừa gian nan vừa oai hùng. Hát nhạc Lam Phương, người ta dễ dàng nhận ra tấm lòng chan hoà của anh, khao khát được chia sẻ thăng trầm với mọi cảnh đời chung quanh. Bài tango “Kiếp Nghèo” không thể là những cảm xúc giả tạo. Nỗi bâng khuâng của “Ngày Tạm biệt” không thể là những xao xuyến vay mượn. Phải xuất phát từ một tâm hồn nghệ sĩ có trái tim độ lượng đích thực, mới cho đời được những dòng nhạc như thế. 
Ra hải ngoại, Lam Phương không dừng lại. Khung cảnh xã hội mới, những khắt khe của cuộc sống xứ người, những xáo trộn bất thường về tình cảm, ở Lam Phương, không ảnh hưởng đến khả năng của người nghệ sĩ, mà ngược lại, làm phong phú thêm vốn liếng sáng tạo. Anh vẫn viết đều, miệt mài đưa ra hàng loạt tác phẩm mới trong điều kiện phổ biến khó khăn hơn, bởi cộng đồng người Việt trải rộng khắp năm châu. 
Từ khoảng 81, 82 tôi đã được nghe một loạt tình ca của anh viết ở Paris. Có lúc thấy anh buồn vì “Tình Vẫn Chưa Yên”. Vài năm sau lại thấy anh vui, có lẽ bởi vì “Từ Ngày Có Em Về” đã làm nguồn hứng gần gũi để anh viết “Bài Tango Cho Em” rất đặc sắc. Trong lúc nhiều nhạc sĩ trước 75 đã rút lui vào hậu trường thì Lam Phương vẫn là điểm sáng trên sân khấu hải ngoại rộng lớn. Gần đây nhất,anh cho người yêu nhạc một loạt tặng phẩm quí, gói ghém trong hai mươi tình khúc mới. Đợt tình ca có những bản nhạc đã nhanh chóng trở thành niềm yêu thương của người sành điệu. Từ “Em Đi Rồi” đến “Cỏ Úa”, đã được thâu trong băng Thúy Nga cho tôi thấy dòng nhạc sung mãn của Lam Phương như một nguồn suối bất tận, chẩy mãi, cống hiến mãi không ngừng nghỉ. 
Tôi không hy vọng, qua vài lời giới thiệu ngắn ngủi của tôi, có thể nói lên được một phần những công trình lớn lao trong vườn hoa âm nhạc của Lam Phương. Mấy dòng mạo muội này, chỉ hoàn toàn để bầy tỏ một cách chủ quan lòng quí trọng và ngưỡng phục đối với người nghệ sĩ đã đóng góp cho nhạc Việt Nam bốn thập niên qua, những tác phẩm có giá trị nhất định mà mãi mãi người đời sẽ ghi nhận.
Theo http://kontumquetoi.com/


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Sợi thơ vút lên vỡ ráng chiều mộng mị

Sợi thơ vút lên vỡ ráng chiều mộng mị Đèo Prenn ngun ngút sắc trời// Hờ hững ngang chiều dải lụa nàng tiên rơi mùa hội trẩy/ Lả lướt theo ...