Mây trắng ơ hờ, mây trắng
bay…
Thời nào Mai Xá cũng có những
người con được hòa khí của sông nước đúc nên để rồi tạo ra cái bề dày truyền thống,
nhân văn cho ngôi làng. Chỉ ở họ Bùi thôi đã có bao nhân tài lỗi lạc hiến trọn
cuộc đời dấu yêu của mình cho sự nghiệp nhà Tây Sơn. Ngài Chánh chỉ huy sứ thi
đỗ Hương cống, vị quan cao tuổi trong triều Tây Sơn, tước Trọng Đức hầu ấy mà
khi Gia Long thống trị đất nước, ông thối lui, tìm về với ruộng đồng giúp việc
cho làng. Giàu có vạn tiền, ruộng liền một dải, đa phú, đa thọ, đa tử; nhiều của,
nhiều tuổi, nhiều con, công trạng đặc biệt. Chỉ huy Tiền đạo Thủy quân cũng vị
tướng giỏi của nhà Tây Sơn đánh vào căn cứ mạnh của địch trăm trận, trăm thắng,
sức khỏe bẻ gãy cây tre, kê cối đá trên bụng cho người giã trắng gạo, rượu uống
bao nhiêu cũng không hề say… Thế mới biết mảnh đất Tam Giang thu tận tam giang
thủy, gan Mai Xá như đá Hảo Sơn. Vào mỗi dịp hè hàng năm vua Duy Tân thường
cùng mẫu hậu ra nhà Thừa Lương nghỉ mát. Nghỉ mát có mẹ đi theo là lấy cớ che mắt
giặc Pháp. Trong những chuyến đi như thế nhà vua cùng những người thân tín ở Quảng
Trị nhóm họp tại Cửa Tùng, bàn việc cứu nước, hạ chiếu Cần Vương. Nhờ thế Quảng
Trị ta bấy giờ có đến sáu vườn đạo tụ nghĩa. Vườn đào Tường Vân của cụ Lê Thế Vỹ,
Cam Lộ - Khóa Bảo, Linh Yên - đề đốc Lê Thanh Đốc, Bồ Bản - Ấm Muộn, Bích Khê -
Hoàng Giáp Hoàng Hữu Bích và có cả vườn đào Mai Xá của cụ tú tài Trương Quang
Cung, bí mật truyền nghĩa khí, thổi vào hồn những thế hệ con em mình lòng yêu
nước khi ở Bến Đục, khi ở Lời Mai Xá, nối tiếp nổi lên trên nền trời làng Mai
nhiều thế hệ cách mạng tiền bối không sao đếm xuể. Cụ Trương Khắc Khoan, Trương
Quang Phiên, Trương Quang Côn trong phong trào VNTNCMĐCH. Khí phách chỉ mỗi họ
Trương, cũng đủ cho nhà chí sĩ Hoàng Hữu Huy (nhóm Bích Khê Hoàng Gia Thi Phái)
đề thơ ca tụng: “Trương Quang ông Trợ thơ trăm cuốn, Trương Khắc thầy đồ lúa vạn
lương. Trương Hữu vịt đàn nhà phó Tạo. Trương Công bạc vạn tủ ông Cương. Trương
Văn thầy Táo lu đầy rượu”.
Đâu chỉ có sự giàu bạc vạn,
vịt đàn, lúc vạn lương mà còn thơ trăm cuốn và lu đầy rượu. Thầy Táo rượu hành
nghề thuốc bắc, lại là nhân vật chủ chốt trong Tiên Việt Thương điếm, một cơ sở
làm kinh tế cho tổ chức VNTNCMĐCH. Không riêng thi sĩ Trương Quang Trợ thơ trăm
cuốn mà bước vào những thập niên hai và ba mươi của thế kỳ này làng Mai Xá xuất
bản đến ba tờ báo viết tay: Xuân làng Mai, Đế quốc Việt Nam, Ngày mới. Tô
Khuyến, Hải Đường, Bùi Kiểu, Nguyễn Duy Hinh, Trương Công Cẩn, Trương Công Huỳnh
là những trí thức, nhà giáo yêu nước làm chủ nhiệm, chủ bút những tờ báo ca ngợi
người và quê hương, hả cái nỗi phẫn uất, công khai sôi nổi luận bàn thời cuộc,
góp phần đưa quê hương đất nước bước lên con đường thiên lý, rẽ sang một bước
ngoặt lịch sử. Sẽ vô cùng thiếu sót khi không nhắc đến những nhà văn mù chữ làng
Mai như cụ Tạ Kiềng, Lê Sịch. Tôi lấy làm lạ và xúc động vô cùng khi biết cụ Lê
Sịch, nhà văn bình dân chân lấm tay bùn đến đọc cho ban biên tập chép lại và
yêu cầu tờ Xuân Làng Mai đăng thơ của mình. Một trong những bài thơ đáo để, dân
chủ bình đẳng mà bạo liệt đến nhường này bởi những cảnh đời có thực này: “Đồn rằng
tờ báo Làng Mai, Viết toàn nhà ngói làng Mai nhà giàu. Nhiều anh phải ở ràn
trâu (1), Bát cơm còn thiếu lấy đâu ra nhà? Như tui ông Sịch làng ta, Moi cua bắt
cá sớm trưa dưới rào (2), Nửa người khô nắng nhức đầu, Nửa người ướt át lạnh
vào thấu xương… Mụ Dưỡng ở tận cuối thôn, Vào lòn ra cúi dáng thương thân già.
Chuyên lo công việc đàn bà, Ai đau trở dạ gần xa đến mời. Mụ đi tất cả ngược
xuôi… Đàn bà trọng đàn ông thì khinh, Công ơn chưa trả nhân tình trớ trêu. Làng
Mai còn có kẻ nghèo, Muốn báo nên viết cảnh gieo neo này…”
Tri thức, dân cày làng
Mai mở nền văn học dựng đài văn chương là thế. Và có ai ngờ đâu rằng nhiều cuốn
tiểu thuyết, ký sự, truyện ngắn ra đời ở làng Mai trong giai đoạn này. Trăm hoa
đua nở, nhiều vở kịch nói, tuồng, cải lương, chương trình văn nghệ ngoạn mục, bổ
ích được biểu diễn công khai ở sân đình, quán chợ lan ra đến hàng Huyện, hàng Tổng.
Hai cây dương trăm tuổi chọc trời trước đình chọn làm chòi phóng loa ngày đêm
truyền đi nội dung của ba tờ báo, báo hiệu một cuộc đời mới bắt đầu. Và lẽ tất
nhiên ông Trương Công Đồng diễn thuyết ngoài Gò, bà Lê Thị Diệu Muội, Hoàng Thị
Quả diễn thuyết ở chợ Mai về Việt Minh và một ngày khác nữa, anh Hồng Trường diễn
thuyết ở đình làng kêu gọi bà con sẵn sàng chờ lệnh Việt Minh đi cướp chính quyền.
Ngọn cờ đỏ sao vàng lần đầu tiên được cắm lên ngọn cây ngô đồng rợp bóng giữa
chợ phấp phới trước ngọn gió nồm lồng lộn. Cái cảnh đào nguyên: ngày hội họp
đình làng vang tiếng trống, chợ làng Mai đã mấy trăm năm nhộn nhịp bốn mùa ngày
mưa ngày nắng nay thêm đông đầy chật ních bến đò ngang…
Tất cả ngắn ngủi như giấc mơ
qua của thời vàng son quá vãng. Chưa nơi nào mảnh làng quê trù phú, yên ả thanh
bình trải qua những biến cố điêu tàn thảm khốc trong hai cuộc chiến tranh vệ quốc
để những địa danh, tên đất, tên người rung động đi vào lịch sử dân tộc như ở
làng quê Mai Xá thương đau! Có cái gì vừa anh hùng vừa nghệ sĩ, hoành tráng mà
thi ca ở quê hương này.
Đã nửa thế kỷ trôi qua rồi
còn gì, kể từ năm bốn bảy giặc Pháp quay trở lại đóng đồn bót ở Nhĩ Hạ rồi Mai
Xá Chánh. Bà Nguyễn Thị Hồ, bảy tư tuổi ngụ ở xóm Ngư bấy giờ là nữ dân quân cảm
tử; Ông Bùi Thanh Tân, người lính già thuở Trung đoàn 95, nhập ngũ sau sự kiện
“Làng Mai uất hận” rành rọt kể lại cho tôi hay tấm thảm kịch của hai bà mẹ liệt
sĩ làng Mai thần đồng năm xưa đã đi vào huyền thoại mẹ “Bà mẹ Gio Linh”- Bà Mẹ
Việt Nam Anh Hùng bằng những hồi tưởng căm giận và yêu thương sâu sắc, bằng một
lòng căm thù bất cộng đái thiên: “Bọn Tây đồn Nhĩ Hạ, dân thôn Mai tôi phỉ nhổ
đời đời”.
Giặc đóng đồn bắt lính, bắt
phu, trẻ già cũng cầm tù, bắn giết. Ngày ngày tiếng giày đinh dày xéo, đêm đêm
về súng nổ vang trời. Không ngày nào không diễn ra cái cảnh tang tóc:
Mai chung gối chiều về than
vợ mất
Đêm hàn huyên mai sớm khóc
chồng
Mái đầu xanh chưa kịp để
tang ông
Giặc lại tiếp vây lùng bao bắn
cháu…(3)
Tiếng khóc như ri, nghẽn
đường thôn xóm. Ruộng cày bỏ trắng, bao chiến sĩ đông xung tây đột và trong chiến
đấu, một phút sa cơ rơi vào tay giặc. Xã đội trưởng Nguyễn Đức Kỳ, thầy giáo
Nguyễn Phi (cán bộ Bình dân học vụ) là hai chiến sĩ bị Tây đồn Mai Xá vây càn,
bắt được ở Miếu Đôi trong Lòi Mai Xá, đưa ra đồn Nhĩ Hạ vào một sáng trời thu ảm
đạm, làng xác xơ như lá gặp bão đùa. Đấy là sáng 19-8-1948, anh Nguyễn Đức Kỳ lớn
lên trong gia đình nông dân khá giả ở Mai Xá Thị. Gia đình sinh sống bằng nghề ấp
vịt, cung cấp cho cả Thị trường Gio Linh ra tận Quảng Bình. Bố anh họ Nguyễn,
tên Diêu, mất sớm; mẹ Lê Thị Cháu tần tảo nuôi bốn con trai, nên về sau có lời
nhạc “Mẹ già mồ côi yêu nước có kém chi” là thế. Trước cách mạng Tháng Tám,
làng Mai có hủ tục sinh con gái đồng loạt đặt tên giống nhau. Nhà nào cũng có Nậy,
Con, Cháu, Đỉu… muốn phân biệt phải kèm theo tên cha mẹ đằng sau hoặc kèm tên
chồng. Mẹ cháy kèm tên chồng, thường gọi Diên Cháu, nổi tiếng nhân hậu, thơm thảo.
Ai thiếu mẹ cho, đói san cơm, lạnh sẻ áo. Nhân đức là thế, một gia đình đầm ấm,
sum vầy là thế mà chỉ trong hai chụ năm hết Pháp đến Mỹ ra tay tàn sát, tan nát
cả một gia đình. Thấm máu và nước mắt, ba thế hệ dồn dập thay nhau xã thân vì
nước. Một lần chăn vịt ngang qua phủ đường Vĩnh Linh, Tri phủ khét tiếng Trần Mậu
Trinh nghi có tình ý gì sai lính bắt vào tra khảo, người con cả của mẹ tên Ngọc
tức tưởi chết. Kế tiếp cái chết thương tâm của anh Kỳ: “Quân thù đã bắt được
con, đem ra giữa chợ cắt đầu” và rồi mẹ Cháu lại đón nhận tiếp cái chết của
đứa con trai út, liệt sĩ Nguyễn Đức Thùy, hy sinh anh dũng trong trận công đồn
nổi tiếng ở “Con đường 74 hôi tanh máu thù, Khói bom đạn nổ mịt mù, Đoàn xe tan
rã xác thù ngổn ngang”. Người con dâu kế bỏ mẹ mà đi trong một vụ thảm sát tập
thể, hơn bốn chục mạng người trên bốn chiếc đò thường dân buôn bán bị máy bay
“Cẳng chờng” (Dongke) Pháp cố tình bỏ bom ở vùng Bời Bời, trên dòng Thạch
Hãn. Người con trai cuối cùng, anh Nguyễn Đức Khuê xấu số vấp phải mìn Mỹ chết ở
Bánh Lái, Mai Thị. Và tai họa cuối cùng, mùa xuân Mậu Thân 1968, mẹ Diêu Cháu
đau liệt giường chưa tản cư kịp cùng làng xóm, pháo dàn từ hạm đội Mỹ nã vào
làng, nhà cháy, mẹ chết thiêu. Chị con dâu trưởng, đứa con duy nhất còn lại của
gia đình chạy về, vừa kịp vùi lấp xác mẹ phía Nam hồi nhà cũng bị tàu
chiến Mỹ quét đại liên, bắn gục. Ba thế hệ diệt vong chưa trọn trong hai thập kỷ,
khi nợ nước thù nhà chưa trả xong thì vẫn còn uất ức, khí tiết tùng mai còn trộn
lẫn giữa chính khí đất trời. Anh Tùng dẫn tôi đến thăm ngôi vườn cũ, nền nhà
xưa của mẹ Cháu thật sự đã hoang tàn, chỉ biết cúi đầu mặc niệm. Vừa tủi vừa mừng
được biết mẹ còn sót lại ba đứa cháu đích tôn: Nguyễn Đức Huy, Quy và Nghê, nay
đã ly quê sinh sống xa làng tận cực Nam Tổ quốc. Các anh ơi, quê nghèo đến mấy
mà các anh không thu xếp lấy một người sống ở đất này khói nhang hương hỏa cho ấm
cúng mẹ trong lòng đất!
Anh Nguyễn Văn Phi, con ông
Cửu Đen và bà Hoàng Thị Sáng. Tiếng rằng ông Cửu, bởi cái tước cửu mua đã ba đời
bên làng Bác Vọng chớ ông Đen chân lấm tay bùn chính hãng nông dân xóm Kêng,
Mai Xá. Mẹ Sáng người làng Bạch Lộc, lấy chồng theo chồng vào đây, sinh hạ năm
con. Đầu lòng hai ả tố nga: Nguyễn Thị Vện Con và Nguyễn Thị Vện Đỉu. Anh em
trai gia nhập quân đội, đều là sĩ quan, vị trung tá nghỉ hưu, vị đại úy đã mất.
Trước lúc hy sinh, anh Phi có vợ chừng đã ba năm chưa kịp sinh con. Chị Man ở
thế, phụng dưỡng bố mẹ chồng hơn mười năm lẻ. Cụ đồ Cung có người con dâu góa bụa
chồng sớm, thương cảm mà đề thơ: “Không trung nhất phiến nguyệt. Quả phụ độc
niên thời”. Ôi mảnh trăng treo trên kia không tựa như người quả phụ đơn chiếc
là thân phận cuộc đời của các chị đó sao? Chị Man ở thế chừng như cả bố mẹ chồng
khuất, mới về bên quê Dương Xuân, Triệu Phước, Triệu Phong lấy chồng, con nay
đã lớn. Bà Nguyễn Thị Vện Đỉu tuổi đã bảy lăm, đứa con gái đầu, thân nhân duy
nhất còn sống ở làng của mẹ Sáng ngậm ngùi kể cho tôi nghe nhiều chuyện mộc mạc
chân quê của người em dâu miệt biển. Hơn mười năm nay, chị em bà không gặp được
nhau bởi chị Man cũng đã vào Nam sinh sống, ước ao một lần hội ngộ cuối
cùng cho thỏa lòng mong nhớ kịp khi mình nhắm mắt.
“Anh hùng mạc bả danh thâu
luận, Vũ trụ trường khan tiết nghĩa lưu”. Không thế lấy được thua mà luận về
người anh hùng, bởi trong vũ trị đã lưu mãi tiếng khen tiết nghĩa. Thì mãi đến
giờ, oán đường ấy, hận đường ấy, cừu thù đường ấy dân làng Mai còn kể lại rạch
ròi bằng diễn ca về cái chết bất tử của trai làng.
Đêm xuống trong đồn Nhĩ Hạ
chúng tra tấn, nhưng “Lòng chiến đấu gan đồng dạ sắt, Chí căm thù ghi tạc tâm
can”. Và đến gần khuya thì nghe những câu khẩu hiệu về lãnh tụ và đất nước của
mình:
Họ hô lớn: Độc lập muôn năm!
Họ hô to: Hồ Chí Minh muôn
năm!
Họ hô vang: Việt Nam bất
diệt!
Sáng ra, ngày 20-8-1948, lũ
giặc man rợ bắt đầu hành quyết: “Con tôi đâu chẳng có hình hài”, và “Đây là
đâu, đây là giữa chợ. Đây là đâu bến nước thôn Mai”; Hai chiếc đầu cái đưa
vào giữa chợ, cái ở bến Đò cắm đòn xóc bêu đầu, khủng bố. Trớ trêu và nhục nhã
thay cho nền văn minh hoa lệ nước Pháp, những kẻ giết người còn kịp bôi dầu
bidăngtin óng mượt, chải chuốt mái đầu xanh. Ôi:
Hai khuôn mặt vẫn còn rạng rỡ
Nét oai hùng ngạo nghễ khinh
khinh
Bốn con ngươi sáng chói lung
linh
In hình ảnh thù trong đáy mắt
Hai hàm răng hãy còn nghiến
chặt
Như an gan nuốt mật quân
thù…
Từ xóm Kênh, rồi từ
Mai Xá Thị có ba bóng người phụ nữ nách thúng mẹt xăm măm tất tả, trà trộn giữa
đám đông đi về phía chợ. Những ai vậy? Người chị dâu cả anh Kỳ, mẹ và bà thợ Di
thím ruột anh Phi đi lấy đầu. Cạnh đấy, bên nách đồn Mai Xá chánh, bọn Tây đồn
biết, chúng đi lùng sục cả buổi chiều. Thể chẳng đặng đừng gia đình anh Kỳ lại
phải đưa chiếc thúng có cái đầu lên gầm tra cất giấu. Biết làm sao được: “Con
ra đi hình hài tuấn kiệt, con trở về có chiếc đầu thôi”. Các mẹ nén chặt đau
thương chao nghiêng những mái đầu như thuở nào ôm con trong lòng vỗ về nựng nịu:
Mẹ đây này con hỡi con ơi
Làng xóm đó con hời con hỡi!
Bế con về an nghỉ ngàn thu
Trả xong ơn nhà nợ nước
Thù xâm lược thù chung Tổ quốc…
Cứ như thế các mẹ, các chị dồn
nén, chịu đựng đến lúc màn đêm chùng xuống cưa vội những thớt ván vuông vừa
khít chiếc đầu, lặng lẽ ra chôn ở nghĩa địa Cồn Go, Mai Thị. Các anh nằm đó đợi
bảy năm ròng, năm 1954 giặc rút khỏi đồn Nhĩ Hạ bà con mới kịp lấy xác về, cải
táng.
Ba đêm sau tại nhà mẹ Cháu
sát nách đồn Mai Xá, quân ta đã về. Bộ đội chủ lực, dân quân du kích xã cùng bà
con tổ chức lễ truy điệu. Chính trong buổi lễ này, bà Hồ đội viên đội nữ du
kích cảm tử kể lại, bản nhạc “Bà mẹ Gio Linh” cất lên, chính thức chào đời.
“Khóc cả thôn, chúng tôi mỗi đứa mỗi tờ giấy, cây bút chép liền, sau rồi ghép lại.
Nhờ thế, mà nhớ hết và đầy đủ”… Bài hát tôi nghe cô bè và giai điệu lạ so với bản
nhạc có tiếng sau này:
Mẹ già cuốc đất trồng khoai
Nuôi con giết giặc đêm ngày
Hờ hờ hơ hờ, hờ hờ hơ hờ…
Cơm ăn bát vơi, bát đầy
Hờ hờ hơ hờ, hờ hờ hơ hờ…
Mẹ mừng con giết nhiều Tây
Ra công cuốc vun cày cấy
Hờ hờ hơ hờ, hờ hờ hơ hờ…
“Hờ hờ hơ hờ, hờ hờ hơ hờ…,
xen kẽ, ngắt quãng và lặp đi lặp lại có đến mười chín lần trong mỗi lời của bản
nhạc. Ôi quý làm sao cái bè trầm mặc niệm, cái bè truy điệu tập thể, sâu lắng
mà trầm hùng này. Năm mươi năm rồi, tôi nghe mẹ Hồ hát, không phải trong cái
đêm truy điệu chính thức ấy mà khóc.
Tự cổ chí kim, dân tộc nào chiến
đấu cho độc lập tự do của dân tộc mình đều sản sinh ra đông đảo những anh hùng.
Đất anh hùng sinh mẹ làng Mai và mẹ làng Mai sinh con anh hùng. Chí nối chí và
lòng dặn lòng rằng thù quân xâm lược, vì nước thương nòi mà hy sinh kiệt
cùng cho dân tộc, Tổ quốc, làm vinh cho dân tộc là thế.
Trong số gần trăm bà mẹ làng
Mai được Nhà nước truy tặng và phong danh hiệu cao quý Bà Mẹ Việt Nam Anh Hùng,
nay còn sống được hai bà: mẹ Trương Thị Con và Trương Thị Thí lại chính là hai
chị em ruột. Mẹ Con tuổi đã tám sáu, có chồng và hai con hy sinh, ở với anh
Trương Khắc Bền, đứa cháu nội độc nhất. Vợ chồng anh Bền đi làm vắng, ba đứa
con anh tha hồ nghịch ngợm từ sân ra ngõ, hết ngày. Mẹ còn ngồi xổm thu lu trên
giường, đầu gối quá tai, phóng tầm mắt ra cửa. Tôi rón rén ngồi cạnh mép giường
lần cầm tay mẹ. Như thể mẹ nghe ngóng, cảm nhận cái sự lạ quen. Ôi cái cảm giác
mơ hồ xa xăm thuở vùng địch hậu, đêm đen ghé vào, các mẹ nắm chặt bàn tay, sờ
soạng gương mặt, xoa đầu, xoa lưng. Bỗng như nhận biết, mẹ hỏi: “Thằng Tài đây
ti?”, tôi hoảng “Dạ thưa…” và rồi mẹ bảo:
- Con mắt trái mù tịt. Mắt
phải rờ rơ rờ rơ, ai vô thì biết mà không chộ ai lại ai?
Hỏi ra được biết, Tài đây là
Trương Khắc Tài giám đốc công ty Bảo Việt Quảng Trị, đơn vị đang phụng dưỡng mẹ
từ đây cho đến cuối đời. Thú thật rằng khó hầu chuyện, ai đi làm cái việc đánh
động vào cõi tâm tư, vết thương lòng của mẹ trong buổi sáng bình an trong
lành này? Mẹ ngồi đó, nắm giữ măn mo bàn tay tôi trên hai đầu gối xương xẩu và
chừng hơi ấm đã lan truyền, chậm rãi, điều được điều mất mẹ kể cho tôi nghe những
điều hồn nhiên, chưng cất qua năm tháng và sâu thẳm tận đáy lòng: “Trước tết mẹ
có đau. Ốm đau thì trong công ty Bảo Việt cho thuốc, có cả sâm đưa về cho uống…”.
Mừng ngôi nhà mẹ mới làm, gọn gàng, tươm tất, mẹ bảo:
- Năm ngoái họ chở ra ngoài
huyện cho năm triệu về làm nhà. Nó thấu vô mô, toàn Đông Hà cho cấy ni cấy
khác. Chi cũng Đông Hà: xi măng, ngói, cửa ngõ chỉ cũng Đông Hà. Mà còn mắc nợ
tiền công, tiền mua chác ăn, chỗ ni một mớ, chỗ tê một mớ…
Chặp khá lâu, như sực nhớ ra
điều gì mẹ bảo:
- Kỳ nhà mà tuồng dưới (phần
dưới) mau, tuồng côi (phần trên) thoa trát lâu…
Nhớ chi nói nấy, mẹ tiếc nuối,
nhớ thằng con trai liệt sĩ Trương Khắc Lương theo kiểu cách riêng của mình:
- Cho kỳ thằng nớ sống, chờ
(mẹ chậc lưỡi) hắn giỏi giang rứa thì nhà ngói mấy cái ri hắn cũng làm được chớ
đợi chi Chính phủ làm!
Nhớ con rồi nhớ cháu, đã
trưa chưa thấy anh Bền làm việc ngoài ủy ban về, mẹ nhắc đến anh:
- Hắn đi thì đẻ thằng Bền. Mấy
tháng sau ba hắn hy sinh ở Quán Ngang. Đẻ được cái thằng ngoài trạm báo vô chao
ui là mừng, không cha bạ chừ (bây giờ) hắn lãng tử… Mẹ còn mỗi đứa cháu đích
tôn nhiều điều: “Thằng ni phing phiêu dữ. Làm nhà rồi mà cái bàn chưa có để thờ.
Hắn đã làm việc ngoài xã, có tháng mô cầm về được đồng lương…”.
Thì lương anh Bền là suất
lương cán bộ văn hóa thông tin xã, tháng tám chục ngàn, công việc không hình
không bóng, việc chi cũng làm. Các anh đang vác loa máy cùng đoàn thanh niên đi
tuyên truyền dân số, kêu gọi bà con sinh đẻ kế hoạch. Anh tháo vát, khôn ngoan,
cái khôn của đứa trẻ mồ côi cha mẹ sớm. Bố hy sinh chưa đầy năm sau, mẹ anh vấp
phải mìn thu lôi, chết tập thể trong một buổi sáng gánh bắp về chọ Sớm. Lớn lên
trong vòng tay bà nội cùng làng xóm và sự hủy diệt của chiến tranh, yêu thương
biết mấy cho vừa, nghiêm khắc bao nhiêu cho đủ cái hụt hửng đầu đời. Tôi biết mẹ
mắng yêu cháu chớ trách thì không ai nở.
Chừng như nhớ về đứa con gái
yêu mẹ kể:
- Thầy coi tui rồi, tuổi tuất,
tuổi ni cực lắm! Con gái tui (chị Trương Thị Tâm). “Mười hai cô gái làng Mai”
cũng hy sinh lúc chưa có chồng… chưa hắn tréng đi (tránh) một đứa trongNam chừ
còn được đứa con…
Buồn phiền uẩn khúc của mẹ
là thế. Nên đêm nào cũng khóc hư cả mắt, cả mũi. Cơ quan phụng dưỡng gợi ý mẹ
vào Huế mổ mắt mấy lần, mẹ bảo: “Tra rồi, sống được mấy tháng, mấy năm nữa mà mổ
mắt mổ mũi cho đau. Ờ mà bụng dạ mình sáng thì nhìn đâu mà chẳng rõ, chẳng
sáng…
Tôi chẳng còn biết làm gì, động
viên mẹ giữ gìn sức khỏe ăn ngon, ngủ yên, ra lão sống lâu cùng con cháu. Mẹ bảo:
“Ngủ tinh trợ (giật mình) tê. Chộ chi mà tác oai tác quái. Rừng rú, bom đạn, chết
chóc…” Ôi! Ám ảnh chiến tranh sao mà triền miên, dai dẳng. Biết đến bao giờ các
mẹ trút được nỗi nhọc nhằn và ra đi trong thanh thản, để cũng thanh thản được nỗi
lòng của cháu con.
Một đêm trăng lạnh, ba anh
em chúng tôi ngủ lại trên chiếc xuồng nan bồng bềnh trong rừng Sác, ngôi vườn
thượng uyển cổ kính của làng Mai còn sót lại và phục sinh sau cuộc chiến. Cũng
chỉ muốn cách ly, ngủ vùi một giấc sau những ngày loanh quanh tìm kiếm căng thẳng,
cũng có chút mộng mơ hồi tưởng lại cái thời kháng chiến tuổi trẻ lăn lộn ở vùng
rừng đước sông rạch miền Tây. Trải chiếc chiếu nan lên sạp chiếc xuồng nồng tanh
hương vị biển, lau khô chân cẳng anh em tôi leo vào chiếc nệm dã chiến, kéo đắp
lên ngực tấm chăn bông Thái mịn màng. Nằm ngửa, đốt thuốc, nhìn trăng. Chẳng ai
còn quấy rầy ai, mặc cho chiếc xuồng lênh đênh trong rừng Sác và con người ta
cũng tự do trôi trong trường chiêm cảm.
Soi bóng ngôi đình, bức tường
thành và cổng tam quan mờ mờ ảo ảo. Tôi cố hình dung ngôi chợ làng Mai nhộn nhịp
một thời trước bến đò xưa, nơi mà bây giờ con đường xuyên Á sừng sững vắt qua
đã xóa đi gần hết vết tích. Có cây ngô đồng rợp bóng giữa trời thu cách mạng phần
phật ngọn cờ đỏ sao vàng. Có những bóng hình bà mẹ làng Mai “Nuôi con đánh giặc
đêm ngày”. Có những người con bị giặc đem ra giữa chợ bêu đầu. Rờn rợn dưới ánh
trăng suông có hai mái đầu chải dầu bidăngtin óng mượt… Tôi cố xua đi và lắng
nghe trong xa xăm giữa không gian tĩnh mịch tiếng chuông chùa Mai Đông Tự reo
ngân sau rú Lòi Chàm và ngủ thiếp đi trong nỗi ám ảnh vừa nhọc nhằn vừa bình an
như thế.
Giật mình tiếng vạc kêu
sương. Tôi bừng tỉnh dậy giữa đêm trăng vằng vặc, hiu quạnh. Trên cao kia, mây
trắng ơ hờ mây trắng bay. “Mây sà quán chợ, mây qua đình làng. Mây trắng ngập bến
đò Ngang, Mây rung rừng Sác, Mây rung tán bàng”. Vần vũ áng mây trắng lốp, lúc
bay bổng lúc la đà chơi vơi mặt nước và bất chợi phủ lên ngôi đình làng Mai như
hai ngọn núi. Tôi tỉnh người ra, có ai đó thì thầm bên tai tôi câu nói đã lâu của
anh Tư Mã: “Người đời ai cũng vẫn phải chết; nhưng có cái chết nặng như núi
Thái Sơn, có cái chết nhẹ tựa lông chim hồng”.
Trong dáng hình biến hóa
khói sương kỳ ảo của đất trời mây nước, tôi thấy rành rọt có hai ngọn núi Thái
Sơn như thế trước đình chợ làng Mai. Anh Kỳ, anh Phi và các mẹ anh hùng làng
Mai ơi, các mẹ các anh đã chết như còn đó thôi.
(1) Rào trâu: Chuồng trâu
(2) Rào: Sông
(3) Làng Mai uất hận- Thơ
Bùi Thanh Tân- 1948
Làng Mai, Tết Thượng Nguyên
Y Thi
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét