Một người
đàn ông và hai người đàn bà
Phải mất một lúc tôi mới nhận ra anh Chủng.
Tình cờ tôi đang ngồi uống nước chè ở một quán cóc trong phiên chợ xép phố Bờ
Sông, lúc ấy anh đi bán nhang. Anh chở một bó nhang to trên chiếc xe đạp Phượng
Hoàng cũ. Nghe tiếng tôi gọi, anh nhìn tôi rồi cười, trơ ra hàm răng giả có một
chiếc bọc vàng tây sáng chóe.
- Chú về hôm nào mà không xuống anh chơi? -
Anh Chủng nói to, bỗ bã có ý trách như không thèm để ý tới những người khách nửa
quê, nửa tỉnh đang ngồi uống nước, uống rượu ở hàng ghế bên. Ông anh họ tôi là
người bán quán, nghe người quen ra vồn vã mời anh Chủng vào xơi chén nước.
- Em mới về… Về giỗ bố em. - Tôi đáp.
- Nhanh nhỉ… Mới đấy mà ông quy tiên đã ngót
mười năm. Hèn gì cả anh cả chú đều già đi là phải.
- Chiều mai mời anh lên chơi, uống chén rượu.
- Được. Anh sẽ lên thắp hương cho ông, nhân
tiện thăm bà và chú luôn thể. Còn bây giờ cho anh về. Bận lắm, chú cứ trông anh
thì biết.
Anh Chủng đi rồi, tôi vẫn còn ngồi trong quán
nước trà… Năm ấy, tôi tròn mười bảy tuổi, đã có giấy gọi đi bộ đội. Trong tiểu
đội của tôi, anh Chủng là A phó. Gốc anh là cán bộ của Công ty Vệ sinh đi chiến
trường bổ sung cho chiến dịch Mậu Thân 1968. Anh được coi là “thủ trưởng của lũ
nhóc” chúng tôi vì anh là đảng viên, đã có vợ con lại hơn chúng tôi tới gần hai
chục tuổi. Những lúc tức giận vì bị anh quát nạt, phê bình hoặc muốn trêu tức
anh “tiểu đội phó đảng viên”, đám lính học trò cứ gọi anh là “Lục” - ám chỉ những
người làm nghề đổ thùng trong các nhà vệ sinh công cộng của thành phố. Bây giờ
thời buổi văn minh, nhà nào có điều kiện đều làm vệ sinh tự hoại, ít bắt gặp
trong thành phố, thị xã những nhà xí công cộng. Và cũng không còn thấy những
chiếc xe đổ thùng của Công ty Vệ sinh đi lấy phân đêm. Thủa tôi còn bé, thật khổ
cho dân hàng phố phải chịu đựng cái mùi xú uế ấy vào những lúc đêm khuya thanh
vắng. Nhưng những người như anh Chủng, anh Gọng là công nhân viên của Công ty Vệ
sinh không hề mặc cảm, tự ti với công việc vất vả, bẩn thỉu của mình. Lao động
là vinh quang! Anh Chủng bảo vậy. Vả chăng tuy anh có sớm khuya vất vả cực nhọc
đẩy chiếc xe phân đi dọc dãy phố dài, hay gánh trên vai hai thùng phân nặng ba
bốn chục cân nhưng so với vợ anh ở quê, làm xã viên hợp tác xã, cuộc sống của
anh Chủng còn sung túc chán. Anh là công nhân biên chế Nhà nước. Có tem phiếu,
có lương và phụ cấp cho con. Cuối năm được họp hành xét bình bầu chiến sỹ thi
đua, lao động giỏi, rồi được nhận giấy khen, tặng phẩm. Anh còn khoe với chúng
tôi, ngày anh làm đơn đi tuyển công nhân vào Công ty Vệ sinh, lý lịch phải khai
đến ba đời. “Ông và cha mẹ tớ đều là bần cố nông, cốt cán cả nên họ mới xét chứ
không thì…." Thế thì đám lính học trò trẻ ranh còn thò lò mũi xanh hỗn thật!
Chúng tôi đâm sợ anh… Anh Chủng nguyên tắc lắm. Có thể anh cho mình là đảng
viên, lại có vợ, lớn tuổi rồi cần gương mẫu. Mà anh gương mẫu thật. Đi gác, thức
dậy rất đúng giờ, chăn màn gấp thẳng nếp. Khẩu AK giao cho anh giữ luôn được
lau chùi sạch bóng. Còn đám lính trẻ vốn tự cho mình có chút ít chữ nghĩa, dân
phố chính gốc, hay coi thường anh Chủng, sẵn sàng vô kỷ luật cắt áo sửa quần
cho “săng ly, bó ống”, trễ nải gác đêm và đi họp muộn… Anh Chủng rầu lòng với
chúng tôi lắm. Vì những chuyện như vậy mà trung đội, tiểu đội thường mất điểm
thi đua…
Sáu tháng trời luyện quân ở Trại Trầm, đi cứu
lụt ở Yên Dũng, một đêm kia giữa những ngày đông rét buốt, chúng tôi lên đường
vào Nam. Ròng rã bốn tháng trời chúng tôi hành quân trên con đường Trường Sơn
muôn vàn khổ ải. Khác với nhiều người lính già có vợ con, nặng gánh gia đình,
anh Chủng đã không “B quay” đào ngũ. Anh không hề tỏ ra nao núng, sợ hãi khi
vào đến tuyến lửa Khu Tư, bom ném liên hồi và lần đầu tiên được nhìn thấy những
pháo đài bay B52 xả trên bầu trời ba vệt khói trắng như sữa cùng với những nấm
khói bom rải thảm phía chân trời. Thậm chí, anh còn động viên đám trẻ chúng tôi
đừng nản lòng thối chí. Lúc tiểu đoàn tân binh được bàn giao cho chiến trường,
anh Chủng cùng chúng tôi được đưa về một đại hội bộ binh, phải trụ bám vùng
giáp ranh. Anh em chúng tôi đã nhiều phen nhịn đói, ăn cháo môn vóc, xuống đồng
bằng mua gạo và đánh địch, vấp mìn. Có một lần, cả tôi và anh Chủng suýt chết
khi sa vào ổ phục kích của một đại đội thám báo ở rừng Hương Trà… Rồi một ngày,
anh Chủng bị thương, đi viện. Từ dạo đó tôi không còn gặp anh nữa.
Cho đến ngày bố tôi mất, nghĩa là mười bốn
năm sau tôi mới gặp lại anh Chủng trong hoàn cảnh tang gia bối rối. Anh Chủng
đã về quê, chuyển ngành, trở lại làm việc ở cơ quan cũ - Công ty Công trình vệ
sinh công cộng. Anh trở lại với chiếc xe bò bịt bùng, đêm đêm đi lấy phân ở các
nhà vệ sinh công cộng, cơ quan, trường học… Sức khỏe ngày càng yếu, anh Chủng
được lãnh đạo Công ty bố trí công việc hành chính, tổ chức cho đến ngày anh về
hưu non. Còn tôi, vẫn phiêu bạt ở miền Nam sống bằng nghề dạy học. Thêm chín
năm nữa, bây giờ tôi mới có dịp gặp lại anh!
Mới bốn giờ chiều, anh Chủng đã tới nhà tôi
ăn giỗ. Hôm nay anh ăn mặc chỉnh tề trong bộ đồ vét tông màu đen, đi giày da,
tóc chải bóng mượt trông trẻ ra tới mươi tuổi. Suốt nửa tiếng đồng hồ, anh Chủng
say sưa nhắc lại những kỷ niệm cũ thời đi B, kể cho cả nhà tôi nghe chiến công
đánh giặc, gùi gạo và cả những ngày anh nằm ở Quân y viện 94. Anh đã chiến đấu
vất vả với vết thương và hàm răng cùng với những cơn sốt rét ác tính, tưởng có
lúc đã đi đứt. Sức kiệt, anh Chủng được trả về hậu phương.
- Nhưng về đến quê nhà, chán quá chú ạ! - Anh
Chủng bảo tôi sau khi nhả ra một dòng khói thuốc lào đục trắng. - Con cái đói
khổ nheo nhóc đã đành, ai dè vợ tôi lại phản bội. Tôi vào Nam sáu năm, cô ấy ở
nhà tằng tịu với tay trưởng phòng. Lúc tôi về, đứa nhỏ đã được bốn tháng tuổi.
Nóng giận, bực bội, tôi đã bế thằng nhỏ lên trả thẳng cho tay trưởng phòng tổ
chức huyện ủy… Không nói một lời, tôi bỏ về. - Gương mặt anh tối lại - Lúc ấy
tôi đã ngoài bốn mươi tuổi mà còn dại chú ạ! Không thoáng như các chú bây giờ.
Tôi nóng. Khi thằng đàn ông nóng nảy, nó trở thành kẻ điên. Trong tôi luôn dấy
lên ý nghĩ mình bị kẻ khác làm nhục, bị lừa gạt. Tức tay trưởng phòng đã đành một
nhẽ, nhưng giận luôn vợ con. Cô ấy đã phụ tình. Không ngần ngại, tôi viết đơn ly dị.
Câu chuyện đến đây thì bị cắt ngang. Cỗ bàn
đã làm xong và đưa lên cúng. Bà con họ hàng nội ngoại kéo đến, tôi xin phép anh
thủ trưởng cũ để đi tiếp khách. Và tôi đã dành nửa ngày trời để đi thăm hai người
đàn bà.
Vợ anh Chủng bây giờ chẳng phải ai xa lạ mà
chính là một cô gái đồng hương, anh đã gặp và làm quen trên tuyến đường vận tải
Trường Sơn ở làng Ho ngày trước. Cô thanh niên xung phong thua anh đúng một
giáp. Cô trở về làng, được bà con quý mến bầu vào Hội đồng nhân dân của xã. Tám
năm liền cô làm chủ tịch, cho đến nhiệm kỳ này cô
đã lãnh trách nhiệm bí thư Đảng ủy xã. Cô chủ tịch thương anh Chủng một tay
nuôi ba đứa con mọn, hai anh chị bén duyên vợ chồng. Họ có một nếp nhà mái bằng
rộng rãi, cô vẫn làm việc ở xã. Anh Chủng nghỉ hưu ở tuổi ngoài năm mươi, về
nhà trông nom vườn tược, làm thêm nghề xe nhang bỏ mối cho các bà bán lẻ trên tỉnh.
Một cuộc sống tạm gọi là đủ ăn, có chút dư dả của người nông dân. Anh Chủng tự
hào với đàn con bốn đứa, kết quả của cả hai cuộc tình. Anh có vẻ khoái khi khoe
với tôi đứa cháu ngoại đã được hai tuổi của con gái người vợ trước. Tôi ghé
thăm nhà, anh Chủng mừng lắm. Anh bắt gà giết thịt, đãi rượu, đưa tôi đi thăm
làng Đồng Mây. Gặp ai, anh không quên giới thiệu tôi một cách trịnh trọng “đồng
đội cũ ở chiến trường." Làng Đồng Mây ruộng nửa để cấy lúa, nửa trồng màu.
Con gái có nghề thêu đan. Hàng chục năm nay, làng đã kéo điện, đường làng trải
nhựa, lát bê tông vào từng ngõ xóm. Trong làng không ai còn bị đói, nhưng người
nông dân vẫn chưa thoát khỏi cảnh nghèo. Gia đình anh Chủng thuộc hạng trung
lưu, tằn tiện mãi mới mua được chiếc ti vi nội địa. Nhưng anh Chủng vẫn giữ được
thói quen nghe đài. Anh khoe thỉnh thoảng lại được nghe những bài bút ký, truyện
ngắn của tôi trong đêm khuya tĩnh lặng.
Còn người đàn bà thứ hai… Thưa, anh Chủng!
Tôi đã làm một việc không phải là giấu anh chuyện ấy.
Tôi tìm đến ngôi chùa Làng Vàng, lúc trời đã
ngả về chiều. Ngôi chùa nhỏ, nhưng vẫn giữ vẻ cổ kính dân dã, thường gặp trong
các làng quê xứ Bắc. Như một vị khách vãng lai thích ngắm cảnh chùa, tôi tha thẩn
đi trong khoảng sân lát gạch và con đường nhỏ chạy giữa những luống hoa, trong
một khu vườn xanh rợp bóng cây. Tiếng chuông chùa ngân lên trong vắt cùng với
tiếng mõ khua lóc cóc. Mùi hương trầm tan loãng càng tạo nên vẻ thâm nghiêm
tĩnh mịch. Tôi thắp một bó nhang cắm vào bệ thờ ở các gian tiền sảnh. Mãi sau mới
thấy sư bà xuất hiện. Sư bà nhìn tôi trong giây lát, tôi cúi đầu chào lại. “Nam
mô a di đà Phật!” Sư bà đáp. Tôi tránh nhìn cặp mắt ấy và lặng lẽ đi ra sân.
Tôi có cảm giác như mình là kẻ mắc lỗi. Không phải với anh Chủng mà với sư bà.
Người đàn bà ấy không ai khác chính là chị Chủng ngày trước. Sau vụ ly hôn, chị
xấu hổ với làng xóm, bỏ chồng con đến nương nhờ cửa Phật mong gột rửa mọi lỗi lầm.
Năm tháng qua đi, đức độ của người đàn bà nguyện suốt đời ăn
chay niệm Phật đã đưa chị lên tới chức vị sư bà, được tiếng cả một vùng. Ngày lễ
Tết, giỗ chạp bên nhà chồng, sư bà vẫn gửi gạo nếp cái hoa vàng về cúng giỗ.
Không chỉ lo tụng kinh niệm Phật, lúc rảnh rỗi vào những đêm trăng sáng, chị cuốc
những vạt đất đầu thừa đuôi thẹo trong khu mả giữa đồng, dọc theo con mương dẫn
nước để cấy lúa trồng khoai.
Sẽ không bao giờ tôi có thể mở mồm để hỏi được
chị điều này: rằng chị còn nhớ anh Chủng của tôi, nhớ tới những đứa con đang sống
ở làng… Tôi vẫn không quên hình bóng chị hơn hai mươi năm trước đã đi bộ năm
mươi cây số đường núi từ ga Bắc Giang vào rừng Lục Nam tìm chồng. Chị gánh trên
vai chục ký gạo với cặp gà trống để làm quà đãi lính. Trong con mắt chúng tôi,
chị là người đàn bà nông dân xinh đẹp, hiền thảo, nết na. Tôi vẫn còn nhớ tấm
áo cánh nâu của chị thấm đầy mồ hôi, cả chiếc khăn xanh che bớt đi một phần
gương mặt đẹp, hồng lên vì đường xa.
Tiểu đoàn bộ không có nhà khách. Hai vợ chồng
anh Chủng chỉ kịp gặp nhau bốn tiếng đồng hồ trong căn nhà đất của một gia đình
người Cao Lan không giường chiếu. Hai giờ sáng, chúng tôi đã phải hành quân ra
ga Voi Xô để về xuôi… Người đàn bà đầm đìa nước mắt tiễn chồng ra trận trong
ánh trăng nhập nhòa cuối tháng. Tôi không muốn tin rằng chị là người có lỗi…
Ôi, chiến tranh! Tôi đã nhìn thấy những ngọn
đồi trụi trơ pháo bom cày nát trong những cánh rừng miền Tây Bắc Huế, những con
hào hoen máu bạn bè tôi khỏa lấp xương thịt trong những đồng ruộng ngập nước ở
vùng giáp ranh Phong Quảng, Hương Trà. Nhưng còn có một cuộc chiến tranh cũng
khốc liệt dữ dội ẩn náu sau những lũy tre làng. Ở đấy cũng có cái sống và cái
chết, đầy rẫy cái thật và cái giả, che giấu bao niềm vui và nỗi buồn. Có cuộc vật
lộn giằng xé nào khổ ải và không kém phần đớn đau hơn trong lòng một người đàn
bà cô quạnh?
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét