Trang trại hoa hồng 2
II/ BÀ MẸ LÀNG LÔI
1. Trong cuốn biên niên sử của
huyện miền duyên hải, xã Đồng Tiến là một xã anh hùng. Danh hiệu anh hùng không
chỉ vì có nhiều thành tích trong những năm kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ mà
dòng máu nghĩa liệt ấy còn là mạch nguồn của cả ngàn năm trước. Các cuốn sách cổ
như Đại Việt sử kí toàn thư, hay như cuốn Việt sử lược, cố giáo sư họ Trần khi
nghiên cứu về dải đất này luôn xem đây là một vùng đất cổ. Cổ là phải vì vài
trăm năm trước, trong kí ức của người già làng Lôi, làng Muộn, làng Kẹo đời này
truyền qua đời khác vẫn còn kể về câu chuyện của những người ngư dân sống dọc
theo các triền sông Hồng, sông Luộc, vùng đầm bãi ven biển hàng năm vẫn bắt được
thuồng luồng, cá sấu, rồng đất, rồng vàng, rắn xanh, rắn trắng… Vào mùa mưa lũ,
nước trên nguồn đổ về, cây rừng to như một tòa nhà bị đánh bật gốc, kết bè, kéo
mảng mang theo cả những con cọp, báo còn sống trên rừng. Những ông vua, chúa của
rừng xanh bị lũ cuốn, đứng chình ình trên phần thân cây cành nổi lập lờ mặt nước,
giương đôi mắt sáng quắc nhìn đám người làng chạy lụt đổ cả lên bờ đê tránh nước.
Thú dữ nhưng những vị thần rừng không làm hại ai cả, chỉ thương bị lũ cuốn về
xuôi, trôi ra biển. Còn chuyện cá ông, cá kình, cá mập bị bão tố ngoài khơi
theo sóng biển đánh dạt vào nằm trên bờ cát như những trái núi. Theo lệnh của
quan nha, các làng tổ chức tang lễ cho “đức Ông”, nhiều nơi lập miếu thờ. Chuyện
khinh động cả một vùng.
Còn trai đinh các làng quanh
vùng từng theo Bố Cái Đại Vương, Triệu Quang Phục, Trần Lãm, Đinh Bộ Lĩnh dựng
cờ chống giặc ngoại xâm thì đã đi vào sử sách. Hơn 700 năm trước vùng đất này
còn là quê hương của vua tôi nhà Trần, mấy lần giặc Nguyên Mông sang cướp nước
ta, nhiều lần người trong hoàng tộc cùng với vua cha về Sơn Nam lánh giặc. Người
viết những dòng này, cứ mỗi lần về quê, nếu có dịp lại tìm về làng Gạo, cố hình
dung ra những bãi sình lầy ven bờ con sông Hóa, mường tượng ra con đường hành
quân của đức thánh Trần khi người mang quân đi diệt Ô Mã Nhi. Và tự huyễn hoặc
mình những bờ đất, bãi lầy nơi con voi trận của Ngài gửi lại dưới lòng sông.
Nơi ấy bây giờ bát ngát một màu xanh của dâu, ngô trải dài tới tận chân đê.
Thời chống Pháp, cánh trai
làng của vùng này nổi tiếng về nghệ thuật đánh du kích. Ban ngày khi không có
giặc, họ là những anh dân quê, gái làng vác cày, vác cuốc, dắt trâu, gánh mạ ra
đồng tát nước, làm cỏ. Nhưng mỗi khi nghe tin lính Pháp từ bốt Bo, bốt Cao, Đống
Năm về càn, họ biến hình thoắt ẩn, thoắt hiện như ma, len lỏi giữa những rặng
tre ngà dụ địch vào những hầm chông tre, vạt nhọn. Đòn xóc, mã tấu, kiếm, dao
găm vung lên, đầu Tây lìa khỏi cổ. Thời chống Mỹ, trung đội dân quân gái của xã
đã từng được đài báo loan tin hạ máy bay F4 của Mỹ bổ nhào vào ném bom thị xã.
Không rõ thực hư những viên đạn K44, CKC, trung liên cánh dân quân đặt súng ở mả
Bà Tạ bên sông có bắn trúng máy bay phản lực Mỹ thật hay không, nhưng cả xã cả
huyện làm cỗ mừng công vì nhận được thư của cấp trên khen. Phần thưởng là một
con lợn nặng ngót tạ của phòng thương nghiệp huyện bán theo giá phân phối đem về
khao cán bộ, dân quân du kích. Nhưng điều này là có thật. Đồng Tiến là một
trong những xã của tỉnh có nhiều con em tham gia đi bộ đội vào Nam. Thương binh
liệt sĩ đông nhất. Hợp tác xã Đồng Tiến cũng có lúc được nhận cờ thi đua xuất sắc
trong phong trào hợp tác hóa nông nghiệp, giỏi về nuôi bèo hoa dâu, làm phân
xanh, năng suất lúa năm nào cũng đạt trên 5 tấn. Đấy là vào những năm “70” lúc
phong trào “đánh cho Mỹ cút, đánh cho Ngụy nhào, giải phóng miền Nam”, “mỗi người
làm việc bằng hai vì miền Nam ruột thịt” đang dâng cao. Rồi từ đó phong trào
thi đua, khí thế ở Đồng Tiến tự nhiên sút giảm hẳn. Có năm chi bộ thôn Lôi bị kỷ
luật cảnh cáo. Đảng ủy xã bị khiển trách. Lý do không hoàn thành nhiệm vụ, làm
thất thoát tài sản hợp tác xã. Đảng viên đánh nhau vì chia công điểm thiếu công
bằng. Tuyển quân không đạt chỉ tiêu. Chủ nhiệm hợp tác xã ngủ với kế toán trưởng
bị nhân dân tóm được. Vân vân và vân vân. Trong các cuộc họp của huyện, cái tên
Đồng Tiến ít được nhắc đến. Hoặc nếu có được nêu gương, toàn rơi vào mục khuyết
điểm, yếu kém. Hai kỳ đại hội, cả xã không ai trúng vào huyện ủy. Thế thì tệ
quá!
Trong một vài kỳ họp Đảng bộ
xã, thảng hoặc có một vài ý kiến, chủ yếu của các cụ lão thành, cựu chiến binh
nêu ra câu hỏi chất vấn bí thư Đảng bộ về sự sút kém trong các phong trào thi
đua của xã. Song dường như những ý kiến ấy ít được trả lời một cách đầy đủ,
thuyết phục và bị lọt thỏm trong những cánh tay giơ lên biểu quyết những chỉ
tiêu, con số. Nào là diện tích sản xuất vụ Đông, sản lượng lúa mùa, chỉ tiêu
tuyển quân, xây làng văn hóa, cải tạo kênh mương, đường sá… Chuyện ấy cấp bách
hơn nhiều ở một xã, một huyện vào thời kỳ đất nước vừa đi qua những cơn binh lửa
ở miền biên giới Tây Nam và cả vùng biên giới phía Bắc. Nghị quyết quan trọng với
một cấp ủy Đảng lúc này là phải lo cái ăn, cái mặc, lo cho sự học hành, công ăn
việc làm cho con cái. Những câu chuyện cũ của làng Lôi chỉ còn nằm lại trong kí
ức của vài người quanh bàn trà, điếu thuốc. Hoặc ở một vài người già, buổi trưa
trời nóng không ngủ được, các cụ ra ngồi quanh gốc si già cạnh quán cắt tóc của
cụ Sự, nói chuyện vãn.
Và theo cái lý của cụ Sự,
phong trào thi đua của Đồng Tiến thụt lùi còn liên quan tới vụ cháy làng Lôi
năm 1975, khiến cho 16 ngôi nhà tranh phát hỏa.
Trận cháy làng Lôi đến nay nhiều
người cũng đã quên. Quên vì làng quê nay đã đổi khác. Đố ai tìm ra được những
ngôi nhà tranh vách đất thấp bé lụp xụp mọc như nấm trong làng ngày trước. Cả
làng bây giờ bói không còn nhà nào có đống rơm, chuồng trồ (nhà xí) thối um. Ở
làng Lôi không còn hình ảnh những đứa trẻ, người già mỗi khi đi đại tiện ngồi
chênh vênh trên những đoạn tre bắc cầu, bất kể mưa nắng. Con đường làng ngày
trước sau cơn mưa lầy lội, nhoe nhoét vết chân người, chân trâu, cứt chó. Bây
giờ đường làng bê tông hóa, vào tận cửa. Nhà nghèo nhất cũng đã xây gạch, lợp
ngói. Nhà có tiềm lực kinh tế khá hơn nay đã có nhà xây 2 tầng, 3 tầng. Gia
đình thuộc diện chính sách, hộ nghèo đã có nhà tình nghĩa. Điện thắp sáng cả
làng. Sáng cũng như đêm tiếng loa phóng thanh của xã, tiếng tivi chen lấn tiếng
nhạc xập xình của vài quán karaoke, nghe đau cả đầu.
Về sự cố cháy làng Lôi, theo
cụ Sự, làng ít nhất có ba vụ cháy lớn. Trận cháy thứ nhất xẩy ra vào những năm
“50” khi giặc Pháp càn vào vùng tự do liên khu III. Để tiêu diệt cán bộ du kích,
chúng đốt sạch các làng. Vụ cháy thứ thứ hai xảy ra vào năm 1967. Máy bay Mỹ
vào ném bom Nam Định, Thái Bình, lúc bay ra biển qua làng Lôi chúng trút bom thừa,
thiêu cháy quá nửa làng. Trận cháy thứ ba ở làng Lôi không do bom đạn địch nào
gây ra cả. Nửa đêm, cả làng hoảng loạn vì cháy nhà. Một nhà cháy loang ra cả
xóm, lan tới cả kho xăng của chính phủ. Kho xăng nổ to như bom, làm chết bốn
người, trong đó có con trai của ông Bí thư huyện ủy đang ngồi đánh bài, uống
bia mừng ngày giải phóng.
Cuốn sử biên niên của xã Đồng
Tiến do mấy anh tuyên giáo của tỉnh về chấp bút, khi viết về làng Lôi không ai
ghi lại chuyện ấy. Đám thanh niên trai tráng ở làng, mỗi khi nghe những người
già ngồi nhắc chuyện cũ, có đứa tỏ ra khinh thị “Các cụ già sắp gần đất xa trời
để làm nhi đồng ngoài nghĩa địa hay hoài vọng quá khứ”.
Đám cháy sau cùng của làng
Lôi bắt đầu từ nhà ông Đệ. Đệ là gọi theo tên anh con trai đầu, tên thật của
ông là Đê. Vợ là bà Mít. Đấy là kết luận của mấy anh công an huyện cùng với cán
bộ xã sau khi điều tra hiện trường ghi trong tờ biên bản gửi lên cho cấp trên:
“Lửa bén từ mái nhà tranh vách đất của ông bà Đệ, cháy lan sang đống rơm hợp
tác xã, gặp gió, đống rơm bén lửa cháy sang đám cây ngô dựa quanh bờ rào, bén
vào dây điện. Điện chập nổ, cháy sang nhà ông Kha, ông Hoạt, bà Bèo, nhà ông
Dĩnh, ông Mẹo…rồi lan sang kho xăng. Trạm xăng nổ. Lửa bắn tung tóe, cháy thêm
9 ngôi nhà dân quanh xóm”. Đấy là những dòng được trích nguyên văn từ tờ giấy vở
học trò được xé ra làm biên bản ghi lại vụ hỏa hoạn ở làng Lôi. Còn chuyện bốn
người cán bộ “hi sinh” trong vụ hỏa hoạn, trong đó có anh con trai của đồng chí
Bí thư huyện ủy chết oan được ghi vắn tắt: “Hi sinh trong lúc làm nhiệm vụ”.
Theo dân làng kể lại, người ghi biên bản không ghi chuyện họ sát phạt đỏ đen,
đánh chén mà được thay bằng hình ảnh họ ngồi “trực cơ quan” và đang bàn luận
tin tức thời sự miền Nam giải phóng. Thủ phạm gây ra vụ cháy nhà ở làng Lôi
theo kết luận điều tra là do bà Mít “đánh đống dấm, lửa bén vào bức vách rồi bốc
cháy”.
Sau đêm cháy nhà, dân quân
du kích, công an, cán bộ xã chia nhau đi truy tìm thủ phạm suốt mấy ngày trời.
Dò hỏi tin tức khắp nơi. Họ như muốn đào tung cả đất làng Lôi để đưa bằng được
bà Mít về tống giam, nhưng chẳng ai nhìn thấy bà già ở đâu. Giả thuyết cho rằng
bà Mít, người gây ra vụ cháy đã chết cháy. Trong một báo cáo của xã gửi lên huyện
cũng ghi rằng bà Mít, người gây ra vụ cháy đã chết cháy. Nhưng những người hay
chuyện lại bàn, chết cháy thì còn xương cốt. Đám tro tàn của ngôi nhà tranh hai
gian ba chái người ta chỉ đào bới được vài mảnh chum, mảnh bát vỡ vụn. Chiếc
mâm đồng bị lửa uốn cong nằm lăn lóc giữa ba ông đồ rau bằng đất, lửa nung rắn
như gạch. Vậy bà Mít đi đâu? Không rõ!
Nửa tháng sau, một cô bé đi
cắt cỏ dọc bờ sông Cọi tình cờ tìm được một chiếc quần nái đen, tấm áo cánh nâu
đã cũ giấu trong lỗ chuột dưới gốc một bụi dứa dại. Cô bé tưởng vớ được của, giấu
vội mớ quần áo vào trong gánh cỏ đem về khoe với mẹ. Bà mẹ trẻ đang là phó chủ
nhiệm hợp tác xã nhận ra đấy là bộ quần áo của bà Mít. Tại cuộc họp của Đảng ủy
xã, đồng chí công an xã kết luận: “Bà Mít sợ tội nhẩy xuống sông tự tử!”.
Thêm một lí do thứ hai ông Sự
cho rằng làng Lôi phong trào đi xuống còn có một nguyên nhân là anh con trai của
cụ Đê, bà Mít chiêu hồi theo giặc. Vết nhơ này, khởi nguồn từ sau cái ngày thằng
Ca, con ông Cà ở làng trở về thăm gia đình vào một ngày đầu tháng 10 năm 1975.
Làng Lôi có 78 anh con trai
nhập ngũ vào Nam đánh giặc. Ca là người thứ ba mới trở về quê sau ngày giải
phóng, lại từ Sài Gòn ra. Đây thực sự là niềm vui, niềm tự hào của cả làng, cả
xã. Ca béo tốt hồng hào, tươi tắn, trông có già đi so với ngày còn ở đội sản xuất.
Nhưng thế mới ra anh bộ đội giải phóng vượt qua bao gian khổ, chết chóc hiểm
nguy, có ngày trở lại quê hương. Ca không đeo sao, đeo lon nhưng cả xã biết anh
ta đã là thượng sĩ, trung đội trưởng một đại đội của một sư đoàn đánh vào Sài
Gòn. Như ngàn vạn những người lính được về phép thăm cha mẹ, làng xóm sau chiến
tranh, Ca nhận được 45 đồng tiền cửa rừng, một ruột tượng gạo, gói mỳ chính,
chút ruốc bông mặn chát… đủ để hắn có lương thực ăn đường, mua ít gói kẹo và một
vài thứ quà về thăm quê. Theo lời khuyên của một vài anh có kinh nghiệm, Ca chọn
mua cái khung xe đạp, một con búp bê nhựa, vài ba cái khăn voan về làm quà cho
gia đình. Thế đã là oách. Con búp bê nhựa của Ca mua ở chợ Bến Thành to bằng đứa
trẻ lên 2, mặc áo váy hồng, mở mắt, nhắm mắt được. Mấy trăm đứa trẻ con ở làng
Lôi chưa đứa nào có được con búp bê to và đẹp như vậy. Con búp bê đặt ở giữa
sân, trẻ con, người lớn quanh xóm đến xem con búp bê vòng trong vòng ngoài vì lạ.
Nhân tiện họ hỏi chuyện thằng Ca về những người con, người em của họ cũng đi
Nam xem còn sống hay chết. Một vài người có con em cùng nhập ngũ với Ca một
ngày, biết tin người thân hi sinh thì buồn, nhìn Ca mà thương con nhớ cháu. Nhiều
người đến nghe Ca kể chuyện ngày giải phóng Huế, Đà Nẵng, Nha Trang, Sài Gòn.
Chuyện người Sài Gòn ăn ở ra sao, mặt thằng lính Ngụy ngang dọc thế nào. Những
ngày tháng Năm năm 75, ở làng Lôi cũng vui như Tết. Tin giải phóng miền Nam, đất
nước thống nhất, non sông liền một dải như ngọn gió lành xua đi những tháng năm
mong ngóng chờ đợi. Hết rồi bom đạn chiến tranh, hết rồi giặc giã. Con em họ
sau bao năm xa nhà nay đang trên đường trở về quê hương.
Vào cái đêm thứ 4, khách đã vãn,
ông Đê tìm đến nhà Ca. Bà Mít cẩn thận nhét vào tay chồng nải chuối để làm quà
cho cháu. Chưa uống xong bát nước chè xanh, Ca nhìn ông Đệ đắn đo.
“- Cháu báo để bác biết tin
này nhé. Anh Đệ nhà bác chưa chết! Anh Đệ còn sống…Cháu nhìn thấy anh ấy còn sống”.
Nghe Ca nói vậy, ông Đê bủn
rủn cả chân tay, bát nước chè xanh đang cầm trên tay rơi xuống đất. Ông Đê nói
như người mất hồn:
“- Có thật không cháu? Có thật
cháu bảo anh Đệ nhà bác còn sống? Ông Đê lắp bắp hỏi lại”.
Cây gậy đuổi chó tựa ở mép
bàn bị một bàn tay của ông gạt rơi xuống đất. Chỉ nói được đến đấy, ông Đê tự
nhiên thấy hoa mắt, loáng choáng. Ngọn đèn điện treo lủng lẳng trên đầu quay cuồng,
mắt nổ đom đóm. Ông ngã lăn xuống đất, bất tỉnh nhân sự...
2. Chuyện kể rằng:
Những người già cả ở làng
Lôi vẫn còn nhớ mùa đông năm 1970, làng Lôi, làng Muộn, làng Kẹo, làng Tằm có một
ngày buồn. Trời rét căm căm, theo lịch của đội sản xuất, hôm ấy cả làng phải ra
đồng đổ ải. Đột nhiên buổi sáng ấy chiếc loa phóng thanh treo trên ngọn cây gạo
đầu làng phát đi bản tin của xã yêu cầu một số gia đình xã viên không ra đồng,
lên tập trung ở trụ sở xã... Giọng cô Na, một phát thanh viên của xã vừa chua,
vừa nói ngọng, trang trọng mời bẩy gia đình ở làng Lôi, hai gia đình làng Muộn,
năm gia đình bên làng Kẹo, mười một gia đình bên làng Tằm lên xã để nhận tin
báo tử và làm lễ truy điệu cho con em liệt sĩ.
Hai mươi nhăm cái tang cho một
xã vùng duyên hải. Hai mươi nhăm người con của quê hương đã bỏ mình vì nước
trong chiến dịch Tổng tấn công Mùa xuân năm 1968, một số hi sinh năm 1969.
Trong số ấy, có Đệ - anh con trai duy nhất của ông Đê. Nhưng còn một trăm bốn
mươi mốt gia đình của xã Đồng Tiến lo lắng hơn. Những gia đình này đều có con
vào Nam, phần đông con cái họ từ ngày đi B không có tin tức, thư từ gì gửi về
cho gia đình. Miền Nam xa xôi cách trở. Nghe đài báo tin Mỹ ném bom khu IV,
Vĩnh Linh, Quảng Bình, Thanh Hóa,…Cầu Hàm Rồng bị bom Mỹ ném đêm ngày. Đường
Trường Sơn bị máy bay bắn phá. Nhưng khi hỏi Hàm Rồng ở đâu, Đồng Lộc ở chỗ nào
chả mấy người dân làng Lôi biết chính xác. Ngoại trừ một vài người dân làng đi
thoát ly làm công nhân, cán bộ, số đông thanh niên đi bộ đội, thanh niên xung
phong còn người trong làng chả mấy ai đi xa khỏi lũy tre làng…
Lễ báo tử cho những người
con của làng Lôi diễn ra trang trọng, gọn nhẹ thích hợp với thời chiến. Vả
chăng, việc xã báo tử cho con em của người trong xã cũng đã quen rồi. Năm nào
chả có những cuộc báo tử như vậy. Các gia đình, người thân có con em hi sinh được
mời lên trụ sở của xã, hợp tác xã để nghe thông báo. Không kèn đám ma. Không cỗ
bàn rình rang. Không dựng rạp. Không lợn kêu eng éc. Và thậm chí vắng cả tiếng
khóc than, kêu gào của những người mẹ, người vợ, người chị. Người thân yêu chết
thì cũng đã chết rồi. Chết ở phương trời nào, trong chiến trận hay chết vì sốt
rét. Chết vì dính mìn, chết vì vào làng gặp đám bảo an, dân vệ phục kích khi đi
lấy gạo. Chết vì đánh cá. Chết vì cây đổ trong giông bão, sập hầm vì pháo… Tất
cả được gói gọn trong mấy chữ “hi sinh tại mặt trận phía Nam”. Đơn giản và dễ
hiểu xiết bao. Những đứa con của làng Lôi hi sinh vì nghĩa lớn, vì đất nước và
dân tộc. Giọng đọc của ông bí thư Đảng ủy xã thật thống thiết trước mặt các gia
đình liệt sĩ và đại diện của các cơ quan quân dân chính đảng. Từng người, từng
người một hết làng này sang làng khác. Tên những người liệt sĩ được nêu danh giống
như những cuộc điểm danh một ngày không xa, anh cán bộ tuyển quân kêu từng người
đi nhập ngũ. Từng gia đình cha mẹ con cháu dặn nhau, nhớ lấy cái ngày người
thân hi sinh để mà làm giỗ. Có nhà có ảnh để thờ con. Nhiều nhà không có ảnh
con để thờ. May mắn thay những tấm ảnh thờ liệt sĩ ở làng Lôi, anh nào cũng trẻ
đẹp. Thanh niên trai tráng tuổi 18, đôi mươi. Những ngày luyện quân ở Hà Bắc,
Yên Tử, ngày nghỉ, chủ nhật cố ra đến thị trấn huyện để ăn lấy một tô phở bò và
chụp lấy một tấm ảnh làm kỉ niệm. Chao ôi! Những tấm ảnh thời chiến chỉ to bằng
ba đầu ngón tay. Ảnh đen trắng. Anh nào cũng quân phục sáng láng. Các nghệ sĩ
nhiếp ảnh của phố huyện lấy bút chì cu lơ tô xanh, tô hồng. Anh lính nào cũng
vui và tự hào có được một tấm hình để gửi về cho cha mẹ, anh chị, người yêu.
Việc Ca được về làng thăm
gia đình vào cuối năm 1973 là một sự kiện chấn động cả một vùng. Ngày ấy Đông
Hà đã giải phóng và trở thành một địa điểm quan trọng của mặt trận giải phóng
và chính phủ Cách mạng lâm thời cộng hòa miền Nam Việt Nam. Đây là thời điểm
sau hiệp định Pari đã được kí kết. Mặt trận Trị Thiên Huế, quân ta và quân Ngụy
đang ở thế “hòa hợp”, cài răng lược, cắm cờ giữ chốt, giữ các vùng đất đã chiếm
đóng được. Thị trấn Đông Hà được cánh lính giải phóng Trị Thiên gọi đùa là Thủ
đô kháng chiến. Trong khi đó cách Đông Hà hơn chục cây số đã là sông Thạch Hãn,
thành cổ Quảng Trị, các đơn vị quân giải phóng chủ lực và địa phương đang căng
ra giữ chốt, phía đối diện là các sư đoàn chủ lực của Ngụy. Thị trấn Đông Hà tấp
nập các sắc áo lính. Chợ Đông Hà lại tiếp tục mở cửa bán cả hàng của ta và đồ của
Ngụy. Có lương khô, bột trứng, mì chính bán cả thùng. Ở một vài quán tạp hóa
bán cả khăn voan, xà bông cục của Mỹ, bật lửa zippo…Lạ mắt nhất có lẽ là những
cuốn album có hình các cô gái đẹp, ăn mặc hở hang. “Đúng là đồ văn hóa tư bản!”.
“Tiên sư nó, thế này thì đánh đấm gì”. Một anh lính chửi tục nhưng mắt vẫn còn
ngơ ngác vì có lẽ là lần đầu tiên trong đời anh được chiêm ngưỡng vật lạ của
người phụ nữ.
Khốn khổ cho thằng Ca, trong
đáy ba lô bẩn thỉu hôi hám của nó ngoài mấy phong lương khô, lạng mì chính mang
về cho mẹ, cụ cậu có được một cuốn album nhấp nháy, mua với giá 12 đồng ở chợ
Đông Hà. Cô em gái lục túi ba lô để giặt giũ quần áo cho anh, vô tình nhìn thấy
cuốn album có hình cô gái khỏa thân, cô bé rú lên như cháy nhà. Cha Ca đang ngồi
hút thuốc lào vặt ở ngoài hè, tưởng có chuyện gì chạy vào, nhìn thấy cuốn
album, biết chắc đây là “sản phẩm của lũ đế quốc Việt gian bán nước”, đầu độc
con trai ông, giận quá ông thuận tay xé cái roạt cuốn album ra làm đôi và vất tấm
ảnh vào lửa. Thằng Ca đang ngủ chợt thức dậy, biết chuyện vừa ngượng vừa xấu hổ
với cha và cô em gái. Nó đường đường là một anh cán bộ tiểu đội phó, đảng viên
lại đi mua cái thứ sản phẩm độc hại của Mỹ Ngụy tha về làng. Ca ngậm tăm, ngồi
phì phèo điếu thuốc lá, mặt đuỗn ra như một đứa đi ăn cắp vặt bị bắt tận tay.
Nhưng vốn là một đứa tháo hoạt,
những lúc bà con cô bác hàng xóm láng giềng sang thăm hỏi chuyện chiến trường,
Ca trở thành một nhân vật quan trọng trong các câu chuyện kể về những anh lính
giải phóng cùng đơn vị. Những câu chuyện bộ đội lần đầu tiên được nhìn thấy những
tên lính Mỹ, nhẩy xuống từ những chiếc trực thăng chiếm cứ điểm, đến những chuyện
lính Mỹ cởi truồng nhẩy múa trên đỉnh đồi để tắm tập thể. Nước như những cái
vòi rồng phun ra từ những chiếc trực thăng H34 to như tòa nhà treo trên lưng trời.
Đến chuyện thằng Ca bò vào chốt Mỹ để lượm hộp, cà phê thuốc lá và nhặt được cả
những con đàn bà bằng cao su to như người thật lính Mỹ mang theo khi hành
quân... (Không biết những chi tiết này thằng Ca kể cho thêm phần hấp dẫn hay hắn
bịa bởi hắn chưa bao giờ làm lính trinh sát, đặc công!). Khổ nỗi người làng Lôi
vốn thật thà tin người, nghe một người lính bằng xương bằng thịt từ chiến trường
ra, từng là đồng đội với con cái họ, ai chả tin? Thầy mẹ Ca tự hào vì có một cậu
con trai đã trưởng thành sau những năm được quân giải phóng đào luyện. Người
nghe những câu chuyện của Ca cũng không ai biết thực đâu là Dốc Miếu, hay Dốc
Mèo, A Vao, A Sầu, A Lưới. Nhưng nghe chuyện ta thắng Mỹ thua, quân Ngụy bị bắt
hàng xâu hằng xốc, nghe chuyện bộ đội “cắm cờ, giành đất giành dân”, nghe chuyện
bộ đội giải phóng cãi nhau tay đôi với tụi tâm lý chiến của sư đoàn thủy quân lục
chiến, lính dù ở Phong Sơn, Hiền Sĩ về những điều khoản trong hiệp định Pari, tụi
tâm lý chiến chịu thua đã là sướng lắm rồi. Những người nông dân ở làng Lôi
chưa bao giờ được nghe những chuyện ấy, báo đài càng không thấy nói, hoặc có
nói họ cũng chả được nghe… Câu chuyện của Ca kể về chiến trường một đồn mười,
mười thành trăm, lên đến cả huyện ủy, huyện đội. Anh bí thư đoàn huyện, vốn là
một thương binh ở khu IV, tìm về tận làng Lôi mời bằng được Ca về huyện nói
chuyện cho thanh niên nghe một buổi cho đã thèm.
Thằng Ca có lúc cười thầm, tự
thấy mình là một nhân vật quan trọng trong những ngày về phép. Hắn chỉ là một
anh quản lí đại đội, về làng oai ra phết. Chuyện đánh đấm ở Quảng Trị, Thừa
Thiên, ở khu V, Ca nghe kể từ miệng những người lính, thiếu gì? Ba tháng Ca nằm
an dưỡng ở Mường Loòng, một tháng chữa vết thương ở viện 94 đủ cung cấp cho hắn
cả một kho chuyện của chiến sĩ ta ở chiến trường. Những ngày bám giáp ranh ở
Hương Trà, Phong Quảng, dù không phải đi bám địch, đi chốt gác hàng ngày như những
anh lính bộ binh thứ thiệt nhưng Ca cũng thấm thía cuộc sống đích thực của một
người lính bộ binh. Hắn cũng đã từng ăn cơm nắm, chấm muối đậu phộng. Từng đi
gùi đạn gùi gạo, từ đường tuyến về kho của tiểu đoàn bên kia sông Bồ. Nhiều lần
hắn về làng mua gạo thực phẩm cùng với cánh du kích địa phương… Những ngày chạy
địch càn dưới chân đồi Chổi, đồi Chóp Nón, những đêm ngồi chịu trận nghe pháo Tứ
Hạ, pháo Đồng Lâm bắn vào hậu cứ, đếm xác những đứa chết, đứa bị thương… Ca đều
chứng kiến cả. Câu chuyện của Ca kể cho dân làng Lôi nghe tươi rói, không cần
thêu dệt. Nhưng thằng Ca không biết điều này. Những người dân làng Lôi đến thăm
hắn, nghe kể chuyện chiến trường, với họ chẳng quan trọng gì. Họ đến chủ yếu để
được nhìn tận mắt một anh lính giải phóng đích thị là người làng Lôi còn sống
trở về. Nhìn Ca để nhận lại hình hài con cháu họ, người còn, kẻ mất ở đâu đó
chưa về.
Chỉ riêng việc thằng Ca trời
xui đất khiến thế nào mà vào đến chiến trường Trị Thiên được phân công về cùng
một đại đội với Đệ, con cụ Đê, đã là chuyện hi hữu. Ca đi bộ đội năm 1968. Còn
anh Đệ nhập ngũ đi chiến trường từ những năm 1963. Khi Ca về đơn vị bộ binh,
KX, công trường V, Đệ đã là đại đội phó đại đội 3. Thằng Ca nhờ có trình độ văn
hóa hết lớp 9 nên được phân công làm công tác quản lý đại đội. Chuyện Đệ hi
sinh ở một làng ven đô Huế nhiều người trong tiểu đoàn biết. Thậm chí đại đội 3
và tiểu đoàn bộ đã làm lễ truy điệu cho Đệ sau trận đánh về xóm mới Bầu Tháp, gần
thôn Triệu Sơn, đại đội 3 tiêu diệt đại đội Hắc Báo của Ngụy về đóng dã ngoại ở
làng. Ca nhớ thuộc lòng cái tên làng Triệu Sơn và ít nhất hắn cũng có đôi ba lần
về Triệu Sơn mua gạo, đậu phộng. Cả vùng Hương Trà vào mùa dỡ đậu phộng (quê hắn
gọi là củ lạc), nhà nào cũng có hàng vài chục bao đậu phộng để bán. Bán đậu phộng
cho nhà buôn lãi một, bán cho “việt công” lãi gấp đôi, gấp ba. Bộ đội du kích về
làng không gặp địch vào được dân đã là sự may mắn. Lại còn mua được gạo, đậu phộng,
đường, kẹo nuga, mè xửng, mì chính, dầu đậu nành của Mỹ còn ao ước gì hơn.
Trong kí ức của Ca vẫn còn nhớ tới hình ảnh cây bông đồng ở đầu làng xóm Mới, Bầu
Tháp như là một điểm để bộ đội, du kích định hướng trong đêm tối. Thằng Ca nhớ
thuộc lòng lời dặn của o Lành, một cán bộ xã thường đưa bộ đội về mua gạo trong
dân:
“- Em nhớ, ngọn đèn đỏ phía
tê là Huế. Còn ngọn núi nhọn nhô lên như núm vú của chị em là đỉnh hòn Vượn. Một
núm vú thấp hơn là hòn Chóp Nón. Dải đồi cao cao kia giống hình người đàn bà nằm
là hòn Dài. Có đánh nhau, gặp phục kích chạy lạc đường, “đồng chí” cứ chạy vào
giữa hai núm vú là gặp đường trục để về hậu cứ, nghe rõ chưa?”.
O Lành nhỏ người, đôi mắt
lanh lợi, có nụ cười duyên, gương mặt hiền hậu, trông vậy nhưng o đã là bí thư
xã. Lần đầu tiên thằng Ca về đồng bằng để mua lương thực, nghe chuyện hay gặp phục
kích của đám lính bảo an, dân vệ, lại nghe những phương án tác chiến tưởng như
sắp có đánh nhau đến nơi, hắn hơi hoảng. Hoảng cũng phải đi. Quân lệnh như sơn!
Cả đại đội hắn phải đi. Lẽ nào hắn là người quản lí, giữ tiền để xuống đồng bằng
mua thực phẩm lại không có mặt. Bắt đầu từ hậu cứ dốc Tranh, cánh quân đi đồng
bằng cuốc bộ ròng rã ba tiếng mới tới cửa rừng. Lính trinh sát đi trước bám đường,
bộ đội, du kích, cán bộ xã rồng rắn bám đuôi theo nhau. Trời sẩm tối, đoàn người
phải đi thêm ba tiếng nữa mới tới được con đường sắt, nếu không có địch, vượt
quốc lộ số 1 để vào làng.
Biết Ca là người cùng làng với
anh Đệ, o Lành đã có lần nói với hắn:
“- Ấp tối qua mình vô mua gạo
là ấp chiến lược Triệu Sơn. Ấp ấy năm trước anh Đệ, chỉ huy đại đội 3, người
cùng làng với em về đánh tụi Hắc Báo bị hi sinh ở đó”.
Nghe o Lành nói, Ca khẽ thở
dài.
Câu hứa vu vơ với o Lành năm
nào, ai ngờ giờ đã thành sự thực. Đêm nay, thằng Ca đang ngồi giữa làng Lôi kể
chuyện chiến trường cho cả làng nghe. Mãi tới khuya, khách vãn. Con chó mực sủa
gầm gừ ngoài đầu cổng rồi lát sau thấy cụ Đê lọc cọc chống cây gậy vào nhà. Cụ
đặt lên bàn chục trứng và hai nải chuối ngự. Cụ nói như phân bua với thầy mẹ
Ca:
“- Bà lão nhà tôi nhất quyết
bắt tôi sang biếu ông bà chục trứng để tẩm bổ cho cháu. Còn đây là bánh thuốc
lào bác cho, mai mốt cháu mang vào làm quà cho anh em”.
Mẹ Ca nguây nguẩy:
“- Hai bác làm vậy là chúng
tôi không vui đâu… Cháu ở xa về, bác sang thăm là quý rồi”.
Cụ Đê ngồi xuống chiếc ghế đẩu
nhìn Ca:
“- Bác sang thăm cháu, thấy
cháu khỏe là bác mừng. Nhân thể hỏi cho rõ ngọn ngành về anh Đệ nhà bác. Nghe
nói cháu với anh Đệ cùng đơn vị”.
Thằng Ca nghe nhắc đến Đệ,
thực sự xúc động. Hắn im lặng một lát rồi nói.
“- Anh Đệ nhà bác là cấp
trên của cháu. Lúc cháu vào đơn vị, anh Đệ đã hi sinh rồi. Các anh chị cán bộ,
du kích biệt động huyện kể chuyện cho cháu nghe về trường hợp anh Đệ hi sinh
trong trận đánh với tụi lính “Hắc Báo” ở xóm Mới Bầu Tháp thôn Triệu Sơn. Anh Đệ
bị trúng mìn của địch gài, đơn vị không tìm thấy xác”.
Nghe Ca kể cụ Đê chết lặng.
Cha mẹ Ca cũng cúi đầu im lặng. Một lúc lâu sau cụ Đê nói:
“- Xã cũng đã báo tử anh Đệ
nhà bác rồi. Cả làng đều biết. Bác sang đây chỉ để nghe chính cháu nói cho rõ
ngọn ngành… Cũng là để cho bác và bác gái yên lòng. Từ ngày anh Đệ mất, đêm nào
bà ấy cũng ngồi cầu kinh niệm Phật. Đi cúng hết chùa này sang chùa khác. Tội
nghiệp bà ấy, chỉ vì thương con…”.
Cụ Đê đứng dậy chào cha mẹ
Ca, cầm cây gậy xua chó, lững thững đi ra cổng. Đấy là vào một đêm đông giá
rét. Chỉ vài ngày nữa là đêm giáng sinh. Cụ Đê nhẩm tính, vậy là Đệ, anh con
trai duy nhất của cụ mất đã hơn ba năm… "Nó chết mất xác… Không biết hồn
phách giờ nằm ở nơi đâu… !". Nghĩ vậy mà cụ ứa nước mắt.
3. Nghe tin động trời, Đệ - anh
con trai còn sống, ông Đê ngất xỉu. Tưởng ông chỉ bị trúng gió nhẹ mà hóa nặng.
Ca và mấy thanh niên khiêng ông Đê về được tới nhà, người ông nóng hôi hổi như
lên cơn sốt, chân tay co giật đùng đùng, sùi bọt mép. Bà Mít nghe chuyện Ca kể,
biết con trai còn sống, nửa tin nửa ngờ. Bà càng hoảng loạn khi nhìn thấy ông
chồng già bất tỉnh nhân sự. Bà cùng với cô cháu gái ở nhà kế bên ra vườn hái ngải
cứu, rang cám nóng đánh gió cho chồng. Lúc ông Đê đã nằm yên, hơi thở khò khè,
bà Mít mới tranh thủ ra bàn thờ thắp vội tuần nhang, len lén nhìn lên tấm ảnh
con trai. Bà không quên khấn thầm trong bụng.
“- Con khấu đầu lạy tạ Đức
Ngọc Hoàng thượng đế, cùng các vị thần hai bên tả hữu. Khấu lạy Đức Phật Tổ Như
Lai, Đức Phật Bà Quan Âm Bồ Tát đại từ đại bi. Khấu lạy hương hồn liệt tổ liệt
tông hai bên nội ngoại… cầu cho chồng con là Bùi Văn Đê tai qua nạn khỏi… cầu
cho cái tin chú Ca về báo con trai con còn sống là sự thật. Thằng Đệ nhà con có
là người, hay là ma cũng xin cho mẹ con còn có ngày gặp nhau. Đức trời Phật cao
sâu xin soi thấu lòng con”.
Quá nửa đêm, ông Đê hơi tỉnh
mở he hé mắt. Bàn tay ông khua nhẹ, ra ý đòi uống nước. Bà Mít nâng đầu chồng dậy
ghé bát nước cháo vào miệng chồng. Hớp nước chưa nuốt trôi, ông Đê bỗng hộc lên
một tiếng. Máu mũi, máu mồm ộc ra thấm đầy vạt áo. Bà Mít cuống cuồng không biết
kêu ai. Cô cháu gái đã về bên nhà. Bà quơ vội lấy cây đèn chai chạy sang nhà
hàng xóm tìm người cứu giúp.
Ba thanh niên trai làng và bà
Mít đưa được ông Đê lên tới bệnh viện huyện đã hơn bốn giờ sáng. Một người cầm
đuốc đi trước, tắt qua cánh đồng làng Vàng, dọc theo bờ con mương để ra thị trấn
huyện. Những người thầy thuốc thật tốt bụng, thấy ca cấp cứu giữa đêm hôm khuya
khoắt, gọi nhau trở dậy chung tay cứu chữa. Người đo mạch, người lo kim tiêm, ống
thở ôxi…Ông Đê vẫn nằm yên bất động. Người ta biết ông vẫn còn sống qua mạch đập
yếu ớt và miếng bông đặt trên mũi ông lay động nhẹ.
Bà Mít bán đi tạ thóc được hợp
tác xã chia cho sau vụ gặt, chạy thuốc thang, cơm cháo cho ông Đê. Thuốc men,
cơm cháo nuôi người ốm ở bệnh viện huyện, bệnh viện tỉnh cũng chỉ cầm cự được
đúng hai mươi mốt ngày, họ trả ông Đê về. Ông chưa chết nhưng bệnh tình không
thuyên giảm. Lúc mê lúc tỉnh. Ông Đê không ngồi dậy được nữa. Uống chút nước
cháo, nước gạo rang đều phải nằm, hoặc có người đỡ lưng mới tựa được vào chiếc
thành giường nhưng cũng chỉ được chốc lát. Đôi mắt ông vẫn mở, nhìn cảnh vật lờ
đờ, mờ ảo. Cũng chỉ tỉnh được một lúc rồi như thể ông trôi vào thế giới mộng mị
hoang tưởng. Những lúc tỉnh ông Đê không nói được, muốn điều gì hay gọi người
nhà chỉ thấy ngón tay khua nhẹ ra dấu. Rõ thật tội.
Tất cả mọi việc đồng áng, đi
chăn con bò khoán của hợp tác xã lấy công, chợ búa cơm nước cho đến việc chăm sóc
người ốm tất cả một tay trông vào bà Mít. Vài đứa cháu họ ở quanh trong làng rảnh
rỗi lúc nào chạy sang đỡ đần người ốm. Việc nhà nông ai cũng bận cả. Nhà nào
cũng còn có con cái, gia đình, sớm chiều ngong ngóng tiếng kẻng hợp tác xã để
đi làm lấy công điểm. Đêm đêm bà Mít ngồi nhặt từng gốc tre già, cành củi khô
vơ ngoài vườn sắc thuốc lá cho chồng. Ngồi trầm ngâm bên bếp lửa, chốc chốc bà
lại nhìn ông nằm đắp chiếu ở một góc nhà coi thức hay ngủ, lòng thầm khấn nguyện
trời Phật cho ông tai qua nạn khỏi. Những giọt nước mắt âm thầm chảy khi nghĩ tới
chồng, nghĩ tới con. Nhiều lúc bà nhìn tấm ảnh Đệ trên bàn thờ, đầu óc nghĩ
mông lung không biết Đệ còn sống thật hay đã chết. Điều thằng Ca nói về số phận
của đứa con trai không biết thật hay giả? Bà cất nên lời ai oán.
“- Con ơi! Con sống khôn chết
thiêng. Con sống thật hay chết giả mà chỉ một lời của thằng Ca để cha mẹ con chịu
nỗi khổ này?”.
Lời cầu khấn và cả tiếng
khóc của bà Mít chìm đi trong tiếng mưa rơi nặng hạt ở ngoài sân. Trời đêm, chớp
sáng xanh lè. Một tiếng sét nổ đinh tai đâu như ngả miếu Cây Duối ngoài cánh đồng.
Bà Mít, ông Đê hẳn không biết
điều này. Chuyện anh Đệ, “con ông Đê, bà Mít ở xóm Đình làng Lôi còn sống!” từ
cửa miệng thằng Ca chỉ ít hôm đã loang ra cả vùng. Một vài gia đình ở các làng
có con đi bộ đội vào Nam, người hi sinh, người chưa có tin tức nhiều năm nay
kéo về làng Lôi để tìm gặp Ca dò hỏi tin tức về con cái họ. Ai cũng mong con
cái họ có được sự may mắn như anh Đệ. Rằng còn sống, dù đui què mẻ sứt, bị
thương tật nhưng miễn là còn sống để trở về gặp vợ con, cha mẹ thế là mừng. Có
người ghé qua nhà bà Mít vừa để chia vui với bà, vừa chia buồn khi nhìn thấy
ông Đê nằm bất động trên giường.
4. Nhiều năm sau, thằng
Ca sẽ không bao giờ quên được sự kiện này. Một câu chuyện hi hữu mà chỉ một
mình nó trong xã được biết. Ca đã giữ đúng lời hứa với “một anh cán bộ cấp
trên”. Anh ta sau buổi làm việc với Ca đã dặn lại rằng: “- Những gì cậu báo cáo
với tôi và viết ra ở đây nhớ là “sống để bụng, chết mang theo”, rõ chưa? Cậu là
trung sĩ, đảng viên hử? Tốt! Tôi là đại úy, cấp trên của cậu. Quân lệnh như
sơn. Nhớ nghe đồng chí trung sĩ!”. Giọng anh cán bộ lơ lớ, người miền trong. Thằng
Ca không biết tên anh đại úy, cũng chả rõ ở đơn vị nào nhưng biết chắc là người
của quân đội. Có vậy mới đeo lon đại úy.
Một buổi tối, có hai người mặc
đồ dân sự đi cùng ông Ảnh, bí thư kiêm chủ tịch xã tìm đến nhà thằng Ca. Làng
Lôi đêm ấy mất điện. Gia đình Ca đang ngồi ở vạt sân trước cửa nhà chuẩn bị ăn
cơm tối. Mùi rau rút nấu canh cua đồng bốc khói, tỏa thơm. Thằng Ca cởi trần, vần
hòn đá nén dưa cà ở góc sân để lấy cà ăn canh cua. Cha Ca, ông phó Đợi mới đi bừa
về, áo quần chưa kịp thay bùn đất còn dính cả lên tóc. Ông ngồi trên thềm hè bê
chiếc điếu bát rít thuốc lào khoan khoái. Mẹ Ca và hai cô em gái mới đi cấy lúa
ở đồng về, đang gột quần, rửa tay chân dưới cầu ao.
Thoạt nhìn thấy ông chủ tịch
xã, phó Đợi tỏ ra luống cuống, ngại ngùng.
“- Chào bác Đợi!” - Ông chủ
tịch xã chủ động lên tiếng - Gia đình ta đang chuẩn bị ăn cơm chiều?”.
“- Vâng, chào bác Hoạt… Chào
hai ông! Có việc gì mà các bác ghé thăm lại không cho gia đình chúng tôi biết
trước thế này?”.
Ông chủ tịch và hai người
khách lạ chủ động ngồi xuống bậc hè.
“- Bác mới đi bừa về, chúng
tôi ghé thăm, nhân tiện thăm cậu Ca luôn”. Ông chủ tịch thân mật đỡ lấy cái điều
bát từ tay ông Đợi, rồi nói “- Đây là hai đồng chí ở huyện đội…”.
“- Quý hóa quá… Các bác quan
tâm đến cháu Ca”. Ông Đợi quay ra góc sân gọi với - “Ca ơi! Có mấy anh bên huyện
đội vào chơi”.
Thằng Ca nghe có khách, đặt
bát cà nén vào thành bể. Nó vội rửa tay. Nước cà muối mặn chua loét, ngấm vào
tay ngưa ngứa.
Ca vừa ngó mặt ra chào
khách, một trong hai người cán bộ huyện đội đã nói vui:
“- Chào anh bộ đội giải
phóng anh hùng! Oanh liệt quá! Những con người đã làm nên trận chiến thắng 30
tháng 4 của làng ta đây rồi. Thật vinh dự cho Đồng Tiến, làng Lôi có một người
con từ chiến trường trở về”.
Thằng Ca nghe một đoạn diễn
văn rổn rảng của anh cán bộ huyện đội, váng cả mặt mũi. Cu cậu xấu hổ đỏ mặt
nhưng ngấm ngầm chút tự hào của kẻ chiến thắng. Dù đơn vị của hắn có là thê đội
2, không phải nổ phát súng nào từ sau chiến dịch giải phóng Trị Thiên, Quảng
Đà, vào Sài Gòn sau cả chục ngày thì hắn cũng là người có được vinh dự góp mặt
trong lễ duyệt binh ngày 15 tháng 5 giữa Sài Gòn hoa lệ. Trong lúc khách chủ
đang tíu tít nói năng, hút thuốc ở hiên nhà, mẹ Ca và hai cô con gái ngượng
ngùng với khách lạ vì quần áo ăn mặc lôi thôi, ống cao, ống thấp, tanh mùi bùn
ruộng, len lén luồn vào trong bếp, thập thò nhìn ra.
Ông chủ tịch xã nói với ông
Đợi:
“- Chắc cậu Ca chưa kịp ăn
cơm với ông bà! Thôi khỏi! Hôm nay có cấp trên về, xã mời cơm khách và mời luôn
cậu Ca đi ăn tối với chúng tôi cho vui”. Ông chủ tịch nói với vẻ quan trọng: “-
Sau bữa cơm, cấp trên muốn trao đổi với cậu Ca vài việc”.
Chiếc xe Commăngca đít vuông
đậu sẵn ở trước cửa ủy ban xã, chở gọn ông chủ tịch xã, hai anh cán bộ và Ca đi
một mạch về huyện. Cũng chẳng có bữa cơm khách nào của xã. Cả đám kéo nhau vào
một quán thịt cầy bảy món. Gần một tiếng đánh chén no say, ông chủ tịch xã sau
vài ly rượu mặt đỏ như gà chọi. Thằng Ca cũng cầm ly nâng lên đặt xuống cho phải
phép, hắn không dám uống rượu trước mặt cấp trên mà biết chắc đấy là những người
của quân đội. Hai anh cán bộ chỉ ăn, rượu uống cầm chừng. Có lúc một anh cán bộ
mà sau này Ca biết mang quân hàm đại úy hỏi hắn:
“- Rượu uống được không đồng
chí Ca?”.
“- Xoàng chú ạ!”. Ca bảo thẳng
“- Nhà cháu nấu rượu. Hôm nào cháu xách lên cho chú vài lít rượu nếp cái hoa
vàng làng Lôi, mẹ cháu nấu để chú ngâm thuốc”.
Đã hơn 7 giờ tối, chiếc xe
commăngca chở mọi người vào một khu nhà có vọng gác bên ngoài. Căn phòng khách
rộng nhưng chỉ có một bóng đèn tròn treo lơ lửng giữa nhà. Ca và ông chủ tịch
xã ngồi ở một bên bàn, đối diện với hai người cán bộ quân đội. Anh đại úy bảo:
“- Giờ ta làm việc để hai đồng
chí còn về”. Anh ta quay sang bảo người cán bộ đi theo “- Hợp! Cậu lấy giấy bút
ghi biên bản”. Anh đại úy nói với ông chủ tích xã và Ca. “- Câu chuyện thế này
bác Hoạt và đồng chí Ca ạ. Chúng tôi nghe tin từ làng báo lên, trong chuyến về
phép thăm nhà vừa qua, đồng chí Ca cho biết: anh Đệ - con trai của ông Bùi Văn
Đê và bà Lê Thị Mít ở làng Lôi còn sống. Hư thực thế nào, yêu cầu anh Ca cho
chúng tôi biết cụ thể. Việc này hệ trọng vì nó liên quan tới gia đình chính
sách của huyện ta. Anh Đệ đã được báo tử từ năm 1971, xã đã làm lể truy điệu,
gia đình đã có bằng liệt sĩ, có phải không bác Ảnh nhỉ?”.
Ông chủ tịch xã đã ngà ngà
say, ngúc ngắc cái đầu.
“- Đúng! Đúng, đồng chí đại
úy ạ. Gia đình ông Đê, bà Mít là liệt sĩ”.
Hơn hai giờ đồng hồ, thằng
Ca phải đánh vật với bốn trang giấy có dòng kẻ và những hàng chữ vừa thiếu nét
vừa xấu như gà bới, kể lại sự việc hắn đã gặp Đệ ra sao. Hắn vốn chẳng giỏi
giang về môn văn, học ngang tới lớp 7 rồi bỏ về nhà đi theo những người thợ mộc
cưa xẻ, gặp dịp rồi đi bộ đội nên hắn phải đánh vật với từng con chữ. Chỉ có điều
chuyện thằng Ca tình cờ gặp lại anh Đệ trong một ngày buổi sáng cuối tháng 3
năm 1975 thì hắn không quên. Cuối năm 1973, chả hiểu trời xui đất khiến thế
nào, hắn bị thương nhẹ. Một mảnh cối cá nhân của tui ngụy ở dãy đồi 165 trên
tuyến chốt ở bờ Bắc sông Bồ đã đưa hắn đi viện. Tại quân y viện 68 Mường Lòong,
thằng Ca gặp được một người làng, phó chính ủy của một trung đoàn thuộc sư 10.
Ông phó chính ủy trung đoàn đã nhận thằng Ca về đơn vị. Thằng Ca đang là lính của
trung đoàn 4, thuộc quân khu Trị Thiên nghiễm nhiên thành quân số của sư 10,
chuyển vùng vào Tây Nguyên, tham gia vào cuộc Tổng tấn công Xuân 1975, giải
phóng Buôn Mê Thuột.
Những ngày cuối tháng 3. Cả
khu vực Tây Nguyên và dải đất Nam Trung Bộ cực kỳ hỗn loạn. Mặt trận Buôn Mê
Thuột tan vỡ. Cả một tuyến phòng thủ của Vùng 2 chiến thuật, theo lệnh của tướng
Nguyễn Văn Phú tháo chạy. Trên các trục đường 19, đường 21 và cả con đường tỉnh
lộ từ Play cu xuống Phú Yên, dọc theo bờ bắc sông Ba đều trở thành con đường
máu rút chạy của tàn quân ngụy chạy về biển. Hàng ngàn xe tải, xe pháo, xe tăng
thiết giáp M13 xô đạp cùng các đơn vị lính của sư 22, sư 23 và Bộ chỉ huy vùng
2 tháo chạy tìm đường về các cảng Quy Nhơn, Tuy Hòa, Nha Trang... Ngã ba Ninh
Hòa, tuyến đường lên Tây Nguyên, qua đèo Phượng Hoàng cũng rơi vào cảnh hỗn loạn.
Chính trong cái ngày hỗn loạn
ấy, thằng Ca đã nhận ra Đệ mặc bộ quần áo dân sự, tay ôm theo chiếc máy chữ lẫn
lộn với đám sĩ quan của sư 22, bị bộ đội ta bắt được và nhốt trong một căn
phòng của khuôn viên trường trung học Trần Bình Trọng. Điều làm hắn ngạc nhiên,
tự hỏi : “Sao anh Đệ gia đình đã nhận giấy báo tử, nay lại còn sống?” Thoạt
nhìn thấy anh Đệ, thằng Ca không kìm giữ được bật kêu to:
“- Đệ! Anh Đệ ở làng Lôi phải
không?”.
Người thanh niên nghe gọi giật
mình, thoáng nhìn Ca. Đôi môi anh ta mấp máy rồi cúi nhanh xuống, vẻ bối rồi.
Thằng Ca mạnh dạn bước tới, vỗ nhẹ vào vai người thanh niên.
“- Anh cho tôi hỏi, có phải
anh tên là Đệ, con ông Đê, người làng Lôi?”.
Lần này, người thanh niên ngẩng
lên nhìn thẳng vào mặt Ca, nói giọng lai lái như những người Bắc di cư, quả quyết:
“- Chú nhầm tôi với ai
chăng? Tôi tên là Mai Văn Hoàng...
Thằng Ca ngỡ ngàng, chữa thẹn:
“- Xin lỗi! Tôi trông anh giống
một người ở đơn vị cũ của tôi quá… Anh ấy tên Đệ, cán bộ của đại đội tôi, hi
sinh ở ngoại ô Huế cuối năm 1969”.
Người thanh niên cười khẩy.
Thằng Ca nghe nói vậy chưng
hửng. Nhưng hắn đâu ngờ rằng, tiếng gọi và câu chuyện của nó không lọt qua ánh
mắt của một sĩ quan quân giải phóng. Sau hắn mới biết tên người cán bộ ấy là
Tháo, một sĩ quan chính trị của Trung đoàn, mới từ Bắc chuyển vào. Tháo, người
thấp đậm, gương mặt vuông, sáng bóng, tóc húi cao, đeo quân hàm thiếu tá. Anh
ta gọi Ca đến và đưa vào căn phòng có tấm biển hiệu đề: “ Phòng hiệu trưởng!”.
Anh thiếu tá sĩ quan rút ra bao thuốc lá Thăng Long, một loại thuốc chỉ dành
cho cán bộ cao cấp thời bấy giờ, hào phóng rút ra một điếu cho Ca.
“- Cậu hút thuốc đi! Rồi tôi
hỏi cậu vài câu”.
Thằng Ca vừa sợ, vừa ngại ngần
nhưng nhanh tay cầm lấy điếu thuốc. Mấy năm ở chiến trường dù làm hậu cần hắn
cũng chỉ được xài thuốc lá Tam Thanh, Tam Đảo, Trường Sơn… Ai cho hắn hút Thăng
Long, Sông Hương bao bạc bao giờ?
“- Này, cậu vừa gọi tay lính
Ngụy kia tên gì nhỉ? Tôi nghe không rõ!”. Anh thiếu tá sĩ quan hỏi Ca.
“- Dạ thưa thủ trưởng! Tên Đệ…
nhưng tôi sợ mình lầm”.
“- Anh Đệ là thế nào với cậu?”.
“- Dạ thưa, anh Đệ nghe nói
là cán bộ cũ của đại đội tôi hồi còn ở Trị Thiên, anh ấy người cùng làng với
tôi. Tôi nhìn thấy anh ta giống với anh Đệ quá, nên tôi gọi. Anh ta nói với tôi
tên là Hoàng”.
Tất cả những câu trả lời của
Ca đã được anh sĩ quan ghi không sót một chữ vào sổ tay. Rồi anh ta bảo Ca.
“- Không rõ hư thực ra sao
nhưng cậu kí vô đây. Ghi rõ họ tên, chức vụ đơn vị”.
Thằng Ca không dám kể lại
cho ai câu chuyện của nó với người sĩ quan về sự nhầm lẫn giữa một người đã quá
cố với một anh lính Ngụy ở Sài Gòn. Trong thâm tâm, hắn đinh ninh một điều. “Biết
đâu anh Đệ, con cụ Đê còn sống thật. Gương mặt của người lính Ngụy giống hệt
anh Đệ, lúc anh Đệ về phép để đi B”.
Thằng Ca càng không ngờ rằng
câu chuyện ở chiến trường làm quà cho ông Đê, bà Mít đêm nay đã bắt hắn phải ngồi
viết bản tường trình dài dằng dặc. Vừa viết thằng Ca liên tục đốt thuốc lá. Ở một
băng ghế dài kê sát với cửa sổ, ông chủ tịch xã sau bữa cơm rượu thịt chó, ngà
ngà say, trong lúc ngồi chờ Ca làm việc, đã lăn ra ngủ. Bữa bún thịt chó cùng với
nửa lít rượu gạo đã làm ông khoái khẩu, lâu lắm mới được một bữa no say như vậy.
Ông chủ tịch xã ngủ ngáy như kéo gỗ. Ở một chiếc bàn khác, hai anh cán bộ cũng
đã giở bàn cờ tướng ra gõ chan chát, giết thời gian trong lúc chờ đợi Ca viết bản
tường trình.
Hơn 10 giờ đêm, chiếc xe
commăngca mới chở Ca và ông chủ tịch xã về lại làng Lôi. Tiếng chó sủa râm ran.
Làng xóm đã ngủ say sau một ngày dài rộn rã vất vả với chuyện đồng áng. Cha Ca
vẫn còn ngồi hút thuốc lào chờ con. Bát canh cua đồng và phần cơm dành cho Ca
được đậy bằng một cái sàng, nguội ngắt nguội ngơ. Cơm rượu vào, lại phải căng đầu
óc ra để nghĩ và viết, thằng Ca khát nước. Chỉ một vài hơi, Ca húp sạch bát
canh rau đay mồng tơi.
Thằng Ca sẽ không bao giờ được
chứng kiến cái ngày tang thương của gia đình bà Mít. Bốn tháng sau, Ca trở về
đơn vị và tham gia vào đội quân gỡ mìn, trồng cao su ở Tây Nguyên. Một đoàn cán
bộ huyện xã tới nhà ông Đê, bà Mít. Ông Đê bán thân bất toại đã mấy tháng nằm
thoi thóp trên giường. Buổi sáng ấy, bà Mít chặt được nải chuối ở góc vườn mang
ra chợ Tổng bán, chỉ có cô cháu gái ở nhà trông nom người ốm. Không biết họ nói
gì với cô cháu gái chỉ thấy cô lên gỡ tấm bằng “Tổ quốc ghi công” treo ở trên
tường và trao lại cho họ. Lúc bà Mít về đến nhà, những người cán bộ đã đi. Cô
cháu gái cũng bỏ đi đâu mất. Còn ông Đê nằm trên giường, bất động, nước mắt ứa
ra trên gò má. Như thể, ông biết hết mọi chuyện xẩy ra trong nhà. Quá nửa đêm,
bà Mít trở dậy cho chồng uống thuốc. Không thấy ông động cựa. Từ chỗ ông nằm,
mùi phân bốc lên khắm lặm. Vẫn còn thấy ông thoi thóp thở. Bà lặng lẽ lau rửa
cho ông, thay áo quần.
Bốn giờ sáng, ông Đê trút
hơi thở cuối cùng.
Ở vào những năm “76” ấy,
phong trào hợp tác hóa nông nghiệp còn đang rầm rộ, miền Nam bắt đầu đi vào
công cuộc cải tạo tư bản tư doanh. Mô hình hợp tác xã nông nghiệp của miền Bắc
xã hội chủ nghĩa đang là kiểu mẫu cho cả nước noi theo. Các hủ tục trong đám cưới,
đám ma rườm rà theo lệ cũ bị phá bỏ. Đám ma của ông Đệ diễn ra lặng lẽ, gọn nhẹ,
không kèn, không trống. Chiếc xe đòn của hợp tác xã được những người bà con
làng Lôi đưa ông ra đồng. Mấy người thân thiết, ruột rà trong họ mạc đeo khăn
tang. Không người chống gậy, bưng ảnh. Tháng chạp, ruộng làng Lôi đang vụ trồng
màu lấp ló những luống cải vàng xen kẽ những mảnh ruộng trồng rau lang, ngô, đỗ…
Từng đàn ruồi bay à à ra ngoài bãi tha ma, đánh hơi ngửi thấy mùi cơm rượu và cả
hơi người chết. Mấy chục người đưa tang ông Đệ lặng lẽ đi trên con đường bờ
mương còn ướt sương đêm. Cây cờ tang được một đứa cháu trong họ vác đi trước.
Bà Mít đầu trùm chiếc khăn
trắng theo sau quan tài. Những tháng ngày bà cạn kiệt sức lực để chăm sóc chồng
đau ốm, thêm sự căng thẳng và nỗi đau dồn nén đổ xuống đầu người đàn bà vừa bước
sang tuổi 62, khiến bà Mít không còn sức để khóc chồng. Mấy bà chị họ, mấy đứa
cháu cố gào lên lúc những người khiêng quan tài chuyển linh cữu ông Đê xuống hố
đất sâu. Đôi mắt của bà Mít vẫn ráo hoảnh, chỉ hơi tối lại. Gương mặt bà hằn
sâu những nếp nhăn... Không ai biết rằng từ lúc ông Đê nằm liệt giường, bà đã
phải mang ra những đồng bạc cuối cùng để lo thuốc thang và tang ma cho chồng.
Tính ra từ ngày Đệ đi B cho đến ngày anh báo tử, mỗi tháng ông bà nhận được 12
đồng. Tằn tiện lắm ông bà chỉ dám tiêu vào suất tiền của người con đi B mỗi
tháng 5 đồng để mua gạo, mắm, đóng góp việc họ, việc làng. Bảy đồng còn lại bà
tích cóp quyết giữ cho đứa con trai ngày về có chút tiền để cưới vợ. Một trận ốm
thập tử nhất sinh của ông Đê và một đám tang. Vốn liếng dành dụm cho con trai
bao năm hết cả.
Mọi người đã ra về theo xe
tang, bà Mít còn ngồi lại bên mộ chồng một hồi lâu, đắp những vỡ cỏ lên ngôi mộ
đất còn in dấu chân người. Ngọn gió tươi thổi phóng túng trên cánh đồng như
mang đi hết những đau buồn, uất ức, nhớ thương trong lòng người đàn bà suốt những
ngày tháng qua cắn răng phải chịu đựng. Giá như bà chết được theo chồng? Có lẽ
bà sẽ nhẹ nhàng hơn nhiều. Nhưng từ trong cõi thẳm sâu, bà Mít hiểu rằng bà
không thể chết vào lúc này được. Bà chết ai sẽ là người đi giải nỗi oan khuất
này. “Thằng Đệ là một đứa đảo ngũ, chiêu hồi?! Chao ôi là nhục!”. Bà còn mặt
mũi nào mà nhìn bà con chòm xóm. Trong đám ma ông Đê chiều nay bà đã nghe loáng
thoáng những điều ong tiếng ve của những kẻ thối mồm. Rằng “ông Đê ngã bệnh rồi
chết bất đắc kỳ tử vì có đứa con phản quốc…”. “Nghe bảo ông lão chết hộc máu mồm,
không nhắm mắt được”.
Bà Mít và mấy người chị em
trong họ ngậm tăm. Không ai dám hé răng cãi lại một lời. Họ biết được tấm bằng
liệt sĩ của Đệ đã bị thu hồi. Nhà có tang nhưng chẳng có một ai trong chính quyền,
đoàn thể, hội cựu chiến binh đến viếng. Anh thôn trưởng có mặt cùng với anh đội
trưởng đội sản xuất nhưng đều là người có họ xa với ông Đê. Họ đến cho phải
phép…
Trời đã nhá nhem, không rõ mặt
người. Bà Mít rời khỏi ngôi mộ chồng vác chiếc cuốc lầm lũi đi về làng.
5. Gió thổi mạnh. Ngọn lửa càng
bốc dữ dội.
Lưỡi lửa đỏ tím hung dữ như
một cái đầu rồng, lúc loang rộng, lúc vươn dài, khi gặp gió bốc lên cao vượt khỏi
ngọn tre. Tiếng luồng, nứa nổ lốp bốp như tiếng pháo. Tàn than kéo theo hàng
ngàn vạn bông hoa lửa tạo thành dòng khói đen cuồn cuộn bốc lên trời. Tiếng trống
Ngũ Liên, tiếng kẻng hợp tác xã treo ở cửa đình, tiếng phèng la khua vang khắp
làng trên xóm dưới hòa lẫn trong tiếng hò hét, quát tháo của người đi cứu hỏa.
Trời về khuya không rõ mặt người. Chỉ thấy bóng người chạy qua chạy lại nhập
nhòa trong ánh lửa lúc sáng lúc tối. Một chiếc xe công nông đèn pha bật sáng quắc
chạy đi chạy lại trên con đường làng. Chiếc xe lúc ẩn lúc hiện sau những khóm
tre, vườn chuối giữa chỗ nhà cháy và cái ao đình cách nhau hơn 300 mét để tiếp
nước cho thanh niên dập lửa.
Ngồi nép sau một bụi dứa dại,
bà Mít lặng lẽ nhìn về phía làng. Run rẩy và sợ hãi. Bà không lường hết những hậu
quả gây ra. Cái lùm rơm và đống trấu chỉ một loáng đã thui rụi gian bếp và cái
chuồng lợn kế bên. Lửa tạt hắt mạnh bén cháy vào ngôi nhà ba gian, hai chái lợp
rạ của bà. Một cơn gió to cuốn phăng tấm líếp cửa ken bằng lá gồi bay sang nhà
ông Quới. Nhà ông Quới bốc cháy. Lửa từ nhà Quới truyền sang nhà Toản, nhà
Quát. Từ nhà Quát lửa bén cháy nhà lão Vinh mù rồi nhà Hộc… Ngồi chui lủi giữa
những bụi dứa dại ngoài đám mồ mả giữa đồng, bà biết mình là người gây ra hỏa
hoạn. Phen này chắc chết. Không chết cũng đi tù mọt gông… Bà càng kinh khiếp
hơn nữa khi chạy được tới con đường đất bám dọc theo bờ mương nghe một tiếng nổ
to như trái bom kèm theo một quầng lửa vọt lên giữa bầu trời tối đen. Ánh sáng
chiếu rộng cả một vùng. Kho xăng bén lửa và phát nổ. Bà Mít ngồi thụp xuống rệ
cỏ cất lên thành tiếng. “ Lạy trời, lạy Phật… tội lỗi này do con gây ra… con là
kẻ có tội! Có tội. Con xin lấy cái chết để tạ lỗi này…”.
Bà Mít vừa chạy gằn trên con
đường tắt đồng đi ra chợ Tổng, vừa lắng tai nghe ngóng. Thỉnh thoảng bà lại
ngoái nhìn về phía làng, nơi ấy lửa vẫn bốc cao. Bà càng hoảng sợ khi nghe tiếng
còi xe cứu hỏa hú giật thột chạy về hướng kho xăng. Ngọn lửa bốc cao, khói đen
cuồn cuộn sáng cả một vùng. “Phen này mình mắc tội to rồi… Họ bắt được chỉ có
đi tù!”. Nhìn đám cháy ở làng Lôi và kho xăng, bà Mít thấy giống như một buổi
chiều nào, bom Mỹ ném xuống làng Lai, làng Cựu mùa đông năm 66. Vùng quê của bà
chẳng có nhà máy, chẳng có cầu cống, chẳng là nơi đóng quân ấy vậy mà cũng bị
bom Mỹ đào xới. Về sau bà hiểu rằng làng Lôi nằm dọc theo sông Hồng, ra cửa bể
không xa. Tàu bay Mỹ từ hạm đội ngoài biển bay vào, ở đấy có các ụ pháo cao xạ,
tên lửa của bộ đội, các ụ súng của dân quân du kích nằm phục sẵn. Máy bay Mỹ
đem bom ném vào Hà Nội, Phủ Lý, Nam Định không hết về đến đây chúng mặc sức thả
xuống các làng trước khi rút ra biển. Dân làng Lai bị một phen chết oan. Một
chùm bom sáu trái, thiêu rụi một phần ba làng. Ngày đó bà Mít là chi hội phó phụ
nữ thôn. Nghe bom nổ, nhà cháy, bà không cảm thấy sợ hãi gọi thêm mấy người bạn
mang câu liêm, thùng, chậu hò nhau đi dập lửa. Hơn hai chục người già, trẻ, lớn
bé của làng Lai chết cùng một giờ, một ngày bởi bom Mỹ. Hơn nửa ngày trời, phải
vất vả lắm dân quân du kích mới nhặt hết xác trong đám tro than cháy đen. Nhìn
cảnh bom ném, nhà cháy, người chết, bà Mít lại nghĩ tới con. Không biết giờ này
ở chiến trường thằng Đệ sống chết ra sao. Từ ngày con ra đi, về phép được dăm
ngày trước khi đi B, gia đình chẳng nhận được lá thư nào. Bà chỉ ân hận một điều,
thằng Đệ đang học dở lớp 10, chỉ còn nửa học kỳ nữa là thi tốt nghiệp đùng đùng
viết đơn xin đi bộ đội. Ngày Đệ nhập ngũ, bà Mít không khóc lấy một tiếng. Chồng
bà trầm tính càng ít nói hơn. Thương con trai đứt ruột nhưng từ trong sâu thẳm
bà không dấu giếm niềm tự hào của một người mẹ thời chiến. Bà phải cứng rắn vừa
để yên lòng con, vừa động viên đám thanh niên trai làng măng tơ nhập ngũ. Bây
giờ nhìn đám cháy ở làng Lôi, bà Mít sợ hãi thực sự. Bà vừa trốn chạy, vừa nuốt
nước mắt. Hơn một trăm ngày kể từ lúc chồng nằm sâu trong lòng đất, bà chờ đợi
từng đêm, mong ngày ra đi. Bà không thể ở lại cái làng này, hàng ngày nhìn thấy
mặt người quen trong nỗi tủi nhục. Không phải không có người đồng cảm chia sẻ
những nỗi đau của bà. Cũng có không ít kẻ nhìn bà với con mắt soi mói, khinh thị.
Để xẩy ra cơ sự cháy làng, bà Mít không ngờ hậu họa lớn đến vậy.
Bà Mít chạy dọc theo con đường
xuyên đồng lúc chạy gằn, lúc đi chậm lại để lấy sức. Không dám dừng lấy một
lúc. Khát quá, bà vục tay xuống con mương, uống tạm hớp nước lạnh tanh nồng mùi
đất. Trời chưa sáng rõ, bà Mít đã đến được bến đò sang bên kia đã là đất Nam Định.
Bà trùm kín trên đầu cái khăn, che bớt khuôn mặt và ngồi vào con đò ngang sang
sông. Đò sớm chở người đi chợ, mấy cô gái ở làng Thuận mang rau sang bán cất
cho các sạp buôn ở chợ Rồng. Bà Mít ngồi lẫn với đám rau dưa, tay ôm chặt chiếc
túi vải nâu chỉ độc có hai bộ quần áo, chiếc áo bông và tấm ảnh thờ của con. Bà
có một giấy chứng minh thư, định cầm theo nhưng lúc ở bên bờ sông Hồng chả hiểu
nghĩ sao, bà vất xuống sông. Mấy đồng bạc mang theo phòng thân bà giấu kín
trong cạp quần. Mấy nắm cơm vắt chặt từ chiều qua bà gói kĩ trong lá chuối hơ lửa
cùng với chai muối vừng để ăn dần vài ba ngày. Trước khi rời căn nhà lần cuối,
bà Mít đã đến bàn thờ thắp nhang cho chồng, cho con. Bà vái lạy tổ tiên và lặng
lẽ gỡ tấm ảnh của Đệ mang theo. Ngôi nhà tranh vách đất đã gắn bó cuộc đời bà
hơn bốn mươi năm năm. Bây giờ là lúc bà rời xa, xa mãi mãi. Bà không cảm thấy hối
tiếc. Cũng không cảm thấy quyến luyến với người chồng gắn bó với bà đang nằm lại
với đất này. Ông Đê vốn hiền lành nhưng cục tính. Có lần trong cơn giận dữ,
đang ăn cơm ông quăng cả bát đĩa ra sân. Nhiều phen bà cũng khổ vì ông. Những
ngày cuối cùng chăm sóc ông Đê, nhìn ông bà biết bệnh tật đổ ụp xuống đầu ông
không phải không có nguyên nhân. Ông lão không phải là cán bộ, không phải đảng
viên, chỉ là một anh dân cày ở làng. Nhưng ông ngấm ngầm tự hào vì có một anh
con trai học giỏi nhất vùng. Đệ đã từng có tên trong đội thi học sinh giỏi toán
của tỉnh, mỗi lần giật giải các thầy cô đều khen. Mỗi buổi trưa, buổi tối nhìn
Đệ đi học về ngồi ăn bát cơm độn khoai với vài gắp rau muống luộc, đĩa tép kho
lá chanh ông chồng cất được ở con mương ngoài đồng, bà Mít không dám nghĩ sao
mình lại đẻ ra được một đứa con như thế. Vợ chồng bà hiếm muộn đường con cái. Bốn
lần sinh nở chỉ đậu được hai. Người chị của Đệ cách cậu em 9 tuổi. Lúc Đệ nhập
ngũ vào chiến trường đến năm thứ 2, chị Đệ chỉ sau một trận cảm hàn rồi mất.
Năm sau đến lượt Đệ báo tử. Nỗi đau gậm nhấm hai vợ chồng già đến nỗi nghe tin
con chết ông Đê ngã bệnh. Bà Mít gan góc hơn nhưng trái tim bà tan nát. Từ ngày
thằng Ca trở về làng loan tin Đệ còn sống, chiêu hồi giặc. Và xã cho người xuống
thu lại bằng Tổ quốc ghi công, bà Mít càng buồn tủi hơn. Thêm những lời soi móc
của vài kẻ hay ngồi lê đôi mách rỉ tai nhau “thằng Đệ đảo ngũ, chiêu hồi…”, bà
càng đau đớn hơn. Như thể có lưỡi dao sắc nhọn chọc đúng tim bà. Đã có lúc nghĩ
quẩn, bà Mít muốn đi theo chồng. Có những buổi chiều đi làm về ngồi hàng giờ
bên bờ sông Cọi, để gánh cỏ một bên, dắt con bò tha thẩn, bà Mít đã định nhẩy
xuống sông. Ấy vậy mà bà không chết được. Như thể giời bắt bà phải sống, phải
chịu đựng sự nguyền rủa của những kẻ độc mồm độc miệng. Sau ngày chồng chết bà
Mít hiểu rằng không thể cam lòng sống nốt những ngày tàn, chờ chết ở cái làng
này. “Đi! Phải đi!”. Ý nghĩ ấy lóe sáng trong đầu bà sau ngày bà làm mấy mâm
cơm cúng ông Đê trăm ngày. Đêm ấy bát chân nhang bày trước linh vị chồng tự
nhiên bốc cháy. Giữa ánh lửa chập chờn, đôi mắt của Đệ trên tấm ảnh lóe sáng
như đồng lõa với ý nghĩ của mẹ. Biết đi đâu? Bà con họ hàng không có ai. Chẳng
lẽ bà sang làng Võng ở nhờ nhà thông gia. Con gái của bà cũng đã mất. Anh con rể
sau ngày vợ chết chưa tới 2 năm đã ngược rừng đi làm công nhân lâm nghiệp và lấy
vợ mới ở Tuyên Quang… Ngày trước nghe thằng Ca kể, nó với anh Đệ ở cùng một đơn
vị chiến đấu tại mặt trận Huế… Sao giờ về phép nó lại khoe gặp Đệ ở Ninh Hòa?
Ninh Hòa, Nha Trang là đâu? Bà không biết. Con trai bà nghe nói chiến đấu ở Huế
kia mà! Trong một lá thư của Đệ gửi về năm nảo năm nào lúc qua Hà Tĩnh kể rằng,
mỗi ngày con bà phải đi bộ từ 25 đến 30 cây số, qua binh trạm này đến binh trạm
khác, mang vác ba lô, súng đạn, gạo, muối mắm để có cái ăn dọc đường. Vậy bà
cũng đi bộ. Đi tới đâu, hỏi đường tới đó. Ngày trước bom đạn, con bà còn đi được
vô Nam. Bây giờ giặc giã đã tan, bà cũng sẽ đi bộ tìm đường vô Nam. Bà nghĩ đơn
giản, giá có chết dập, chết dụi ở dọc đường cũng không ai biết bà là ai, quê
quán không có. Nhưng thà vậy còn hơn là sống và chết những ngày tàn lụi ở làng
Lôi trong nỗi tủi nhục.
Không ai biết bà Mít đã đi bộ
được bao nhiêu ngày. Bà cứ bám dọc theo con đường quốc lộ số 1, hướng vào Nam.
Suốt ngày xe tải, xe khách chạy ngược xuôi trên đường. Lần đầu tiên bà Mít được
nhìn tận mắt những chiếc xe ca chở khách mang tên Phi Long, xe sơn xanh, sơn đỏ
lòe loẹt. Ban đêm xe chạy đèn pha bật sáng quắc chiếu sáng con đường. Đi trong
nhiều ngày nhưng không có một cái xe nào chịu cho một bà lão ăn mày không tiền,
ăn mặc rách rưới, bẩn thỉu xin đi nhờ xe.
Cho đến một buổi chiều bà
Mít vào được đến đất Tĩnh Gia. Trong lúc dừng lại bên đường xin nước uống bà gặp
được một đoàn xe bộ đội. Các chú bộ đội còn trẻ cả, nhìn thấy một bà lão nghèo
khổ, lấm láp bụi đường chìa tay xin lương khô. Một anh lính đã vui vẻ hỏi.
“- Mẹ đi đâu thế này? Con
cái mẹ ở đâu sao không chăm sóc lại để cho mẹ đi ăn xin?”.
Bà Mít nhìn anh lính khẽ lắc
đầu:
“- Mẹ không đi ăn xin đâu
chú! Mẹ đi tìm con”.
Anh bộ đội lại hỏi:
“- Con mẹ ở đâu mà phải
đi tìm?”
“- Con mẹ cũng đi bộ đội như
mấy chú. Nó đi từ năm 63 cơ. Người bảo nó chết, xã cũng đã báo tử cho mẹ. Người
bảo nó còn sống! Nếu còn sống thì nó phải về với mẹ chứ, phải không chú? Hòa
bình đã cả năm nay rồi mà chưa thấy con mẹ về”.
Anh bộ đội cầm tay bà Mít,
giọng bùi ngùi.
“- Tội nghiệp mẹ, mẹ ơi!”.
Bà Mít nhìn anh bộ đội bằng
ánh mắt quyết liệt.
“- Mẹ phải đi tìm con mẹ chú
ạ!”.
Anh bộ đội mở chiếc túi vải
của bà Mít, đỡ bức ảnh lồng trong khung kính có hình của Đệ. Chiếc khung kính
đã vỡ một góc trong lúc bà chạy tháo thân thoát khỏi làng Lôi.
Lúc đoàn xe chở bộ đội lên
đường, những người lính đã lặng lẽ giấu bà Mít trong một thùng xe phủ bạt. Bà
Mít ngồi nhấm nháp miếng lương khô. Khi nào khát, bà đã có sẵn bi đông nước của
người lính tốt bụng đưa cho bà lúc lên xe. Chỉ nghe họ nói. “- Mẹ là mẹ của
chúng con. Chúng con đi đánh giặc ở biên giới đây!”.
6. Những năm học đại học ở Huế,
vào ngày nghỉ, Hoài thường theo xe đò về huyện Hương Trà chơi thăm lại đám bạn
bè cũ. Mới chỉ một vài năm sau ngày giải phóng, cuộc sống thời chiến tưởng như
đã lùi vào trong quá khứ… Những ngày hoà bình đầu tiên công việc bộn bề, cuốn
hút mọi người. Trăm thứ việc cần giải quyết. Việc nào cũng mới mẻ, phức tạp
trong đời sống dân sự hàng ngày. Ở đây, Hoài có nhiều bạn bè quen biết trong
chiến tranh, sống chết với nhau một thuở, vậy mà anh đi tìm gặp lại những người
quen cũ thật khó. Đến công sở, Hoài như kẻ đi lạc vào một phiên chợ quê, ngơ
ngác giữa đám bàn ghế lổng chổng trong lều chợ.
Cả một đội quân cán bộ huyện
xã ngày trước đông là vậy, cứ mỗi buổi chiều về làng đi mua gạo, đậu phộng,
không gặp địch chốt ở cửa rừng là mọi người đã có thể gặp nhau trò chuyện ở một
địa điểm gọi là Miếu Trâu, chờ đến đêm tối thì kéo nhau về làng. Bây giờ hoà
bình rồi, không thể còn tụ tập đông vui như vậy nữa. Từ anh cán bộ huyện cho đến
chị du kích đều có vai có vế trong bộ máy chính quyền cách mạng. Một số người
đóng vai trò chủ chốt trong huyện uỷ, Ủy ban Nhân dân huyện, huyện đội. Một số
về làm bí thư, chủ tịch các xã. Một số khác được cấp trên rút về công tác ở tỉnh,
thành phố. Các lớp học bổ túc về chính trị, về chính sách của Nhà nước cách mạng
được mở ra để bồi dưỡng cấp tốc cho cán bộ, đảng viên. Một số khác được cử đi học
bổ túc văn hóa cho đủ trình độ phổ cập cấp 1, cấp 2, cấp 3. Một bộ phận cán bộ
được trung ương điều động về thành phố đi cải tạo công thương nghiệp tư bản, tư
doanh trong vùng Mỹ, nguỵ kiểm soát trước đây. Một số khác đi tập huấn chuẩn bị
cho việc xây dựng hợp tác hóa nông nghiệp ở nông thôn. Hầu hết những sĩ quan
nguỵ, cán bộ trong chính quyền cũ đã có lệnh đi học tập cải tạo. Không khí trong
các làng xã oi bức, căng tức. Người dân lắng tai nghe ngóng những lệnh mới được
ban ra từ chính quyền cách mạng. Ở những cơ quan chính quyền cách mạng, cán bộ
họp tối ngày. Các bàn máy chữ khua vang để kịp cho ra đời những văn bản, chỉ thị
mới.
Hoài rời quân ngũ về làm anh
học trò đi học xem ra lạc lõng giữa đám bạn bè là cán bộ huyện, xã trước đây.
Nhiều khi gặp được họ cũng khó. Anh vẫn còn nhớ cậu Kỳ, một thanh niên mới rút
lên núi trong đợt bộ đội KX phối hợp với đội biệt động xã Hương Thạnh về đánh ấp
La Chữ năm 73 rút lên núi. Sau khi được huấn luyện vài tháng, bây giờ về làng,
Kỳ đã là anh xã đội trưởng. Anh Có, anh Đoàn, những cán bộ biệt động nổi tiếng
của thành phố nay được điều về công tác tại thành phố. Ngọc Anh, một anh bạn từng
chết hụt với Hoài ở dốc Đất Đỏ, sau bốn năm học trường An ninh nay đã là trưởng
công an huyện. Vào những năm 1976, đất nước thống nhất, chủ trương của trên cho
hai, ba tỉnh nhập một; vài ba huyện thành một huyện lớn hơn, dân số hàng chục vạn
người. Cái ý chí sắt đá, quyết tâm xây dựng cả nước thành 500 pháo đài để bảo vệ
và xây dựng chủ nghĩa xã hội đang dần trở thành hiện thực.
Thủ trưởng Bậu của Hoài vốn
là tiểu đoàn trưởng KX ngày trước sau được điều động sang công tác tại Ban tham
mưu Thành đội. Theo yêu cầu của cấp trên, ông được điều về giữ chức huyện đội
trưởng. Ông Bậu bao năm xa KX nhưng vẫn không quên Hoài. Anh vốn là người lính
trinh sát của tiểu đoàn thường đi bảo vệ ông mỗi lần vượt sông Bồ hoặc vượt đường
12 sang cơ quan tỉnh đội để họp. Nhiều lần, cánh lính trinh sát cùng ông Bậu bò
vào bám các căn cứ Chóp Nón, đồi Chổi, Tứ Hạ…, đưa đường cho ông về làng La Chữ,
Phú Ổ, Văn Xá đuổi đánh tụi dân vệ nghĩa quân. Mỗi lần về ấp Văn Xá Làng, nếu
không gặp địch, thể nào ông cũng tạt qua làng Thanh Lương thăm mẹ già và bà con
cô bác. Cũng bởi ông đi theo cách mạng từ những năm chống Pháp, gia đình là cơ
sở cách mạng nên bà mẹ và bà con họ mạc luôn bị chính quyền nguỵ gây phiền hà.
Có lần, bà mẹ bị bắt đưa về quận tra khảo. Năm 1954, ông Bậu theo bộ đội tập kết
ra Bắc. Năm 1962, ông được cấp trên bí mật đưa về Nam. Sau ngày giải phóng, gia
đình ông mới được đoàn tụ. Mặc dù gia đình ông có nhà ở Huế, hàng ngày ông Bậu
vẫn ở lại huyện, ăn ngủ tại cơ quan huyện đội. Một cậu công vụ lo cơm nước giặt
giũ áo quần cho thủ trưởng. Chỉ khi nào có việc họp hành ở thành phố, ông Bậu mới
về thăm vợ con.
Nhà khách của huyện đội
thành nơi trú ẩn của Hoài để trốn những bữa cơm sinh viên trong cư xá Đội Cung.
Về chơi với ông Bậu, anh được ông cho ăn cơm cùng mâm, ở cùng nhà. Lâu lâu ông
lại sai Hoài phóng xe máy ra chợ An Hoà hoặc về Hiền Sĩ mua rượu, mực, thịt chó
về nhậu. Bao năm ở rừng, ông Bậu vẫn không quên thói quen nằm võng. Chiếc võng
may bằng vải simily pha ni lông hai lớp. Tối ngủ, trời lạnh ông trùm thêm tấm
dù hoa, ghệ đầu lên mép võng nằm nghe đài Hà Nội và đài BBC. Nếu không, ông lại
tấu lên bổn kịch cũ. Ấy là ông kể cho Hoài nghe chuyện những ngày ông ra miền Bắc
tập kết, đi học trường quân chính. Chuyện ông đi hái sấu, hái trộm dưa của người
dân ở ngoài bãi sông Hồng. Rồi chuyện ông đi tán các cô gái ở Hà Nội. Chuyện
ông Bậu lấy vợ. Nhưng có lẽ say sưa nhất vẫn là chuyện những ngày ông làm đại đội
trưởng rồi lên cán bộ tiểu đoàn của KX đưa bộ đội về đánh giải phóng Phong Điền,
Quảng Điền, Phú Vang, Phú Lộc. Hai mươi sáu ngày đêm chốt giữ cố đô Huế, chặn
đánh tàu địch trên sông Hương… Rồi ông kể cho Hoài nghe về làng Thanh Lương của
ông với những kỉ niệm ấu thơ êm đềm, ngọt ngào của tuổi hoa niên. Đã có lần đại
đội của Hoài đi theo ông về diệt đại đội bảo an ở Văn Xá Làng. Bữa ấy không có
địch. Được thể, cả đại đội xộc thẳng về làng Thanh Lương đánh nghĩa quân diệt
ác, trừ gian, rải truyền đơn của Mặt trận. Trung đội địch chốt ở chợ mới nghe
thấy tiếng B40 nổ, biết có chủ lực quân giải phóng về làng chúng đã bỏ chạy. Bộ
đội, du kích vào được dân mua gạo, mì chay, đường sữa, kẹo muga, thuốc lá xả
láng.
Trong vòng ba tiếng làm chủ
làng Thanh Lương, Hoài đã có dịp quan sát toàn cảnh ngôi làng. Làng Thanh Lương
nằm dọc bên sông Bồ, làng đẹp, rợp bóng tre xanh và dừa. Ở các Phe Nhất, Phe
Nhì, Phe Ba được bao bọc bởi những vườn cây ăn trái men theo con đường làng ra
ngoài cánh đồng. Thoang thoảng mùi hoa cau, hoa nhài toả ra từ những ngôi nhà
vườn ngập tràn ánh trăng hạ tuần. Biết có bộ đội về làng nhưng địch vẫn không bắn
pháo. Chỉ thỉnh thoảng, chúng bắn ít đạn cối lên chặn phía ngả rừng. Ở căn cứ Từ
Hạ, lâu lâu, địch lại bắn lên trời những trái pháo sáng.
Thủ trưởng Bậu say sưa kể
chuyện KX và chuyện làng Thanh Lương của ông. Lâu lâu ông lại dụ khị Hoài rằng:
“- Bữa mô về Huế, mi ghé nhà
qua chơi. Mi ưng con gái qua ta gả cho một đứa!”.
Câu chuyện của ông Bậu chỉ kết
thúc khi nào Hoài nghe thấy tiếng ông ngáy. Anh nhìn sang, thấy điếu thuốc rubi
ông vẫn cầm trên tay, tàn rơi trắng dưới đất.
Cũng trong một buổi tối như
vậy, Hoài về thăm ông Bậu. Cơm chiều xong, ông kéo anh ra chiếc bàn đá đặt ngay
dưới gốc cây phượng. Cậu cần vụ đã chuẩn bị sẵn cho thủ trưởng một ấm trà. Ông
nghiện trà nhưng chỉ uống độc 2 thứ: trà Hồng Đào bao bạc dành cho cán bộ cao cấp
hoặc trà B’Lao của Bảo Lộc. Sau một li trà đậm, ông Bậu rút bao rubi và cho
Hoài một điếu. Đang uống nước, hút thuốc, chợt ông Bậu hỏi Hoài:
“- Này, mi còn nhớ thằng Đệ,
đại đội phó C3 không hỉ?”. Hoài ngớ ra. “- Anh Đệ chết rồi, hi sinh ở Bầu Tháp,
thủ trưởng không nhớ sao?”.
Ông Bậu nhìn Hoài. “- Sao
qua lại không nhớ thằng Đệ! Tao là người giới thiệu nó vô Đảng và đề nghị với
trung đoàn đề bạt nó chớ ai”.
Hoài sợ ông Bậu quên, anh nhắc
lại cho ông Bậu nhớ. “- Sau trận ấy, đại đội 3 đã làm lễ truy điệu cho anh Đệ
dưới chân dốc Đoác, có cả thủ trưởng và thủ trưởng Ngạn chính trị viên tiêu biểu
dự. Hôm sau, tiểu đoàn bộ họp quân chính, bị tụi thám báo Mỹ phát hiện, gọi máy
bay ném bom vào hậu cứ. Thằng Nam, lính công vụ cho thủ trưởng bị bom chết mất
xác. Thủ trưởng có nhớ không?”.
Giọng ông Bầu trầm đục:
“- Sao qua lại không nhớ được!
Nhưng là chuyện như ri mi ơi. Bữa hôm rầy, qua tình cờ gặp được một bà cụ từ
ngoài Bắc vô. Bà cụ ăn mặc rách rưới lắm, lại đói nữa. Bà được mấy anh bộ đội
cho đi nhờ xe, đến ngang huyện thì bà cụ xin xuống và hỏi đường về cơ quan huyện
đội. Qua hỏi chuyện thì mới biết, bà cụ là mẹ đẻ của cậu Đệ, đại đội phó C3.
Trong cái tay nải đựng quần áo của bà qua nhìn thấy cả tấm ảnh và giấy tờ báo tử
của cậu Đệ”.
Ông Bậu ngừng kể nhìn Hoài.
Ánh mắt ông vẫn ánh lên vẻ tinh anh của vị tiểu đoàn trưởng ngày nào mỗi khi
nghe cánh trinh sát báo cáo tình hình địch. Nhìn ánh mắt ông, đố anh trinh sát
nào nói dối được. Trước mặt ông Bậu, những anh trinh sát hèn nhát và lười biếng
không thể có chuyện dối trá. Mỗi khi bò vào căn cứ địch, có mấy lớp hàng rào,
hoả lực của địch nằm ở đâu, loại súng gì phải về báo cáo thật với ông Bậu. Nói
dối sẽ bị ông trị thẳng cánh. Và cánh trinh sát hãy coi chừng. Chính những anh
lính trinh sát sẽ phải cùng ông bò vào cứ điểm tối hôm ấy.
Nhả khói thuốc rubi, ông Bậu
bảo Hoài:
“- Hoá ra, đại đội 3 và tiểu
đoàn ta có khuyết điểm thật cậu ạ. Khuyết điểm nặng. Trận đánh về xóm mới Bầu
Tháp, cậu Đệ đâu có chết. Sau khi trái mìn clâymo của địch cài trên đường sắt nổ,
ta tưởng cậu Hoàn, cậu Khoản và cậu Đệ hi sinh. Cánh trinh sát đã đi tìm lại
nhưng không thấy xác Đệ, tưởng cậu ấy mất xác nhưng không phải”.
“- Sao thủ trưởng tin chắc
anh Đệ vẫn còn sống?”
Hoài ú ớ hỏi và thấy có sự lắt
léo trong câu chuyện cũ về người chỉ huy đại đội 3 đã hi sinh từ bẩy năm nay.
“- Vậy mới có chuyện …”. Và
ông Bậu tặc lưỡi: “- Vậy mới là cuộc đời… chớ đâu có phải thẳng đuột như mỗi lần
tôi lên giảng nghị quyết để các cậu ngồi nghe cho sướng lỗ tai rồi vỗ tay”.
Trong cái buổi chiều chạng vạng
ấy, ông Bậu đã kể cho Hoài nghe chuyến hành hương hơn 600 cây số của bà Mít ở
làng Lôi đánh đường vào Huế tìm con. Trong túi bà cụ không có một hào, chỉ một
vài vắt cơm nắm, cục lương khô của những anh bộ đội và một vài người dân tốt bụng
gặp được ở dọc đường. Bà mẹ làng Lôi đi tìm con trong nỗi tuyệt vọng khôn cùng
chỉ với một lí lẽ: coi thử anh con trai của bà đã chết thật hay sống giả? Lời cầu
khấn trời Phật đêm đêm của bà Mít là: con trai bà dù có phải chịu cảnh đui què
mẻ sứt, miễn sao vẫn còn sống để mẹ con còn có dịp gặp nhau. Con trai bà dù ở
hoàn cảnh nào đi chăng nữa bà cũng sẵn sàng chịu đựng. Bà chết cũng an lòng.
Đấy là câu chuyện ông tiểu
đoàn trưởng Bậu kể cho Hoài nghe vào một ngày thu năm 1976. Chính ông cũng
không nghĩ rằng, có lúc, ông lại trở thành một anh lính trinh sát bất đắc dĩ,
đơn độc một mình suốt mấy tháng trời đi quanh các xã Hương Thạnh, Hương Vân,
Hương Thái, Hương Xuân, Hương Vinh, những dải làng ven sông Bồ để truy tìm cho
ra tung tích của anh Đệ. Trong những chuyến đi ấy, ông Bậu lặng lẽ đi một mình,
chẳng có anh trinh sát tiểu đoàn nào đi theo ông cả. Bữa ông đi xe Uóat của cơ
quan huyện đội, có ngày ông cưỡi xe honda. Mỗi lần về huyện uỷ họp ông đều tìm
gặp anh Có, anh Đoản, anh Diên, anh Sửu, Ngọc Anh, Lành… và có lần hỏi cả chú
Sáu Thọ Hường - một thành uỷ viên lâu năm nằm chốt ở đất Hương Trà truy tìm cho
ra tung tích Đệ. Chỉ đến khi ông Bậu tìm về quán Mụ Tr. - một cơ sở mật của đường
dây thành uỷ - người trong gia đình mới cho hay một vài tin không chắc chắn. Đã
nhiều lần, vào lúc rảnh rỗi, ông Bậu dừng lại ở bãi mồ mả có rặng thông phía
sau làng xóm mới Bầu Tháp quan sát lại địa hình. Cái ấp Tân Sinh do chính quyền
Nguỵ lập ra nằm sát ven đường, đưa dân các thôn làng sát chân núi về ở, nay đã
trở thành một xóm ấp đông vui. Dấu tích còn lại của một ấp chiến lược là dãy
nhà lợp tôn Mỹ sáng loáng. Các lá cờ Nguỵ vẽ trên tường ngày trước đã bị người
dân xoá đi. Lớp rào kẽm gai bao quanh ấp cũng được gỡ, bán phế liệu. Chỉ còn lại
cây bông đồng cao, toả bóng mát nơi đầu cổng ấp. Phấp phới trên ngọn cây có
treo lá cờ giải phóng nửa xanh, nửa đỏ.
Ông Bậu đi lại hàng chục lần
trên đoạn đường quốc lộ chạy song song phía trước mặt làng Bầu Tháp để giả định
những ngả đường có thể sau lúc bị thương, Đệ trú ẩn. Ông săm soi từng bờ ruộng,
từng bụi cây, cảnh vật thay đổi hẳn. Cây cỏ, bờ mương, những bãi mồ mả nằm
lẩn khuất sau các bụi dứa dại như thể đánh đố ông.
Những ngày tháng ấy, bà Mít
trở thành người phục vụ không chính thức của cơ quan quân sự huyện đội. Bà vốn
là người đảm đang, hay lam hay làm, dẫu không ai phân công cắt việc nhưng hàng
ngày bà tham gia vào tổ phục vụ nuôi quân. Bà nhặt rau, vo gạo, trông củi lửa
cho chiếc bếp Hòang Cầm. Mọi người ăn xong, bà lại rửa chén đĩa, xoong nồi cho
bếp ăn huyện đội. Mấy cô bộ đội mới nhập ngũ sau ngày 30/4 suốt ngày kêu bà Mít
bằng mẹ. Các cô gái còn trẻ đáng tuổi con cháu nhưng biết hoàn cảnh của bà đầy
éo le, trắc trở, các cô ra chợ trời Tây Lộc mua vải về may áo quần cho mẹ Mít.
Cứ quãng 4 giờ sáng, khi tiếng chuông nhà thờ ở làng Dương từ xa vọng tới, những
anh bộ đội gác đêm đã thấy bà Mít trở dậy, nhóm lửa nấu cơm sáng cho cả đơn vị.
Câu chuyện về người con trai
của bà Mít, một chỉ huy cũ của KX hi sinh trong trận đánh về Bầu Tháp, huyện
nhiều người biết. Song việc anh Đệ còn sống, lại trở thành sỹ quan Nguỵ ra
trình diện ở Nha Trang, thằng Ca đưa chuyện về làng và gia đình bà Mít bị tước
bằng liệt sỹ thì chỉ có mình ông Bậu hay. Ông vốn là người nhạy cảm chính trị,
sống lâu năm trong vùng tranh chấp giữa ta và địch, ông luôn lấy chữ thận trọng
đặt lên hàng đầu. Thực sự, hình ảnh của Đệ đã nhờ nhoạt trong tâm trí ông. Sau
này sang công tác ở cánh nam qua nhiều đơn vị, ông không thể nhớ hết được những
người cán bộ, chiến sỹ của KIV, KX ở công trường V đã cùng tham gia với ông
đánh hàng trăm trận giải phóng vùng cát Phong Quảng, Phú Vang từ những năm
1963. Hai đợt ông chỉ huy KX về đánh trong chiến dịch Mậu Thân ở Huế, bộ đội hi
sinh biết mấy. Về sau, anh Có, anh Đoàn , những cán bộ cũ của Hương Trà nhắc
chuyện của Đệ ông mới nhớ đến anh đại đội phó đại đội 3 đã có lần dìu ông vượt
phá Tam Giang, phá vây để lên rừng sau lần tổng công kích về Huế lần thứ 2
không thành. Và lần cuối cùng ông gặp Đệ là lúc tiểu đoàn sắp nhận lệnh giải thể
để bổ sung cho huyện xã. Trận đại đội 3 đánh tụi bảo an ở Bầu Tháp. Trận ấy, Đệ
đã không trở về.
Cho đến một ngày, có người
mách ông Bậu tìm về làng Dương để gặp ông Sáu Đến. Ông Sáu Đến ngày trước cũng
đã từng là ấp phó trong chính quyền Nguỵ, nhưng ông lại là cơ sở mật của một đầu
mối trong cơ quan thành uỷ cắm ở vùng sâu. Ông Sáu không phải là nhân vật chủ
chốt và cũng không tham gia công tác cách mạng liên tục cho đến ngày giải phóng
nên ít người nhớ. Làng Dương có nhà thờ. Cả làng theo đạo, một pháo đài bất khả
xâm phạm của Việt cộng từ thời Ngô Đình Diệm. Việc ông Sáu Đến là cơ sở ở vùng
sâu lại nằm trong chính quyền của nguỵ, địch không ngờ tới. Công việc của ông
là lâu lâu về Huế, ghé một tiệm cà phê gặp người của ta cung cấp thông tin,
tình hình hoạt động của các đơn vị địa phương quân đóng trong vùng và những âm
mưu thủ đoạn của địch tại các xã đồng bằng. Sau ngày giải phóng, ông Sáu Đến
cũng bị triệu tập đi học tập cải tạo vài ngày. Ông đã khai báo cụ thể, có người
xác nhận, ông được cho về. Ông Sáu Đến tuổi đã cao, sức yếu, lại là người có đạo,
sau cách mạng, ông cũng không tham gia vào chính quyền của ta. Chỉ có điều,
chuyện tình của cô con gái với Đệ, ông dấu biệt. Có thể, ông Sáu Đến cũng không
mấy hài lòng cho mối lương duyên bất cập ấy nhưng mọi sự đã rồi. Ông không thể
thuyết phục được cô con gái. Vả chăng, Hương Giang đã trót có bầu với Đệ. Âu
cũng là do Chúa sắp đặt. Ngẫm nghĩ cuộc đời ông, Sáu Đến cũng thông cảm cho đôi
trẻ. Thân phận ông, một anh con trai có đạo, trót đem lòng yêu cô gái làng bên
theo đạo Phật. Hương Giang, con gái ông, có tính cách quyết liệt hệt như ông
ngày còn trẻ… Ông Sáu Đến cũng dấu luôn cả chuyện mua giấy tờ giả thay tên, cải
họ cho Đệ để đôi vợ chồng trẻ, không cưới xin, bí mật đưa nhau vào Nam tránh
tai mắt của tụi tề nguỵ ở làng.
Ông Bậu tìm đến nhà ông Sáu
Đến. Cũng phải mất một vài lần, ông Sáu mới có đủ độ tin cậy để bộc bạch tâm
can. Vào những ngày đầu giải phóng, vui thì có vui, nhưng những người dân lành
quen sống trong vùng “phía bên kia” có phần e sợ cộng sản. Bài học những năm “Mậu
Thân” vẫn còn nhỡn tiền ra đó. Cười vui nổ như sấm rền. Cờ nửa xanh, nửa đỏ phấp
phới trong đại nội, trên những đình làng vừa giải phóng. Dân các làng đổ xô ra
đón bộ đội giải phóng về làng, vắt cơm, đùm gạo nuôi bộ đội. Ấy vậy mà mấy ngày
sau súng lại nổ dữ dội. Các sư đoàn lính thiện chiến của quân đội Mỹ, nguỵ Sài
Gòn sau đòn đánh phủ đầu kịp bừng tỉnh, hồi sức chống trả quyết liệt. Bom dội
vào thành nội, khu Mang Cá. Lính Mỹ của sư đoàn kị binh bay số 1 nổi tiếng kiêu
hùng phối hợp cùng sư đoàn I tấn công vào tuyến phòng thủ của bộ đội giải phóng
ở mặt trận Huế. Các ông lãnh đạo tỉnh uỷ, thành uỷ, huyện uỷ và cả ông Bậu cay
đắng nhìn hàng chục cơ sở mật cài cắm ở các nơi suốt mười mấy năm qua bị lộ.
Người bị bắt, kẻ bật lên xanh. Đại đội 1, đại dội 2, đại đội 3, đại đội 4 của
tiểu đoàn KX sau những ngày căng sức chống trả địch giữ từng căn nhà, góc phố,
từng bờ tre, bãi mồ mả ở Huế, ở Phú Vang,… Khi không còn đủ sức nữa, đành vượt
Phá Tam Giang trở lại với rừng.
Vào những năm “68, 69” ấy,
các làng, xã ven đô Huế căng như một sợi dây đàn. Suốt ngày lính bảo an, dân vệ
chà xát, dồn dân lập “ấp Tân sinh”. Đến đêm, “lính mũ nồi xanh” kết hợp với
lính địa phương quân gài mìn, giăng bẫy đón lõng bộ đội, du kích về làng. Chúng
thừa biết bộ đội, du kích đang bị đói. Lính Mỹ đang càn mạnh ở miền Tây ra cả
đường tuyến, thọc cả vào các kho gạo, kho đạn đập phá. Tiểu đoàn 439 của công
trường V, sau những ngày đánh chống càn, bộ đội bị thương, hi sinh, một số sốt
rét, chết đói nằm trên võng dọc đường.
Cả tiểu đoàn X. chỉ có hơn
200 tay súng. Ban chỉ huy tiểu đoàn lo kiếm gạo nuôi quân không đủ ăn. Bộ đội
chịu đói khát, tật bệnh. Điều cốt tử lúc ày là thực hiện cho được nhiệm vụ của
quân khu, của tỉnh giao cho là giữ cho được lòng tin của người lính đứng trên
vùng giáp ranh không ngã lòng buông xuôi. Đã có lúc, đại uý Lê Văn Duy, chính
trị viên tiểu đoàn X đã phải khóc trước hàng quân mà nói rằng: “Dù còn một người
thì chúng ta cũng phải giữ cho được giáp ranh. Còn đứng chân được ở đây là còn
đường về với dân. Máu của mỗi đồng chí ta đổ ra trong cuộc chiến đấu này không
hề uổng phí, tô thắm ngọn quân kì của Tổ quốc. Máu của ngày hôm nay, anh em ta
đổ ra ở Thành Nội, ở Phú Vang, Phong Quảng, Hương Trà, Hương Thuỷ… làm nên chiến
thắng ngày mai”.
Đã bao năm, trong mỗi chuyến
đi về Thanh, Nghệ, Hoài luôn dò hỏi tìm tông tích ông Duy coi thử ông còn sống
hay đã mất. Ông Bậu, dù nay đã là người thiên cổ, trong cái đêm ngồi kể chuyện
cho Hoài nghe về bà mẹ làng Lôi đi tìm con, cũng không biết tin tức của ông
Duy. Có người bảo ông Duy đã mất vì bị ung thư gan. Nhưng cái âm điệu giọng
Thanh Hóa của ông Duy như vẫn văng vẳng bên tai Hoài.
Cuộc sống của người lính giải
phóng còn như vậy, huống chi dân các xã vùng ven Huế, vùng Phong Quảng, Hương
Trà. Có nhiều làng, dân không được ngủ lại đêm. Tối kéo nhau vào ấp chiến lược
có lính canh chừng. Có người hôm qua còn bán gạo cho bộ đội, du kích, hôm nay
thấy bộ đội về ấp thì sợ hãi, xua họ như xua tà. Có kẻ còn ngầm báo cho địch những
ngả đường bộ đội, du kích hay đột kích vào làng để chúng đặt mìn phục kích. Những
người dân trong vùng địch kiểm soát khiếp sợ tụi tề ngụy trong xã, trong quận
biết họ liên quan tới cách mạng, trả thù. .Hèn gì ông Sáu Đến khi gặp một ông
như thủ trưởng Bậu lại chả sợ. Khẩu K54 bao da bóng loáng luôn kè kè thắt lưng
ông Bậu. Ông lại đeo chiếc xắc cốt đen bên vai; chân đi dép rọ Liên xô, mũ cối
Trung Quốc lấp lánh sao vàng, đi xe commăngca về làng.
Nhưng ông Bậu vốn là người
chỉ huy làm dân vận giỏi. Và khi biết ông Bậu cũng là người Thanh Lương, ông
Sáu Đến mới dám kể chuyện Đệ. Chính tại đây, ông Bậu mới được nghe câu chuyện của
ông Sáu Đến kể về việc cứu chữa thuốc men cho Đệ. Ông càng ngỡ ngàng khi nhìn
thấy tấm ảnh chụp Đệ và Hương Giang - con gái ông Sáu Đến, kỉ niệm ngày hai người
mới cưới nhau. Vẫn theo lời ông Sáu Đến, ông đã bắt gặp Đệ nằm trong rãnh đất
trồng mía lúc đi làm đồng. Nhìn Đệ, ông biết là bộ đội ta bị thương trong trận
đánh về Bầu Tháp mấy đêm trước. Lúc ấy, Đệ đã yếu, nằm thoi thóp thở, người bị
thương bê bết máu. Khi ghé chiếc bi đông nước cho Đệ uống, ông không tin anh bộ
đội sẽ qua khỏi. Suốt mấy ngày trời, ông Sáu dấu anh bộ đội trong ruộng mía.
Hàng ngày, ông lấy cớ ra đồng, dấu nước cháo, sữa hộp, nước uống, thuốc và kim
tiêm trong những bao phân. Tự tay ông tiêm thuốc cho Đệ phòng chống sài uốn
ván. Cho đến ngày thứ tư, sức khoẻ của Đệ mỗi ngày một khá hơn. Anh đã nhúc nhắc
đi lại được. Ông Sáu Đến mới quyết định đưa Đệ về dấu trong vườn nhà.
Kể xong câu chuyện, ông Sáu
Đến bảo với ông tiểu đoàn trưởng Bậu:
“- Chúa dạy: con người là vốn
quý chú ạ”.
Một ngày, ông Bậu bí mật chờ
bà Mít về làng Dương gặp mặt ông “thông gia” Sáu Đến.
Câu đầu tiên, ông Bậu nghe
được từ cửa miệng ông Sáu Đến là: “- Thay mặt cho hai cháu, tôi xin bà nhận lấy
ở tôi một lạy, tôi tạ tội thay cho hai cháu. Chúng nó làm việc liều, chẳng được
ông bà ngoài nớ cho phép. Thời buổi chiến tranh, cách trở xa xôi… Xin ông bà chớ
lấy làm phiền”. Ông Sáu Đến hôm ấy mặc bộ quần áo nâu, ngoài mặc tấm áo dài đen
mà mỗi khi trong họ đạo có việc, người ta mới thấy ông ăn mặc như thế.
Còn bà Mít, mẹ đẻ của Đệ,
khi vào trong nhà, thoạt nhìn thấy tấm ảnh Đệ đứng cạnh một cô gái xa lạ, bà
không cầm nổi nước mắt. Bà lắp bắp: “Con tôi… còn sống. Còn sống thật các ông ạ…”.
Rồi bà ngất đi. Ông Bậu và ông Sáu Đến sợ quá, phải cậy miệng bà đổ chút nước gừng.
Một lát sau, bà Mít mới tỉnh.
Ông Bậu kể xong cuộc tương
ngộ của hai gia đình thông gia, kẻ Nam người Bắc cho Hoài nghe xong, có vẻ vui.
Ông bảo:
“- Nói thiệt với em, qua chứng
kiến bao cảnh vui buồn. Có lúc tiểu đoàn ta đánh nhau ở Dưỡng Mông A, “thằng”
C1 của qua có trận hi sinh cả mớ. Qua không khóc. Vậy mà nhìn cảnh
hai ông bà già tìm nhau nhận con, nhận cháu qua rơi nước mắt”.
Chợt ông Bậu vỗ đùi:
“- Này mi, lấy xe máy của qua phóng
ra Tứ Hạ mua thịt chó về đây, ta nhậu. Tự nhiên, quamuốn uống rượu”.
III/ NHỮNG ĐÊM TRẮNG
1. Cha tôi mất vì bệnh
ung thư phổi.
Đang khoẻ mạnh bình thường,
chỉ một cơn đau nhẹ rồi ông nằm hẳn. Dấu hiệu ban đầu là những cơn ho húng hắng
về đêm. Tôi nghĩ đơn giản. Chỉ tại cha hút thuốc lá. Từ ngày mẹ tôi còn sống và
cả tôi nữa đã nhiều lần khuyên nhủ ông bỏ thuốc, cha tôi không bỏ được. Về chuyện
cha tôi nghiện thuốc lá, ông lý sự. Không uống rượu bia. Không chơi bời bồ bịch.
Vợ mất rồi. Niềm ham mê lớn nhất được nhìn thấy tôi hằng ngày. Một đứa con gái
xinh đẹp, nhanh nhẹn, khoẻ mạnh, có bằng cấp đại học. Ngoan ngoãn. Không uổng
công nuôi dạy của cha mẹ. Niềm vui thứ hai ước vọng có được một cơ ngơi để sống
sung túc, được tự mình làm những điều mình mong muốn. Hơn cả ước vọng, cha tôi
đã gây dựng được cả một trang trại trồng hoa, trồng rừng… Gia đình có của ăn của
để.
Mỗi sáng sau tuần nhang thơm
thắp cho mẹ tôi trên bàn thờ, ông đi giữa những luống hoa hồng, hoa cúc, hoa
ly, hoa lan còn ướt đẫm sương đêm phì phèo điếu thuốc lá trên tay. Tôi nhìn
dáng vẻ thư thái trên gương mặt của ông nhưng ẩn sâu trong đáy mắt là nỗi buồn
ưu tư của một người đàn ông đã trải qua nhiều nỗi khổ đau. Tôi vừa là đứa con
cùng chia sẻ với ông bao chuyện vui buồn nhưng cũng là một chứng nhân cho chính
ông trong nhiều chuyện. Vào những lúc ấy tôi không nỡ lòng nào lại cấm ông hút
thuốc. Nhiều khi tôi cũng nói quá lời, phê bình ông hút thuốc. Tôi còn mang nhiều
tấm gương ra để doạ cha tôi. Ông chỉ cười và bí quá liền đổ tội cho Mỹ, cho mấy
cô du kích vùng ven đô Huế. Nghe lạ tôi hỏi.
- Cha nghiện thuốc sao lại đổ
tội cho Mỹ?
Cha tôi rỉ rả:
- Ngày còn là lính trinh
sát, cha thường phải bò vào bãi Mỹ, bãi Ngụy để bám địch. Không có địch thì lượm
đồ ăn. Con biết không, mỗi lần máy bay trực thăng Mỹ đổ quân trên các cao điểm,
đám lính tụi cha vừa lo lại vừa mừng. Lo vì biết rằng địch sẽ càn rừng, lại
lùng sục, có khi đụng độ đánh nhau chí tử. Mừng vì nghĩ thế là lại có cái ăn rồi.
Lính Mỹ giàu lắm. Mỗi lần máy bay trực thăng đổ xuống một điểm cao nào ngoài
súng đạn, quân trang, còn cơ man nào là đồ hộp, thuốc lá, kẹo…Lính Ngụy nghèo
hơn nhưng ít nhất cũng còn lượm được ít bao gạo sấy, đồ dùng như kem, bót…Có dạo
ba tháng trời đại đội bộ binh của cha được cấp trên giao cho bám đất, bám dân
giữ vùng giáp ranh. Đang là mùa mưa. Mưa trắng đất trắng rừng xứ Huế. Bộ đội
không về dân mua gạo được. Đường lên miền Tây tắc. Mỹ đang càn ở sông Bồ. Quân
Mỹ đóng dày đặc trên các cao điểm. Ở dưới vùng giáp ranh nơi tiếp giáp với đồng
bằng có dân, lính ngụy của Sư đoàn 1 bộ binh đóng đầy trong các làng hoang, chốt
chặn của rừng. Bộ đội đói. Cả đơn vị của cha phải bám vào căn cứ Bình Điền của
Mỹ để lượm đồ hộp ăn trừ bữa…Lính Mỹ đi càn rừng, lúc đi ỉa còn nhai kẹo cao
su. Quanh các bãi đóng quân, chỗ nào thấy đất mới đào moi lên là nhặt được đồ hộp.
Bộ đội ở giữa rừng không có gạo nhưng toàn được ăn đồ hộp Mỹ, hút thuốc lá
Paman, Sa- lem…Buồn cười nhất là mỗi lần xem lính Mỹ tắm. Quân Mỹ đóng chốt
trên các điểm cao, máy bay H34 chở nước từ Huế lên xả trên đỉnh đồi cho lính Mỹ
tồng ngồng chạy ra tắm. Cha là lính trinh sát bộ binh chuyên đi bám các bãi Mỹ,
bãi Ngụy thường lượm được đồ hộp Mỹ. Cũng bởi quen hút thuốc lá Mỹ, lâu ngày
sinh nghiện.
Nghe câu chuyện dông dài của
cha, tôi bị cuốn hút sinh tò mò.
- Còn các cô du kích, cha
yêu cô nào mà cô ta mua thuốc lá cho cha hút? Bây giờ chỉ còn có con, cha khai
thật xem nào?
Cha tôi châm một điếu thuốc
lá rít một hơi dài khoan khoái. Rồi bảo:
- Chả có gì phải giấu con cả!
Ngày cha vô Nam chưa tới 18 tuổi. Còn trẻ lại ngu ngơ nữa. Nhỏ hơn con bây giờ
nhiều. Đơn vị cha đóng quân ở vùng giáp ranh sống cận kề với các đơn vị của huyện
xã. Có nhiều du kích, cán bộ là phụ nữ lên rừng theo cách mạng. Các anh lính trẻ
ngoài Bắc luôn nhìn các cô cán bộ, du kích, biệt động người địa phương như thần
tượng.
- Họ có đẹp không cha? - Tôi
cắt ngang.
- Có người đẹp, có người xấu,
nhưng chỉ nghĩ họ là con gái, đàn bà dám bỏ cả thành phố, làng quê lên rừng
theo cách mạng, chấp nhận cuộc sống cực khổ, hi sinh…cha đã phục lắm rồi. Huống
hồ có chị, có cô còn là bí thư, chủ tịch xã. Có người là huyện uỷ viên, có người
là trinh sát thành phố. Họ lọt về dân, vào thành phố xuất quỷ nhập thần. Có cô
vào làng tham gia diệt ác trừ gian, giết bọn tề điệp như chém chuối. Anh lính
giải phóng trẻ nào nhìn các cô chả hãi, chả phục. Nhưng các cô, các chị lại rất
thương lính giải phóng, nhất là từ ngoài Bắc vào. Mỗi lần các chị, các o đi đồng
bằng, vào được dân ngoài việc nắm tình hình địch, trao đổi công việc, lúc lên rừng,
người nào người nấy thường mua gạo, muối, dầu Mỹ, có khi còn mua thêm kẹo
Nu-ga, mè xửng, sữa, đường cho mấy anh lính trẻ.
- Như cha chẳng hạn? - Tôi
khiêu khích.
Cha tôi cũng không vừa.
- Tất nhiên! - Như thể tôi
đã chạm vào đáy sâu cõi lòng ông khơi gợi lại những kí ức xưa cũ đã bị chìm lấp
trong lãng quên. Ông kể: - Ngày ấy cha là lính trinh sát nhỏ tuổi có một O gọi
là O Tâm, thương cha như một đứa em. Cứ mỗi lần O Tâm về làng, không có địch,
vào được quán O lại mua cho cha kẹo, thuốc lá Rubi. Hút riết thành quen…
- O Tâm bây giờ ở đâu cha? -
Tôi hỏi dồn.
Cha tôi thẫn thờ trong giây
lát rồi nói nhỏ.
- O Tâm chết rồi! - Đột
nhiên ông gọi O bằng chị. - Chị ấy dũng cảm lắm… Có lần cha bị địch phục kích ở
dốc Đu. Tụi Ngụy bắn chết người lính đi đầu, còn cha bị gẫy tay. Sau lúc súng nổ
cha cùng với chú Xu, trinh sát chạy lạc đường, vào rừng. Chị Tâm nghe tin đơn vị
trinh sát bị phục kích, đang đêm còn xách súng đi tìm. Chị Tâm chết trong một
chuyến về đồng bằng nằm hầm bí mật trong dân, có điệp báo lính địch trên đồn về
giật sập hầm…
Không bao giờ cha tôi nhắc lại
O Tâm nào đó nữa trước mặt tôi. Chỉ sau này khi đọc lại những dòng ghi chép của
cha tôi trong những cuốn vở, tôi gọi là “gia bảo” của nhà tôi, một đôi lần tôi
gặp lại tên người đàn bà ấy với vẻ ngưỡng mộ, kính trọng. Tôi không nghĩ đấy là
người yêu của cha tôi, bởi mỗi lần nhắc tới tên O Tâm, cha tôi luôn gọi bằng chị
với sự kính trọng đặc biệt. Nhưng hẳn đấy phải là một người đàn bà quan trọng
trong quãng đời trai trẻ của ông, những năm ở rừng. O Tâm là một biểu tượng cho
lòng dũng cảm, gan dạ, nghĩa tình với đồng đội.
Ngày cha tôi ngã bệnh, tôi
đã đoán định: Không còn nghi ngờ gì, thuốc lá là nguyên nhân dẫn đến căn bệnh
ung thư của cha tôi. Nằm viện đâu được mươi ngày, bệnh có phần thuyên giảm. Cha
tôi xin với bác sĩ về nằm nghỉ ngơi ở nhà, xin toa thuốc mua về uống. Vậy mà
chưa tới một tuần cha tôi đi. Đi mãi.
Trước ngày cha tôi mất, ông
gọi tôi vào phòng lấy ra từ trong chiếc tủ thờ một bọc ni lông và giao cho tôi.
Ông dặn.
- Mọi việc trong nhà con biết
hết cả rồi. Từ chuyện tiền bạc, tài sản, trang trại tất cả là của con. Cha giao
cho con mấy cuốn sổ ghi chép linh tinh. Khi nào rảnh rỗi con đọc. Con sẽ hiểu
hơn cha và mẹ. Trong cuộc sống có những điều người ta không thể kể ra được con
à. Vả lại cha sợ…
- Sợ gì cha?
- Tuổi tác… bệnh tật có những
điều khổ cực vất vả cha vượt qua được nhưng cho đến tuổi này cha mới hiểu điều
đáng sợ nhất ở người già là sức khoẻ. Địa vị, tiền bạc, nhiều khi vô nghĩa trước
cái chết.
Trong đống sách vở cũ ngoài
những giấy tờ đất đai, nhà cửa, giấy mãn hạn tù ở trại cải tạo, giấy xác nhận
cha tôi là bộ đội, giấy chứng thực của ông ngoại tôi ở làng Dương đã cất giấu
nuôi nấng cha tôi suốt 4 tháng trời và cả một bản kê khai của ông ngoại tôi đã
móc nối với những ai để làm giấy tờ giả cho cha mẹ tôi chuyển vô Nha Trang, Sài
Gòn… còn đủ cả. Những cuốn sổ ghi chép của cha tôi để lại cả thảy có bảy cuốn.
Chữ viết trên tập vở học trò của hãng Cogido 100 trang từ cuốn sổ thứ hai cho đến
cuốn thứ tư trong mỗi tập như thế cha mẹ tôi viết đan xen nhau. Mỗi người viết
một khúc.
Để tôn trọng người cha tôi
luôn hằng yêu quý, có lúc tôi nghĩ: Giá tôi chết thay để cha tôi có thể sống lại
được, tôi cũng dám. Nhưng sự sống và cái chết cho mỗi con người đâu có vậy được.
Tôi sẽ chép lại những con chữ của ông, có những trang bị nhòe mực, tôi phải lần
mò cả ngày trời mới luận ra được. Có những trang vở bị dính nước mất chữ. Có những
trang bị vệt nâu xám phủ mờ tôi ngờ là máu. Tôi cũng không còn nhớ đã bao đêm
ngồi đọc lại những dòng chữ của cha tôi, của mẹ tôi, nước mắt chảy giàn giụa.
Tôi ngồi khóc ròng như một đứa con nít vì thương và đau đớn. Tôi tự trách mình
những lúc cha mẹ tôi còn sống có những lần, tôi không phải với người.
Và tôi ngộ ra một điều. Cuộc
sống không bao giờ giống như sách vở, những điều giáo huấn. Sự thật chỉ có một,
nhưng trước con mắt suy xét của người đời với những tâm thế khác nhau lại được ẩn
khuất, lấp liếm, biến thái muôn mặt... Vậy đó.
2. Tập vở Cogido số 1.
Y nằm ở đây đã là ngày thứ mấy?
Không biết!
Ai là người đã băng bó cho
y? Không biết!
Chỉ thấy đầu, cánh tay y quấn
đầy băng. Toàn thân bị nẹp chặt bằng một thanh tre… Mà sao y lại có thể chui được
vào căn phòng này?
Hình như trời đổ mưa. Tiếng
mưa rơi lốp đốp trên mái tôn, trên những tàu lá ngoài vườn. Luồng ánh sáng từ một
cửa sổ qua khe hẹp chiếu vào, con mắt y quen dần với cảnh vật trong bóng tối. Từng
lúc y định co chân theo thói quen nhưng cái chân nặng như chì bị kẹp cứng trong
những thanh tre. À! Thì ra chân cũng bị thương. Chỉ có điều đầu óc y trống rỗng,
nhẹ bẫng. Y biết mình bị thương nhưng không cảm thấy đau đớn. Thân xác y hệt
như một thỏi chì, nặng trịch dán sát xuống tấm ván. Đầu óc tỉnh táo muốn chỉ
huy tay chân nhúc nhắc cũng không được. May mắn sao trí não của y không hề lú lẫn.
Vệt sáng bay trên đầu như chiếc máy chiếu phim quay chậm, đủ để y nhìn thấy những
hạt bụi nhỏ li ti treo lơ lửng trên cao. Y nhớ tất cả, biết cả. Y còn nghe rõ
tiếng con chuột kêu chin chít ở góc nhà sau bồ lúa cao cả thước. Nơi trú ẩn của
y là một kho chứa thóc. Những bồ thóc kê cao cả thước xếp ở góc nhà cùng với
quang thúng. Chỗ nằm của y giống như một cái ổ, lót rơm trải chiếu, phía dưới
là tấm sạp gỗ được ngụy trang sau một tấm liếp nhỏ vắt áo quần. Ngay cạnh chỗ y
nằm trên một băng ghế có để sẵn chai nước. Ở bên ngoài đâu đó vọng lên một tiếng
gà gáy eo óc. Rõ đây là nhà dân! Sao y lại nằm trong nhà dân? Làng nào đây? Khi
còn chỉ huy đơn vị, y từng nhiều lần đi cùng với cán bộ du kích các xã Hương Thạnh,
Hương Thái, Hương Toàn, Hương Mai… Mỗi chuyến về làng đều có nhiệm vụ rõ ràng.
Khi thì về đánh bọn bảo an, dân vệ. Nếu không gặp địch thì phát động quần chúng
nhân dân, vào làng mua gạo cơm. Cả đại đội 3 của y nhiều lần được O Đắng, O
Tâm, O Lành, O Cúc, chị Nguyệt, chị Chồn đưa về thôn Văn Xá, Liễu Thượng, Phú Ổ,
La Chữ, Bồn Trì, Bồn Phổ… mua gạo, mua đậu phộng cứu đói. Lính C3 sống được qua
những ngày đói là nhờ cơm gạo của người dân vùng giáp ranh. Trận đánh về Bầu
Tháp vừa qua mục tiêu của đại đội cũng là vào làng mua gạo, nếu không gặp địch.
Cả đại đội chỉ còn hơn bốn chục tay súng trụ bám giáp ranh đói queo, đói quắt cả
tháng trời, đánh địch càn lên dốc Tranh, bám địch ở căn cứ Chóp Nón và Hòn Vượn.
Đại đội 1 chủ công chốt ở Hương Mai cũng chỉ còn hơn 30 tay súng. Đại đội 4 đơn
vị hoả lực được tăng cường thêm một trung đội bộ binh của C2 giữ vững địa đạo
310, bên sông Bồ. Bộ đội của đại đội 2 gùi gạo trên Hang Đá. Huế đang vào mùa
mưa bão. Lũ sông Bồ, lũ ở Rào Trăng, Rào Lu đang lên to. Đường tắc, gạo ở đường
tuyến không về được. Sư đoàn kỵ binh bay số 1 của Mỹ đang càn mạnh ở Côcava, Động
Chuối, Rào Trăng, Dốc Chè, điểm cao 360, Khe Trái ra tới tận đường 12. Một cậu
lính trinh sát của thành phố bị địch phục kích bắt sống ở đường 12 khai ra hết
hậu cứ của bộ đội, du kích. Các địa điểm đóng quân của bộ đội, của huyện của
xã, địch đổ quân vào càn, đặt mìn giật sập hầm. Đêm đến trên các điểm cao Chóp
Nón, Hòn Vượn nã pháo vào hậu cứ. Con đường từ Hương Trà sang Hương Thuỷ về với
căn cứ của trung đoàn ở phía Nam sông Hai Nhánh bị lộ. Địch tung quân càn chặn
hết các ngả đường về với dân qua ngả Dốc Đu và Dốc Cát.
Y và tiểu đội lính trinh sát
đã phải mất một tuần mới xuyên thủng được con đường về đồng bằng qua ngả khe Đá
Liếp. Gần cả tháng trời cán bộ huyện xã, các đội biệt động có sự tăng viện của
bộ đội C3 đi theo con đường mới mở này về bám được vào dân. Chưa kịp mừng chỉ một,
hai đêm đã có điệp báo. Ở xã Hương Thạnh thêm anh Thẻo, anh Châu cán bộ xã hi
sinh khi lọt vào ấp chiến lược Xóm Mới. Trung đoàn bảo an số 52 của ngụy đóng
quân dày đặc trong các làng Văn Xá Thượng, An Đôn, Liễu Nam, Phú Ổ... Đánh địch
hay không đánh địch cũng giống như sự lựa chọn giữa chết hay sống. Đánh địch
bám được vào dân, vào làng là mua được gạo cơm. Là sống! Còn hèn nhát không dám
đánh địch, không bám được vào dân, cái đói treo trước mắt. Bài học sau tết Mậu
Thân 1968 còn đó. Bộ đội tiểu đoàn 439 khi rút lên rừng bị đói, bộ đội nằm chết
trên võng, giữa các vạt cây dọc đường giao liên trong lúc chạy càn, nhỡn tiền
ra đấy. Dù đầu óc y có giàu trí tưởng tượng đến mấy, những ngày trên đất Bắc y
sẽ không nghĩ có ngày phải ăn thứ rong chó mọc dưới khe đá. Nấu dọc khoai môn
ngứa ăn thay cháo. Hôm nào vớ được môn thục, môn vót, đọt chuốt ăn thay cơm đã
là may. Chả có thứ sách vở nào dạy y cả. Cũng không thấy mặt anh cán bộ đưa quân
vào Nam nào có ở đây để động viên và làm công tác tư tưởng. Giao quân xong, những
anh cán bộ đưa quân đã mau chóng ra đường tuyến về hậu phương cả rồi. Còn ở đây
trong vùng rừng núi Bắc Huế từ anh chính trị viên tiểu đoàn, đại đội cũng đói
và phải ăn cháo môn như lính. Những lon gạo cuối cùng trong đáy ba lô của thủ
trưởng cũng đã phải dốc ra cho vào nồi cháo chung của đơn vị. Mỗi người một hai
lưng chén cháo, rau môn là chính nhưng ít ra là còn có cái cầm hơi, qua cơn
đói. Người lính ở giáp ranh lúc này đã xác định chỉ còn một là sống hai là chết
với địch. Phải đột kích về làng. Được ăn cả, ngã về không.
Hai đêm liền bộ đội C3 và
cán bộ du kích xã Hương Thái lọt về được Phú Ổ, La Chữ. Bộ đội đánh thẳng vào
chợ, một trung đội nghĩa quân nghe động đã bỏ chạy. Đại thắng, bộ đội, du kích,
cán bộ vào được dân, mua được gạo cơm, mắm muối, lại còn mua được ít đường sữa,
thuốc lá. Gương mặt những người lính sau đêm đi đồng bằng có được chút chất
tươi, ăn no, phởn phơ hẳn lên.
Chuyến về Bầu Tháp đêm tháng
Tư trót lọt, êm ả. Bộ đội lại mua được gạo.
Chuyến đi Bầu Tháp tháng Năm
đại đội 3 chạm trán với đại đội bảo an số 23 ngay trên đường quốc lộ. Phát hiện
ra khẩu đại liên của tụi Nguỵ bắn như xé vải ở một ngôi nhà đầu ấp. Y đã giật lấy
khẩu B40 của cậu Hoà đang bị thương và nã thẳng vào tổ hoả lực của Nguỵ. Tiếng
đạn B40 nổ chưa dứt đã thấy một quầng lửa trùm phủ lên ngôi nhà tôn và một tiếng
nổ dữ dội ngay bên cạnh. Y không còn biết gì nữa.
Và bây giờ, y nằm đây, bất động.
3. Lờ mờ một gương mặt không rõ
đường nét. Chỉ thấy cái đầu với mái tóc có nhiều sợi bạc. Người ấy ghé xuống gần
mặt y. Dòng nước mát thấm vào cổ họng tới đâu, y tỉnh ra tới đó. Giá như có cả
nước của con sông Hồng, y cũng uống hết… Nước! Nước… Đôi môi y mấp máy. Phải một
lúc lâu sau, y hỏi đứt quãng.
- Ông là ai?
Người ấy hỏi lại y.
- Chú là bộ đội giải phóng
phải không?
Có thể người ấy hỏi cho có
chuyện, chứ nhìn cách ăn mặc của y là người ta thấy ngay y là người của phía
bên kia.
Người đàn ông nói tiếp.
- Chú bị thương chui vào ruộng
mía nhà tôi. Chả biết chú là người tốt hay kẻ xấu nhưng thấy chú sắp chết, tôi
thương. Vết thương của chú nặng hung. Không rõ có qua khỏi không?
- Cảm ơn bác! Tôi là bộ đội
giải phóng về đánh trận Bầu Tháp…
- Tôi biết rồi! Chú đừng nói
nhiều, mệt. Tôi dặn nghe, ráng nằm đây, có đau cũng đừng la hét. Người đi làm đồng
quanh đây nghe động họ báo cho dân vệ ra bắt thì khổ. Họ mà bắt được chú, giải
lên quận, chú chả sống nổi mô.
- Dạ! Cảm ơn bác! - Y chỉ biết
nói vậy và giương đôi mắt mệt mỏi nhìn người đàn ông xa lạ.
Người đàn ông nói thêm:
- Trời có đổ mưa thì lấy tấm
ni-lon trùm lên cho đỡ lạnh. Chỗ này cao, nước không lên tới mô.
- Bác là ai?
- Là người! - Một nụ cười
không thành tiếng đọng lại trên gương mặt cháy nắng của người đàn ông cao tuổi.
Tấm áo màu đen đã bã màu, chiếc khăn quấn quanh cổ. Ông đặt xuống cạnh y một
chai nước và dặn. - Đây là chai nước cháo, đói thì nhấp cho mát dạ. Ngày mai
trong làng ngó êm, tôi lại ra.
Đêm ấy trời không mưa. Gió
Nam thổi lùa qua ruộng mía mọc cao lút đầu người. Đám lá mía sắc nhọn khua loạt
xoạt. Một giàn sao giăng dày giữa khoảng trống của hai luống mía.
Y tỉnh. Tỉnh mới cảm thấy sự
cô đơn, trống trải, xen chút hoảng loạn khi hiểu ra tình thế bất khả kháng của
chính mình. Càng sợ hơn khi biết chắc y không còn súng. Cái xanh-tuya-rông luôn
có hai băng đạn AK, gói bông băng và tấm áo ni lông cũng biến đâu mất. Nguy hiểm
hơn y lọt thỏm giữa vòng vây của địch. Ngày thứ mấy y nằm kẹt ở ruộng mía này?
Không biết.
Lâu lâu tụi nghĩa quân, bảo
an đóng quân ở các làng lại bắn lên trời vài loạt đạn. Có những viên đạn lửa đỏ
lừ bay vút qua khoảng sáng trên đầu. Còn cái người đàn ông quái dị này là ai mà
lại dám bao bọc y, cho y uống nước, húp nước cháo? Những vòng băng trắng nẹp
chân y và quấn quanh trên ngực nếu không phải ông ta làm thì còn ai vào đây?
Ông ta hẳn phải là người tốt, có cảm tình với cách mạng mới dám cưu mang một Việt
cộng đã chín phần chết chỉ còn một phần sống. Chỉ cần ông ta báo cho lính lập tức
y sẽ bị tóm ngay. Chưa biết chừng còn được lĩnh thưởng.
Nhưng người đàn ông kỳ dị lần
đầu tiên y gặp trên đời đã không làm vậy, đã không hành xử như những người dân
bình thường sống trong vùng địch khi rơi vào cảnh huống tóm được một cộng quân.
Giá sử chuyện ấy có xẩy ra y cũng không có quyền trách cứ họ. Và biết đâu trong
đầu người dân bình thường ấy lại nghĩ rằng, họ đang dang tay làm phúc cứu người.
Trong con mắt của người dân ấy, y chỉ là một tên tù binh đã mất sức chiến đấu,
không thể kháng cự nổi lính của ông Thiệu. Họ đang mở lòng Bồ Tát để cứu độ kẻ
bị thương sắp chết? Y sẽ ra sao nhỉ? Gặp những tên lính nguỵ chưa biết chừng y
sẽ lãnh trọn một viên AR15. May mắn hơn y sẽ được bắt làm tù binh và nếu còn sống
sẽ bị đưa đi Phú Quốc…
Người đàn ông kỳ dị mà y
chưa kịp nhớ mặt, biết tên đã không làm vậy. Để cho y được tự do và yên ổn giữa
cánh đồng mía lạnh lẽo này.
4. “Tôi tên Đến, thứ sáu. Bà
con trong ấp gọi tôi là Sáu Đến. Chú ở tạm ngoài này. Ở trong nhà không tiện,
người ra vô dễ lộ. Hàng ngày tôi lo cơm cháo cho chú… Khi nào chú liền các vết
thương tôi sẽ tìm cách móc nối đưa chú lên xanh. Nếu có đau ráng đừng kêu nghe
chú”.
Nằm trên tấm đệm trải manh
chiếu, y lặng lẽ quan sât người đàn ông mang tên Sáu Đến. Ánh nắng xuyên qua một
lỗ thủng trên vách, đủ để y nhận biết ông Sáu không còn trẻ nữa. Y cũng không
tiện hỏi bằng cách nào ông Sáu đưa được y từ ngoài cánh đồng mía vào nhà, qua mặt
được dân làng và tụi tề ngụy trong ấp. Hẳn phải có người trợ giúp? Họ phải là
người trời xuống giúp y thoát khỏi kiếp nạn này…
Ông Sáu Đến là người ít nói.
Vào lúc đêm khuya, ông mới lẻn vào nơi trú ẩn của y mang cháo, mang cơm, sữa và
một phích nước nóng. Bộ kim tiêm đã được ông Sáu khử trùng sẵn, tiêm cho y những
mũi thuốc kháng sinh và thay băng cho y. Sự giao cảm của y với ông Sáu chỉ qua
ánh mắt và những cái gật, cái lắc đầu. Bộ quần áo bộ đội giải phóng của y cũng
đã được ông Sáu cởi ra và mặc cho y bộ bà ba đen, đã bạc màu. Bộ quần áo rộng
thùng thình, hẳn là của ông Sáu.
Y đã có thể nhúc nhắc được
tay chân. Nẹp đã được tháo ra. Khi cần tiểu tiện, đại tiện y đã có thể lết nhẹ
vào góc nhà đã để sẵn ở đấy cái bô có nắp đậy. Y biết chắc điều này. Gia đình
ông Sáu không hẳn chỉ có một mình ông. Thỉnh thoảng, y vẫn nghe tiếng ông Sáu gọi
“Xíu ơi! Vô giúp ông…”, “Xíu, sang nhà chú Hai mượn cho ông cái cưa…”. Cái người
tên Xíu ấy, hẳn là cháu ông. Nghe giọng nó đáp lại ông già, như giọng con nít.
Nơi y được ông Sáu giấu là
căn nhà ọp ẹp, tựa như nhà kho, nhà chứa tro. Bên trong ngôi nhà chỗ để cuốc xẻng,chỗ
ngăn ra chứa tro trấu ngổn ngang thúng mủng. Từ gian nhà lớn xuống đây còn phải
qua một gian nhà ngang, dùng làm bếp. Nhà ông Sáu ở ngay gần giữa xóm, phía đầu
cổng vào băng qua con đường kiệt xuyên dọc làng, phía bên kia đã là khuôn viên
nhà thờ làng Dương. Quãng 4 giờ sáng, y đã thức giấc và dỏng tai chờ đợi tiếng
chuông nhà thờ ngân vang. Lúc ấy cũng không còn nghe thấy tiếng súng của đám
lính dân vệ nữa. Thức gác cả đêm, chúng đã mệt. Vả chăng, vào tầm ấy, bộ đội,
du kích cũng chẳng còn ai ở lại làng. Đã thành quy luật. Bộ đội giải phóng về hỗ
trợ cho du kích địa phương đánh địch. Các đội công tác đi diệt ác trừ gian. Cán
bộ trên rừng về vận động quần chúng nhân dân thu mua gạo cơm thực phẩm, quãng nửa
đêm “cha con” đã phải đạp đường lên xanh. Từ các làng ven đường quốc lộ, vùng
ven đô Huế đi bộ có giỏi cũng phải mất ba tiếng mới lên tới vùng giáp ranh, đồi
trọc. Ấy là đường thông không có địch phục kích. Từ dốc Ồ Ồ, Miếu Trâu, Khe Đất
Đỏ “cha con” ngồi nghỉ ăn vắt cơm qua đêm đã nguội ngắt nguội ngơ, chờ trời
sáng. Bốn giờ, sương chưa tan còn đọng từng giọt trên những lá cỏ tranh sắc nhọn.
Con đường mòn vượt qua dốc Đu, hoặc dốc Cát chỗ cao chỗ thấp, lởm chởm đá, có
lúc lọt giữa lòng khe. Chưa rõ mặt nhau, người nọ bám người kia, lưng đeo gùi,
tay cầm súng đi vào rừng.
Bởi vậy, vào lúc 4 giờ sáng ở
làng Dương, ngay sát nơi y trú ẩn, âm thanh vang vọng nhất là tiếng chuông nhà
thờ. Chỉ ít phút sau, trên con đường kiệt qua làng y đã nghe tiếng dép loẹt quẹt
của các bà, các cô ra nhà thờ nghe buổi kinh sáng. Những lúc ấy, nghe tiếng
chuông nhà thờ, tiếng người lao xao ngoài đường, lòng y quặn thắt. Chỉ muốn
khóc. Tưởng như tiếng chuông nhà thờ ở làng Vàng, cách làng Lôi của y chỉ một
con ngòi và một rẻo ruộng nhỏ… Dân làng Lôi không theo công giáo. Người làng
Lôi chỉ tin trời Phật và thành hoàng làng. Trong khi ở làng Vàng, dân theo đạo
cả làng. Dân các làng thờ Chúa, thờ Phật khác nhau, nhưng không bao giờ có điều
qua tiếng lại. Ngày chống Pháp, dân công giáo làng Vàng, dân làng Lôi còn ở
chung một đội du kích của xã… Ở nhà y vào tầm ấy mẹ y dậy đã lâu. Bà vơ mấy
cành rào tre, đến mùa gặt có khi dùng rơm rạ nấu ấm nước chè, luộc nồi khoai,
trong lúc thầy y lọc sọc thử điếu. Y nằm co ro trên chiếc sập gỗ, đắp chiếu để
ngửi cái mùi khói thuốc lào loang ra cả căn nhà đất.
Y không biết hút thuốc lào,
thậm chí còn sợ cả mùi thuốc lào phả ra của thầy y trong căn nhà đất chật hẹp.
Vậy mà giờ đây, giữa một nơi xa lạ và đầy chết chóc này, y nhớ quay quắt mùi
thuốc lào và hình bóng của thầy y in trên bức tường đất ngồi thu lu hai chân
trong chiếc ghế, nghiêng đầu cầm chiếc điếu cày.
Có một đêm y hỏi Sáu Đến:
- “Sợ thì tôi đã không làm.
Nhìn các chú bị thương, như con cháu trong nhà, tôi thương”. - Ông Sáu Đến nhìn
y một hồi như thể thăm dò, lúc sau bảo - “Đồng bào không phải ai cũng là người
của ông Thiệu”.
Lần khác, ông Sáu Đến lại bảo
y:
- “Chú có biết tôi đưa chú
vô đây núp là răng không? Cả ấp tôi là người theo đạo công giáo. Chính quyền ít
để ý. Tôi có thằng cháu gọi tôi bặng cậu làm việc ở Nha Trang. Họ cũng nể tui”.
mà chú lại theo cách
mạng…?”.
hỏi. Ông Sáu nhìn y, chỉ
cười và không trả lời. Lúc sau ông bảo y:
- “Vợ tôi mất sớm. Tôi chỉ
có một đứa con gái. Nó đang học ở Huế. Nó sống vời bà dì ruột ở đấy, ít khi về
đây. Trong nhà sống với tôi chỉ có một đứa cháu gọi tôi bằng ông. Cha mẹ nó chết
cả, quê ở trên Bồn Trì… Tội nghiệp, tôi mang về nuôi”.
Y nghe chỉ biết vậy. Và hiểu
rằng, đằng sau những câu chuyện lắt léo là cả một mớ bòng bong chỉ ông Sáu mới giải
đáp nổi. Y chỉ mong sao cho vết thương mau lành và xin với ông Sáu Đến cho phép
tìm đường lên xanh.
5. Có một lần y buột miệng hỏi
ông Sáu Đến:
- “Chú Sáu này! Ở quốc lộ I,
chú biết quán mụ Tr. không?”.
Ông Sáu Đến nhìn y, vẻ ngạc
nhiên:
- “Sao chú biết quán mụ Tr.
?”.
- “Ngày còn ở đơn vị, cháu một
vài lần đi cùng đội biệt động về ấp Liễu Thượng, Phú Ổ, chị Tâm đưa cháu vô
quán mua hàng…”.
- “À, ra vậy!”. - Ông Sáu
ngó lơ nhìn ra phía cửa không nói thêm gì nữa.
Lúc ông Sáu Đến rời khỏi chỗ
y đang nằm, chỉ nói mỗi câu:
- “Để coi thử…”.
Khi nói với ông Sáu Đến địa
chỉ quán mụ Tr. y đã đánh một ván cờ liều. Con đường lên núi tìm về đơn vị của
y giờ chỉ còn trông cậy vào ông Sáu Đến mà y biết chắc ông là một cơ sở của
cách mạng ở vùng ven sông Bồ. Từ ấp làng Dương tới đường lộ không xa, quãng bốn
cây số nhưng phải vượt qua nhiều chốt chặn của địch ở Chi khu Hương Trà. Phải
qua nhiều ấp. Chỗ nào cũng có các đơn vị nghĩa quân, dân vệ, bảo an chốt giữ. Nếu
không móc nối được với lực lượng cách mạng ở trên núi, y có rời khỏi làng Dương
cũng khó thoát.
Một vài lần y theo chị Tâm -
một chỉ huy xuất sắc của đội trinh sát thành phố về bám dân. Chị Tâm đã đưa y
và cánh trinh sát của tiểu đoàn cùng với ông Bậu, ông Duy vào địa chỉ này. Y
không được trực tiếp gặp mụ Tr. Câu chuyện trao đổi giữa “bà mẹ V.C” nằm vùng
này chủ yếu diễn ra giữa bà ta với chị Tâm, ông Bậu. Vào những lúc đó, y phải
phân công mấy cậu trinh sát tiểu đoàn lo chốt gác trên con đường sắt và quan
sát con đường quốc lộ I chạy băng qua trước cửa nhà. Chỉ đến khi xong việc, chị
Tâm mới ra ngoài gọi bộ đội vào quán gùi gạo, thực phẩm. Quán mẹ Tr. là quán
bán hàng tạp hóa. Quán ở gần căn cứ quân sự của địch. Ban ngày quán bán hàng
cho lính và dân quanh vùng. Hàng hóa có đủ cả. Gạo, mì chay ông Phật, cá hộp,
thịt hộp, đường sữa, thuốc lá Ru bi, Bát tô, Kem bót… thứ gì cũng có. Mỗi lần lọt
được về quán, bộ đội, cán bộ huyện xã, du kích được bữa cải thiện sung sướng,
thỏa thuê.
Một lần vào quán gùi gạo, y
đã có dịp nhìn thấy mụ Tr. Đó là một người đàn bà đã ngoài sáu mươi tuổi, đẹp
lão. Nghe chị Tâm bảo, mụ Tr. có con trai là sĩ quan Ngụy, làm to ở Sài Gòn. Nhờ
cái thế ấy, nên mụ Tr. thỏa sức buôn bán với đám lính. Các thứ hàng nhu yếu phẩm
cung cấp cho lính ngụy từ căn cứ tuồn ra bán rẻ cho mụ Tr. kiếm lời. Chỉ có điều
ít ai ngờ, người đàn bà trông hiền lành phúc hậu như vậy lại là cơ sở mật của
thành phố. Nhưng từ khi hiểu được những người như ông Sáu Đến, hết lòng cứu chữa
y, y biết rằng phong trào cách mạng ở vùng sâu chưa ‘chết”, chưa bị phá nát hết
cả sau những đợt quân ngụy cầy phá vùng đồng bằng sau Mậu Thân 1968. Đã có lúc
y và nhiều người tưởng phong trào không vực dậy nổi.
Những ngày sau đợt hai tấn
công về Huế của bộ đội quân giải phóng phối hợp với lực lượng chính trị của tỉnh,
của huyện, không khí chiến trường thật ảm đạm. Các lực lượng quân Mỹ, quân Ngụy
đã chủ động đối phó với cuộc tấn công này, đặc biệt là thành phố và vùng đồng bằng
trọng điểm. Các sư đoàn chủ lực của Mỹ, Ngụy tăng cường càn quét vùng đồng bằng
Phong Quảng, Hương Trà, Hương Thủy, Phú Lộc, Phú Vang. Nhiều đơn vị thiện chiến
của Mỹ như Sư đoàn kỵ binh bay số 1, Sư đoàn 1 bộ binh Ngụy có trực thăng, pháo
binh Mỹ yểm trợ, đổ quân càn lên miền Tây, chiếm các điểm cao, thọc ra cả đường
tuyến A So, A Lưới. Các đại đội thám báo lần mò tìm phá các kho lương, kho quân
trang, quân dụng, vũ khí của bộ đội.
Cả một vùng giáp ranh ven Huế,
dọc theo các triền sông Hương, sông Bồ, thượng nguồn Sông Hai Nhánh, Khe Trái,
Khe Dứa đi đâu cũng gặp các bãi ngụy và dấu giầy răng chó của thám báo Mỹ, ngụy
dẫm nát các con đường mòn giao liên, các bãi bến sông nơi bộ đội tập kết. Những
trận phục kích, tao ngộ chiến xảy ra thường xuyên liên tục ở các trọng điểm Dốc
Đu, Ngã ba Hương Trà, Khu nhà Chín hầm, Dốc Cát, Đất Đỏ, Một Mái, Dốc Đoác. Nhiều
lần các toán biệt kích, thám báo đưa quân tập kích vào các căn cứ của huyện, xã
và bộ đội KX đứng chân ở Đồi Tranh, Khe Đá Liếp và dưới chân Động Ngang. Địa đạo
310 nằm sát sông Bồ vốn là căn cứ tiền phương của Bộ chỉ huy chiến dịch khi tấn
công về Huế được các đơn vị công binh của quân khu Trị - Thiên đào hàng tháng
trời, chắc chắn và kiên cố. Địa đạo có ba cửa, hầm hào đào xuyên núi cả trăm
thước. Những căn hầm chữ A, hầm chỉ huy, phòng họp… rộng, chìm sâu dưới lòng đất.
Bom B52, B57 ném trơ trụi cây rừng trên các mỏm đồi, hầm hào vẫn trụ vững. Thám
báo Mỹ đặt mìn cũng chỉ phá sập được vài đoạn hào.
Chính tại những căn cứ này,
nhiều lần y và bộ đội của đại đội 3, đại đội 4, lính trinh sát của tiểu đoàn đã
phải căng sức ra đánh địch. Vùng đất ven sông Bồ và giải giáp ranh Hương Trà,
Phong Quảng là nơi trung đoàn, quân khu giao cho KX, KV1 phải giữ. Mất vùng đất
hiểm địa này là “cha con” bật bãi lên miền Tây…
Thê thảm và khốc liệt nhất vẫn
là vùng đất giải phóng và các các cơ sở cách mạng ở vùng sâu, vùng đồng bằng
ven đô Huế. Niềm vui chiến thắng khi cắm được lá cờ nửa đỏ, nửa xanh trên đỉnh
Ngọ Môn. Bộ đội, cán bộ, du kích địa phương của tỉnh, của huyện, xã tràn ngập
thành phố và các làng quê sau những ngày Xuân chiến thắng. Tưởng giải phóng đến
nơi. Thống nhất đến nơi! Phen này ắt đón Bác Hồ vào thăm miền Nam. Niềm vui
chưa tan, quân Mỹ, quân Ngụy sau những bất ngờ ban đầu, tỉnh đòn phản kích. Các
cơ sở mật xây dựng bao năm bị lộ bởi bọn tề điệp chỉ điểm. Chính quyền Thiệu
giáng đòn thù vào các gia đình cách mạng. Lính quận, cảnh sát về ruồng bố, vây
ráp suốt đêm ngày. Cơ sở cách mạng nhiều vùng mất trắng. Đồng bằng không thể đứng
chân. Người thoát lên rừng, kẻ chạy vô Đà Nẵng, Sài Gòn lánh giặc. Một số người
bị điệp báo. Địch bắt bớ tra khảo, đưa ra đảo tù đày.
Cả tiểu đoàn X. của y sau
ngày rút lên rừng chỉ còn lại chưa tới 200 tay súng. Thêm một số sốt rét, bị
thương không đủ sức chiến đấu phải đi viện. Những trận đói dài ngày và những trận
phục kích lẻ trên đường mất thêm một số. Phải cơ cực lắm, dày công những người
cán bộ, biệt động bám trụ của Tỉnh ủy, Thành ủy Huế, của huyện mới móc nối, gây
dựng lại được những cơ sở mật như ở quán mụ Tr. và Sáu Đến. Y biết những cơ sở
cách mạng kiên trinh ấy còn có cả ở các ấp như Xóm mới Văn Xá Trung, Văn Xá
Làng, Phú Ổ, La Chữ, Bồn Trì, Bồn Phổ, Kim Long. Nhờ những cở sở cách mạng như
thế này, suốt năm “69” bộ đội của ông Bậu, của huyện, xã mới đứng vững, giữ được
vùng giáp ranh Bắc Huế…
Từ trong sâu thẳm, y luôn
kính phục những người như ông Sáu Đến và mụ Tr. Y hiểu một điều rằng, dù cách mạng
có lúc thoái trào, dù cuộc chiến đấu có lúc rơi vào bi kịch, thất thiệt nhưng
lòng dân vẫn còn tin vào ngày chiến thắng. Không phải ai cũng khiếp sợ, chạy
dài…
Vào những lúc đêm khuya
thanh vắng, trốn trong góc nhà chật hẹp, hôi hám của ông Sáu Đến, y luôn cảm ơn
số phận sao run rủi y lại được gặp ông. Chỉ có trời Phật phù hộ cho y, còn theo
ông Sáu, chỉ có Chúa mới biết được điều hy hữu này. Y cũng không giải thích nổi,
không nhớ nổi sau lúc bị trái mìn Claymo hất tung, bị thương, y lại có thể tự
mình lết đi trên đồng rồi nằm lại nơi ruộng mía. Lại là ruộng mía, ruộng nưa của
nhà Sáu Đến? Được ông Sáu cưu mang và cứu chữa vết thương.
Có một đêm, nghe động tĩnh
xung quanh và thấy xóm làng yên lặng, y đã rời nơi ẩn nấp bò ra ngoài quan sát
xung quanh. Căn nhà Sáu Đến nằm lọt thỏm giữa một vườn cây. Bao bọc quanh nhà
là rặng tre gai ken dày. Từ cổng vào là hàng chè gai cắt tỉa gọn. Núp kín sau
chân đống rơm, y quan sát ngôi nhà bốn gian, hai chái, cửa gỗ rộng rinh. Bậc thềm
hè cao, khoảng sân rộng trước nhà láng xi măng… Tiện nhất là khoảng vườn phía
sau, có nhiều vạt dứa dại sát với bờ tre gai… Một đầm nước rộng mênh mông, lau
sậy mọc đầy ven đầm. Tiếp sau nữa là bãi mồ mả của làng Dương. Lợi dụng những vạt
cây dứa dại, bờn bờn, y đã đi trinh sát địa hình, đồng thời tính toán những
phương án khi có động rút ra ngoài… Khi kẹt y có thể thoát ra ngoài bờ đầm. Từ
bãi mồ mả, y chỉ cần đi theo một con đường nhỏ, dài chưa tới trăm mét đã tới
sông Bồ… Về đêm, mặt sông đen thẫm, phẳng lặng, im ắng như một dòng sông chết.
Không thấy bóng dáng một con đò. Dọc theo bờ sông là dãy tre gai chạy dài, tối
tăm. Phía bên kia sông đã là đất Phong Điền, Quảng Điền… Cũng lặng im. Chả rõ một
căn cứ nào đó của địch bắn lên trời mấy quả pháo sáng. Chùm ánh sáng ma quái
tung ra giữa bầu trời đêm chấp chới ẩn hiện sau bờ tre không đủ soi rõ cảnh vật
xung quanh, chỉ một lát là tắt… Sông Bồ phía thượng nguồn hiểm trở và hung dữ
bao nhiêu, lắm ghềnh nhiều thác. Về đến đây dòng sông rộng mở trở nên hiền hòa,
cam chịu.
Có cảm giác rất rõ ông Sáu Đến
hiểu tâm trạng buồn chán, u uẩn của y. Cả sự nóng ruột nữa. Một đêm quãng ba giờ
sáng. Ông Sáu trở dậy lặng lẽ như một cái bóng đi vào nơi y ẩn nấp. Sợ y giật
mình hoảng sợ, ông Sáu khẽ hắng giọng:
- Sáu đây… Đừng sợ!
Y nào có ngủ. Nằm cả ngày
lưng cẳng đau ê ẩm. Lúc nào mỏi quá, y mới ngồi dậy vươn vai. Mái nhà thấp, y đứng
thẳng dậy, đầu sẽ chạm mái tranh và vào thúng mủng… Sợ động.
Ông Sáu Đến bò lom khom ngồi
ghé vào mép nệm. Ông lấy tay che chiếc bật lửa Zipô, mồi vào điếu thuốc rê.
Khói thuốc nghẹt thở nhưng xua đi cái không khí lạnh lẽo, trống vắng. Y cần hơi
người, tiếng người để tự nhủ với mình rằng, y đang tồn tại.
- Tôi biết chú buồn, lo lắng.
Ở đây được ít bữa, yên ắng như ri vậy là tốt hung rồi. Lạy Chúa lòng lành!
Thương cho chúng con. Sợ nói với chú điều này e cũng bằng thừa… nhưng tôi phải
nói.
- Chú Sáu định nói chuyện
chi? - Y ngập ngừng hỏi.
- Đã là một người lính, dù
trong hoàn cảnh nào cũng phải biết tự mình đứng dậy…
- Cảm ơn chú Sáu! - Y đáp nhỏ,
giọng lắp bắp và tự cảm thấy xấu hổ với chính mình, tưởng như cái ông già trông
quê mùa, hiền lành đọc được cả ý nghĩ trong đầu y.
Đã thành lệ, cứ hơn bốn giờ
sáng, ông Sáu Đến đã ăn mặc chỉnh tề đi ra nhà thờ… Có bận y còn nghe rõ giọng
ông Sáu nói chuyện với ai đó cũng đi lễ sớm ở ngoài phía bờ rào gai…
6. Y đã hú hồn khi nhìn thấy
đưa bé gái đẩy nhẹ tấm liếp bước vào. Thoạt nhìn thấy y ngồi thu lu trong góc
nhà tăm tối, con bé cũng sợ. Nó lóng ngóng để rơi cả cái nắp cà mèn xuống đất.
- Chú… giải phóng! - Con bé
lắp bắp nói.
- Cháu là ai?
- Cháu tên Xí, cháu ông Sáu.
Ông Sáu sáng nay vô Huế thăm cô Hai… Chiều ông cháu mới về. Cháu sợ chú đói nên
mang cháo vô cho chú ăn…
- Sao cháu biết chú trốn ở
đây? - Y hỏi nhỏ - Còn ai biết nữa không?
- Dạ không! Chỉ ông Sáu và
cháu biết… Ông Sáu dặn cháu kín miệng. Mấy ổng ở ấp, ở quận biết được kêu lính
tới vô bắt chú. Họ còn đốt nhà, đập cả hai ông cháu… Cháu không muốn chết,
không muốn họ bắt đi ở tù.
- Cảm ơn cháu… Cháu ngồi xuống
đây, đừng sợ.
- Cháu gặp các chú rồi…!
- Con Xíu nói giọng líu ríu.
- Dạo Mậu Thân, các chú bộ đội
về ở trong nhà cháu. Mạ cháu và ngoại còn nấu cơm cho các chú ăn…
Trời tối nhập nhoạng, ông
Sáu Đến mới về đến nhà. Y nghe ông Sáu nói với con Xíu chuyện gì đó. Một người
bà con trong họ đạo làng Dương còn sang bàn bạc với ông Sáu chuyện cầy bừa, cấy
lúa...
Y nhẩm tính từ ngày rời làng
Lôi vào chiến trường vừa tròn 6 năm. Có bao biến động trong cuộc đời y. Từ một
thằng binh nhì, qua mấy mùa chiến dịch, y trở thành một anh C phó. Ngu ngơ lần
đầu về đồng bằng Phong Quảng, Phú Vang nhìn những mái nhà lợp tôn Mỹ sáng loáng
trong các ấp chiến lược, y không biết đấy là trại lính hay nhà dân. Bò vào sát
vách nhà, nhìn những cô gái mặc bộ đồ hoa đi lại, y tự bật cười với chính mình.
“Con gái trong này ăn mặc hay nhỉ”. Con gái quê y đâu có ăn mặc vậy. Quần đen,
áo hoa xanh, áo màu cỏ úa để tránh cho lũ phi công Mỹ phát hiện ném bom xuống
làng. Dạo ấy, lệnh trên bảo, bất kể cái gì là màu trắng phải tránh hết. Phi
công Mỹ nhìn thấy tưởng là ám hiệu. Bom ném xuống chết cả làng. Y bò vào nhà
dân, càng kinh ngạc hơn nhìn bầy heo “Yooc-sai” trắng nhởn đứng cả một hàng
trong chuồng sục mồm vào cái máng ăn cháo sữa Mỹ. Có cậu lính nhìn bầy heo oàm
oạp húp thức ăn, buột miệng chửi:
- Tiên sư cái thằng Mỹ!
Chúng nó giàu thật… Đến nuôi heo cũng bằng sữa.
Bữa vào Huế đánh giặc giữa
những ngày xuân. Bị tấn công bất ngờ, giặc chạy tóe loe. Dân mừng thấy bộ đội về,
e phen này giải phóng, thống nhất đến nơi. Các đồ bánh trái, gà heo dành cho ba
ngày tết. dân mang ra khao bộ đội. Trung đội của y vào một nhà có vẻ là công chức
thành phố. Ông chủ mới ngoài 40 tuổi, đi dạy học, tự khoe là “giáo sư đệ nhị cấp”,
cô vợ bán hàng tạp hóa kiêm chủ lò mì ngay dưới chân cầu Tràng Tiền. Vợ chồng
trẻ vậy mà có tới sáu đứa con. Chúng đứng sắp lớp, khoanh tay cúi đầu lễ phép
chào. “Cháu chào chú giải phóng ạ…”. Y và mấy anh bộ đội ở trong nhà lấy làm
mãn nguyện lắm. Gia chủ mời cả toán bộ đội 6 người một bữa cơm thịnh soạn vào
chiều mồng ba tết. Những anh bộ đội từ ngoài miền Bắc vào lần đầu thỏa mắt xem
chiêc tivi, vào trong nhà vệ sinh nhìn ngó cái lavabo một lúc mới hiểu cần đi
tiểu vào đâu. Cái chậu bàn để rửa tay chứ không phải là cái chậu để rửa rau… Ở
cái làng Lôi của y, người nông dân nghèo chưa một ai được nhìn thấy những thứ đồ
vật sang trọng như vậy cả.
Muốn xem phim ư? Một vài
tháng đội chiếu phim lưu động của tỉnh của huyện về chiếu cho dân trong xã một
hai buổi. Những ngày có phìm về chiếu ở sân kho hợp tác xã hay bãi cỏ trước cửa
đình, đấy là ngày hội của cả năm làng ven bờ sông Cọi. Từ lúc hai giờ chiều,
chiếc xe commăngca quen thuộc của phòng văn hóa huyện đổ quân, đổ máy chiếu
phim, phông bạt xuống bãi cỏ trước cửa đình. Cả làng đã nháo như có hội. Lợn hợp
tác kêu eng éc. Ba bốn trai làng khỏe mạnh cởi trần xuống ao hợp tác xã hò hét
nhau lùa cá. Người lớn đang làm các công việc đồng áng cũng mau mau chóng chóng
cày bừa, cuốc cỏ, kéo những gàu nước cuối cùng vào ruộng còn kịp về cơm nước để
tối đi xem phim.
Đám con nít như y là sướng
nhất. Những ngày làng có phim, chả đứa nào chịu học hành gì cả. Thâm chí cả lũ
rủ nhau trốn học từ lúc ba giờ chiều, kéo ra bãi cỏ chơi đùa, đá bóng, đuổi bắt,
chơi khăng, đánh cù… Đám con gái phải bế em cũng rủ nhau ra bãi chiếu phim. Tay
bế em, tay mải đi “ô ăn quan” nhưng mắt trẻ ngong ngóng dõi theo mấy anh trong
đội chiếu phim làm việc. Chúng chỉ chờ hai cây sào dài dựng lên, tấm phông trắng
căng ra, tiếng loa phóng thanh ọ ẹ dạo nhạc… là chúng quên hết. Quên cả cãi vã,
đánh chửi nhau vì chuyên ăn thua trái bóng… Đây mới là niềm hành phúc thật sự
mà mỗi đứa trẻ, trong đó có cả y, mong ngóng cả tháng trời. Tháng trước mới chiếu
phim Chị Tư Hậu, tháng trước nữa là Con chim vành khuyên… Bữa nay nghe đâu bảo
là chiếu phim Liên Xô, về cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại. Ông Bộc cắt tóc thì
cãi lấy cãi để với mấy ông còn đang ngả cày, ngả bừa xuống gốc cây đa đầu làng
tranh thủ làm bát nước chè xanh, rít điếu thuốc lào, áo quần các ông thợ cày
còn dính lem bùn đất.
- Dứt khoát tối nay chiếu
phim Nổi gió, có tay trung úy Phương đẹp trai... Tôi cược với các ông!
Mấy ông thợ cày và ông Bộc
cãi nhau như mổ bò. Chỉ có con bò và con trâu vênh sừng mới được thả lỏng sau một
ngày lội ruộng là bình thản cạp hàm vào lớp cỏ cụt ngủn bên mép con ngòi. Trên
mình những con trâu, con bò cũng lấm lem bùn đất như chủ của nó. Ôi, hạnh phúc
nào bằng tuổi thơ dù chỉ có củ khoai, củ sắn, hái trộm trái ổi xanh và những
đêm chui rào vào xem phim ở sân đình…
Tới khuya, ông Sáu Đến vào
chỗ y đang trốn. Kéo tấm liếp cửa, ông còn đứng lại một lát, nửa như nghe ngóng
động tĩnh, nửa quan sát phía bên ngoài. Ông Sáu nói nhỏ với y.
- Tôi tìm được người đưa chú
đi rồi. Tối 23 ta đi nghe chú!
Y nghẹn lời:
- Thật cảm ơn chú Sáu!
- Ơn huệ chi chú. Tôi cũng
làm việc vì cách mạng mà. Chỉ có điều gặp ai chú cũng không được nói ra tên
tôi… Chuyện này chỉ có mụ Tr. và chú Sáu Thọ H. biết. Huyện sẽ cho người về đón
chú. Ráng giữ qua vài ngày nữa cho êm rồi đi. Tôi để lại cho chú vỉ thuốc bổ,
ngày chú uống bốn viên… Còn đây là thuốc kháng sinh…
Ông Sáu lên nhà tắt đèn đi
ngủ đã lâu. Y vẫn còn trằn trọc…
Một, hai, ba ngày… Ba ngày nữa,
y sẽ trở lại rừng. Y sẽ lại được gặp mặt ông Bậu, ông Duy, ông Ngạn và những
người đồng đội. Chả biết họ nghĩ gì khi y đột ngột trở về. Và cả chị Tâm nữa. Hẳn
chị sẽ vui xiết bao khi thấy y còn sống trở về.
Y tin rằng, cả đại đội 3, cả
tiểu đoàn đều nghĩ y đã chết!
7. Tôi thực sự không hiểu chuyện
gì đã xảy ra với cha tôi sau cái đêm 23 tháng Bảy năm 1970. Những dòng chữ của
cha tôi dừng lại ở trang thứ 32 của cuốn vở cogido - đánh dấu số 1.
Tôi đoán rằng những dòng này
cha tôi ghi lại trong những ngày bị thương được ông ngoại tôi là Sáu Đến che dấu.
Nét mực bút Bic bao năm vẫn đọc rõ. Chữ viết lệch hàng, xô đẩy. Có thể vì cha
tôi viết trong bóng tối.
Ngày mẹ đưa tôi về chịu tang
ông ngoại, hai mẹ con ở lại quê cũng chỉ được ít ngày. Mẹ tôi tính không hiền,
ít nói. Có chuyện chi không hài lòng, bà hay nổi cáu. Sống với mẹ từ nhỏ nên
tôi đã quen. Lớn lên, biết suy nghĩ tôi hiểu rằng cuộc đời mẹ tôi luôn phải chịu
nhiều sức ép. Từ chuyện gia đình ly tán, chồng bị tù đầy, oan khuất đến chuyện
sống giữa nơi đất khách quê người phải lo kiếm tiền nuôi con, nuôi chồng… Bao
nhiêu gánh nặng đổ lên đầu một người đàn bà phải thay cha tôi những lúc ông đi ở
tù để lo toan việc nhà.
Sau ngày ngoại tôi mất, mẹ
tôi chỉ ở lại làng Dương ít ngày để thu xếp việc nhà. Bà dọn dẹp nhà cửa và nhờ
một cô cháu bên Văn Xá đến ở và trông coi nhà cửa, ruộng vườn. Tôi mới chỉ là
con bé con theo mẹ về chịu tang ông ngoại. Chưa hiểu gì, chưa biết những uẩn
khúc của người lớn. Mẹ làm việc còn tôi tha thẩn chơi với đàn mèo, vừa mẹ và
con cả thấy là bốn con. Trong ký ức thơ trẻ của tôi chỉ nhớ vài hình ảnh nhạt
nhòa về mẹ. Có lúc mẹ thắp nhang, đứng im lặng trước bàn thờ ông ngoại. Nhìn tấm
ảnh chụp cha mẹ tôi to bằng cuốn sổ tay, lồng trong khung kính. Bà dắt tôi đi dạo
quanh trong sân, trong vườn và dừng lại hồi lâu ở bụi tre gai rậm rạp phía cuối
vườn… Nhiều năm sau, khi đọc lại những dòng chữ của cả cha và mẹ tôi để lại,
tôi vỡ ra nhiều điều mà cả một thời gian dài tôi không hiểu, cũng có thể là do
lơ đễnh không quan tâm tới chuyên người lớn. Đơn giản, tôi còn con nít nhỏ dại,
mải yêu, mải vui với bạn bè.
Nhiều khi tôi tự trách mình.
Và trách cả cha tôi nữa… Tại sao những ngày cha con tôi sống yên ấm, hạnh phúc
đủ đầy ở trại Đầm Vịt, tôi không hỏi kỹ ông về chuyện giữa cha và mẹ tôi? Còn
ông cũng chẳng chịu nói, chẳng chia sẻ với con gái. Cha yêu quý tôi đến vậy kia
mà… Phải chăng, ông muốn dành cho tôi sự bất ngờ khi phải đọc những gì ông và mẹ
tôi để lại, bắt tôi phải suy ngẫm và tự hiểu.
Tôi không có thói quen ghi
nhật ký. Thậm chí, tôi còn cho rằng đây là một phương thức cổ điển, lỗi thời của
lớp người xưa cũ. Tuổi trẻ thời “a còng” trao đổi, với nhau qua điện thoại, hộp
thư điện tử. Chả đứa nào rỗi hơi ngồi ghi chép hàng ngày tâm tình, tự sự với
người yêu và lan man chuyện vui buồn trong cuộc sống.
Tôi thật sự kinh ngạc khi
nhìn thấy trong cuốn vở cogido số 2, số 3, đan cài trong nhiều trang có cả hai
nét chữ của cha tôi và mẹ tôi. Mỗi người ghi một đoạn khác nhau, ở những thời
điểm khác nhau. Nhưng dường như qua những dòng chữ ấy, họ sẻ chia nhiều điều bí
ẩn về nhau của hai kẻ đang yêu. Cha tôi viết thường là kể lể, tự sự như thể ông
muốn cho mẹ tôi biết ông là ai, cuộc sống của ông như thế nào… Còn mẹ tôi, mơ mộng
hơn và rõ là tâm tính của một cô gái Huế đang tuổi yêu, gặp được cha tôi như thể
chạm vào lửa.
Bao giờ mở đầu cho một trang
ghi chép, mẹ tôi đều viết “Dấu yêu ạ!”.
Mỗi lần chạm vào các tập vở
cogido của cha tôi, đọc kỹ từng trang, nhiều khi tôi rơi vào trạng thái hoảng
loạn. Tim đập mạnh. Tôi nhìn quanh quất phòng đọc sách. Ảnh cha tôi, ảnh mẹ
tôi, ảnh bà nội treo trên tường, nơi bàn thờ. Như thể họ đang ở đâu đó lặng lẽ
dõi theo từng hành động nhỏ của tôi. Bao giờ cũng vậy, tự trấn an mình, tôi thắp
nhang lên bàn thờ, van vái ông bà nội ngoại, van vái cha mẹ… Tâm hồn bình an,
tôi mới dám trở lại với những hàng chữ trong tập vở cũ. Đọc một hồi, tôi ngỡ
mình là một cô bé bị lạc vào giữa một khu rừng già, rậm rạp, gai góc… Tôi cố đi
cho hết khoảng rừng vừa phập phồng lo sợ, vừa hoảng loạn tưởng bị lạc lối… Tôi
đang bối rối tìm đường, bất ngờ mở ra trước mắt tôi một khoảng sáng, thoáng
đãng. Ở đấy có dòng suối mát, có khóm hoa dại đẹp đến mê hồn ngay bên bờ suối…
ĐỖ KIM CUÔNG
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét