Cho đến bây giờ, Bùi Giáng
vẫn còn là một hiện tượng lạ và kì thú trong dòng văn học Việt Nam. Những
nhà phê bình trong và ngoài nước mấy chục năm nay đã tốn không ít giấy mực,
thậm chí đấu khẩu nhau để nhằm chỉ một mục đích là giải thích hai câu hỏi:
Bùi Giáng là ai? Nên hiểu thơ Bùi Giáng như thế nào? Có kẻ gói thơ thi sĩ họ
Bùi và cả con người ông vào một chữ “Điên”. Người lạc quan thì dành cho ông
hai chữ “Thiên tài”. Lại có ai đó trộn hai tên gọi trên để thành một cái tên
nghe ngồ ngộ mà cũng có lí: “Thiên tài Điên”
Tôi là kẻ hậu sanh, đọc
thơ Bùi Giáng cũng chưa nhiều, có bài hiểu hoàn toàn, có bài hiểu dở dang và
cũng có bài không thể hiểu. Nhưng, trong mỗi bài thơ ông, tôi đều tìm thấy ít
nhiều hơi thở cuộc sống được thể hiện một cách tự nhiên, chân thực. Nhiều người
đọc thơ Bùi Giáng, mới vài câu chưa hiểu hoặc nghe ai đó nói rằng ông “Điên”
thì đã vội vàng đưa ra kết luận không thật đúng. Tôi nghĩ rằng tại sao chúng
ta không tiếp cận từ khía cạnh dễ hiểu nhất để rồi xích lại gần hơn để hiểu
thêm thơ và người thơ ấy. Đó là nét bình dân trong thơ Bùi Giáng
Trước tiên, trong thơ Bùi
Giáng, có những bài hay những đoạn là nguyên mẫu của những cuộc nói chuyện hằng
ngày. Không cầu kì, trau chuốt, những lời trao đáp rơi ra nhẹ nhàng từ trong
thơ ông, mang đậm tâm hồn và văn hoá bình dân Việt:
- Mình ơi! Tôi gọi bằng
nhà
Nhà tôi! Tôi gọi mình là
nhà tôi
Bây giờ xuôi ngược đôi nơi
Thôi mình ở lại tôi dời
chân đi
Thưa rằng: - Ở cái quái gì
Chàng đi thiếp cũng xin đi
với chàng
(Về buôn bán)
Rất rõ ràng và dễ hiểu, đoạn
thơ là sự hợp lưu của những ngôn từ mộc mạc bình dị. Lời gọi “Mình ơi!” và “Nhà tôi!” nghe mới thân thương và trìu mến làm sao. Nó chất chứa biết bao
tình cảm mặn nồng từ thuở “một ngày nên nghĩa”. Nếu không xuất phát từ một
tình cảm thật, chân thành, không dễ gì buột miệng mà nói được hai tiếng thân
thương mà thiêng liêng ấy (Trừ những kẻ giả dối ra). Còn, câu đáp cuối cùng
buộc ra đúng như lời một phụ nữ chân quê, không câu nệ, khuôn sáo trong mỗi
câu mỗi chữ :
Thưa rằng: - Ở cái quái
gì
Chàng đi thiếp cũng xin đi
với chàng
Nhưng, đằng sâu những từ
tưởng chừng như thô ấy là cái đức “tòng phu” của người vợ, cái chung thuỷ
đáng trọng, cái truyền thống dân tộc định hình rõ nét. Vả chăng, ở đây, ta
còn nhận ra nét đặc trưng của người Quảng Nam: cái bộc trực nhưng
chứa chan tình cảm. Nét đặc trưng ấy giúp cho người Quảng không thể lẫn đi
đâu được dù ở giữa rất nhiều người. Ai nông cạn sẽ thấy khó chịu bởi cái sổ
sàng bộc trực ấy. Nhưng, suy sâu một chút, sẽ thấy rất quý cái tính “trong
mát ngoài nóng” ấy
Ở một đoạn thơ khác, ta
cũng dễ dàng bắt gặp cách đối đáp chân thành, cởi mở và hết sức dung dị:
Bảo rằng: Xích lại đây xem
Buồn hung quá vậy thì em
chết mòn
Bây giờ tính chuyện cỏn
con
Em bằng lòng chứ? Em còn
hai môi?
Mở ra em thử ngượng cười
Rồi sẽ tính chuyện tháng
mười chừ đây
Anh về quảy gánh lên vai
Ra đi buôn bán kiếm vài đồng
lưng
Trở về liều liệu xem chừng
Coi mà có đủ - Ta cùng cưới
nhau
(Vòng tại thể)
Trước tiên, đọc đoạn thơ
lên, ta cảm giác có âm hưởng của những lời ca dao dân ca quen thuộc, lại như
có tiếng nói hằng ngày hết sức gần gũi. Điều đặc biệt, tôi muốn tập trung đến
hai từ “hung” và “chừ”. Đây là hai từ được dùng khá phổ biến trong giao tiếp
hằng ngày của người bình dân Quảng Nam ta. Từ “hung” tạm hiểu là
“nhiều”, là “quá mức”. Bạn bè lâu ngày gặp nhau, câu đầu tiên sẽ hỏi rằng: “Chu Choa! Răng bữa ni mi mập hung rứa mi?”. Sau ba điều bốn chuyện, đến chuyện
làm ăn, nhà cửa, chắc chắn cũng sẽ hỏi nhau một câu: “Răng mi làm hung rứa
mi?”. Nghe rất gần gũi thân tình mà thể hiện được sự quan tâm, chu đáo với
nhau. Từ “chừ” diễn tả khoảng thời gian gần. Cái hay ở từ “chừ” mà người Quảng Nam ta
hay dùng là dùng để nói về thời gian ngay lúc này cũng được mà dùng chỉ tương
lai gần cũng được. Có gì đầm ấm hơn khi người chồng đi làm đồng về trưa, gọi
vợ: “Bà ơi! Múc cho tui gáo nước!”. Người vợ đang loay hoay dưới bếp nói vọng
ra: “Để đó tui múc chừ!”. Nói là “chừ” nhưng chị vợ cũng còn nấu xong nồi
cơm nồi canh. Còn chồng, ngồi trên cái chõng trước sân dưới bóng cây mà phe
phẩy cái nón cời cho đỡ nóng. Đấy, chúng ta thấy đẹp và tinh tế biết chừng
nào hai từ “hung” và “chừ” ấy. Bùi Giáng đã mang được cả xác và hồn của
“hung” và “chừ” vào đoạn thơ trên để tạo ra một chút quan tâm nhẹ nhàng mà hết
sức thành thực, một lời hứa để đối phương đợi chờ trong niềm vui và hồi hộp.
Tài thay!
Nét bình dân trong thơ Bùi
Giáng còn được thể hiện bởi ông đã đưa vào thơ những vật cũng như những hành
động hết sức đời thường. Ta thử đọc hai câu cuối của bài “Tượng số”.
|
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét