Nhà thơ Bùi Giáng, một
trong những “quái kiệt” của văn chương miền Nam trước 1975 đã xem thơ là thế
giới của mộng tưởng, của nhiệm mầu, của ám ảnh vô thức và tâm linh khi ông
cho rằng: “Cõi thơ là cõi bồng phiêu”. Vì vậy, người làm thơ tất nhiên phải
“phiêu bồng” trong cõi mơ tưởng ấy thì mới có thể sáng tạo nên thế giới thơ
cho riêng mình, nếu không chỉ là sự tái tạo ra một sản phẩm tương tự như thơ
chứ không phải là thơ, điều mà hiện nay đang tràn ngập ngổn ngang trong đời sống
văn học, làm cho người đọc quay lưng với thơ. Và như vậy, vô hình trung giá
trị của thơ đã bị hạ thấp, biến thành một món hàng ế ẩm trong siêu thị văn học
của đời sống hiện đại.
Rất may, thơ Anh Hồng
không rơi vào bi kịch ấy và thật sự là một giá trị khi chị biết tạo cho mình
cõi thơ riêng – một điều rất cần cho sự sáng tạo văn học nói chung và thơ ca
nói riêng. Bởi, nếu không sáng tạo được cõi riêng cho mình thì nhà thơ sẽ tự
đào huyệt chôn mình trong nghĩa trang thơ. Đọc Người đàn bà qua hai mùa
tóc của Anh Hồng, cái cõi riêng ấy đã hiện hữu trong thơ chị như một
tâm thức hiện sinh với những câu hỏi về thân phận, về hiện hữu, về bản thể, về
nỗi cô đơn phận người mà không phải sống ở đời ai cũng ý thức về điều ấy. Bài
thơ mở đầu như một tuyên ngôn mang tâm thức hiện sinh ám ảnh suốt tập thơ.
Từng mảnh Tôi
Từng mảnh Tôi
Tan vỡ
Chơi vơi
Tìm nơi náu mình
Trên ngọn cỏ....
Mặt đất lè tè
Ngọn cỏ thấp
Từng mảnh Tôi
Lặng lẽ...
Tìm Tôi...
(Mở)
Việc trăn trở về sự hiện hữu của bản thể trong thơ Anh Hồng không phải là điều
mới lạ. Bởi đây là vấn đề nhân loại luôn khát khao kiếm tìm và lý giải từ nhiều
điểm nhìn triết học khác nhau. Và trong thơ vấn đề bản thể luận cũng được
nhiều thi nhân đề cập đến như một tâm thức hiện sinh. Nhà thơ Chế Lan
Viên, trong Điêu tàn đã từng tự vấn: “Ai bảo giùm: Ta có, có ta
không?”... Nhưng Anh Hồng lại tìm cho mình một cách thể hiện riêng về tâm thức
hiện sinh. Nhà thơ không những đi tìm cái “Tôi hiện hữu” mà còn đi tìm từng
“mảnh vỡ” của cái “Tôi” ấy. Và những mảnh vỡ của cái “Tôi” này đã hóa thân
vào những phận người chảy dài trong dòng sông cuộc đời mà thi nhân trải nghiệm
được thể hiện khá sâu sắc ở các bài thơ: Khúc ca về những dấu chân; Đêm
Mường Bi, lắng nghe; Tương phản; Giọt nước mắt từ kinh Vu Lan; Ám
ảnh; Đêm Lào Cai; Chiều đông, đồng Phú Thọ; Mảnh vỡ... mà khi
đọc lên ta không khỏi thấy đắng chát cõi lòng.
... Muôn dấu chân đi,
về...
Dấu chân in hoa lên đá
Dấu chân lấp lóa biển khơi
Dấu chân mang tiểu sử một
kiếp người
Dấu chân lung linh hào
quang huyền thoại...
Nội ơi!
Dấu chân nào của nội
Trong đêm biển cả tan
hoang...
Chỉ có dấu chân đi không
thấy dấu chân về?
(Khúc ca về những dấu chân)
Đó là niềm khắc khoải khôn
nguôi về thân phận con người với những nỗi nhọc nhằn như một định mệnh có từ
thuở hồng hoang của nhân loại được nhà thơ cảm nhận một cách tinh tế với sự
thấu thị của một tâm thức hiện sinh.
Đêm Mường Bi...
Nghe văng vẳng nỗi buồn lạc
về từ miền cổ tích
Hoang hoải một cánh rừng
In dấu lên cái nhìn của Mẹ
Hằn vết trong khóe mắt của
Cha....
Cuộc sinh nở chưa tròn...
Ôi! Những kiếp người dằng
dặc mưu sinh...
(Đêm Mường Bi, lắng nghe)
Đó là hình ảnh những người
chồng mất tích giữa biển khơi để lại trên cõi đời khốn khổ này những người vợ,
những đứa con mà cuộc đời cũng tròng trành trong biển khổ của cuộc mưu sinh mặn
đắng:
Ám ảnh
Một trưa nắng lửa
Hậu Lộc xứ Thanh
Những người chồng mãi mãi
chìm sâu dưới đáy đại dương
sau cuồng phong của biển
Những người vợ trên đầu trắng
khăn tang
Quỳ gối trần trên lưng cát
bỏng
Nạo vét mấy con ngao
Lũ trẻ con tóc cháy khét,
mũi dãi chảy lòng thòng
Ráo cổ họng rao bán mấy
bánh đa, vài gói bim bim kẹo lạc
Đôi mắt chúng đong đầy màu
mưa nắng
Mây trời âm u
Ánh nhìn trẻ con già như
biển cả
Trước những đồng xu lẻ
leng keng...
(Ám ảnh)
Đó còn là hình ảnh những đứa trẻ H’Mông khốn khổ trên đỉnh Mãpìlèng đang vật
lộn với thiên nhiên đầy khắc nghiệt của núi rừng để tồn tại mà dẫu có giàu tưởng
tượng đến mấy chúng ta cũng không thể nghĩ rằng điều đó vẫn đang hiện hữu
trong thời đại công nghiệp hóa, hiện đại hóa hôm nay!?
Chúng cởi trần giữa hai đợt
lạnh tái tê buốt giá
Chân trần chạy trên đá tai
mèo sắc nhọn
máu tươi rớt dưới chân ngô.
hay hình ảnh những người đàn ông Phù Lá
Hoàng hôn phủ đầy ánh mắt
Héo hắt nụ cười.
Cả đời không bao giờ bước chân rời khỏi hẻm núi cheo leo...
(Ám ảnh)
Những mảnh đời bất hạnh ấy
luôn là niềm khắc khoải, ám ảnh tâm thức nhà thơ trong từng sát na của hiện hữu.
Đó cũng là nỗi đau bất tận luôn dằng xé, cào cấu tâm hồn người viết, nỗi đau
như giông bão triền miên tràn về mà khi đọc lên, ta không khỏi se sắt cõi
lòng:
Giông tố quất vào hồn tôi
mỗi chiều, mỗi đêm mỗi sáng,
Mỗi sáng, mỗi chiều, mỗi tối, mỗi đêm đêm...
(Ám ảnh)
Nhưng có lẽ cái ám ảnh thường
trực nhất, bao trùm nhất của tâm thức hiện sinh tạo thành cõi riêng trong thơ
Anh Hồng đó chính là thân phận của Người đàn bà với những cơ cực,
những khổ đau, những vui buồn, những đam mê và khát vọng, điều mà Nguyễn Du
đã khái quát trong Truyện Kiều nổi tiếng:
“Đau đớn thay phận đàn bà
Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung”.
Và chính điều này đã góp phần lý giải vì sao Anh Hồng lại lấy tựa đề cho tập
thơ của mình là Người đàn bà qua hai mùa tóc.
Tôi rất ấn tượng với tên của
tập thơ. Theo cảm thức thông thường để đếm bước đi của thời gian, người ta
nói đến bốn mùa: xuân, hạ, thu, đông chứ có bao giờ dùng “mùa tóc” để chỉ bước
đi của thời gian!? Thế mà ở đây, bằng sự nghiệm sinh và sự cảm nhận tinh tế của Người
đàn bà, Anh Hồng đã lạ hóa khái niệm về thời gian qua hình ảnh thơ
đầy tính độc sáng: “Người đàn bà qua hai mùa tóc”. Mùa tóc ở đây
không chỉ đơn thuần mang ý niệm thời gian mà còn chứa trong đó biết bao vinh
quang và cay đắng, hạnh phúc và khổ đau của số phận con người...
Người đàn bà qua hai mùa
tóc
Đôi mắt nâu mang theo ánh
nhìn của biển chiều đông
Giông bão lật tung những
giấc mơ chở đầy màu tro của đất
Với tay, không kịp túm lại
chút mong manh còn lại
Mặt trời lẫn vào đêm...
Người đàn bà tự dắt mình
bước qua định mệnh
Từng nhích nhích hao mòn
Từng ngón gầy xanh xao mỗi
ngày bừng giấc mơ lạ lùng
mê hoặc...
Ngỡ chạm búp non...
(Người đàn bà – những giấc mơ)
Và đây là cảm
hứng chủ đạo, bao trùm tâm cảm thi nhân, quán chiếu trong cả tập thơ làm nên
một cõi riêng trong thơ Anh Hồng như một ám ảnh của tâm thức hiện sinh. Vì vậy,
trong tập thơ có nhiều bài nói về cuộc sống của Người đàn bà với những
cảnh đời, những số phận, những vui buồn, những đam mê và khát vọng khác
nhau... Đó là các bài thơ Tương phản; Thèm; Lời muốn nói; Những
dòng tin để lại; Người đàn bà – những giấc mơ; Người đàn bà trên
cao nguyên đá; Người đàn bà với trò chơi tiếp sức; Tình yêu; Nguồn
sống; Giấc ngủ của em anh cất giấu nơi đâu?; Người đàn bà ngồi
bên ô của sổ; Ghép chữ... Và mỗi bài thơ như có một mảnh vỡ của cái
“Tôi” thi nhân tan hòa trong đó. Vì vậy, cái nhìn của Anh Hồng về số phận nhữngNgười
đàn bà trong thơ là cái nhìn sẻ chia, đồng cảm, đồng điệu trước những bất
hạnh mà họ gánh chịu... mà khi đọc lên lòng ta không khỏi quặn thắt một nỗi
niềm trắc ẩn.
Nhẫn nại bước chân đi, về
Người đàn bà xóm Bến
Gò lưng kéo những chuyến
hàng thuê......
Người đàn bà – chiếc áo
không màu – chiếc xe cũ nát.
Chìm lấp giữa những âm
thanh xanh đỏ phố phường.....
Đôi vai mỏng run run làn
áo mỏng
Bóng xiêu xiêu đổ về phía
mặt trời
(Tương phản)
Người đọc bắt gặp trong
thơ Anh Hồng hình ảnh Người đàn bàH’Mông trên cao nguyên đá đang lặng lẽ
âm thầm oằn lưng gánh “lũ ống, mưa rừng” và “nắng hạ sém da, rét đông tê
tái” với bao hiểm nguy để gieo mầm sự sống. Chính họ là những người đã truyền
lửa cho cuộc đời nối tiếp cuộc đời ở một vùng núi cao, xa mờ, hoang sơ với
thiên nhiên nghiệt ngã. Nếu không có một sự thấu cảm thì nhà thơ không thể
nào viết được những câu thơ đầy ám gợi...
Người đàn bà H Mông lặng lẽ
âm thầm
Đếm từng hạt đất màu treo
trên từng kẻ đá.....
Người đàn bà H Mông
Nhẫn nại...
âm thầm...
nâng niu từng hạt đất...
Chắt chiu mầm sống
lớn lên...
(Người đàn bà trên cao nguyên đá)
Hay hình ảnh Người đàn bà đang đánh đu cuộc đời với những đỏ đen của
“trò chơi số phận” mà Anh Hồng đã khái quát thật tinh tế và đầy chất nhân văn
qua “trò chơi tiếp sức” trên truyền hình mà nếu không có tấm lòng cảm thương
trước những được mất của phận người thì không thể nào nhận ra điều bi kịch ấy.
Người đàn bà đôi vai mỏng
như lá lúa
Đánh cuộc
Thảng thốt
Với từng nhấc tay
Trắng đỏ trắng đỏ...
Ba đứa con thơ bệnh
tật giày vò
Đang chờ mẹ
Với trò chơi Tiếp sức
Để chơi tiếp
Trò chơi số phận
Nghiệt ngã...
mông lung
(Người đàn bà với trò chơi Tiếp sức)
Tuy nhiên cái tâm thức hiện
sinh làm nên cõi riêng trong thơ Anh Hồng không chỉ dừng lại ở những nỗi đau
với những vất vả lo toan từ cuộc sống thường ngày của Người đàn bà mà
ẩn sâu trong đó còn có nỗi cô đơn thân phận với những đam mê cháy bỏng trong
tình yêu mà chúng ta thường bắt gặp trong thơ Nữ Việt hiện đại với những
gương mặt tiêu biểu như: Vy Thùy Linh, Ly Hoàng Ly, Phan Huyền Thư, Cát Du,
Đoàn Ngọc Thu, Ngô Thị Hạnh... Và cũng như trong thơ của các nhà thơ Nữ Việt
hiện đại dấu ấn của thuyết “Nữ quyền luận” cũng hiện rõ trong thơ Anh Hồng.
Phải chăng, chính cảm thức “Nữ quyền” này đã giúp Anh Hồng nói riêng và các
nhà thơ Nữ hiện đại Việt Nam nói chung có thể vượt qua những rào cản đạo đức
khắc nghiệt của một thời để nói lên những “khát vọng thành thực” (từ dùng của
Hoài Thanh- TM) từ bản thể của mình.
Nhà thơ Vi Thùy Linh đã từng
xác quyết trong thơ mình cái khát vọng sống và yêu của người phụ nữ thật mãnh
liệt:
Khu vườn ắng lại chỉ còn
anh và em
Khởi đầu phận sự thiêng
liêng
Những cặp chân khóa
chặt nhau khước từ chân lý
(Anh sẽ ru em ngủ - Đồng tử)
Đây cũng chính là những biểu
hiện mạnh mẽ nhất tâm thức hiện sinh trong cõi thơ Anh Hồng với bao khát vọng
kiếm tìm vốn là một yếu tính của tình yêu.
Tìm đâu, tìm đâu
Không – Cô – Đơn?
Cô đơn nhảy múa điên
cuồng
Muốn thiêu ta thành tro bụi
Chỉ muốn bay lên
Bay lên... thăm thẳm...
bay lên...
(Trạng thái)
Và chính trong trạng thái cô đơn đến rợn ngợp này đã làm bùng cháy những khát
vọng yêu đương đầy nhục cảm nhưng rất nhân bản của con người. Vì vậy, khát vọng
ái ân ấy không hề tầm thường mà chứa đựng một giá trị nhân văn sâu sắc. Nó
như một thông điệp tình yêu vừa thực lại vừa mộng.
Thèm một cái ôm ghì siết của
anh
Để phiêu diêu vào cõi
thiên đường
Của Eva và A Đam
Thèm anh ở trong em thăm thẳm
Thiêu đốt tận cùng bằng ngọn
lửa
Ăn cắp của thần Dớt trên đỉnh
Olympus
Nếu một ngày...
Không còn thèm gì nữa
Có nên quẳng đời vào
Recycle Bin ???
(Thèm)
Vâng! Con người có rất nhiều thèm khát. Nhưng vấn đề là ta có dám nói ra những
thèm khát của mình một cách thành thật hay không, hay cứ che đậy những thèm
khát ấy dưới những mặt nạ đạo đức để rồi thực hiện nó trong bóng tối!? Thơ
Anh Hồng đã nói lên rất thành thực nỗi khát khao của Người đàn bàtrong
cuộc sống. Bởi hơn ai hết Anh Hồng đã ý thức rất sâu sắc về sự mỏng manh và
hư hao của kiếp người trong cuộc đời mà sự hư hao ấy ở Người đàn bà lại
càng vô cùng cay nghiệt và đớn đau.
...Nửa yêu thương dành lại
cho mình
Là chiếc bóng chập chờn
trong hoang hoải
Lặng lẽ quỳ giữa hai
mùa tóc
Em bối rối ... giật mình
Tro hoa hồng lả tả trắng
không gian...
(Dành lại cho mình)
Triết gia Heraclite đã xác quyết: “không ai có thể tắm hai lần trên cùng dòng
sông”. Và cuộc đời mỗi người không thể sống hai lần. Vì vậy, khi con người ý
thức về sự hiện hữu của mình trên cõi đời thì sẽ trân quí hơn cuộc sống và
khi đó mọi cái đi qua đời mình đều trở thành những giá trị. Điều này ta cũng
bắt gặp trong thơ Anh Hồng khi nhà thơ ý thức rằng sự hiện hữu của thân phận
cũng vô cùng mong manh và hư ảo và những gì đi qua trong cuộc đời rồi cũng hư
hao theo năm tháng của kiếp phù sinh.
Qua đi, qua đi những khoảnh khắc mong manh như lá
Qua đi, qua đi những ánh chớp vui, buồn...
Để một ngày chợt ngắm vầng trăng khuyết
Biết hao gầy thao thức giấc chiêm bao...
Để một ngày lặng nghe lòng buốt xót
Hiểu cát cũng buồn nếu không biển mênh mông
(Để một ngày)
Chính vì ý thức qui luật của hiện hữu trong cuộc đời hư ảo với một tâm thức
hiện sinh mạnh mẽ nên khát vọng của người đàn bà trong thơ Anh Hồng nhiều khi
cũng bùng nổ những cảm xúc mãnh liệt mà nhà thơ gọi đó là những “nguồn sống”.
Bởi lẽ, nếu không có những đam mê rất Người này liệu cuộc sống sẽ
còn có ý nghĩa gì? Và lúc đó con người sẽ tự cật vấn là mình đang tồn tại hay
đang sống!? Bởi nói như Phạm Công Thiện:“Thơ làm tôi sống lại – Thơ giải
thoát tôi ra khỏi vòng tù hãm nhọc nhằn của cuộc sống. Thơ đặt tôi trước cuộc
sống.”(1)
Rất muốn
Mỗi khi trong em cảm giác
sắp nổ tung thành muôn mảnh
Được gục đầu vào anh chỉ
thoáng chút thôi...
Nhắm mắt
Hít mùi nồng nàn quen thuộc
Ôm bờ vai anh
Và thấy mình phiêu diêu,
phiêu diêu...
...
Bờ vai anh
Nồng nàn, hăng hắc
Rất - đàn - ông
Đã mang đến cho em
Nguồn sống
(Nguồn sống)
Và khát vọng tình yêu đó không chỉ là “nguồn sống” mà còn là nội lực làm nên
sức mạnh giúp Người đàn bà vượt lên những muộn phiền, những đớn đau
của thân phận để được sống đúng nghĩa với hai tiếng Con Người
Xiết chặt thân thể nhau
trong vòng tay êm ái
Đêm choàng áo dịu dàng
Anh hút chặt em vào miền
quên lãng
Gột rửa ưu phiền
Chỉ còn lại
Tiếng thì thầm mộng mị
như nhung
Em!
Anh!
Em!!!
(Tình yêu)
Như vậy, tâm thức hiện sinh trong thơ Anh Hồng không chỉ thể hiện những vật
vã, đau đớn của con người trong cuộc mưu sinh đầy khó khăn với bao thân phận
nổi chìm mà còn bộc lộ rõ khát vọng cháy bỏng, đê mê trong tình yêu, chạm vào
những điều sâu kín nhất trong bản thể con người. Đây chính là những giá trị
nhân bản là yếu tính làm nên tâm thức hiện sinh trong tập thơ Người đàn
bà qua hai mùa tóc của Anh Hồng. Bởi theo sự xác quyết của Cyprian
Norwid: “Thế giới này rốt cuộc chỉ còn lại hai thứ, chỉ hai thứ thôi: Thi ca
và lòng nhân ái... không còn gì khác”.
Phải chăng tâm thức hiện
sinh trong cõi thơ Anh Hồng ở tập thơNgười đàn bà qua hai mùa tóc cũng
chính là một trong những phẩm tính của thơ ca còn lại với thời gian và cuộc sống...
* Người đàn bà qua
hai mùa tóc, Thơ Anh Hồng, Nxb. Hội Nhà văn, 2014.
(1). Phạm Công Thiện Ý
thức mới trong văn nghệ và triết học.Nxb. An Tiêm SG. 1970, tr. 217.
Xóm Đình An Nhơn, 11 / 2014
|
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét