Bấm vào tên người trình bày để nghe
THUYỀN
VIỄN XỨ - Nhạc: Phạm
Duy - Lời: Ý từ
thơ của Huyền Chi
(độc tấu guitar)
Lệ Mai (youtube) Phạm Ngọc Lân (youtube)
'Thuyền Viễn Xứ'
trong tâm thức hoài hương
Một thi
sĩ lừng danh của nước Mỹ ở thế kỷ 19 là Henry W. Longfellow đã để lại
trên 10 tập thơ, trong đó có những câu thơ bất hủ mà cho tới nay vẫn còn được
nhiều người trích dẫn mỗi khi nói đến tâm thức hoài hương. Đại ý đoạn thơ viết
rằng hoài hương "là một nỗi buồn nhớ mênh mang mà không phải là sự đau đớn",
và nếu ta nghĩ tâm trạng hoài hương cũng giống như niềm sầu khổ thì chẳng khác
nào ta thấy "Một màn sương muối giống như một màn mưa giăng".
Có lẽ đúng thế
thật. Với thời gian càng lúc càng chồng chất trên mái tóc và quê hương càng lúc
càng khuất sâu trong trí nhớ, tôi dần dần nghiệm ra rằng, khác với tình yêu lứa
đôi mà khi tan vỡ có thể biến thành niềm oán hận hoặc để lại một vết thương khó
lành, tình hoài hương là tình cảm duy nhất sống mãi trong tâm hồn mà chẳng gây
ra nỗi đau lòng, ngược lại đôi khi còn vỗ về an ủi tâm hồn ta như bàn tay mẹ hiền
những ngày thơ ấu, hoặc đưa tâm hồn bay vút lên cao như cánh gió ban mai, để từ
đó ta cảm thấy nỗi nhớ thương tràn ngập trong tim dường như đang hỏa lẫn với một
niềm hạnh phúc mơ hồ...
Những ý nghĩ vụn
vặt ấy thường hay đến với tôi cùng với giai điệu và lời hát của một ca khúc viết
về tình hoài hương. Đất nước nào, dân tộc nào cũng có những ca khúc viết về
tình hoài hương, nhưng tôi tự cho phép mình lý luận một cách rất chủ quan rằng
chỉ có đất nước Việt Nam mới mang lại cho dân tộc Việt Nam một khối lượng lớn
những ca khúc viết về tình hoài hương tuyệt vời đến như thế, mỗi ca khúc đã trở
thành một viên ngọc trong kho tàng âm nhạc. Dĩ nhiên đây là một điều đáng tự
hào. Nhưng hình như đây cũng là một định mệnh hàm chứa nỗi bất hạnh.
Tình hoài
hương được định nghĩa một cách đơn giản là nỗi nhớ quê hương. Nhưng trong văn
chương, nghệ thuật, âm nhạc của nhân loại nói chung, quê hương luôn luôn là một
ý niệm rất tương đối. Người ta không thể mang những quy ước hay tiêu chuẩn về địa
dư, lãnh thổ, biên giới, hoặc về sinh quán, nguyên quán, gia tộc... để xác định
nguồn cảm hứng đã tạo thành những tác phẩm gói ghém lòng tư hương của người nghệ
sĩ. Điều này thể hiện rõ rệt qua các ca khúc hoài hương trong giòng nhạc Việt.
Hãy thử nhớ lại
giai điệu và lời ca của một số bài hát đã đi vào lòng chúng ta như "Nhớ Quê Hương" (Phạm
Ngữ), "Làng Tôi" (Chung
Quân), "Tình Quê Hương" (Việt
Lang), "Chiều Quê" (Hoàng
Quý), "Ôi Quê Xưa" (Dương
Thiệu Tước), "Quê Hương" (Hoàng
Giác), "Tiếng Sáo Chiều Quê"
(Thu Hồ), "Ngày Về" (Hoàng
Giác), "Quê Mẹ" (Thu Hồ), "Xa Quê" (Lê Quang
Nhạc), "Tình Hoài Hương"
(Phạm Duy), "Thuyền Viễn Xứ" (Phạm Duy), "Người Em Nhỏ" (Nguyễn
Hiền), "Buồn Nhớ Quê Hương"
(Hoàng Trọng), "Lạnh Lùng" (Hoàng
Trọng), "Hướng Về Hà Nội"
(Hoàng Dương) v.v... Những ca khúc này đều được sáng tác trong khoảng từ giữa
thập niên 40 đến giữa thập niên 50, hay nói cách khác, đều ra đời trước khi đất
nước bị cắt đôi vì hiệp định Genève 1954. Vào thời điểm ấy, tuy cuộc ly hương
thật sự của hơn 1 triệu người chưa xảy ra nhưng chiến tranh đã lan rộng khắp
nơi, đã dìm ngập nhiều vùng đất trong khói lửa đạn bom và đã đẩy hàng triệu người
ra khỏi làng mạc quê quán. Vì thế, "quê hương" làm rung động những
tâm hồn nghệ sĩ trong giai đoạn ấy, là "miền quê binh khói" (Hoàng
Giác), là "quê tôi chìm chân trời mờ sương" (Chung Quân), là "cảnh
làng xưa vết hoang tàn đìu hiu gió sương" (Dương Thiệu Tước).
Hình ảnh và âm hưởng "quê hương" làm ray rứt lòng người trong giai đoạn ấy có thể là một vùng quê với "ngàn dâu xanh ngát mấy nếp tranh xa mờ, tiếng sáo bay dập dìu đường về thôn xưa" (Việt Lang), hoặc có thể là Hà Nội với "nước hồ là ánh gương soi, nắng hè tô thắm lên môi, thanh bình tiếng guốc reo vui" (Hoàng Dương), mà cũng có thể chỉ là những kỷ niệm thật đơn sơ như "bên than hồng êm ấm, ta xum vầy sung sướng" (Hoàng Trọng), hay "lúc trăng đang dần nhô cao đầu trên khóm tre già, chúng ta quây quần vui nô đùa bên mấy khóm hoa" (Phạm Ngữ)... Biết bao nhiêu ca khúc bất hủ đã ra đời trong khói lửa chiến tranh để gửi gắm tình hoài hương của những nhạc sĩ phải lìa xa vùng trời kỷ niệm, ôm trong lòng nỗi nhớ mênh mang hướng về làng quê xưa hay thành phố cũ, và mơ một ngày "tàn cơn chinh chiến, lửa khói đắm chìm" (Hoàng Dương), để có thể "đón gió thanh bình trong nắng hanh vàng" (Hoàng Trọng), để được "tung cánh chim tìm về tổ ấm" và "say sưa cuộc sống bên ngàn lũy tre, xa lánh cuộc đời khắt khe trăm đau nghìn thương" (Hoàng Giác)...
Hình ảnh và âm hưởng "quê hương" làm ray rứt lòng người trong giai đoạn ấy có thể là một vùng quê với "ngàn dâu xanh ngát mấy nếp tranh xa mờ, tiếng sáo bay dập dìu đường về thôn xưa" (Việt Lang), hoặc có thể là Hà Nội với "nước hồ là ánh gương soi, nắng hè tô thắm lên môi, thanh bình tiếng guốc reo vui" (Hoàng Dương), mà cũng có thể chỉ là những kỷ niệm thật đơn sơ như "bên than hồng êm ấm, ta xum vầy sung sướng" (Hoàng Trọng), hay "lúc trăng đang dần nhô cao đầu trên khóm tre già, chúng ta quây quần vui nô đùa bên mấy khóm hoa" (Phạm Ngữ)... Biết bao nhiêu ca khúc bất hủ đã ra đời trong khói lửa chiến tranh để gửi gắm tình hoài hương của những nhạc sĩ phải lìa xa vùng trời kỷ niệm, ôm trong lòng nỗi nhớ mênh mang hướng về làng quê xưa hay thành phố cũ, và mơ một ngày "tàn cơn chinh chiến, lửa khói đắm chìm" (Hoàng Dương), để có thể "đón gió thanh bình trong nắng hanh vàng" (Hoàng Trọng), để được "tung cánh chim tìm về tổ ấm" và "say sưa cuộc sống bên ngàn lũy tre, xa lánh cuộc đời khắt khe trăm đau nghìn thương" (Hoàng Giác)...
Thế nhưng, như
một định mệnh hàm chứa nỗi bất hạnh, cuộc chiến tranh 1945-1954 trên đất nước
Việt Nam đã chỉ kết thúc bằng một cuộc phân ly, để rồi lại mở đường cho cuộc
chiến tranh kế tiếp - một cuộc nội chiến tương tàn sẽ kéo dài hai thập niên và
cũng sẽ chỉ kết thúc bằng một cuộc phân ly khác.
Hiểu theo một ý nghĩa hơi có phần cay đắng thì cuộc phân ly lần thứ nhất năm
1954 đã định nghĩa lại ý niệm "quê hương" trong tình hoài hương của
những người nghệ sĩ, vì chiến tranh tuy đã kết thúc mà họ vẫn không có một quê
hương thanh bình để trở về, chẳng những vậy mà họ còn phải lìa bỏ nơi chôn nhau
cắt rốn để ra đi. "Quê hương" của chuyến ra đi năm ấy không phải là
"miền quê binh khói" nữa, mà là quê hương đã bị cắt lìa bởi một giòng
sông, một vĩ tuyến, một ý thức hệ. Tình hoài hương trong các ca khúc được viết
vào thời điểm ấy tuy vẫn mang chất u hoài lãng mạn nhưng đã pha thêm niềm đau đớn,
nỗi uất hận, và lòng xót thương gửi về một quê hương đang chìm vào bóng tối.
Bao nhiêu tình cảm đó hòa lẫn với nhau để tạo thành những nhạc phẩm tuyệt vời
như "Xa Quê Hương" (Đan
Thọ & Xuân Tiên), "Thương Về Năm Cửa Ô Xưa"
(Y Vân &Tạ Tỵ), "Hận Ly Hương" (Anh
Hoa & Ngọc Long), "Giấc Mơ Hồi Hương", "Nhặt Cánh Sao Rơi", "Gửi Áng Mây Hàng"
(Vũ Thành), "Bóng Quê Xưa",
"Vọng Cố Đô", "Thu Ly Hương" (Nhật
Bằng & Đan Thọ), "Nhạt Nắng" (Xuân
Lôi & Y Vân), "Tình Cố Đô", "Chuyến Đò Vĩ Tuyến"
(Lam Phương), "Sầu Ly Hương" (Lam
Phương & Lê Mộng Bảo), "Hoa Bướm Ngày Xưa", "Gửi Một Cánh Chim"
(Nguyễn Hiền), "Lá Thư Gửi Mẹ"
(Nguyễn Hiền & Thái Thủy), "Bắc Một Nhịp Cầu", "Bên Bờ Đại Dương"
(Hoàng Trọng & Hồ Đình Phương), "Chiều Mưa Nhớ Bắc", "Em Còn Nhớ Không Em"
(Hoàng Trọng & Thanh Nam), "Hướng Về Đất Bắc" (Phó Quốc Thăng), "Xuân Ly Hương" (Phó
Quốc Lân), "Nỗi Lòng Người Đi" (Anh
Bằng), "Xuân Tha Hương" (Phạm
Đình Chương), "Mưa Sài Gòn Mưa Hà Nội"
(Phạm Đình Chương & Hoàng Anh Tuấn) v.v...
Sẽ chẳng bao
giờ chúng ta có được một danh mục đầy đủ các ca khúc thể hiện tình hoài hương
trong âm nhạc Việt Nam, bởi vì chất hoài hương không phải chỉ tẩm đẫm giai điệu
của những ca khúc giãi bày niềm thương nhớ một quê hương xa cách, mà chất hoài
hương còn len lỏi vào cả những nhạc phẩm viết về tình yêu đôi lứa -- những bản
tình ca bất hủ như "Bến Xuân" (Văn Cao), "Tiếng Chuông Chiều
Thu" (Tô Vũ), "Người Em Nhỏ" (Nguyễn Hiền & Thiệu
Giang), "Tình Nghệ Sĩ" (Đoàn Chuẩn & Từ Linh), "Trên Đường Về"
(Nguyễn Thiện Tơ)... Có phải đó là định mệnh chung cho mọi tâm hồn nghệ sĩ trên
trần gian (mỗi nghệ sĩ đều có lúc cảm thấy mình giống như một đứa trẻ lạc
loài), hay đó là một sắc thái riêng của âm nhạc Việt Nam, giòng âm nhạc mà ngay
từ lúc phôi thai đã bị cột chặt với những thăng trầm của đất nước và đắm chìm
theo từng mùa ly loạn, từng cuộc phân ly?
Nhưng dù giải
thích thế nào đi nữa, rõ ràng là tâm thức hoài hương đã mang đến cho kho tàng
văn chương nghệ thuật của chúng ta quá nhiều viên ngọc quý, và từ thế hệ này tiếp
nối qua thế hệ khác, cho dù phiêu dạt ở phương trời xa xôi nào, nếu chúng ta vẫn
cảm nhận được nỗi nhớ mênh mang hòa lẫn với niềm hạnh phúc mơ hồ mỗi khi gặp lại
quê hương qua những vần thơ Nguyễn Bính "Tết này chưa chắc em về được, Em
gửi về đây một tấm lòng...", thì chắc chắn tâm hồn chúng ta cũng rung động
y như vậy khi nghe những lời thơ Tạ Tỵ được Y Vân phổ nhạc để trở thành tiếng
thở dài chua chát "...Có tiếc chăng ai, mái tóc bồng bềnh chảy xuôi ý đẹp?
Có nhớ chăng ai, lệ nào ướt đẫm tình người? Ôi Hà Nội ơi! Tê tái tiếng cười, từng
cánh hoa đời khép lại, thương về năm cửa ô xưa", hay những vần thơ Huyền
Chi được Phạm Duy đưa vào nhạc và trở thành một trong những ca khúc hoài hương
tuyệt vời của giòng nhạc Việt.
Tôi viết
"Thuyền Viễn Xứ Trong Tâm Thức Hoài Hương" vào những ngày đầu năm
Nhâm Thìn, mùa Xuân tha hương thứ hai mươi tám kể từ khi lìa xa đất nước và
chưa một lần trở lại. Cũng như rất nhiều người khác, đối với tôi cuộc phân ly ấy
là cuộc phân ly lần thứ hai, sau chuyến đi lần thứ nhất theo cha mẹ và các anh
chị trong làn sóng di cư của một triệu người rời bỏ nơi chôn nhau cắt rốn để
vào Nam tìm tự do. Những năm sau đó, lớn lên ở miền Nam, tôi bắt đầu biết nghe
và yêu thích các ca khúc của một thời mà người ta quen gọi là "nhạc tiền
chiến" nhưng thật sự bao gồm tất cả các ca khúc được viết trong giai đoạn
từ 1938 đến 1954. Tôi bắt đầu hiểu tại sao anh tôi sưu tập và trân quý những nhạc
phẩm do Tinh Hoa, Á Châu, An Phú... ấn hành trước và sau ngày di cư, những bản
nhạc in rời bằng giấy cứng khổ lớn, mỗi mẫu bìa là một họa phẩm tuyệt đẹp. Tôi
nhớ mãi bản nhạc "Thuyền Viễn Xứ" được cả hai nhà xuất bản Tinh Hoa
và Á Châu ấn hành nên có hai mẫu bìa khác nhau, một là bức tranh màu nước với
bà mẹ già đứng bên hàng liễu rũ nhìn theo bóng con thuyền ra khơi, và một là bức
tranh lập thể của Tạ Tỵ với hình ảnh cánh buồm và cây đàn guitar như con thuyền
trôi bập bềnh theo sóng nước...
Nhưng nếu
không có cuộc phân ly lần thứ hai, có thể tôi vẫn chỉ biết yêu thích mà chưa cảm
nhận được trọn vẹn chất hoài hương trong những ca khúc đã đi vào lòng người
ngay từ cuộc phân ly lần thứ nhất. Hà Nội của tôi là Hà Nội bàng bạc qua những
hình ảnh và âm thanh chỉ vừa đủ sắc nét để in vào trang giấy trắng của ký ức tuổi
thơ, trong khi với cha mẹ và các anh chị tôi thì Hà Nội, Hải Phòng, Ninh Bình,
Cao Bằng... đều là những thành phố tràn đầy kỷ niệm đến độ khi phải lìa xa cũng
chẳng khác gì cắt đứt một mảnh đời, rứt bỏ một phần da thịt. Cảm giác đau xót ấy,
nhiều năm sau sẽ đến lượt tôi trải qua, khi lênh đênh giữa biển khơi, nhìn về
cuối chân trời thăm thẳm mà không còn đoán được mảnh đất quê hương ở về hướng
nào...
Thế rồi sau đó
lại thêm nhiều năm nữa qua đi... Một buổi tối mùa Đông rất lạnh trên xứ người,
tôi nhận được qua email tấm thiệp Xuân của anh tôi gửi từ quê nhà, kèm theo bản
scan một bài thơ in trên trang báo cũ. Bấm "play" để mở thiệp, tôi
nghe giai điệu quen thuộc của một bản nhạc không lời được đưa vào mp3. Bài thơ
"Thuyền Viễn Xứ" của Huyền Chi và bản nhạc của Phạm Duy. Chắc hẳn anh
tôi vừa tìm được một tờ tạp chí cũ kỹ nào đó đăng bài thơ ấy nên đã gửi tấm thiệp
Xuân như một món quả cho đứa em tha hương. Là vì trong những email trước đó
không lâu anh em chúng tôi đã nhắc với nhau bài thơ lục bát của Huyền Chi và
tôi đã kể cho anh tôi nghe về cuộc nói chuyện qua điện thoại rất bất ngờ với
tác giả bài thơ.
Người giới thiệu
để có được cuộc điện đàm là chị Hồ Thị Ái Liên, chủ nhân và hiệu trưởng một trường
dạy thẩm mỹ ở Virginia và là em thúc bá của nhà thơ Hồ Đình Phương (tác giả
"Tình Thế Hệ", "Sưởi Nắng".... với một số bài thơ phổ nhạc
đã trở thành những ca khúc bất hủ của Hoàng Trọng, Châu Kỳ...). Tình cờ trong một
lần nói chuyện, chị Ái Liên cho biết hồi 1955-57, chị là học trò lớp đệ Ngũ và
đệ Tứ của phu quân nhà thơ Huyền Chi: giáo sư Trần Phụng Tường, dạy Pháp văn tại
trường trung học Phan Bội Châu, Phan Thiết. Chị Ái Liên cũng cho biết nữ sĩ Huyền
Chi hiện vẫn đang ở Sài Gòn và mở lớp dạy kèm sinh ngữ luyện thi đại học tại tư
gia.
Qua điện thoại,
tác giả "Thuyền Viễn Xứ" nói đến tập thơ đầu tay của bà mang tựa đề
"Cởi Mở", với 22 bài thơ ký bút hiệu Huyền Chi, do nhà in Sống Chung ấn
hành. Bà kể lại: Sinh năm 1934 tại Từ Sơn, Bắc Ninh, bà theo gia đình rời
nguyên quán vào Nam khi còn là một nữ sinh trung học, thoạt đầu ở Đà Lạt với chị,
sau đó về Sài Gòn ở với mẹ, vừa đi học vừa giúp mẹ trông nom sạp bán vải ở chợ
Bến Thành. Lập gia đình năm 1954, bà theo chồng ra Phan Thiết, mở hiệu sách, dạy
Anh ngữ, rồi làm việc cho cơ quan MAC-V, và sau biến cố 1975 bà cùng gia đình dời
về lại Sài Gòn. Phu quân của bà, giáo sư Trần Phụng Tường đã tạ thế năm 2010.
Trong 7 người con của ông bà, 4 người hiện ở Việt Nam, 3 người ở Hoa Kỳ.
Bà tỏ vẻ xúc động khi nghe tôi đọc mấy câu đầu của bài thơ mà tôi đã nhớ thuộc lòng không biết từ bao giờ. Bà kể lại, cùng với những bài thơ khác trong tập "Cởi Mở", bài "Thuyền Viễn Xứ" được sáng tác vào năm 1952, thời gian bà sinh hoạt với một nhóm văn nghệ sĩ trẻ và làm thư ký tòa soạn chuyên trách mục thơ cho tạp chí Phụ Nữ ở Sài Gòn. Tình cờ gặp gỡ tại nhà in Sống Chung trên đường Trần Hưng Đạo, cô nữ sinh 18 tuổi ký tặng một ấn bản của tập thơ đầu tay còn thơm màu mực mới cho một nhạc sĩ thành danh, lúc đó đang ở Sài Gòn để sắp xếp công việc cho gia đình vừa từ Bắc vô Nam. Đó là lần duy nhất tác giả bài thơ gặp tác giả bản nhạc. Đó cũng là thời điểm đánh dấu một khúc quanh khắc nghiệt của lịch sử: chiến tranh sắp kết thúc nhưng hòa bình đã chỉ đến qua một hiệp định quốc tế cắt đôi đất nước, đưa tới cuộc di cư của một triệu người dân miền Bắc và mở đầu cuộc chiến tranh ý thức hệ kéo dài 20 năm...
Rồi thời gian
tiếp tục trôi đi... Đất nước lại trải qua thêm một cuộc bể dâu... Những ấn bản
của tập thơ "Cởi Mở" đã bị thất lạc từ năm 1975 lúc tác giả cùng gia
đình di chuyển về Sài Gòn, và đến bây giờ thì chính nữ sĩ Huyền Chi cũng không
còn nhớ trọn vẹn từng bài thơ trong đó nữa. Về lần gặp gỡ ngắn ngủi nhạc sĩ Phạm
Duy đúng 60 năm về trước, bà cho biết gần đây bà cũng đã kể lại với một nhà báo
ở Việt Nam là cựu nữ sinh trường Phan Bội Châu, để viết trong bài "Huyền
Chi tác giả bài thơ Thuyền Viễn Xứ là ai?" (Nguyễn Phước Thị Liên, tạp chí
Kiến Thức Ngày Nay số 768 tháng 12-2011).
Đây là 24 câu
lục bát của bài thơ "Thuyền Viễn Xứ":
"Ra khơi sương khói một chiều
Thùy dương rũ bến tiêu điều ven sông
Lơ thơ rớt nhẹ men lòng
Mây trời pha ráng lụa hồng giăng ngang
Có thuyền viễn xứ Đà Giang
Một lần dạt bến qua ngàn lau thưa
Hò ơi! Câu hát ngàn xưa
Ngân lên trong một chiều mưa xứ người
Đường về cố lý xa xôi
Nhịp sầu lỡ bước, tiếng đời hoang mang
Sau mùa mưa gió phũ phàng
Bến sông quay lại, hướng làng nẻo xa
Lệ nhòa như nước sông Đà
Mái đầu sương tuyết lòng già mong con
Chiều nay trời nhẹ xuống hồn
Bao nhiêu sương khói chập chờn lên khơi
Hai bờ sông cách biệt rồi
Tần Yên đã nổi bốn trời đao binh
Ngàn câu hát buổi quân hành
Dặm trường vó ngựa đăng trình nẻo xưa
Biết bao thương nhớ cho vừa
Gửi về phương ấy mịt mờ quê hương
Chiều nay trên bến muôn phương
Có thuyền viễn xứ lên đường... lại đi...".
"Ra khơi sương khói một chiều
Thùy dương rũ bến tiêu điều ven sông
Lơ thơ rớt nhẹ men lòng
Mây trời pha ráng lụa hồng giăng ngang
Có thuyền viễn xứ Đà Giang
Một lần dạt bến qua ngàn lau thưa
Hò ơi! Câu hát ngàn xưa
Ngân lên trong một chiều mưa xứ người
Đường về cố lý xa xôi
Nhịp sầu lỡ bước, tiếng đời hoang mang
Sau mùa mưa gió phũ phàng
Bến sông quay lại, hướng làng nẻo xa
Lệ nhòa như nước sông Đà
Mái đầu sương tuyết lòng già mong con
Chiều nay trời nhẹ xuống hồn
Bao nhiêu sương khói chập chờn lên khơi
Hai bờ sông cách biệt rồi
Tần Yên đã nổi bốn trời đao binh
Ngàn câu hát buổi quân hành
Dặm trường vó ngựa đăng trình nẻo xưa
Biết bao thương nhớ cho vừa
Gửi về phương ấy mịt mờ quê hương
Chiều nay trên bến muôn phương
Có thuyền viễn xứ lên đường... lại đi...".
Và như chúng
ta đã biết, từ bài thơ trên, nhạc phẩm "Thuyền Viễn Xứ" đã ra đời, với
giai điệu buồn mênh mang như từng đợt sóng đưa con thuyền xa bến, với những lời
hát chẳng những gửi gắm niềm nhớ nhung của một triệu người rời quê cha đất tổ
năm 1954, mà hơn hai thập niên sau đó sẽ lại một lần nữa gửi gắm nỗi lòng của
hàng triệu người phải bỏ lại tất cả những gì yêu thương nhất trên mảnh đất quê
hương để vượt biển tìm tự do và phiêu bạt nơi đất lạ quê người:
"Chiều nay sương khói lên khơi
"Chiều nay sương khói lên khơi
Thùy dương rũ bến tơi bời
Làn mây hồng
pha ráng trời
Sóng Đà Giang thuyền qua xứ người
Thuyền ơi! viễn xứ xa xưa
Một lần qua dạt bến lau thưa
Hò ơi! giọng hát thiên thu
Suối nguồn xa vắng,
chiều mưa ngàn về
Nhìn về đường cố lý
Cố lý xa xôi
Đời nhịp sầu lỡ bước
Bước hoang mang rồi
Quay lại hướng làng
Đà Giang lệ ướt nồng
Mẹ già ngồi
im bóng
Mái tuyết sương mong con bạc lòng
Chiều nay gửi tới quê xưa
Biết
là bao thương nhớ cho vừa
Trời cao chìm rơi xuống đời
Biết là bao sầu trên
xứ người
Mịt mờ sương khói lên hương
Lũ thùy dương rủ bóng ven sông
Chiều
nay trên bến muôn phương
Có thuyền viễn xứ nhổ neo lên đường..."
Trong "Hồi
Ký Phạm Duy" (Tập 3, ấn bản 2008), sau khi mở đầu Chương 3 "Gần hai
năm đã trôi qua kể từ khi tôi bỏ vùng quê vào Hà Nội, rời miền Bắc vào miền
Nam, lo ổn định nơi ăn chốn ở và thu xếp công kia việc nọ ở Sài Gòn", nhạc
sĩ Phạm Duy kể về chuyện bắt đầu sáng tác trở lại vào giai đoạn cuối năm 1952 với
các ca khúc Tình Hoài Hương, Tình Ca, Bà Mẹ Quê...: "...Vào thời điểm này
[trước cuộc di cư 1954] không phải chỉ có tôi viết về đất nước mến yêu hay soạn
những bài hát nhớ quê hương khi đang sống trên quê hương (...) Phải sống bon
chen với thực tại, thỉnh thoảng tôi muốn sống với viễn mơ. Huyền Chi, một cô em
bán vải ở Chợ Bến Thành đưa cho tôi phổ nhạc bài thơ nhan đề Thuyền Viễn Xứ.
Bài thơ này nói lên tâm trạng một người Bắc Việt phải rời bỏ bến Đà Giang để
vào sinh sống tại miền Nam. Phổ nhạc xong bài thơ nhớ miền viễn xứ, trong tôi lại
nổi dậy sự viễn mơ của bài Bên Cầu Biên Giới năm xưa, tôi bèn soạn bài Viễn
Du..."
Từ thời điểm
bài thơ rồi bản nhạc ra đời, cho đến suốt hơn 20 năm sau đó, âm hưởng của
"Thuyền Viễn Xứ" đã trở thành tiếng lòng của những người "xa quê
hương", trong số đó chắc chắn có rất nhiều người không thể ngờ rằng họ sẽ
còn "xa quê hương" thêm một lần nữa trong đời, và niềm thương nhớ
ngày nào hướng về "cố lý xa xôi" sẽ được nhân lên nhiều cấp số để trở
thành nỗi hoài niệm không nguôi của những tâm hồn lưu lạc "gửi về phương ấy
mịt mờ quê hương".
Nhắc đến điều
này để thấy "quê hương" chỉ là một ý niệm tương đối, nhưng phải chăng
cũng chính vì thế mà sau bao nhiêu thử thách của thời gian, sau bao nhiêu thăng
trầm của đời sống, tình hoài hương mãi mãi vẫn là một tình cảm làm đẹp và thăng
hoa tâm hồn nhiều hơn là vò xé và dằn vặt tâm hồn? Trước khi quê hương cách trở
cả một trùng dương, đã có một thời mà không gian ngăn chia người với quê hương
chỉ là một giòng sông Đuống như miền Kinh Bắc trong thơ Hoàng Cầm, chỉ là một
đường tàu Nam Bắc như xứ Hà Đông trong thơ Nguyễn Bính, chỉ là một vùng lửa đạn
như thành phố Hà Nội trong nhạc Hoàng Dương... Rồi lại có một thời mà nửa mảnh
đất quê hương bị cắt lìa vì một vĩ tuyến đánh dấu hai ý thức hệ đối kháng khiến
người ra đi chỉ có thể "đứng bên này vĩ tuyến thương về năm cửa ô
xưa" như trong thơ Tạ Tỵ nhạc Y Vân... Nhưng dù cho không gian có khác,
hoàn cảnh có khác, tình hoài hương vẫn là nguồn cảm hứng để từ đó đã thoát thai
biết bao nhiêu tác phẩm giá trị của kho tàng văn chương âm nhạc Việt Nam. Có lẽ
bởi vì, nói cho cùng, quê hương là nơi cất giữ những kỷ niệm đẹp nhất, và nếu
hình ảnh quê hương sống mãi trong lòng người thì cũng chẳng qua bởi vì đó là một
tuyển tập hình ảnh của chính mình, những hình ảnh nguyên vẹn mà mỗi người khi
ra đi đã mang theo và nâng niu cất giữ trong cõi riêng của tâm hồn, để có thể mở
ra vào những giờ phút tĩnh lặng và tận hưởng một hạnh phúc rất riêng tư, tách
biệt với mọi xô bồ, đắng cay, mệt mỏi của cuộc sống hiện tại.
Hơn nửa thế kỷ
sau khi viết "Hướng Về Hà Nội", trả lời câu hỏi về hoàn cảnh sáng tác
ca khúc đã tạo nên tên tuổi của ông, nhạc sĩ Hoàng Dương nhắc lại không khí của
những năm 1953-1954 và cho biết: "...Tình yêu Hà Nội trong tôi là nỗi nhớ
nhung về những tháng ngày đã lùi dần vào dĩ vãng... là một Hà Nội nhỏ nhắn và dịu
dàng nơi tôi đã chôn chặt mối tình thời trai trẻ...". Sự mong manh của đời
sống giữa khói lửa chiến tranh khiến cho người nhạc sĩ dù lúc ấy còn đang ở ngoại
thành Hà Nội mà đã nhớ về Hà Nội như một "thành phố xa xưa", một
thành phố của "những tháng ngày đã lùi dần vào dĩ vãng". Thế rồi chỉ
một năm sau đó, Hoàng Dương lại trở về và sống ở Hà Nội, trong khi một làn sóng
người rời bỏ Hà Nội để di cư vào Nam, và với họ, Hà Nội kể từ đó đã thật sự chỉ
còn là quê hương trong trí nhớ, một quê hương để làm cay mắt mỗi khi nghe lời
hát "dáng huyền tha thướt đê mê, tóc thề thả gió lê thê, biết đâu ngày ấy
anh về..."
Một buổi tối
mùa Đông, tôi nhận được tấm thiệp Xuân của anh tôi gửi từ quê nhà,
kèm theo bài thơ "Thuyền Viễn Xứ" của Huyền Chi in trên một trang báo
cũ. Cũng khoảng thời gian ấy, qua điện thoại, chị tôi kể cho tôi nghe là trong
một chuyến đi từ Sài Gòn ra Hà Nội, chị tôi đã có dịp thăm lại khu phố cũ nơi
có căn nhà mà mấy chị em chúng tôi ở cùng cha mẹ trước ngày rời đất Bắc. Nửa thế
kỷ đã trôi qua với hai cuộc bể dâu. Hà Nội vẫn còn đó, cũng như Sài Gòn vẫn còn
đó, nhưng cha mẹ chúng tôi không còn nữa, thời thanh xuân của các chị tôi với
tà áo dài và mái tóc thề thả gió trên hè phố Hà Nội cũng không còn nữa, và đứa
em trai út là tôi thì chưa một lần trở về. Nghe chị tôi kể chuyện căn nhà của
tuổi thơ, tôi nghĩ đến hình ảnh cha mẹ, và trong giòng kỷ niệm dạt dào, tôi nhớ
ra rằng cha mẹ tôi cũng đã không một lần trở về đất Bắc. Những năm lớn lên ở miền
Nam, thình thoảng tôi vẫn nghe cha tôi hát nho nhỏ những lời hát rời rạc từ một
ca khúc trước 1954, "Làng Tôi" của Chung Quân. Càng về sau tôi càng cảm
thông được tâm trạng của cha mẹ qua lời hát mang theo hình ảnh một quê hương
trong trí nhớ, một quê hương với những nơi chốn thân yêu mà đến một thời điểm
nào đó cha mẹ tôi đã có thể trở về thăm, nhưng cha mẹ tôi không trở về. Những
"cây đa cao ngất từng xanh", những "mái tranh san sát kề
nhau" hay "bóng tre ru bên mấy hàng cau" có thể vẫn còn đó,
nhưng không còn thôi thúc lòng người trở lại, bởi vì quê hương đã đổi thay và
những tháng ngày đẹp nhất không còn nữa.
Bao nhiêu năm
rồi, mỗi lần mùa xuân sắp đến ở quê nhà thì nơi tôi đang ở vẫn là mùa đông lạnh
buốt và thường là tuyết phủ ngập trời. Nhưng mỗi khi nghe vang vọng "câu
hát ngàn xưa, ngân lên trong một chiều mưa xứ người", mỗi khi nghĩ đến
"đường về cố lý xa xôi, nhịp sầu lỡ bước, tiếng đời hoang mang", tôi
không còn cảm thấy tâm hồn chùng xuống theo hơi gió lạnh nữa, có lẽ vì bài thơ
gửi từ quê hương hay lời kể chuyện về căn nhà xưa đã mang theo tất cả tình
thương yêu của các anh chị tôi để sưởi ấm cõi lòng đứa em xa xứ. Quê hương chẳng
những là tuyển tập những hình ảnh đẹp nhất của một quãng đời đã sống, quê hương
còn là những tình thương yêu đằm thắm không phai nhạt theo thời gian và không bị
ngăn cách vì không gian. Tình hoài hương là niềm nhớ nhung khó nguôi ngoai
nhưng không gây ra nỗi đau đớn mà chỉ làm đẹp thêm cho tâm hồn. Nếu lồng vào bối
cảnh thời cuộc thì làm sao có thể để cho những kẻ thiếu lương tâm khai thác một
tình cảm đẹp như thế thành lớp son phấn ngụy trang một mục tiêu tuyên truyền xảo
trá, làm sao có thể chấp nhận để cho những kẻ đó đồng hóa ý niệm cao quý của
quê hương với một chủ nghĩa hấp hối rồi nhân danh chủ nghĩa ấy để hủy hoại và
dâng bán mảnh đất quê hương mà tôi yêu thương với tất cả tâm hồn. Tôi nhớ đến lời
thơ Nguyễn Bính
"Bốn bể vẫn chưa yên sóng gió,
Xuân này em chị vẫn tha
hương,
Vẫn ăn cái tết ngoài thiên hạ,
Son sắt say hoài rượu viễn phương".
Có một mùa xuân nào đó, Nguyễn Bính đã trở về để rồi chết trên một quê hương mà
tôi tin chắc là ông đã không tìm thấy lại. Nếu cuộc trở về buồn bã như thế thì
tình hoài hương của những người mượn lời thơ Huyền Chi
"Biết bao thương nhớ
cho vừa,
gửi về phương ấy mịt mờ quê hương"
Phải chăng lại là một niềm hạnh
phúc?.
Thuyền viễn xứ
Phạm Duy - Ngọc Hạ
2/2012
Đào Trường
Phúc
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét